Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đoàn kết, đồng thuận là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta. Truyền thống đó đã góp phần quan trọng đưa đến thắng lợi của công cuộc chống giặc ngoại xâm trước đây cũng như sự nghiệp đổi mới đất nước hôm nay. Vì thế, Đảng ta đã khẳng định đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu cho sự phát triển đất nước. Nhưng đoàn kết muốn đạt được một cách bền vững phải dựa trên cơ sở sự đồng thuận xã hội. Có như vậy, đoàn kết dân tộc mới được phát huy cả về
181 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bề rộng và bề sâu, trở thành yếu tố đảm bảo vững chắc cho sự phát triển của nước ta trong bối cảnh mới.
Trải qua bao gian khổ hy sinh, đất nước đã độc lập, thống nhất Tổ quốc. Hơn ba mươi năm qua, chúng ta đã đạt được biết bao thành tựu quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước, hoà hợp dân tộc, song không phải không còn những nhân tố có thể dẫn đến gây mất đoàn kết, chia rẽ dân tộc. Đó là hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài 1/3 thế kỷ; những sai lầm do chủ quan, duy ý chí trong sự lãnh đạo và quản lý đất nước; tàn dư của tư tưởng phong kiến và tâm lý của người sản xuất nhỏ; sự tác động của quá trình toàn cầu hoá và sự biến động của tình hình chính trị - xã hội trên thế giới. Những điều đó đang hàng ngày, hàng giờ gây nên những bất đồng trong xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước. Vì thế, nếu chúng ta không có một chiến lược để tạo nên sự đồng thuận xã hội thì không thể đưa đất nước tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chiến lược đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở phát huy những điểm tương đồng và tôn trọng những khác biệt, hay nói cách khác, dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội. Đồng thuận xã hội là điều kiện cơ bản để ổn định chính trị - xã hội, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, là phương thức để xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước, là giải pháp có tính khả thi để tập hợp mọi nguồn lực nhằm phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Đồng thuận xã hội là một nguyện vọng chính đáng hàm chứa những giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc cần phải được nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dựa trên sự đồng thuận xã hội đã được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và được các tầng lớp nhân dân đồng tình, nhất trí.
Xây dựng sự đồng thuận xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của tất cả các tổ chức xã hội, mọi giai cấp, tầng lớp nhưng mỗi tổ chức có thể thực hiện theo những phương thức khác nhau. Trong hệ thống chính trị, do chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận Tổ quốc có vai trò và trách nhiệm rất quan trọng trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không chỉ là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc mà còn là tổ chức tập hợp đông đảo, rộng rãi nhất mọi tầng lớp nhân dân, mọi dân tộc, tôn giáo, thành phần kinh tế, cá nhân tiêu biểu mong muốn phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sinh hoạt của Mặt trận dù ở diễn đàn nào, lĩnh vực nào cũng đều là nơi biểu thị ý chí thống nhất và sự đồng thuận xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Mặt trận đã thể hiện được vai trò trong việc tập hợp lực lượng để giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Nhưng trong bối cảnh mới hiện nay, Mặt trận thực hiện nhiệm vụ xây dựng sự đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc như thế nào là vấn đề chưa được nghiên cứu. Vì thế, nghiên cứu để làm rõ vai trò của Mặt trận với nhiệm vụ này, từ đó đề ra các giải pháp để Mặt trận phát huy vai trò của mình là một yêu cầu cần thiết và cấp bách nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng, mục tiêu đã định.
Trên tinh thần đó, chúng tôi chọn vấn đề "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận án
- Mục tiêu: Trên cơ sở làm rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay, luận án cung cấp những luận chứng, luận cứ khoa học cho quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta, nhằm thực hiện một mục tiêu có tính chiến lược của Đảng ta về xây dựng sự đồng thuận xã hội.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ khái niệm đồng thuận xã hội và vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng về hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội, làm rõ những hạn chế và nguyên nhân cũng như những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội.
+ Đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng sự đồng thuận xã hội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, đoàn kết và sự đồng thuận xã hội; về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và xây dựng sự đồng thuận xã hội, về vai trò của các chủ thể chính trị trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội, trong đó có vai trò của Mặt trận Tổ quốc.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án vận dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử dụng phương pháp lôgic và lịch sử; phân tích và tổng hợp. Ngoài ra tác giải luận án còn sử dụng một số phương pháp của xã hội học trong điều tra, tổng kết thực tiễn.
5. Cái mới của luận án
- Lần đầu tiên đặt ra và bước đầu nghiên cứu tương đối có hệ thống một chủ trương lớn của Đảng: xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
- Luận chứng cơ sở khoa học và thực tiễn về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là một thể chế chính trị quan trọng trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta.
- Đề xuất một cách hệ thống những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập chính trị học, làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý và các cơ quan chức năng trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội nói chung, chính sách đại đoàn kết dân tộc và xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay nói riêng.
- Luận án là tài liệu bổ ích đối với cán bộ làm công tác dân vận nói chung, cán bộ Mặt trận Tổ quốc nói riêng trong định hướng hoạt động thực tiễn nhằm xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 10 tiết.
Chương 1
xây dựng sự đồng thuận xã hội là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của xã hội
Việt Nam hiện nay
1.1. Quan niệm về đồng thuận xã hội
1.1.1. Khái lược về vấn đề đồng thuận xã hội trong lịch sử tư tưởng chính trị
Đồng thuận xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: triết học, xã hội học, tâm lý học, chính trị học, v.v.. Dưới góc độ xã hội học, đồng thuận là một khái niệm xã hội dùng để chỉ trạng thái xã hội dựa trên sự nhất trí rộng rãi giữa các thành viên trong một xã hội nhất định. Lý thuyết đồng thuận chủ yếu quan tâm đến sự duy trì trật tự xã hội, đến các tiêu chuẩn, các giá trị, các nguyên tắc và các quy định đã được xã hội thừa nhận. Lý thuyết này được hình thành từ xã hội học về trật tự xã hội, về ổn định xã hội và điều tiết xã hội. Như vậy, xã hội học nghiên cứu đồng thuận xã hội từ góc độ là một lý thuyết nhằm đưa lại sự ổn định xã hội. Nó chủ yếu tập trung vào việc giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, các lực lượng xã hội nhằm tạo nên sự ổn định để phát triển.
Triết học nghiên cứu đồng thuận xã hội từ lý luận về mâu thuẫn biện chứng. Theo phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin, sự vật, hiện tượng được tạo thành từ nhiều yếu tố, bộ phận. Những yếu tố đó không những khác nhau mà có thể còn đối lập. Các mặt đối lập liên hệ, tác động lẫn nhau, làm tiền đề, điều kiện cho nhau, tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Hai mặt đối lập của sự vật tồn tại trong sự thống nhất và đấu tranh với nhau. Sự vật còn mâu thuẫn thì còn phải giải quyết. Đồng thuận xã hội chính là một cách thức để giải quyết nhằm làm cho sự vật phát triển. Điều này đã được Mác chỉ rõ: "Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới"[90, tr.191]. Nhấn mạnh hơn nữa tư tưởng đó, Lênin viết: "Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập"[76, tr.379]. Đồng thuận không có nghĩa là không còn đấu tranh mà là đấu tranh trên cơ sở tôn trọng quyền tự do, dân chủ để đi đến sự thống nhất tự nguyện.
Chính trị học nghiên cứu đồng thuận xã hội cũng đề cập tới mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng xã hội để tạo nên một sự đồng tình, nhất trí trên cơ sở những điểm tương đồng. Xuất phát từ góc nhìn là xây dựng một chế độ chính trị, chính trị học tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước với các tầng lớp nhân dân và quan hệ giữa các thành viên trong xã hội, trong đời sống cộng đồng. Chính trị học cũng nghiên cứu sự đồng thuận giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trong đó nhà nước là trung tâm. Mọi chủ trương, quyết sách đưa ra muốn thực thi có hiệu quả phải được sự đồng tình nhất trí ở mức độ nhất định của các tổ chức khác. Đặc biệt, trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò rất quan trọng. Mỗi thành tố của hệ thống chính trị có vai trò, vị trí, chức năng riêng, nhưng giữa chúng cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ trong việc thực hiện chủ trương, chính sách. Trong lĩnh vực chính trị, đồng thuận phản ánh quan hệ giữa những người cầm quyền, người quản lý và người bị quản lý.
Trong hệ thống chính trị hiện đại ở nhiều nước, các đảng chính trị đều cố gắng hợp pháp hoá và xây dựng quyền lực của mình trên các giá trị mà những giá trị này được chia sẻ một cách rộng rãi. Chính những giá trị đó kết nối và duy trì sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận xã hội góp phần làm cho sự áp đặt, cưỡng bức, cưỡng chế giảm đi và làm tăng sự liên kết giữa các lực lượng xã hội, các nhóm dân cư nói chung và các tổ chức chính trị - xã hội nói riêng.
Từ thời cổ đại, Khổng Tử - nhà hiền triết, nhà tư tưởng chính trị Trung Quốc - sinh thời đã có ý tưởng xây dựng một xã hội an thuận, thái hoà. Ngay từ đời Hán, Lưu Hướng từng chỉ ra rằng trong tư tưởng của Khổng Tử, vua tôi cùng với trăm họ như cùng ở trong một vòng tròn không có đầu mối. Quan điểm đó có thể nói là nhìn thấu đáo chủ trương đức trị của Khổng Tử [48, tr.118]. Lý tưởng của Khổng Tử là xây dựng một xã hội đại đồng mà con đường cơ bản để đạt đến lý tưởng đó là sự hài hoà nhất thể: vua, bề tôi, dân chúng. Và để đạt được sự hài hoà đó, ông đã đưa ra chủ trương Nhân - Lễ - Chính danh. Trong ngũ luân của Khổng Tử, nếu mỗi người đều thực hiện được bổn phận của mình phù hợp với danh thì xã hội sẽ an bình thịnh trị. Theo tư tưởng chính trị của ông, trong quá trình an bang trị quốc, quân chủ và đại thần đã ở vị trí chủ đạo, do trong quá trình điều hành hành chính, họ có một vai trò rất quan trọng. Do đó, Khổng Tử thấy rằng cần phải phát huy tác dụng của họ khiến cho vua, bề tôi, có được một sự hài hoà, thống nhất để đưa xã hội phát triển. Tuy rằng học thuyết chính trị của Khổng Tử có nhiều mâu thuẫn, và còn những hạn chế nhưng tư tưởng xây dựng một xã hội đại đồng có sự hài hoà giữa vua - tôi - dân là một đóng góp tích cực trong lịch sử tư tưởng chính trị mà chúng ta không thể phủ nhận.
