A-LỜI MỞ ĐẦU
Đại hộI IX của Đảng đã xá định đường lối phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nhấn mạnh một nội dung rất quan trọng là phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế , để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Mâu thuẫn biện chứng giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ & hội nhập kinh tế Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế quốc tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau nhằm phát triển nền kinh tế nước ta ngày càng vững mạnh theo định hướng xã hộI chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế cũng đã đặt ra cho chúng ta không ít những khó khăn và thách thức đòi hỏi chúng ta phải kịp thời phát hiện và nhanh chóng giải quyết.
Là một sinh viên kinh tế, với mong muốn được tìm hiều những vấn đề của nền kinh tế - đặc biệt là một vấn đề mang tính thực tiễn như trên - về quan điểm lý luận cũng như những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề có liên quan để có thể thúc đẩy sự phát triển của nền kinhn tế nước nhà mà Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ thực hiện nên em đã quyết định lựa chọn đề tài : “Mâu thuẫn biện chứng giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế Quốc tế” để làm tiểu luận của môn Tiết học Mác – Lênin.
Kết cấu tiểu luận gồm hai phần lớn:
I-Mâu thuẫn biện chứng và vai trò của nó đối với sự phát triển.
II-Mâu thuẫn biện chững giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế Quốc tế.
B.NỘI DUNG
I.MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN.
1.Mâu thuẫn biện chứng.
Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của cái đối lập và xem sự tác động qua lại đó là cơ sở vân động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại phương Đông đã xem sự vận động là do hình thành những đối lập và các đối lập ấy cũng luôn vận động .
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu có giá trị nhất trong toàn bộ lịch sử hơn 2000 năm của triết học, dựa trên những thành quả mới nhất của khoa học hiện đại (cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội và nhân văn) khái quát thực tiẽn thời đại mình C.Mác và Ph.Ănggen đã phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng lên một tầm cao mới.Nhờ có lý luận mâu thuẫn biện chứng và sự vận dụng lý luận đó vào đời sống xã hội đương thời.
Bằng việc kế thừa những thành quả tư tưởng biện chứng về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng, chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn cơ bản của sự vật.Quan điểm lý luận đó được thực hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.Vì quy luật này đề cập tới vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của phép biện chứng: vấn đề nguồn gốc của sự phát triển, nên V.I.Lênin đã xem lý luận về sự thống nhất của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng .
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ thông qua những phạm trù cơ bản: “mặt đối lập”, “sự thống nhất” và “đấu tranh của các mặt đối lập”.
Khi nghiên cứu bất kỳ sự vật hiện tượng nào, chúng ta cũng thấy các sự vật, hiện tượng đó được tạo thành từ nhiều bộ phận, mang nhiều thuộc tính khác nhau. Xem xét kỹ hơn, chúng ta lại thấy các yếu tố cấu thành sự vật hay các thuộc tính của sự vật đó không chỉ có sự khác nhau, có cả những cái đối lập nhau.
Khi nói tới những nhân tố cấu thành mâu thuẫn biện chứng, “đối lập”, “mặt đối lập” là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những quy định có khuynh hướng biến đổi trái nhược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.Đặc trưng đó cho thấy sự khác biệt rất cơ bản giữa quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy tâm, siêu hình về mâu thuẫn cũng như sự khác biệt về chất giữa mâu thuẫn biện chứng với các loại mâu thuẫn khác.
Hai mặt đối lập tuy có thuộc tính bài trừ, phủ định lẫn nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng đồng thời tồn tại.
a)Sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Sự cùng tồn tại của hai mặt đối lập trong sự vật được gọi là sự thống nhất của chúng. Nói cách khác sự “thống nhất” của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Như vậy, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời hai mặt đó.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, đồng nhất với nhau.Với ý nghĩa đó, sự “thống nhất giữa các mặt đối lập” còn bao hàm sự “đồng nhất”của các mặt đó.