Cùng thời với Khổng Tử, Lão Tử, người sáng lập ra Đạo gia đưa ra quan điểm về xây dựng một xã hội lý tưởng, gắn bó và hoà đồng với thiên nhiên. Ông phê phán sự áp bức bóc lột của giai cấp địa chủ, phong kiến, lên án sự lộng hành và tàn bạo của vua chúa. Ông lên án những đạo luật nhằm mục đích cướp bóc người lao động. Ông cho rằng sự xa hoa của bọn giàu có là kết quả của việc cướp bóc, là kết quả của sự đói nghèo, đau khổ của nhân dân lao động. Ông chủ trương xây dựng một chế độ xã hội dựa trên sự bình đẳng của tất cả mọi người, không có áp bức, bóc lột giữa người với người. Ông đề cao tư tưởng hữu nghị giữa các dân tộc. Theo ông, trị nước cũng giống như hoa nở. Muốn giúp cho hoa nở thì giúp cho hoa nào cũng nở, lấy cái tự nhiên mà giúp cho cái tự nhiên theo một cách tự nhiên. Ông phản đối chủ trương cai trị theo kiểu cưỡng ép người phải theo mình. Nếu như vậy, xã hội sẽ không phát triển một cách tự nhiên và dẫn đến loạn lạc. Ông đã rất coi trọng cái tự nhiên, phản đối cái ép buộc, cưỡng bức. Đó cũng chính là mầm mống về tư tưởng đồng thuận xã hội. Cần phải tạo ra một sự nhất trí trên cơ sở tự nguyện chứ không phải bằng cưỡng bức, bạo lực. Nếu làm được như vậy thì xã hội sẽ yên bình để phát triển.
Điểm qua lịch sử tư tưởng chính trị phương Đông thời cổ đại mà tiêu biểu là Trung Quốc, một trong những cái nôi văn minh của nhân loại, cho thấy rằng dù ở góc độ này hay góc độ khác, các nhà tư tưởng chính trị đã rất coi trọng sự hài hoà, thống nhất, coi trọng sự đồng tình nhất trí của nhân dân.
Sống trong xã hội chiếm hữu nô lệ, với mâu thuẫn giai cấp giữa chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc, các nhà tư tưởng chính trị thời cổ đại ở Hy Lạp và La Mã chủ yếu tập trung vào vấn đề quyền lực nhà nước và pháp luật. Nhưng thấp thoáng đâu đó vẫn xuất hiện tư tưởng về đồng thuận xã hội. Đêmôcrít (khoảng 460 - 370 TCN) khi bàn về sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật, đã chỉ ra những điều kiện tiên quyết để nhà nước có thể thực hiện vai trò nền móng cho những người Hy Lạp tự do, trong đó điều kiện thứ hai là: Phải có sự bình đẳng và nhất trí của mỗi công dân. Đêmôcrít đưa ra những luận chứng về sự hoà giải chung. Ông cho rằng ở đâu mà sự tương phản về sở hữu giảm đi, người giàu có sự ưu ái đối với người nghèo thì ở đó sẽ có sự cảm thông, tình hữu ái, sự bảo vệ lẫn nhau và bao điều phúc đức khác không thể tính đếm được [135, tr.59]. Rõ ràng ông đã chú trọng đến vai trò của công dân trong việc ra đời của nhà nước và pháp luật. Ông coi trọng sự hoà hợp, thống nhất giữa các tầng lớp trong xã hội, giữa nhà nước với công dân.
Platon (428 - 347 TCN), người sáng lập chủ nghĩa duy tâm triết học nhưng luận bàn về vấn đề chính trị, ông đã thấy được vai trò của đồng thuận xã hội. Ông cho rằng, chính trị xuất hiện trước hết như một sự hiểu biết duy lý dành cho việc giáo dục con người, sau đó nó trở thành nghệ thuật dẫn dắt xã hội - con người. Theo ông, người ta có thể dẫn dắt con người bằng sự bắt buộc và bạo lực nhưng người ta cũng có thể dẫn dắt con người bằng sự ưng thuận ý chí tự do của họ. Nghệ thuật cai trị bằng sức mạnh sẽ mang tên "chế độ độc tài", nghệ thuật cai trị bằng thuyết phục con người gọi là chính trị. Từ quan niệm này, ông khẳng định: Chính trị là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ. Chính trị là nghệ thuật sống chung. Tư tưởng về chính trị của ông đã phản ánh một phương thức tập hợp lực lượng mà xã hội hiện đại đang phải thực hiện: bằng hiệp thương, thảo luận để đạt được một sự thống nhất trong xã hội chứ không phải bằng bạo lực, cưỡng bức. Đó chính là tư tưởng về đồng thuận xã hội.
Sang thời cận đại, các nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu không những tiếp tục tiếp thu những tư tưởng của thời kỳ trước mà còn phát triển với nhiều sắc thái riêng. J. Lốccơ (1632 - 1704), nhà triết học duy vật người Anh khi bàn về vấn đề nhà nước đã chỉ ra rằng nhà nước - xã hội chính trị - xã hội công dân, thực chất là một khế ước xã hội, trong đó các công dân nhượng một phần quyền của mình để hình thành quyền lực chung - quyền lực nhà nước. Nhà nước với quyền lực chung đó điều hành, quản lý xã hội nhằm bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân công dân. Mỗi khi hợp đồng bị vi phạm thì công dân có quyền (kể cả đứng lên cầm vũ khí) huỷ bỏ khế ước đã ký. Như vậy, J.Lốccơ đã chủ trương cần phải có sự thoả thuận giữa nhà nước và công dân trong việc thiết lập sử dụng quyền lực chung. Quyền lực nhà nước là do sự thoả thuận giữa nhà nước và công dân mà hình thành nên. Ông bàn về tư tưởng bình đẳng giữa các dân tộc và chủng tộc. Ông châm biếm chế độ nô lệ chủng tộc và cho rằng luật pháp cần phải xoá bỏ. Ông khẳng định mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng và điều đó trở thành mục tiêu phấn đấu trong quan hệ giữa người với người. Đặc biệt, ông có tinh thần khoan dung trong tôn giáo rất đáng để chúng ta xem xét. Ông không chủ trương như Vônte: "Quét sạch nó đi, quét sạch điều đáng hổ thẹn này". Ông không hề cực đoan đòi triệt hạ tôn giáo mà thừa nhận vai trò xã hội, chính trị, đạo đức, tâm lý nhất định của nó.
Khi đả phá chế độ quân chủ, ông vẫn chủ trương rằng trong một thể chế chính trị mới, cần có một cơ chế bảo đảm quyền lợi của thành phần quý tộc trước sự áp đảo của lực lượng quần chúng chiếm đa số trong xã hội. Theo ông, một chính thể mới sẽ chấm dứt sự tồn tại của họ với tư cách là thành phần cai trị và sự tồn tại của họ như một thành phần trong cơ cấu chính trị. Chính thể đó cần bảo vệ họ về mặt an ninh, an toàn - một quyền tự nhiên mà họ đương nhiên được hưởng, cũng như những quyền lợi còn được cho phép trong chính thể mới. Quan điểm của ông thể hiện một tinh thần rằng tầng lớp quý tộc phải được xoá bỏ như một giai cấp đặc quyền đặc lợi, nhưng họ được và vẫn có quyền tồn tại như những con người, với những nhu cầu và quyền lợi riêng và chung như mọi người trong xã hội. Về bản chất, quyền lực tự nhiên là sự tương đồng tối thiểu. Với ông, duy chỉ có một điều không thể khoan dung, đó chính là chế độ chuyên chế bạo ngược. Ngoài ra, bất chấp những định kiến từ ngàn đời nay, dù là xuất phát từ phong tục tập quán, từ cơ chế chính trị của chính thể, từ kết quả của sự phát triển xã hội, trong mỗi vấn đề, ông đều thể hiện một thái độ dung hợp vừa hợp lý, vừa khách quan và không thiếu tính nhân bản. Tinh thần khoan dung đó rất cần thiết để xây dựng sự đồng thuận xã hội.
Giăng Giắc Rutxô (1712 - 1778), một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nước Pháp thế kỷ XVIII với tác phẩm nổi tiếng "Khế ước xã hội" đã chỉ ra rằng: Một chính quyền hợp pháp phải được thành lập dựa trên những thoả thuận của các công dân. Với khế ước xã hội, mỗi người trao quyền lực của mình cho lãnh đạo tối cao mang ý chí chung và do đó trở thành thành viên của nó. Toàn bộ quyền lực giao cho bộ phận cầm quyền thiết lập từ các thành viên tham gia khế ước. Do đó, chủ quyền thuộc về nhân dân. Con người có được tự do công dân và quyền sở hữu đối với tài sản của mình. Rutxô cho rằng "Phương pháp duy nhất để con người tự bảo vệ họ là họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực lượng chung, được điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi người đều hành động một cách hài hoà"[121, tr.66]. Để bảo vệ quyền tự do của mỗi người thì họ phải tìm ra một hình thức liên kết với nhau dùng sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên. Mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo chính bản thân mình. Đó là vấn đề cơ bản mà khế ước đưa ra cách giải quyết.
Trong chính trị học hiện đại, đồng thuận xã hội ngày càng được chú trọng. Xã hội phát triển ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp thì càng cần phải có một sự thống nhất trong chừng mực nhất định. Đồng thuận xã hội không chỉ dừng lại ở lý thuyết mà còn được biểu hiện dưới một mô hình cụ thể: Mô hình dân chủ đồng thuận. Nhà chính trị học Mỹ, Arend Lijphart đã so sánh hai mô hình dân chủ: dân chủ đa số và dân chủ đồng thuận. Theo ông, trong các xã hội đa nguyên - những xã hội thường bị chia rẽ một cách sâu sắc theo các tôn giáo, địa lý, ngôn ngữ, văn hoá, sắc tộc hay chủng tộc và hầu như trở thành tiểu xã hội với chính đảng riêng của mình, thì mô hình dân chủ đa số sẽ không phù hợp. Dưới những điều kiện này, sự cai trị của đa số không chỉ phi dân chủ mà còn nguy hiểm, bởi vì các nhóm thiểu số thường xuyên bị từ chối tham gia nắm quyền sẽ cảm thấy bị gạt ra ngoài, bị phân biệt đối xử và do đó sẽ mất lòng trung thành đối với chế độ. Vì thế, các xã hội này cần một chế độ dân chủ, ở đó nhấn mạnh sự đồng thuận thay vì sự đối lập, sự hoà hợp thay vì loại trừ. ở đó, mỗi quyết định đưa ra đều được sự thống nhất giữa nhóm đa số và nhóm thiểu số, chứ không chỉ là thiểu số phục tùng đa số. Đó là mô hình dân chủ đồng thuận.
Trong lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã chủ trương xây dựng một xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn áp bức bóc lột, bất công. Trong xã hội đó, con người được tôn trọng, được tự do phát triển toàn diện, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác, tương trợ lẫn nhau. Với xã hội đó, đồng thuận đạt được ở mức độ cao, khác biệt ngày càng giảm, tạo nên một sự ổn định để phát triển. Để tiến tới một xã hội như vậy, hai ông chủ trương tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Giai cấp vô sản phải xoá bỏ sở hữu tư nhân - nguồn gốc sinh ra áp bức, bóc lột trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, Mác và Ăngghen đã vạch ra cơ sở của sự bất đồng thuận trong xã hội chính là sự đối lập về lợi ích kinh tế. Một khi lợi ích kinh tế không được đảm bảo và thiếu công bằng thì khó có thể nói đến sự đồng tâm nhất trí. Sự đồng ý, nhất trí giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội chỉ đạt được, khi lợi ích được phân phối công bằng, hợp lý. Xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chính là xoá bỏ nguồn gốc của sự bất công gây nên sự bất đồng thuận trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong lý luận của mình, hai ông cũng nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh đó nhằm tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, với tư cách là điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp và các giai cấp nói chung với tư cách là một giai cấp. Hai ông cũng chỉ ra rằng thay cho một xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Vậy là, xét đến cùng, lý tưởng mà các ông hướng tới là xây dựng một xã hội có sự đồng thuận cao, mọi người được tôn trọng, được tự do biểu đạt ý kiến của mình. Đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, mục tiêu vươn tới của xã hội loài người.
Lênin, người kế thừa và phát triển lý luận của Mác trong giai đoạn mới, vẫn tiếp tục học thuyết về đấu tranh giai cấp để tiến tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ. Nhưng, Lênin cũng rất coi trọng vấn đề đoàn kết dân tộc. Để đạt được điều đó, Người cho rằng phải tạo sự bình đẳng giữa các dân tộc. Khi giai cấp tư sản ở Nga muốn chĩa mũi dùi vào các dân tộc đa số trong dân cư Nga, Lênin chủ trương "Không được dành một tý đặc quyền nào cho bất cứ một dân tộc nào, cũng như cho bất cứ một ngôn ngữ nào. Không được có một hành động áp chế nào, không được có một sự bất công nhỏ nào đối với một dân tộc thiểu số - đó là nguyên tắc của một nền dân chủ công dân" [78, tr.193]. Với mong muốn xây dựng các dân tộc Nga thành một khối đoàn kết, thống nhất, Lênin không cho phép đối xử bất công với các dân tộc thiểu số. Người chỉ ra rằng giai cấp công nhân trên thế giới đang tạo ra một nền văn hoá cho chính mình, một nền văn hoá quốc tế mà những người tuyên truyền cho tự do và những người phản đối áp bức đã chuẩn bị từ bao lâu nay. Đối lập với thế giới cũ, cái thế giới của sự áp bức dân tộc, của sự phân tranh dân tộc, công nhân đưa ra một thế giới mới, một thế giới trong đó những người lao động thuộc mọi dân tộc đoàn kết với nhau, trong đó không có chỗ cho bất cứ một đặc quyền, đặc lợi nào, cũng như không có chỗ cho một sự áp bức nhỏ nào giữa người với người [78, tr.194]. Kế thừa tư tưởng của Mác và Ăngghen, Lênin mong muốn xây dựng một xã hội có sự đồng tâm, nhất trí cao giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân lao động.
Lênin cũng chỉ rõ giai cấp vô sản không thể bảo vệ những lợi ích kinh tế hàng ngày của mình, nếu không có sự liên minh chặt chẽ nhất và đầy đủ nhất với công nhân thuộc tất cả các dân tộc trong tất cả các tổ chức công nhân không trừ tổ chức nào [78, tr.114]. Trong vấn đề đoàn kết dân tộc, Lênin đặc biệt coi trọng sự tự nguyện chứ không phải bằng bạo lực, cưỡng bức. Trong thư gửi công nhân và nông dân Ucraina, Người viết "Chúng ta mong muốn các dân tộc tự nguyện liên minh với nhau - một sự liên minh không dung thứ một hành động bạo lực nào của nước này đối với nước khác, một sự liên minh đặt cơ sở trên sự tin cậy hoàn toàn, sự giác ngộ về sự thống nhất anh em, sự thoả thuận hoàn toàn tự nguyện" [81, tr.50]. Nhưng, theo Lênin, việc thiết lập được một sự liên minh như thế không phải là dễ dàng, không thể là ngày một ngày hai mà là một quá trình với sự kiên nhẫn, thận trọng. Điều đó cho thấy rằng, để tạo được một sự đồng ý, nhất trí một cách tự nguyện, không thể nôn nóng, vội vàng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác tuy chưa đặt vấn đề nghiên cứu về đồng thuận xã hội nhưng các ông đã mong muốn xây dựng một xã hội lấy sự đồng thuận giữa các tầng lớp, giữa các dân tộc làm cơ sở. Thực hiện được điều đó, cần tôn trọng lợi ích của các tầng lớp, các dân tộc và đề cao tinh thần tự nguyện. Để tiến tới một xã hội như vậy, phải xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tư tưởng đó vẫn soi sáng cho con đường xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc. Người nói đến đại đoàn kết cũng chính là nói đến đồng thuận xã hội. Trong di sản tư tưởng của Người, điều đó được thể hiện rất rõ. Dù trong bối cảnh nào, với bất cứ đối tượng nào, Người cũng tìm được điểm tương đồng để kêu gọi toàn dân đoàn kết với nhau vì mục tiêu chung. Ngay cả với những người Việt Nam lầm đường lạc lối, Hồ Chí Minh vẫn coi là dòng dõi của tổ tiên ta, đều mang dòng máu con Lạc cháu Hồng nên phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ [97, tr.247]. Với các tầng lớp nhân dân, Người kêu gọi đoàn kết tất cả những người thật sự yêu Tổ quốc, yêu hoà bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào [100, tr.62].
Để xây dựng sự đồng thuận xã hội, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục để các giai cấp, tầng lớp tự nguyện thống nhất với nhau vì mục tiêu chung chứ không phải là ép buộc, cưỡng bức. Người nói “Phải đi đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân" [102, tr.606]. Với Hồ Chí Minh, đồng thuận không có nghĩa là không còn đấu tranh mà đấu tranh với tất cả tính phức tạp, uyển chuyển của nó. Trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá II, Người đã phê bình tình trạng “ Thiên về đoàn kết một chiều, kém đấu tranh, giúp đỡ, phê bình, giáo dục ” [99, tr.462], Người nhắc nhở đảng viên “ Chống khuynh hướng đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức ” [102, tr.19]. Cũng cần phải tránh sự đồng thuận hình thức theo kiểu "bằng mặt mà không bằng lòng". Đồng thuận theo kiểu đó sẽ không bền vững và sớm muộn gì sự bất đồng cũng sẽ xảy ra. Việc Đảng ta chủ trương xây dựng sự đồng thuận xã hội chính là sự kế thừa, phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
1.1.2. Khái niệm "đồng thuận xã hội"
So với cụm từ “Đại đoàn kết” thường được nói tới như một chủ trương chính trị trong các phát biểu của các nhà lãnh đạo và văn kiện của Đảng, Nhà nước, "Đồng thuận xã hội" là một khái niệm mới xuất hiện trong những năm gần đây. Khái niệm đó được sử dụng chính thức trong văn kiện của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá IX). Khi đề ra chủ trương phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng ta đã chính thức đặt vấn đề xây dựng sự đồng thuận xã hội.
Từ điển tiếng Việt căn bản do Nguyễn Như ý chủ biên, nhà xuất bản Giáo dục ấn hành thì “đồng” có nghĩa là “cùng”, “thuận” là “bằng lòng, đồng tình với ý kiến hoặc cái đã nêu ra”.Từ đó có thể hiểu đồng thuận là từ ghép với nghĩa là cùng bằng lòng, đồng tình với nhau về một vấn đề nào đó.
Từ điển tiếng Pháp xuất bản năm 2002, đồng thuận (consensus) nghĩa là sự nhất trí của nhiều người, sự đồng ý và nhất trí cao của đa số [179, tr.251]. Trong Từ điển chính trị học hiện đại của tác giả Đa-nhi-len-cô, đồng thuận có nghĩa là sự đồng tình, đồng ý, sự liên kết theo mong muốn với người khác. Nghĩa đen đầu tiên của từ đồng thuận dùng để chỉ cái cảm giác có cùng một ý kiến, một suy nghĩ nào đó, là sự kết nối, liên kết, sự đồng tình, đồng ý [180, tr.95]. Cũng theo tác giả này, từ đồng thuận liên quan đến đồng tình và bao hàm cả sự tin tưởng lẫn nhau. Xem xét ở một góc độ khác, đồng thuận đề cập đến việc giải quyết những vấn đề với sự đồng tình, ủng hộ của nhiều người, cho dù có sự không đồng tình ở một nhóm người hoặc một người nào đó. Tác giả Song Thành quan niệm "đồng thuận là sự thoả thuận về cái chung, cái cơ bản nhất, đồng thời vẫn chấp nhận những sự khác biệt nhất định về dân tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hoá, lợi ích... trong xã hội" [137, tr.30].
Như vậy, khái niệm đồng thuận được hiểu là sự đồng tình, nhất trí của đa số về một vấn đề nào đó. Bất cứ một tổ chức nào có sự tập hợp của một số người là đều đòi hỏi phải tạo được một sự đồng thuận thì mới có thể tồn tại và phát triển. Gia đình, làng xóm, cơ quan, doanh nghiệp… dù ở phạm vi hẹp hay rộng, muốn tồn tại được đều cần có sự đồng tình, nhất trí của đa số trên cơ sở tự nguyện chứ không phải cưỡng bức, ép buộc. Nhưng đồng thuận trong những trường hợp nói trên là ở trong phạm vi hẹp, có thể dễ dàng đạt được. Từ những quan niệm trên có thể hiểu đồng thuận chính là sự đồng tình, nhất trí về một vấn đề nào đó trên cơ sở những giá trị, chuẩn mực chung.
Đồng thuận mà chúng ta nghiên cứu ở đây không phải là đồng thuận chung, cũng không phải đồng thuận trong phạm vi hẹp mà là đồng thuận xã hội (social consensus). Đó là sự đồng thuận ở phạm vi rộng, bao quát. Theo tác giả Đỗ Quang Tuấn "đồng thuận xã hội được hiểu là sự đồng tình, ủng hộ và cùng thống nhất ý tưởng và hành động về những điểm tương đồng chung của xã hội" [151, tr.11].
Tác giả Nguyễn Trần Bạt quan niệm: “đồng thuận xã hội là sự thỏa thuận thống nhất của nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp trong xã hội” [8, tr.3]. Đồng thuận là tiền đề tồn tại của mỗi hệ thống chính trị - xã hội, đặc biệt là tro._.ng hệ thống chính trị dân chủ đa lợi ích. Hệ thống chính trị - xã hội đó cần sử dụng nguyên tắc tự do trên nền tảng sự tương đồng ý chí của mình với những người khác, tự do biểu đạt sự đồng tình của mình.
Khi nói về nguyên tắc đồng thuận trong phối hợp và hành động chung, PGS. TS KH Phan Xuân Sơn cho rằng, nguyên tắc đó phải đảm bảo mọi vấn đề, mọi quyết định không theo đa số mà theo mức độ đồng thuận. Sự đồng thuận tối đa là quyết định đưa ra được tất cả đều đồng tình. Đồng thuận tối thiểu là khi một vấn đề nào đó được bàn bạc, nhưng chỉ đạt được sự nhất trí trên những nội dung căn bản, hoặc trên một số nội dung nhất định. Trong trường hợp đó, nguyên tắc đồng thuận không cho phép đa số áp đặ ý chí của mình, thiểu số không bắt buộc phải thực hiện quyết định của đa số. Dù đa số hay thiểu số các thành viên sẽ chỉ cùng thực hiện những gì mà mình đồng ý, những gì đã thoả thuận được [125, tr.56].
Đồng thuận là yêu cầu nhất thiết phải đạt được để mỗi đơn vị cũng như toàn xã hội có thể tồn tại và phát triển. Mỗi gia đình - tế bào của xã hội, cũng như mỗi cơ quan, doanh nghiệp, mỗi tổ chức xã hội, giữa các thành viên trong xã hội cần phải có sự đồng tình với nhau trên cơ sở những giá trị chung - những điểm tương đồng. Đó là yêu cầu tối thiểu của sự ổn định và phát triển. Như vậy, đồng thuận xã hội là sự đồng tình, nhất trí của xã hội về một vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng trong lúc vẫn thừa nhận những điểm khác biệt với điều kiện những khác biệt này không làm tổn hại đến mục tiêu chung, hành động chung.