Ví dụ, phát huy nội lực, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là hai mặt của một vấn đề, cùng nhằm mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
Do đó có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa xang mặt đối lập kia – khi xét về một vài đặc trưng nào đó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn thể hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
b)Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác động qua lại với nhau, “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự thống nhất qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Trong các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn khác nhau của mâu thuẫn, sự đấu tranh của các mặt đối lập cũng không như nhau.Tính đa dạng của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa chúng, phụ thuộc vào tồn tại của các mặt đối lập, phụ thuộc vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập …
Với tư cách là trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lâp, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đố lập là tuyệt đối .
Tính tương đối của sự thống nhất có quan hệ hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật.Tính tuyệt đối của sự đấu tranh có mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Khi xem xét mối quan hệ như vậy, V.I.Lênin đã viết: “sự thống nhất (…) của các mặt đối lập là có điều kiện , tạm thời, thoáng qua, tương đối . Sự đấu tranh của các mặt đối lập, bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự vận động, sự phát triển là tuyệt đối”.
2.Vai trò của mâu thuẫn biện chứng với sự phát triển.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm đi tìm nhuồn gốc của sự vận động và phát triển ở lý trí, ở ý muốn của con người, ở cá nhân kiệt xuất hay ở các lực lượng siêu nhiên .
Do phủ nhận sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong sự vật và hiện tượng, những người theo quan điểm siêu hình tìm nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển ở sự tác động từ bên ngoài đối với sự vật. Rốt cuộc, họ đã phải tìm đến “cái hích đầu tiên” như Niutơn hay cầu viện tói Thượng đế như Arixtốt. Như vậy, bằng cách này hay cách khác, quan điểm siêu hình về nhuồn gốc vận động và phát triển sớm hay muộn sẽ dẫn tới chủ nghĩa duy tâm.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng tìm nguồn gốc của vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong các sự vật, hiện tượng .
Dưới hình thức chung nhất, tư tưởng xem mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vân động và phát triển đã được Hêlaclít nói tới và được Hêghen phát triển lên trong sự vận dụng vào nhận thức. Hênhen viết: “Mâu thuẫn, thực tế là cái thúc đẩy thế giới”. Hơn nữa , ông còn xem “mâu thuẫn là cội nguồn của tất cả sự vận động và sự sống”.
C.Mác, Ph Ăngghen và V.I.Lênin đã luận chứng và phát triển hơn nữa những luận điểm đó trên cơ sở biện chứng duy vật. C.Mac viết: “sự cùng nhau tồn tạ của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp hai măt ấy thành một phạm trù mới tạo thành bản chất của sự vận động biện chứng”. Nhấn mạnh hơn nữa tư tuởng đó, Lênin viết: “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Để hiểu được kết luận đó, chúng ta lưu ý rằng, theo Ph.Ăngghen nguyên nhân chân chính và cuối cùng của mọi sự vật là sự tác động lẫn nhau. Chính sự tác động qua lại đó tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập. Sự tác động qua lại, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định một cách tất yếu những thay đổi của các mặt đang tác động qua lại cũng như các sự vật nói chung, nó là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung lực của sự sống .
Mặt khác không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa các mặt đó, do vậy, cũng không có mâu thuẫn nói chung. Hơn nữa, sự vận động, phát triển bao gờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự ổn định là đồêu kiện cho sự phân hóa, cho sự thay đổi và phát triển .
II.MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG GIỮA XÂY DỰNG KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
1.Tất yếu xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, mở cửa hội nhập mạnh mẽ mà lại đặt vấn đề xây dựng kinh tế độc lập tự chủ thì có thiếu nhạy bén, thiếu thức thời, có bảo thủ lạc hậu không, có đi ngược sự phát triển khách quan của sự phát triển kinh tế hay không ? Thế giới hiện nay thị truờng thống nhất, cái gì cũng có thể mua, có thể vay thì cần gì phải có nền kinh tế độc lập tự chủ ?
Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là vấn đề không phải bây giờ chúng ta mới đặt ra.Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã rất chú trọng đến “thực túc, binh cường” để yên dân và đảm bảo non sông bền vững. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và quan điểm về xây dựng kinh tế độc lập tự chủ đã được đề cập đến trong nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng, nhất là từ đạI hôi VI đến nay .
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập tự chủ, vững chắc về chính trị, đảm bảo sự phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Trong lý luận cũng như trong thực tiễn, không thể có độc lập về chính trị, nếu không có nền kinh tế độc lập, nếu như bị phụ thuộc về kinh tế . Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì nội dung cơ bản của độc lập tự chủ của một quốc gia là có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ hay không. Hơn nữa, nước ta phát triển kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối của chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nếu không xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch, lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo hoặc khống chế, ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính tri, đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hôị. Nói cách khác có xây dựng kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để đảm bảo cho sự độc lập tự chủ bền vững vè chính trị. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu không có độc lập tự chủ về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia .
Độc lập tự chủ về kinh tế, cũng là sự bình ổn có khả năng chủ động và thích ứng cao có thể duy trì sự ổn định kinh tế – xã hội và giữ vững định hướng phát triển ngay cả trong tình hình chấn động của thị trường, của khủng hoảng kinh tế trong khu vực và trên thế giới , trong tình thế bị bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch . Bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế chính là đảm bảo vững chắc định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập, mở cửa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ví dụ, thời gian qua, mặc dù kinh tế thế giới có sự suy giảm, sự kiện ngày 11/9/2001 ở nước Mỹ đã gây chấn động toàn cầu, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của thế giới, nhưng Việt Nam vẫn có GDP tăng tớI mức 6,8 %, đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc ký kết, phê chuẩn, thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội làm ăn vớI Mỹ, chuẩn bị các điều kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giớI WTO. Vị thế của Việt Nam trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương nhày một tăng, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng phát triển .
Đảng ta đã đề ra đường lối kinh tế kinh tế để xây dựng và phát triển đất nước. Đường lối đó bao hàm nội dung trọng yếu là từng bước xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - nền kinh tế độc lập tự chủ. Từng bước phát triển nền kinh tế có tính độc lập, tự chủ cao sẽ tăng cường tiềm lực đất nước, tạo sức mạnh cho đất nước vươn lên.Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, giúp chúng ta đi tắt đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác.Vì lẽ đó, để không bị tụt hậu, không bị gạt ra bên lề của xu thế khách quan này, các quốc gia đều phải tạo cho mình một nội lực đủ mạnh, nói cách khác là phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ.
Tuy nhiên, trong khoảng hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế giới có sự phát triển vượt bậc, với đặc điẻm cơ bản là: tốc độ tăng trưởng nhanh và khá ổn định, lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm.Nhưng từ giữa những năm 70 đến đầu thập kỷ 80 (thế kỷ XX)“thế giới đang trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của mình”.Từ thập kỷ 80, hội nhập kinh tế quốc tế là là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới, mỗi nước trong quá trình phát triển không thể tách rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội nhập trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Trong bối cảnh phát triển kinh tế sôi động của thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực, Việt Nam không thể đứng ngoài tiến trình đó.
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết của quá trình phát triển lực lượng sản xuất.Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất khiến thị trường trong nước trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc giá phải ngồi lại với nhau để khơi thông dòng chảy của hàng hóa, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động.Xét cả về nhu cầu phát triển của bản thân, cả về phương diện “buôn có bạn, bán có phường”Vịêt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta diễn ra trong lúc toàn cầu hóa đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế. Do đó hội nhập kinh tế quốc tế cũng trở thành một đòi hỏi khách quan. Bởi vì, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện thu hút các nguồnvật chất như vốn, thiết bị, vật liệu mà nước ta rất thiếu và rất cần; những tiến bộ khoa học và công nghệ; những kiến thức hiện đại về quản lý kinh tế cần nắm bắt và vận dụng, những thị trường mới tham nhập để tăng nhanh xuất khẩu …là những yếu tố căn bản và cần thiết để xây dựng thành công nền kinh tế thị trường địnhn hướng xã hội chủ nghĩa.