Từ quan niệm này, trong đời sống chính trị cần phải lưu ý một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, nói đến đồng thuận là nói đến sự đồng tình, nhất trí của tất cả hoặc đa số trong xã hội. Sự đồng tình, nhất trí này dựa trên một cơ sở nhất định đó là những điểm tương đồng. Trước hết, đó là lợi ích quốc gia, dân tộc. Dù ở bất cứ quốc gia nào, một công dân phải ý thức được lợi ích quốc gia. Có thể về nhiều vấn đề các cá nhân, các nhóm xã hội, các lực lượng xã hội còn có ý kiến khác biệt nhưng đa số trong xã hội vẫn đồng tình, chấp nhận nhau vì lợi ích đó. ở nước ta trong giai đoạn hiện nay điểm tương đồng đó là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những điểm tương đồng có thể ở phạm vi rộng hoặc hẹp, ở từng giai đoạn khác nhau thì điểm tương đồng cũng khác nhau. Vì thế, ở một phạm vi nhất định, trong từng thời kỳ nhất định, điều quan trọng là xác định được mục tiêu chung. Do đó, tiêu chí để đưa đến sự đồng thuận những tiêu chí này.
Bên cạnh điểm tương đồng cơ bản thì vẫn tồn tại những điểm tương đồng không cơ bản nhưng không phải là không quan trọng. Cũng cần phải chú trọng những điểm không cơ bản để cuốn hút được sự đồng tình của các thành viên trong xã hội. Đối với mỗi lực lượng xã hội, những điểm cơ bản cần nhấn mạnh có thể khác nhau. Chẳng hạn, để được sự đồng tình, nhất trí của lực lượng thanh niên thì nhất thiết phải chú trọng vấn đề giải quyết việc làm.
Thứ hai, mức độ, phạm vi đồng thuận xã hội đạt được còn tùy thuộc vào nhiều vấn đề, nhưng cơ bản nhất là đáp ứng được lợi ích của đa số trong xã hội mà trước hết là lợi ích kinh tế. Các giai tầng trong xã hội sẽ đồng tình thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nếu như đường lối, chính sách đó mang lại cho họ một sự đảm bảo ngày càng cao về đời sống kinh tế. Trong giai đoạn xây dựng đất nước, có thể có những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao nhưng sự đồng thuận xã hội đạt được ở mức độ thấp. Vì thế, đáp ứng lợi ích cho các giai tầng trong xã hội là một yêu cầu cơ bản để đạt được đồng thuận ở mức độ nhất định, đảm bảo một sự ổn định để phát triển. Nhưng dù ở phạm vi và mức độ nào thì cuối cùng sự đồng thuận vẫn là một điều kiện cơ bản cho ổn định và phát triển.
Thứ ba, sự đồng tình, nhất trí này không phải là bằng bạo lực, cưỡng bức mà phải trên cơ sở tự nguyện. Mỗi cá nhân, mỗi lực lượng xã hội được tự do biểu đạt sự đồng tình. Đó chính là biểu hiện của dân chủ. Khi một chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước hay một quy chế, quy định nào đó của một tổ chức xã hội được ban hành, muốn thực thi có hiệu quả nhất thiết phải được sự đồng ý, nhất trí của các thành viên. Trong thực tế, không phải ngay từ đầu đã dễ dàng đạt được sự đồng tình đó. Vì mỗi người, mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp, mỗi bộ phận đều có lợi ích riêng. Do đó, để đạt được sự đồng thuận cần phải coi trọng công tác tuyên truyền, hiệp thương, thảo luận. Hiệp thương là một hình thức quan trọng để đạt được sự đồng thuận. Trong quá trình đó, mọi người được tự do biểu đạt chính kiến của mình. Xã hội càng phát triển phong phú, đa dạng bao nhiêu thì nguyên tắc này càng được coi trọng bấy nhiêu và trở thành một nguyên tắc xã hội. Hiệp thương có khả năng ngăn chặn và điều chỉnh được sự chống đối, xung đột để không đi đến chỗ loại trừ lẫn nhau. Hiệp thương có thể tạo điều kiện cho các cá nhân, các nhóm xã hội xích lại gần nhau, có thể trở thành những đồng sự, những đối tác ở mức độ khác nhau. Ngày nay, thương thuyết, thảo luận đã trở thành nguyên tắc sống trong xã hội. Đó là sự thương thuyết, thoả thuận giữa đôi bên chủ và thợ, giữa nhà nước và công dân, giữa người quản lý và người bị quản lý, giữa các tổ chức xã hội, giữa các quốc gia trên thế giới. Hiệp thương phải được tiến hành trên cơ sở pháp luật. Trong quá trình hiệp thương, mọi công dân, mọi giai cấp đều được bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc này góp phần quan trọng để đưa đến sự đồng thuận xã hội.
Bản chất của sự đồng thuận xã hội là cùng hành động chung trên cơ sở tương đồng, trong lúc vẫn tôn trọng những hành động độc lập đối với những vấn đề chưa nhất trí. Vì vậy, đồng thuận đạt được trên cơ sở tự nguyện, thấu tình đạt lý chứ không phải bằng cưỡng bức, bạo lực. Do đó, để đạt được sự đồng tình ở mức độ cao, cần tạo ra một bầu không khí thực sự dân chủ, cởi mở. Với bầu không khí đó, mọi người mới có thể thể hiện chính kiến của mình.
Nếu không tôn trọng tự do ý kiến, ngăn cản không cho những ý kiến bất đồng được thể hiện là điều rất bất lợi đối với việc đạt tới sự đồng thuận. John Stuart Mill (1806 - 1873) - triết gia và nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở nước Anh thế kỷ XIX từng nói rằng không nên ngăn cản việc tự do trình bày ý kiến. Điều đó không những không có lợi đối với người bày tỏ ý kiến mà đối với cả những người khác vì chưa thể khẳng định ý kiến nào đúng. Khi quan điểm được bộc lộ thì càng thuận lợi trong việc thảo luận, thương thuyết để tìm ra chân lý nhằm đi tới sự thống nhất. Nếu dân chủ còn hạn chế thì nhìn bề ngoài có thể "sóng yên biển lặng" nhưng trong lòng nó sẽ có những đợt sóng ngầm dẫn tới bão tố. Xã hội càng văn minh thì sự thuyết phục ngày càng được đề cao và sự cưỡng bức ngày càng trở nên không chấp nhận được. ở đây, chúng ta cũng phải thấy rằng đồng thuận trong trường hợp đó là sự đồng tình về những vấn đề nào đó gọi là điểm tương đồng, thì không có nghĩa là sự khác biệt bị bác bỏ. Tuy quyết định đưa ra dựa trên sự tương đồng nhưng sự khác biệt được bảo vệ, tôn trọng, các thành viên trong lúc phối hợp hành động chung theo những gì đã nhất trí vẫn có quyền hành động độc lập trên những vấn đề chưa thống nhất. Đây là bản chất của nguyên tắc dân chủ đồng thuận, khác với nguyên tắc dân chủ đa số là trong trường hợp phối hợp hành động chung, khi đa số đã quyết định thì thiểu số phải phục tùng, thiểu số không có quyền hành động theo quan điểm của mình. Điều này đã được Arend Lijphart khái quát thành hai mô hình dân chủ: đa số và đồng thuận.
Nhà kinh tế học đạt giải thưởng Nobel Arthur Lewis cho là sự thống trị đa số và mẫu hình chính phủ áp đặt sự thống trị đối với phái đối lập có thể xem là phi dân chủ vì chứa đựng những nguyên tắc loại trừ. Ông cho rằng nguyên nghĩa của từ dân chủ là tất cả những ai chịu sự tác động của một quyết định cần phải được tham gia vào quá trình ra quyết định đó, hoặc là trực tiếp hoặc là thông qua các đại diện được chọn. Và "ý chí của đa số sẽ thắng thế" mới là nghĩa thứ hai của từ "dân chủ" [84, tr.15]. Hạn chế của mô hình dân chủ đa số theo ông là "loại trừ các nhóm thua cuộc ra khỏi sự tham gia vào quá trình ra quyết định rõ ràng là vi phạm nguyên nghĩa của từ dân chủ"[84, tr.60].
Trong dân chủ đồng thuận, giữa nhóm đa số và nhóm thiểu số tạo được một sự đồng thuận thay vì sự đối lập, sự hoà hợp thay vì loại trừ. Bởi vì, ở mô hình này, ý kiến của thiểu số được coi trọng, được xem xét. Nhóm thiểu số cũng được chia sẻ quyền lực chứ không phải đa số áp đặt đối với thiểu số, thiểu số hoàn toàn phục tùng đa số. Rõ ràng là trong xã hội đa nguyên với sự phức tạp của nó thì mô hình dân chủ đồng thuận có những ưu thế của nó.
Thứ tư, trong thực tế khó có thể ngay lập tức đạt được đồng thuận xã hội một cách toàn diện và triệt để, tức là với tất cả mọi người và mọi vấn đề. Dù là một xã hội đồng nhất hay xã hội đa nguyên thì cũng không thể đạt được đồng thuận tuyệt đối. Xét về mặt kinh tế, mỗi giai cấp, tầng lớp có lợi ích khác nhau. Điều có lợi cho tầng lớp này chưa hẳn là có lợi cho tầng lớp khác. Về mặt tư tưởng, ngoài tư tưởng chính thống giữ vai trò chủ đạo, trong xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng khác. Về văn hoá, mỗi cộng đồng dân tộc có phong tục, tập quán, lối sống, ngôn ngữ riêng. Về tín ngưỡng, mỗi bộ phận dân cư tôn thờ một giáo lý nhất định, v.v.. Chỉ xét trong phạm vi một bộ phận xã hội cũng thấy rằng còn nhiều sự khác biệt. Do đó, có thể nói rằng trong một điều kiện nhất định, đồng thuận xã hội chỉ đạt được ở một ngưỡng nhất định. Do đó, xây dựng sự đồng thuận xã hội, điều quan trọng là xác định cho được những điểm tương đồng. Tương đồng căn bản rồi ít căn bản hơn. Từ đó để xác định mức độ đồng thuận: Đồng thuận tối đa và đồng thuận tối thiểu. Mục tiêu của quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội là phải cố gắng đạt được sự đồng thuận tối đa.
Thứ năm, sự đồng tình, nhất trí giữa các thành viên, các nhóm xã hội phải dựa trên cơ sở những điểm tương đồng, nhưng vẫn chấp nhận những sự khác biệt, nếu không ảnh hưởng đến mục tiêu chung. ở phạm vi quốc tế, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có lợi ích riêng, bản sắc văn hoá riêng, v.v.. Sự khác biệt đó trong quá trình phát triển của thế giới là cái tất yếu. Vì thế, không có lý do gì để ép buộc dân tộc này, quốc gia này phải chấp nhận hệ tư tưởng, bản sắc văn hoá của dân tộc khác, quốc gia khác, cũng như trong phạm vi một quốc gia, một cộng đồng xã hội không thể bắt buộc cá nhân này phải chấp nhận tư tưởng, lối sống của cá nhân khác. Nếu không có sự đa dạng trong các lối sống của con người thì con người chẳng những không chia sẻ được hạnh phúc với nhau mà còn không vươn lên được hết tầm vóc trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, mà mỗi con người có khả năng đạt tới. Mỗi cá nhân có quyền tự do của mình, và sử dụng sao cho không ảnh hưởng đến quyền tự do của người khác, ảnh hưởng đến những chuẩn mực chung của cộng đồng. Do đó, để đạt được sự đồng thuận, phải tôn trọng và chấp nhận những sự khác biệt, nếu như sự khác biệt đó không tổn hại đến những giá trị chung. Đặc biệt, trong những xã hội đa nguyên (không thuần nhất về tôn giáo, ngôn ngữ... ) thì nguyên tắc đó càng phải được đề cao.