Qúa trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình điều chỉnh chính sách kinh tế, xây dựng một nền kinh tế thị trường mạnh để thực hiện tự do hóa trên các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ đầu tư …đồng thời sẵn sàng tận dụng các ưu đãi của các thành viên khác đem lại cho mình để phát triển sản xuât, mở rộng thị trường hàng hóa và mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng khả năng phối hợp chính sách, giúp cho nước ta có thể vượt qua những thách thức to lớn và giải quyết các vấn đề kinh tế mang tính toàn cầu. Đồng thời, nó cũng tạo khả năng phân bổ một cách hợp lý và có hiệu quả nguồn tài nguyên, trình độ khoa học công nghệ của nhân loại và các nguồn lực tài chính trên phạm vi toàn cầu, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế là phải đảm bảo giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn giá trị truyền thống và bản sác văn hóa dân tộc bảo vệ và cải thiện môi trường .Trong các quan hệ, dù song phương hay đa phương đều phải giữ nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi .
Như vậy, việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế kinh tế hiện nay là nhu cầu xuất phát từ thực tiễn, là vấn đề có tính nguyên tắc, là cơ sở để chúng ta phát triển định hướng của mình. Kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế đều có vai trò quan trọng mà chúng ta không thể quá coi trong hoặc bỏ qua một trong hai .Trên cơ sở đó buộc chúng ta phải tiến hành đồng thời, đó là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ cùng với việc đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
2.Mâu thuẫn giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội IXcủa Đảng ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nhấn mạnh một nội dung rất quan trọng là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồc lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp .
Trong bối cảnh hiện nay, đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. Hai mặt đó có mối liên hệ biện chứng với nhau, bổ xung cho nhau, nhằm phát triển kinh tế nước ta vững mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
a)Sự thống nhất giữa hai xu hướng.
Hội nhập kinh tế quốc tế không phải là mục tiêu mà là phương tiện để chúng ta lợi dụng các nguồm lực bên ngoài, nuôi dưỡng, phát huy nguồn lực trong nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng được yêu cầu của bản thân chúng ta trong quá trình phát triển theo định hướng đã chọn, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong trong sự hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới .
Đây là hai nhiệm vụ trọng yếu tiến hành đồng thời, lại cùng hỗ trợ làm tiền đề cho nhau.Trong hội thảo “ Doanh nghiệp Việt Nam với công cuộc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế”TS Phạm Đình Đảng lý giải:Giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ mật thiết. Chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và có hiệu quả; và ngược lại chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ sung sức mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững nền độc lập tự chủ. Đồng chí Nguyễn Xuân Hải (Trưởng ban thông tin-Tư liệu, Tạp chí Cộng sản) khẳng định: Chúng ta chủ đông hội nhập chính là chúnh ta chủ động bảo vệ và quyết tâm bảo vệ bằng được mục tiêu độc lập tự chủ trong phát triển . Độc lập tự chủ để mở cửa, chủ động hội nhập để bảo vệ độc lập tự chủ .
Mối quan hệ giữa xây đựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là là mối quan hệ tương hỗ có tính biện chứng, hội nhập càng chất lượng thì độc lập tự chủ càng cao.Độc lập tự chủ càng cao thì càng có điều kiện, chủ động, tích cực hội nhập.Việc xây dựng kinh tế dộc lập tự chủ hiện nay không hề mâu thuẫn với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là nằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đáp ứng yêu cầu và lợi ích của quốc gia, đồng thời thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới.
b)Đấu tranh giữa hai xu hướng.
Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong tình trạng kém phát triển, điều đó được thể hiện: Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu, kém phát triển; phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm; thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ; sản xuất hàng hóa nhỏ là phổ biến; quản lý Nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu… trong khi đó nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các nước tư bản đã phát triển trước chúng ta hàng trăm năm .
Như vậy, sự đấu tranh ở đây là hình thành thị trường trong nước gắn với hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh trình độ phátt triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta còn thấp so với hầu hết các nước khác.