Để chấp nhận những sự khác biệt về tư tưởng, văn hoá, về quá khứ... cần có lòng khoan dung. Ngày nay, khoan dung với tính chất là một cách nhìn, một biện pháp để khắc phục và thoát khỏi sự cực đoan trong quan hệ dân sự, chính trị, tôn giáo ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Khoan dung không chỉ giới hạn ở lòng tốt và sự tha thứ. Lòng tốt và sự cam chịu chỉ có thể làm nên sự khoan dung nhất thời chứ không thể tạo nên sự khoan hoà, bình đẳng, lâu dài. Điều cốt lõi và tinh tế nhất của sự khoan dung là hoà giải và chấp nhận được những khác biệt, độc đáo, đặc sắc mà không hoà tan hay triệt tiêu chúng, ngược lại, tôn trọng, nuôi dưỡng chúng. Khoan dung đòi hỏi con người phải có sự điều chỉnh, điều hoà các dị biệt. Đó là một quá trình tự điều chỉnh, đấu tranh, cọ xát, dung hoà với tất cả tính nhẫn nại, kể cả sự tha thứ, nhượng bộ.
Trong một cộng đồng dân tộc, khoan dung trước hết thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt về văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo giữa các dân tộc, cộng đồng khác nhau để cùng tồn tại và phát triển. Khoan dung là sự hài hoà trong khác biệt, là thái độ ứng xử tích cực không cố chấp, là học cách nghe, cách thông tin, cách hiểu người khác để chia sẻ, cảm thông. Khoan dung đòi hỏi sự tha thứ, thừa nhận, tôn trọng và cấp độ cao nhất là tiếp nhận. Mỗi người cần phải biết tha thứ cho lỗi lầm của kẻ khác. Con người cũng biết thừa nhận sự cùng tồn tại, thừa nhận về những giá trị mà cá nhân cộng đồng biểu hiện cho dù có những dị biệt, đối lập. Sự tôn trọng lẫn nhau là cơ sở điều chỉnh hành vi của con người khiến cho những giá trị của cá nhân, cộng đồng không bị kỳ thị. Nhờ đó mà những giá trị riêng được bảo tồn, các nền văn hoá không xung đột với nhau, các dân tộc thiểu số không bị đồng hoá. Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở sự tha thứ, thừa nhận và tôn trọng thì chưa đủ, mà cần có sự tiếp nhận. Những cái tốt, cái phù hợp có thể được tiếp nhận để xích lại gần nhau hơn, hoàn thiện mình hơn.
Trong quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội, khoan dung đóng vai trò rất quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, những cách cư xử thiếu khoan dung trong quan hệ giữa người với người gây nên những bất đồng, xung đột không đáng có. Nhiều vụ án mạng xảy ra rất đau lòng. Những vụ tranh chấp đất đai, tài sản, số vụ ly hôn ngày càng tăng... làm cho chính trị - xã hội thiếu ổn định, một phần nguyên nhân cũng do thiếu khoan dung. Điều đó cho thấy rằng cần chú trọng bồi dưỡng, giáo dục lòng khoan dung để con người có thể cảm thông với nhau hơn, xích lại gần nhau hơn.
1.1.3. Mối quan hệ giữa đồng thuận xã hội với đoàn kết và dân chủ
Khái niệm "đoàn kết" theo Từ điển tiếng Việt do Trung tâm từ điển học và Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1994, là "kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung". Theo Từ điển tiếng Việt căn bản do Nguyễn Như ý chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1998, đoàn kết là " thống nhất ý chí, không mâu thuẫn chống đối nhau". Từ đó có thể hiểu đoàn kết trên các nội dung cơ bản sau:
- Thống nhất ý chí: tức là cùng chung một ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau.
- Mục đích của thống nhất ý chí là kết thành một khối tạo nên nguồn sức mạnh tổng hợp nhằm đạt được một mục đích chung như chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước, v.v..
Về bản chất, khái niệm "đoàn kết" và "đồng thuận xã hội" có những điểm tương đồng, nhưng không đồng nhất. Cả hai khái niệm này đều nói về vấn đề tập hợp lực lượng, về sự thống nhất. ở đây, chúng ta cần chỉ rõ những điểm khác biệt để từ đó hiểu được vì sao Đảng ta lại đưa ra chủ trương xây dựng sự đồng thuận xã hội.
Thứ nhất, đoàn kết có chủ thể và đối tượng để thực hiện mục đích hành động. Đó là sự tập hợp, cố kết, tổ chức các giai cấp, các tầng lớp thành một lực lượng để tăng cường sức mạnh của cộng đồng, của xã hội với một mục đích rõ ràng. Đoàn kết dựa trên cơ sở đồng thuận. Có thể các giai tầng trong xã hội có sự đồng thuận nhưng nếu không được tổ chức lại thì cũng không thể đoàn kết. Cũng có thể các giai tầng chưa thực sự đồng tình, nhất trí với nhau nhưng vì một mục đích nào đó nên phải tập hợp lại. Chủ thể đứng ra để tập hợp là một tổ chức nào đó đại diện cho lợi ích của đa số trong xã hội. Đối tượng tập hợp là toàn thể nhân dân, không phân biệt giai cấp, dân tộc, giới tính. Mục đích tập hợp là để thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó, có thể là đánh giặc ngoại xâm hay chống thiên tai… Phương thức tập hợp là vận động các giai cấp, tầng lớp vào các tổ chức để tạo nên nguồn sức mạnh và thực hiện theo sự phân công nhiệm vụ của tổ chức.
Nói đến đồng thuận là nói đến sự đồng tình, nhất trí dựa trên những điểm tương đồng chứ chưa nói đến sự cố kết với nhau vì một mục đích cụ thể. Đoàn kết chú trọng nhiều vào hành động, còn đồng thuận thì trước hết là sự nhất trí trong nhận thức để dẫn đến sự nhất trí trong hành động.
Thứ hai, để có thể đoàn kết, kết thành một khối thống nhất đòi hỏi những tiền đề chặt chẽ không chỉ là ý chí, lý trí, tình cảm mà còn hy sinh cả lợi ích. Còn đồng thuận xã hội là sự đồng tình nhất trí của đa số trong xã hội, phối hợp hành động trên cơ sở những giá trị chung nào đó. Đoàn kết có khi đòi hỏi phải hy sinh lợi ích riêng, bộ phận để thực hiện mục tiêu chung. Vì thế đoàn kết nhiều khi mang tính sách lược. Đồng thuận xã hội không đặt ra yêu cầu phải hy sinh lợi ích riêng, mà yêu cầu trong lúc bảo vệ lợi ích riêng phải hành động, thực hiện những cam kết chung, những lợi ích chung. Do vậy đồng thuận xã hội là yêu cầu dễ đạt được hơn.
Để kết thành một khối thống nhất (đoàn kết) trong bối cảnh nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều giai cấp, tầng lớp, bộ phận với hệ thống lợi ích, tư tưởng, lối sống, tín ngưỡng, dân tộc khác nhau là khó có thể đạt được. Nhưng với đồng thuận xã hội, chỉ cần có sự tương đồng về những mục tiêu cơ bản, chỉ cần sự đồng tình, nhất trí về một vấn đề nào đó. Vì thế, xây dựng sự đồng thuận xã hội có tính khả thi hơn trong điều kiện nước ta hiện nay cũng như trong bối cảnh phức tạp của một thế giới nhiều màu sắc, nhiều sự khác biệt. Các giai cấp, các lực lượng xã hội còn nhiều sự khác biệt; các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò, chức năng riêng nhưng vẫn có thể đạt được sự đồng tình, nhất trí ở chừng mực nhất định trên cơ sở những giá trị chung. Với đồng thuận xã hội, lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, tầng lớp được tôn trọng, bảo vệ mà vẫn đạt được mục tiêu chung. Do đó, nếu đoàn kết và đồng thuận được coi là một phương thức phối hợp hành động, thì đồng thuận xã hội mềm dẻo hơn, khả thi hơn. Tuy nhiên, tính hướng đích lỏng lẻo hơn.
Thứ ba, đoàn kết và đồng thuận xã hội đều nói về vấn đề tập hợp lực lượng nhưng đồng thuận xã hội là sự tập hợp lực lượng dựa trên cơ sở nhận thức, tự nguyện, hiệp thương, thảo luận chứ không thể áp đặt, cưỡng bức và đồng thời tôn trọng quyền và lợi ích các bên tham gia. Như vậy, với đồng thuận xã hội, giá trị dân chủ được đề cao, hay nói cách khác, đó là sự tôn trọng quyền và lợi ích của mỗi người, chưa đòi hỏi sự hy sinh của mỗi tổ chức trong lúc thực hiện những mục tiêu chung của xã hội. Trong khi đó, để có đoàn kết, đôi khi cần sự hy sinh.
ở một góc độ khác, có thể quan niệm xây dựng sự đồng thuận xã hội là một nội dung mới của đại đoàn kết dân tộc. Trước đây, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Cương lĩnh đại đoàn kết của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đề ra mục tiêu là phải tạo ra được sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Mục tiêu này phù hợp với thời kỳ trước đây, khi nền kinh tế miền Bắc chỉ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tồn tại và nhân dân đồng lòng, đồng sức để đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Ngày nay, trong qúa trình đổi mới, cùng với sự biến đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu giai cấp - xã hội cũng thay đổi, mục tiêu đó không còn phù hợp nữa. Trong bối cảnh đó, nếu đòi hỏi một sự thống nhất về chính trị (đường lối, quan điểm, chế độ, văn hoá chính trị...) thì phạm vi đối tượng tập hợp sẽ rất hạn chế. Yêu cầu của việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc hiện nay là tập trung được mọi lực lượng, đoàn kết với tất cả mọi giai cấp, tầng lớp có thể đoàn kết được. Yêu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được khi sự tập hợp lực lượng dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội.
Hiện nay, dù còn những người chưa tán thành với Đảng và Nhà nước ta về một số vấn đề nào đó nhưng đã là người Việt Nam ai cũng có mong muốn xây dựng một nước Việt Nam độc lập, hoà bình, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là điểm tương đồng căn bản, là cơ sở cho đồng thuận xã hội ở nước ta.
Tổ quốc đã thống nhất, mục tiêu đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân là đưa đất nước phát triển. Đó cũng là mục tiêu của bao thế hệ người Việt Nam. Nếu trước đây mỗi người Việt Nam phải chịu nỗi nhục mất nước thì nay đang phải chịu nỗi nhục nghèo khổ. Muốn thoát khỏi tình trạng đó cần dựa vào nội lực đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài. Muốn vậy yêu cầu đầu tiên là phải tập hợp được toàn bộ lực lượng dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội. Tập hợp dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội vừa phù hợp với truyền thống nhân nghĩa, khoan dung của dân tộc, với tư tưởng nhân ái, bao dung của Hồ Chí Minh, vừa phù hợp với thực tiễn của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Chủ trương xây dựng sự đồng thuận xã hội thực sự là sự tổng kết kinh nghiệm tập hợp lực lượng dân tộc trong quá khứ và truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong những năm vừa qua.
Giữa đồng thuận xã hội và đoàn kết có mối liên hệ chặt chẽ. ở góc độ tập hợp lực lượng, khi xem xét về mối quan hệ giữa đồng thuận và đoàn kết, có thể hiểu đoàn kết là mục tiêu phải đạt được, còn đồng thuận xã hội làm cơ sở cho đoàn kết. Muốn kết thành một khối thống nhất thì cần tạo được sự đồng tình nhất trí chung. Nếu không tạo dựng được đồng thuận thì sự gắn kết đó có thể không bền vững. Vì thế, đoàn kết trên cơ sở đồng thuận là sự đoàn kết bền vững, lâu dài. Đồng thuận tạo ra bầu không khí tâm lý, đạo đức tích cực để phát triển cá nhân, liên kết xã hội cùng phấn đấu cho lợi ích chung, trong đó có lợi ích và triển vọng phát triển của mỗi người. Đồng thuận xã hội càng đạt được ở mức độ cao thì càng thuận lợi cho việc kết thành một khối thống nhất để thực hiện mục tiêu chung. Như vậy, đồng thuận xã hội chính là cơ sở của đoàn kết. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thì phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Chủ trương xây dựng sự đồng thuận của Đảng chính là nhằm mục đích xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Đồng thuận xã hội có quan hệ mật thiết với dân chủ. Khi bàn về dân chủ, người ta thường nghĩ ngay tới định nghĩa có tính chất cổ điển thời cổ đại: Quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng theo đà phát triển của xã hội, dân chủ ngày càng được hiểu dưới nhiều chiều cạnh và càng đa nghĩa. Nếu như trước đây nói đến dân chủ, người ta thường nói đến luận đề "thiểu số phục tùng đa số" tức là khẳng định quyền của đa số thì trong thế giới hiện đại hôm nay, dân chủ không chỉ dừng lại ở nguyên tắc đó, mà phải thừa nhận quyền của tất cả.
Nói đến dân chủ không thể không nói đến sự thống nhất trong tính đa dạng. Nhờ thống nhất ý chí, các cá thể khác biệt hợp thành xã hội và tạo ra quyền lực công cộng. Đây là điều kiện quan trọng để tự do cá nhân được giữ gìn, tôn trọng và phát triển. Sự khác biệt của mỗi cá nhân được xã hội chấp nhận trong chừng mực có thể. Trong xã hội hiện đại, dân chủ không chỉ thừa nhận quyền của đa số mà còn thừa nhận cả quyền của thiểu số. Điều đó được thể hiện rất rõ trong mô hình dân chủ đồng thuận mà Arend Lifphart đã luận giải. Dân chủ chẳng những chấp nhận sự khác biệt để làm nền tảng cho sự phát triển. Dân chủ phải được hiểu như môi trường nuôi dưỡng và bảo tồn các bộ phận thiểu số trong xã hội, là sự khoan dung và chấp nhận lẫn nhau. Vì thế, Các Mác đã khẳng định: "Chỉ có chế độ dân chủ mới là sự thống nhất chân chính giữa cái phổ biến và cái đặc thù" [89, tr.350]. Dân chủ chấp nhận tất cả các ý kiến khác nhau để dung hợp và tìm ra tiếng nói chung. Do đó càng không nên hiểu một cách đơn giản rằng dân chủ chỉ là thiểu số phải phục tùng đa số.
Dân chủ chỉ có thể trở thành hiện thực thông qua chế độ chính trị. Điều đó được thể hiện qua các nguyên tắc cai trị xã hội. Đó là: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; quyền tự do tư tuởng, ý chí; quyền của thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng xã hội về kinh tế, sắc tộc, tôn giáo, văn hoá, hoà giải, hợp tác, khoan dung, và đối thoại trong giải quyết các xung đột... Những nguyên tắc đó thể hiện rất rõ tinh thần đồng thuận.
Từ sự phân tích những giá trị của dân chủ ở những chiều cạnh khác nhau, có thể nói đồng thuận xã hội là một biểu hiện của dân chủ. Đó là chấp nhận sự đa dạng xã hội, quyền của các nhóm, từng cá nhân. Đồng thuận xã hội là phương thức tập hợp lực lượng trong xã hội dựa trên cơ sở tự do, bình đẳng tự nguyện, tôn trọng cái riêng của mỗi nguời. Xây dựng sự đồng thuận xã hội chính là nêu cao giá trị dân chủ, một phương thức thực thi dân chủ, một mô hình dân chủ.
Đồng thuận xã hội và dân chủ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Có đồng thuận xã hội thì mới có dân chủ. Mọi chủ trương, chính sách đưa ra được sự tán thành của đa số trên cơ sở tôn trọng quyền tự do, tự nguyện của mỗi người. Trong quá trình thảo luận, ý kiến của thiểu số được tôn trọng và xem xét chứ không phải đa số áp đặt ý chí của mình cho thiểu số. Đó chính là biểu hiện của dân chủ. Xây dựng một sự đồng thuận xã hội chính là tiến tới xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ. Có đồng thuận xã hội thì mới xây dựng được một nền dân chủ thực sự. Ngược lại, dân chủ càng được bảo đảm, các nguyên tắc của dân chủ càng được coi trọng thì càng tạo thuận lợi trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội. "ở đâu có dân chủ, ở đó có đoàn kết, đồng thuận, ổn định và phát triển" [40, tr.344].
1.2. Đồng thuận xã hội là nhân tố quan trọng để phát huy sức mạnh toàn dân tộc nhằm phát triển đất nước
1.2.1. Đồng thuận xã hội là điều kiện cơ bản để ổn định chính trị - xã hội
ổn định chính trị - xã hội là trạng thái xã hội mà trong đó sự vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị diễn ra nhịp nhàng, đồng bộ, tạo điều kiện cho xã hội phát triển bình thường, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày càng được đảm bảo. Để đạt được sự ổn định chính trị - xã hội cần có các điều kiện sau:
Thứ nhất, hệ thống thực thi quyền lực chính trị nói chung và quyền lực nhà nước nói riêng đạt hiệu lực, hiệu quả, an ninh trật tự, an toàn - xã hội được giữ vững. Quyền lực chính trị được thực thi thông qua sự vận hành, sự phối hợp đồng bộ của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đó là sự hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mỗi chủ thể có vai trò, vị trí, chức năng, phương thức hoạt động khác nhau nhưng phối hợp chặt chẽ thì quyền lực chính trị mới được thực thi có hiệu quả.
Thứ hai, ý chí, quyền và lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân được đảm bảo. Điều kiện này là sự phát triển tất yếu của điều kiện thứ nhất. Sự vận hành của hệ thống chính trị, sự thực thi quyền lực chính trị nhằm mục đích cuối cùng là đáp ứng nguyện vọng, lợi ích cơ bản của mọi tầng lớp nhân dân. Sự mất ổn định chính trị do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu cũng do ý chí, quyền, lợi ích cơ bản của nhân dân không được đáp ứng. Khi đó sẽ nảy sinh những mâu thuẫn, bất đồng giữa nhân dân với Đảng, chính quyền. Mâu thuẫn đó nếu không được giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến xung đột thậm chí khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thực tế của những điểm nóng xảy ra trên một số địa phương ở nước ta đã chứng minh điều đó. Điểm nóng ở Thái Bình (năm 1997) do Đảng, chính quyền không kịp thời giải quyết yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân trong việc công khai minh bạch những chi tiêu của chính quyền cơ sở, ở mức độ cao hơn là không đáp ứng quyền dân chủ chính đáng của nhân dân. Điểm nóng ở Tây Nguyên (2001 và 2004) xảy ra chủ yếu do Đảng, chính quyền không đảm bảo được lợi ích kinh tế cho nhân dân, dẫn đến đời sống nhân dân quá khó khăn, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần, v.v.. Khi ý chí, nguyện vọng và lợi ích của đa số nhân dân không được đảm bảo thì sẽ dẫn đến mất lòng dân đối với Đảng, Nhà nước và hậu quả là khôn lường. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và gần đây nhất là của các cuộc bạo loạn ở Tây Nguyên còn nóng hổi. Nguy hại nhất là sự buông lỏng trận địa lòng dân. Đồng bào các dân tộc Tây Nguyên từng một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng. Chúng ta có được Tây Nguyên trong những năm kháng chiến không chỉ dựa vào núi rừng mà cơ bản dựa vào dân, được nhân dân đùm bọc, che chở. Sở dĩ trong sự kiện tháng 4 năm 2004 mười ngàn người dân tham gia biểu tình, bạo loạn mà không ai báo cho chính quyền biết là do đại bộ phận nhân dân không tin ở Đảng, chính quyền sở tại [128, tr.28]. Điều đó cho thấy nếu ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân không được đáp ứng thì sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân dẫn đến mất lòng tin và khi đó mất ổn định chính trị - xã hội là điều tất yếu.
Thứ ba, sự phát triển bền vững của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại và tiến bộ xã hội.
ổn định chính trị - xã hội là một trạng thái động, luôn biến đổi chứ không đứng yên. Vì thế, để sự ổn định chính trị - xã hội bền vững đòi hỏi đất nước phải phát triển phù hợp với xu thế của thời đại và sự tiến bộ xã hội. Điều kiện để có sự phát triển bền vững là sự phát triển của hiện tại là tiền đề và không ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của tương lai; giới cầm quyền phải có đường lối, chính sách phát triển phù hợp với xu thế của thời đại.
ở nước ta hiện nay, Đảng ta chủ trương xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với xu thế của thời đại và tiến bộ xã hội. Điều đó cũng phù hợp với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội...
Thứ tư, những giá trị của cá nhân được tôn trọng và bảo vệ, tạo niềm tin cho các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Mỗi cá nhân là một thực thể xã hội có những điểm chung với các thành viên khác nhưng cũng có những sự khác biệt cần được xã hội chấp nhận. Đó là các quyền tự do của mỗi cá nhân: tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, v.v.. Nếu các quyền tự do được đảm bảo thì mỗi người sẽ có điều kiện phát huy cao độ năng lực của mình để đóng góp nhiều nhất cho xã hội. Và hơn thế nữa, họ có niềm tin sâu sắc ở giới cầm quyền vì đã biết tôn trọng mỗi cá nhân. Tự do cá nhân là một trong những giá trị của dân chủ. Quyền tự do của mỗi cá nhân được tôn trọng và bảo vệ sẽ tạo điều kiện cho việc ổn định chính trị - xã hội.
Tầm quan trọng của đồng thuận xã hội là ở chỗ nó tạo ra những điều kiện căn bản để quyền lực chính trị được thực thi có hiệu quả. Nếu không được sự đồng tình ủng hộ của đại bộ phận nhân dân thì không thể hiện thực hoá đường lối, chính sách và do đó, quyền lực chính trị không thể thực thi hoặc thực thi kém hiệu quả. Xây dựng sự đồng thuận xã hội chính là xây dựng cơ sở cho việc thực thi quyền lực chính trị._.à nhân tố quan trọng để phát huy sức mạnh toàn dân tộc nhằm phát triển đất nước. Đó là điều kiện cơ bản để ổn định chính trị - xã hội, là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là phương thức để xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của Đảng, Nhà nước. Chủ trương xây dựng sự đồng thuận xã hội do Đảng ta đưa ra có cơ sở lý luận và thực tiễn. Trước hết là truyền thống đồng thuận, khoan dung trong lịch sử dân tộc, là sự quyết tâm, khả năng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là khả năng điều hành, quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng sự đồng thuận xã hội là nhiệm vụ của các thể chế chính trị, các lực lượng xã hội, trong đó Mặt trận đóng vai trò rất quan trọng. Do vị trí, tính chất, đặc điểm về tổ chức hoạt động nên Mặt trận có khả năng và ưu thế trong hoạt động này.