Bên cạnh đó, xuất phát từ những thực trạng còn nhiều khó khăn như trên, với nền sản xuất nhỏ là phổ biến thì hành hóa của Việt Nam khó có khả năng cạnh trạnh với hàng hóa của thế giới, đặc biệt là các ngành đòi hỏi công nghệ cao, kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại .
Nếu như cách đây chỉ vài chục năm thôi, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ còn là thế mạnh của nước ta thì trong điều kiện hiện nay với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không có kế họach cụ thể, đồng thời với sự tàn phá sau hai cuộc chiến tranh thì tài nguyên nước ta không còn nhiều, người lao động đòi hỏi phải có trình độ tay nghề với kỹ thuật cao, phù hợp với phưong thức sản xuất ngày càng hiện đại lại càng mâu thuẫn với người lao động ở nước ta, nhiều, cần cù, chăm chỉ, chịu khó nhưng quen sản xuất nhỏ, trình độ tay nghề còn nhiều hạn chế, tác phong lao đông không khoa học, không đảm bảo chính xác về thời gian làm việc…điều này gây khó khăn cho quá trình hội nhập.
Đặc biệt, trong tiến trình hội nhập, tình trạng “chảy máu chất xám” do những phương thức thu hút của các nước khác trên thế giới đã làm thiệt hại của Việt Nam hàng nghìn công trình khoa học của hàng triệu nhân tài Việt Nam do nước ta chưa có đủ khả năng có những trang thiết bị , máy mọc công nghệ hiện đại để có thể tạo điều kiện cho những người có khả năng và có lòng nhiệt thành đam mê nghiên cứu như ở các nước phát triển khác.
Phương hướng và giải pháp giải quyết mâu thuẫn.
Với vai trò quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ cũng như hội nhập kinh tế quốc tế, bên canh sự thống nhất là sự đấu tranh giữa hai xu hướng mà chúng ta lại không thể loại bỏ bất cứ xu hướng nào , điều này đã đặt ra một thách thức lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta .Trước vấn đề này, chúng ta chỉ có thể tìm ra phương hướng giải quyết những mâu thuẫn và đấu tranh giữa chúng để chúng đi đến sự thống nhất, cùng góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta theo kịp tiến trình của nền kinh tế thế giới.
Chúng ta cần chủ động phát huy lợi thế so sánh, nước ta là một nước nông nghiệp với nghề trồng lúa nứơc đã gắn liền với tiến trình lịch sủ hàng ngàn năm của dân tộc ta,lấy đó làm thế mạnh, chúng ta lấy xuất khẩu gạo và các loại mặt hàng nông phẩm khác như cà phê, hồ tiêu… làm mặt hàng xuất khẩu chính. Bên cạnh đó, Nhà nước phải đưa ra chính sách, pháp luật để các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình , tạo thế đứng trên trường quốc tế.
Cải tạo nguồn lực con người, khuyến khích nâng cấp, phát triển các trường dạy nghề bên cạnh các trường lớp chính quy, có những chính sách , pháp luật bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là người lao động làm việc cho cac công ty nước ngoài, đào tạo ra đội ngũ người lao động có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, lòng yêu nứơc sâu sắc lại là những người có tác phong công nghiệp, đảm bảo đúng thời gian làm việc, có trình đọ tay nghề cao, am hiểu nhiều kiến thức sâu sắc. Khuyến khích công nhân, viên chức Nhà nước Nhà nước học hỏi thêm về ngoại ngữ, đưa ngoaị ngữ vào các cơ quan, công ty như một ngôn ngữ thông dụng.
Khi nội lực của đất nước đã đạt đến mức nhất định thì việc cập nhật thông tin từ bên ngoài không chỉ giúp chi việc chủ đông sản xuất mà còn chủ động thâm nhập, tạo cầu cho thị trường thế giới, qua đó chiếm giữ những vị trị tương đối ổn định
Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa , hiện đại hóa với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, nhằm khai thác tốt đa mọi tiềm năng của đất nước, tạo ra những chuyển biến cơ cấu lao động , lãnh thổ, ngành nghề, hiện đai hóa từng bước nền kinh tế quốc dân theo hướng tri thức, gắn chặt thị trường trong nước và thị trường quốc tế, tham gia vào phan công lao động quốc tế một cách có lợi nhất .