2. Trong thời gian qua, Mặt trận thực hiện nhiều hoạt động trên nhiều lĩnh vực nhằm xây dựng sự đồng thuận xã hội. Những hoạt động đó đã làm cho các chủ trương về đổi mới đất nước của Đảng, các chính sách pháp luật của Nhà nước ngày càng phản ánh được lợi ích đa dạng của các tầng lớp nhân dân. Thông qua việc vận động nhân dân thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, Mặt trận huy động được mọi nguồn lực trong nhân dân để hỗ trợ cùng Đảng, Nhà nước giải quyết những nhiệm vụ quan trọng của đất nước, làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu, thông cảm, chia sẻ với nhau, góp phần giảm bớt những mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống, giúp các tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn, ổn định đời sống, phát huy truyền thống nhân nghĩa, khoan dung. Mặt trận chú trọng phát huy dân chủ, xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để đạt được điều đó, Mặt trận tích cực phối hợp với chính quyền để tuyên truyền, vận động và giám sát thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, tham gia giám sát và phản biện xã hội; phòng chống tham nhũng; hoà giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo; mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân ta với nhân dân tiến bộ trên thế giới. Những thành tựu nói trên đạt được do nhiều nguyên nhân, nhưng điều quan trọng nhất là những chương trình hành động Mặt trận đưa ra phù hợp với nguyện vọng của đa số nhân dân nên được nhân dân đồng tình hưởng ứng, tích cực tham gia.
Tuy vậy, hoạt động của Mặt trận trong việc xây dựng sự đồng thuận xã hội còn có những hạn chế về tổ chức bộ máy và tổ chức thực hiện, về công tác tuyên truyền, vận động; về nội dung hoạt động, nguyên tắc hoạt động. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng sự đồng thuận xã hội, Mặt trận vẫn còn gặp nhiều khó khăn, cản trở, thách thức.
3. Trong thời gian tới, để khẳng định vai trò của mình trong quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội, Mặt trận cần có sự đổi mới về nhận thức, về tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động và nội dung hoạt động. Nhận thức của Đảng của Nhà nước, của các tầng lớp nhân dân đối với Mặt trận cũng cần thay đổi. Để Mặt trận có thể thực hiện tốt hơn nhiệm vụ xây dựng sự đồng thuận xã hội, cần có những điều kiện cơ bản. Trước hết phải xây dựng giá trị chung làm cơ sở cho đồng thuận xã hội. Nhà nước cần thể chế hoá về mặt pháp lý vai trò, vị trí của Mặt trận trong quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội, phát huy vai trò của xã hội công dân, trong đó các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị phải làm nòng cốt. Để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng sự đồng thuận xã hội, Mặt trận cần có đội ngũ cán bộ có tâm huyết, trí tuệ, năng lực. Đội ngũ này sẽ là những người nòng cốt lôi cuốn quần chúng nhân dân thực hiện nhiệm vụ. Ngoài những điều kiện đó, Mặt trận phải được tự chủ về nguồn tài chính chứ không phải lệ thuộc vào ngân sách Nhà nước như hiện nay.
4. Xây dựng sự đồng thuận xã hội là một chủ trương đúng đắn của Đảng nhằm đưa đất nước phát triển lên một tầm cao mới nên cần được tiếp tục nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Đề tài mới tập trung nghiên cứu về vai trò của Mặt trận trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Nhưng để xây dựng được sự đồng thuận xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước có vai trò rất quan trọng. Vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu vấn đề này với những chủ thể chính trị khác nhau trên những góc độ khác nhau. Bởi vì Mặt trận có phát huy vai trò của mình nhưng Đảng, Nhà nước chưa vào cuộc thì vẫn còn nhiều bất đồng trong xã hội và như vậy để đi đến một sự đồng thuận là không dễ dàng. Do đó, cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị thì mới có thể tạo nên một sự đồng thuận ở mức độ cao.
Danh mục các công trình
đã công bố của tác giả liên quan đến đề tài luận án
1.
(2002), "Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", Sinh hoạt lý luận,(4), tr.11-14.
2.
(2002), "Về vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", Lịch sử Đảng,(10), tr.57-59,44.
3.
(2002), "Mô hình dân chủ đa số và mô hình dân chủ đồng thuận", Thông tin chính trị học, (3), tr.26-32.
4.
(2005), "Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân", Mặt trận, (26), tr.32-35.
5.
(2006), "Đà Nẵng tạo sự đồng thuận trong quá trình phát triển thành phố", Cộng sản, (6), tr.42-46.
6.
(2006), "Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay", Lý luận chính trị, tr.58-61,71.
7.
(2006), "Suy nghĩ về vai trò Mặt trận Tổ quốc giám sát đại biểu dân cử", Mặt trận, (30), tr.42-44.
8.
(2006), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân giám sát Hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp", đăng trong sách Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, do TS. Đặng Đình Tân chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 269-284.
9.
(2007), "Mặt trận Tổ quốc với vấn đề thực hiện và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Chuyên luận thuộc đề tài cấp Bộ "Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" do PGS.TS. Vũ Hoàng Công làm chủ nhiệm, bảo vệ ngày 6/9/2007 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
10.
(2007), "Mặt trận Tổ quốc các cấp tỉnh Nghệ An tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội", Mặt trận, (45), tr.33-36.
11.
(2007), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay", Chuyên luận thuộc đề tài cấp Bộ "Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay" do PGS.TSKH Phan Xuân Sơn làm chủ nhiệm.
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1.
Nguyễn Đình An (2004), Ngày ấy, Nxb Đà Nẵng.
2.
Ban tư tưởng- văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3.
Ban tư tưởng- văn hoá Trung ương (2005), Nhận dạng các quan điểm sai trái, thù địch, Hà Nội.
4.
Ban tư tưởng- văn hoá Trung ương (2006), Tài liệu tham khảo phục vụ Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5.
Hoàng Chí Bảo (2003), "Bước đầu tìm hiểu về kết hợp chế độ tập trung dân chủ trong Đảng và chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (11), tr.40- 44.
6.
Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Thị Hiền Oanh (2004), "Bàn về tính đa dạng và thống nhất trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (18), tr.17- 21.
7.
Hoàng Chí Bảo (2005), "Kết hợp dân chủ với đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (23), tr.25 - 29.
8.
Nguyễn Trần Bạt (2005), "Đồng thuận xã hội",
9.
Nguyễn Thanh Bình (2004), "Vai trò của hội, tổ chức phi chính phủ trong đổi mới và phát triển đất nước", Lý luận chính trị, (4), tr.33- 37.
10.
Nguyễn Khắc Bộ (2005), "Nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và nhân dân đối với bộ máy nhà nước", Dân vận, tr.15- 18.
11.
Nguyễn Khắc Bộ (2006), "Thực hiện tốt "Quy chế Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư", Nhân dân, ngày 28-5, tr.3.
12.
Phạm Hữu Bồng (2007), "Hội Cựu chiến binh Việt Nam mãi mãi xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Đảng", Mặt trận, (39), tr.50- 53.
13.
Thiện Cẩm (2004), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đúng là ngôi nhà chung thống nhất", Mặt trận, (17), tr.25 - 26.
14.
Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên) (2000), Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề lý luận cấp bách, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
15.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16.
Minh Châu (2004), "Đôi điều rút ra từ cuộc vận động mang tính toàn dân", Mặt trận, (18), tr. 38 - 40.
17.
Nguyễn Văn Cư (2004), ổn định chính trị, xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18.
Đỗ Minh Cương (2006), "Đặc điểm của tầng lớp doanh nhân Việt Nam hiện nay", Lý luận chính trị, (8), tr.37- 40.
19.
Xuân Danh (2007), "Hãy gác lại quá khứ để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường", Thanh niên, ngày 24 - 6.
20.
Phan Đình Diệu (2005), "Vấn đề đoàn kết dân tộc dưới cách nhìn mới của khoa học", Mặt trận, (22), tr.25- 26, 30.
21.
Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn hoá làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22.
Nguyễn Quang Du (2006), "Muốn có đoàn kết thật sự thì phải có dân chủ thật sự", Mặt trận, (29), tr.28- 30.
23.
Nguyễn Quang Du (2006), "Kết hợp chế độ tập trung dân chủ trong Đảng với chế độ hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận", Mặt trận, (37), tr.35-38.
24.
Ngô Văn Dụ, Hồng Hà, Trần Xuân Giá (đồng chủ biên) (2006), Một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25.
Nguyễn Lân Dũng (2004), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thể hiện nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân", Mặt trận, (16), tr.18- 19.
26.
Vũ Tiến Dũng (2007), "Phát triển kinh tế tư nhân và sự hình thành đội ngũ doanh nhân mới ở Việt Nam hiện nay", Mặt trận, (44), tr.32- 35.
27.
Phạm Thế Duyệt (2003), "Thời cơ thuận lợi để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (10), tr.4- 6.
28.
Phạm Thế Duyệt (2004), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay", Cộng sản, (18), tr.6- 11.
29.
Phạm Thế Duyệt (2006), "Kiên quyết chống biếu xén, tham nhũng để có một cái Tết dân vui", Báo Thanh tra, xuân Bính Tuất.
30.
Phạm Thế Duyệt (2007), "Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế", Mặt trận, (41), tr.4- 8.
31.
Trần Văn Dư (2003), "Một vài suy nghĩ bước đầu về củng cố, kiện toàn bộ máy chuyên trách Mặt trận cơ sở", Mặt trận, (12), tr.50- 52.
32.
Huỳnh Đảm (2007), "Phấn khởi và tin tưởng, ra sức thực hiện tốt nhiệm vụ công tác Mặt trận 2007", Mặt trận, (39), tr.14- 17, 27.
33.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nứơc ngoài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, t.37, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới về đại đoàn kết dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
41.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Tham luận tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
43.
Trần Bạch Đằng (2006), "Đổi mới công tác Mặt trận - tìm đáp số không đơn giản", Mặt trận, (33), tr.17 - 20.
44.
Bùi Phương Đình (2004), "Đói nghèo và phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam", Thông tin tư liệu chuyên đề, (4), Viện thông tin khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45.
Nguyễn Ngọc Giao (2004), "Cần tạo điều kiện để đội ngũ trí thức đóng góp nhiều cho sự phát triển của đất nước", Mặt trận, (17), tr.23- 24.
46.
Trịnh Xuân Giới (2006), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trước vận hội lớn của đất nước", Mặt trận, (32), tr.15- 17; (33), tr.24- 27.
47.
Lương Đình Hải (2006), "Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hoá xã hội ở nước ta hiện nay", Triết học, (1), tr.5- 9.
48.
Lý Tường Hải (2005), Khổng Tử, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
49.
Trần Hậu (2006), "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất trong tình hình mới", Mặt trận, (37), tr.42- 46.
50.
Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
51.
Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52.