Một mặt, cần thấy nền kinh tế vững mạnh độc lập tự chủ là điều kiện quan trọng nhất để hôi nhập kinh tế quốc tế nhưng không phải vì thế mà chỉ đợi cho kinh tế mạnh ngang bằng, cân sức với các nước khác thì mới tham gia hội nhập.Ta chủ đông hội nhập dựa trên sức lực của ta, tham gia đến đâu, ở mức độ nào là do ta độc lập suy nghĩ để quyết định. Mặt khác, chính việc hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức nhanh nhất, là giải pháp tốt nhất để chúnh ta thực hiện mục tiêu xây dung nền kinh tế độc lâp tự chủ.
Để giải quyết tôt mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ chấn hưng nền kinh tế dân tộc thì các chính sách kinh tế vĩ mô cần phải được tiến hành một cách linh hoạt, đồng bộ phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ và bổ sung lẫn nhau, tạo ra một thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế theo hướng:giải quyết nhiều công ăn việc làm, lạm phát ở mức hợp lý, tăng trưởng các tỷ giá hối đoái linh hoạt theo cơ chế thị trường, lãi suất thực dương và dần theo cơ chế thị trường , giảm thâm hụt ngân sách, giảm thâm hụt cán cân thuơng mại và cán cân thanh toán .
C-KẾT LUẬN
Tóm lại, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy cao độ các nguồc nội lực là quyết định, đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp là một nội dung quan trạng của đường lối kinh tế do Đại hộI IX của Đảng đề ra, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo điều kiện xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ. Mặt khác có độc lập tự chủ về kinh tế thì mới có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo giữ vững chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc. Tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Có thể khẳng định đây là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa ,hiện đại hóa. Nước ta có được như ngày hôm nay là kết quả của những đường lối do Đảng ta khởi xướng, lãnh dạo trong đó xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa vô cùng to lớn. Đồng thời, đó cũng là kết quả của sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta .Uy tín của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo ra thế và lực mới để ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỷ XXI.
MỤC LỤC
A-LỜI MỞ ĐẦU. 1
B- NỘI DUNG.
I.MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN. 2
1.Mâu thuẫn biện chứng. 2
2.Vai trò của nó đối với sự phát triển. 4
II. MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG GIỮA XÂY DỰNG KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 5
1.Tất yếu xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. 5
2.Mâu thuẫn biện chứng giữa xây dựng kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế. 8
a)Thống nhất giũa hai xu hướng. 8
b) Đấu tranh giữa hai xu hướng. 9
Phương hướng và giải pháp giải quyết mâu thuẫn. 10
C-KẾT LUẬN 12
MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia)
2.Một số vấn đề trong xây dựng định hướng chiến lược hội nhập kinh tế Quốc tế - PHẠM CÔNG MINH (Nghiên cứu - Trao đổi).
3.Vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ? - NGUYỄN THÚY (Nghiên cứu – Trao đổi).
4.Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ - VŨ HIỀN (Nghiên cứu – Trao đổi).
5.Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế Quốc tế - NGUYỄN PHÚ TRỌNG (Tạp chí Cộng sản)
6.Vấn đề đảm bảo an ninh kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế - ĐINH TRỌNG THỊNH (Tạp chí Cộng sản).
7.Chủ động hơn nữa hội nhập kinh tế Quốc tế - NGUYỄN THỊ DOAN (Tạp chí Cộng sản).
8.Vượt lên trên những thách thức mởitong quá trình hội nhập kinh tế Quốc tế-LƯƠNG VĂN TỰ (Tạp chí cộng sản).
9.Bộ Chính trị ra nghị quyết về hội nhập kinh tế Quốc tế (Tạp chí Cộng sản).
10.Quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế Quốc tế - NGUYỄN MẠNH CẦM (Tạp chí Cộng sản).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0511.doc