Hồ Trọng Hoài (2003), "Nét tương đồng gắn bó các tôn giáo trên đất nước Việt Nam", Cộng sản, (21), tr.24- 26.
53.
Hồ Trọng Hoài (2005), "Khoan dung- một giá trị đạo đức trong nhân cách văn hoá Hồ Chí Minh", Cộng sản, (17), tr.60 - 64.
54.
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các lãnh đạo của Đảng (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời kì mới, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
55.
Phạm Bích Hợp (2000), "Đồng thuận dân tộc để phát triển đất nước,
56.
Nguyễn Văn Huyên (2004), "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh", Cộng sản, (3), tr.20- 24.
57.
Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2006), Văn hoá- mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
58.
Nguyễn Khánh (2004), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần làm tốt vai trò một tổ chức liên minh chính trị", Mặt trận, (17), tr.11- 13.
59.
Nguyễn Khánh (2007), "Đổi mới tư duy về Mặt trận và công tác Mặt trận", Mặt trận, (40), tr.9- 11, 14.
60.
Nguyễn Trọng Khánh (2006), "Mặt trận Tổ quốc tỉnh Vĩnh Phúc vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước", Mặt trận, (38), tr.40- 41.
61.
Trương Thị Khuê (2004), "Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam góp phần mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc", Mặt trận, (19), tr.21- 22.
62.
Tương Lai (2005), Đồng thuận xã hội,
63.
Tương Lai (2006), Vấn đề ý thức hệ và sự đồng thuận xã hội,
64.
Nguyễn Thị Lan (2002), "Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", Sinh hoạt lý luận, (4), tr.11- 14.
65.
Nguyễn Thị Lan (2002), "Về vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", Lịch sử Đảng, (10), tr.57- 59, 44.
66.
Nguyễn Thị Lan (2002), "Mô hình dân chủ đa số và mô hình dân chủ đồng thuận", Thông tin chính trị học, (3), tr.26- 32.
67.
Nguyễn Thị Lan (2002), Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã tại Nghệ An, luận văn thạc sỹ Chính trị học, Hà Nội.
68.
Nguyễn Thị Lan (2005), "Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân", Mặt trận, (26), tr.32-35.
69.
Nguyễn Thị Lan (2006), "Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay", Lý luận chính trị, (6), tr.58- 61, 71.
70.
Nguyễn Thị Lan (2006), "Suy nghĩ về vai trò Mặt trận Tổ quốc giám sát đại biểu dân cử", Mặt trận, (30), tr.42- 44.
71.
Nguyễn Thị Lan (2006), "Đà Nẵng tạo sự đồng thuận trong quá trình phát triển thành phố", Cộng sản, (3), tr.42- 46.
72.
Nguyễn Thị Lan (2007), "Mặt trận Tổ quốc các cấp tỉnh Nghệ An tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, góp phần xây dựng sự đồng thuận xã hội", Mặt trận, (45), tr.33-36.
73.
Đinh Văn Lành (2004), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với việc phát huy vai trò của người cao tuổi", Mặt trận, (14), tr.31- 33.
74.
Vũ Ngọc Lân (2006), "Suy nghĩ bước đầu về vai trò "phản biện xã hội" của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (27), tr.42- 45.
75.
Đinh Đức Lập (2006), "Một số đặc trưng cơ bản về phẩm chất và năng lực cán bộ Mặt trận", Mặt trận, (33), tr.40- 42.
76.
V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.2, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
77.
V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.16, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
78.
V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t. 23, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
79.
V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t. 27, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
80.
V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t. 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
81.
V.I.Lênin (1980), Toàn tập, t. 40, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
82.
V.I.Lênin (1981), Toàn tập, t.42, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
83.
Đỗ Trường Linh (2007), "Giải thưởng "Chống tham nhũng" để chống tham nhũng", Mặt trận, (42), tr.30- 34.
84.
Arend Liphart (1984), Các mô hình dân chủ, một nghiên cứu so sánh ở 21 quốc gia, Nxb Đại học Yale, Nguyễn Đăng Quang dịch.
85.
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1999), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86.
Luật phòng chống tham nhũng (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
87.
Nguyễn Đức Lữ (2006), "Giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo", Mặt trận, (29), tr.21- 22, 27.
88.
Nguyễn Đức Lữ (2007), "Tôn trọng sự khác biệt, quy tụ và thái độ khoan dung tôn giáo ở Việt Nam", Mặt trận, (47), tr.19- 22, 8.
89.
C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90.
Các Mác và Ănghen (1995), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
91.
C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, t.17, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
92.
Nông Đức Mạnh (2004), "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc", Mặt trận, (15), tr.4- 7.
93.
Nông Đức Mạnh (2004), "Mặt trận dân tộc thống nhất- một nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Việt Nam", Mặt trận, (19), tr.5- 8.
94.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
95.
John Stuart Mill (2005), Bàn về tự do, Nxb Tri thức.
96.
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
97.
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
98.
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
99.
Hồ Chí Minh, (2004) Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
100.
Hồ Chí Minh, (2004) Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
101.
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
102.
Hồ Chí Minh, (2004) Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103.
Đỗ Mười (2004), "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở", Cộng sản, (20), tr.16- 19.
104.
Đỗ Mười (1998), Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
105.
Nguyễn Văn Nam (2006), Toàn cầu hoá và sự tồn vong của nhà nước, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
106.
Nguyễn Thị Nga (2005), "Phát huy tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh trong điều kiện nước ra hiện nay", Cộng sản, (10), tr.15- 20.
107.
Lê Hữu Nghĩa (2003), "Nền kinh tế toàn cầu và nhà nước quốc gia", Lý luận chính trị, (4), tr.12- 15.
108.
Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (1998), Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
109.
Phan Ngọc (2005), Một nhận thức về văn hoá Việt Nam, Viện văn hoá và Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
110.
Trần Ngọc Nhẫn (2006), "Mặt trận lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ chủ chốt do Hội đồng nhân dân cấp xã bầu là đúng ý Đảng, hợp lòng dân", Mặt trận, (38), tr.42- 44.
111.
Trần Ngọc Nhẫn (2007), "Vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Lý luận chính trị, (1), tr.41- 43.
112.
Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
113.
Nguyễn Văn Pha (2003), "Vài suy nghĩ bước đầu về nguyên tắc phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (13), tr.28-31, 13.
114.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
115.
Lê Khả Phiêu (2006), "Phải làm gì để nhân dân, Mặt trận giám sát được hoạt động của Đảng, Nhà nước", Mặt trận, (28), tr.4- 6.
116
Thang Văn Phúc (chủ biên) (2002), Vai trò của Hội trong đổi mới và phát triển đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
117.
Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
118.
Trần Đình Phùng (2004), "Về vai trò người tiêu biểu trong các dân tộc thiểu số ở khu dân cư", Mặt trận, (18), tr.14- 16.
119.
Phạm Ngọc Quang, Nguyễn Viết Thông (2007), "Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội", Cộng sản, (776), tr.53- 58.
120.
Lê Minh Quân (2003), Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
121.
Jean JacQues Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
122.
Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm, Lê Doãn Tá (đồng chủ biên) (2002), Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước: Vấn đề và kinh nghiệm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
123.
Phan Xuân Sơn (2002), "Xã hội công dân và một số vấn đề về xã hội công dân ở nước ta", Sinh hoạt lý luận, (4), tr.31- 34, 40.
124.
Phan Xuân Sơn (chủ biên) (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
125.
Phan Xuân Sơn (2005), "Nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Lý luận chính trị, (6), tr.54-58.
126.
Phan Xuân Sơn (2005), "Quan điểm của Các Mác về xã hội công dân", Sinh hoạt lý luận, (73), tr.28- 30.
127.
Lưu Văn Sùng (chủ nhiệm đề tài) (2005), Một số điểm nóng chính trị - xã hội điển hình tại các vùng đa dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây - hiện trạng, vấn đề, các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống, Đề tài cấp nhà nước nhánh 3, Hà Nội.
128.
Lưu Văn Sùng (2006), "Nhìn lại sự kiện Tây Nguyên năm 2001 và 2004", Lý luận chính trị, (10), tr25 - 29, 38.
129.
Lưu Văn Sùng (chủ nhiệm đề tài) (2007), Đình công của công nhân- thực trạng và giải pháp xử lý ở tỉnh Đồng Nai, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
130.
Đặng Đình Tân (chủ biên) (2006), Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
131.
Nguyễn Đình Tấn (1998), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
132.
Ngọc Thạch (2007), "Vì sao các khiếu nại tố cáo của nhân dân gửi đến Mặt trận Tổ quốc không được giải quyết?", Mặt trận, (39), tr.44- 45, 48.
133.
Hoàng Thái (2004), "Vấn đề phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên trong Mặt trận", Mặt trận, (15), tr.33- 35.
134.
Vũ Duy Thái (2007), "Phản biện ngay cả khi mới chỉ là ý tưởng", Mặt trận, (42), tr.18- 20.
135.
Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái dịch (2000 ), Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
136.
Nguyễn Đăng Thành (2007), "Về một số nghịch lý xuất hiện trong quá trình phát triển giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Lý luận chính trị, (2), tr. 30- 35, 46.
137.
Song Thành (2003), "Đồng thuận xã hội và khoan dung Hồ Chí Minh", Mặt trận, (10), tr.29- 33.
138.
Trần Thành (2004), "Sự kết hợp các mặt đối lập trong giải quyết mâu thuẫn xã hội", Triết học, (1), tr.47- 51.
139.
Trần Phúc Thăng (2003), "ảnh hưởng của toàn cầu hoá xã hội- giai cấp Việt Nam", Lý luận chính trị, (3), tr.32- 35.
140.
Lê Sỹ Thắng (1997), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
141.
Trần Thắng (2007), "Phát huy vai trò Mặt trận trong hoạt động hoà giải cơ sở", Mặt trận, (41), tr.40- 42, 39.
142.
Đỗ Văn Thắng (2006), "Vấn đề xây dựng xã hội công dân ở nước ta", Lý luận chính trị, (9), tr.64- 69.
143.
Đỗ Văn Thường (2006), "Phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong qúa trình xây dựng luật, pháp lệnh", Mặt trận, (27), tr.42- 45.
144.
Lê Đức Tiết (2007), "Phản biện xã hội, phương thức chữa trị căn bệnh duy ý chí", Mặt trận, (4), tr.42- 44.
145.
Nguyễn Thị Tịnh (2003), "Tăng cường củng cố bộ máy và cán bộ chuyên trách của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp ở địa phương", Mặt trận, (9), tr.38- 39.
146.
Lê Văn Toàn (2006), "Vấn đề phân hoá giàu nghèo ở Việt Nam hiện nay", Lý luận chính trị, (7), tr. 58- 61, 68.
147.
Lê Bá Trình (2007), "Phát huy những điểm tương đồng của chủ nghĩa xã hội và các tôn giáo để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc", Mặt trận, (40), tr.23- 26, 37.
148.
Hoàng Trang- Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên) (2006), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
149.
Nguyễn Ngọc Truyền (2006), "Một vài kinh nghiệm giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hải Dương hiện nay", Mặt trận, (31), tr.35- 37.
150.
Trường Đại học công đoàn Việt Nam, Đề tài khoa học công nghệ KX.05.10, (1994), Các đoàn thể nhân dân trong kinh tế thị trường, (Nguyễn Viết Vượng chủ nhiệm đề tài), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
151.
Đỗ Quang Tuấn (2003), "Bước phát triển mới trong quan điểm nhận thức về đại đoàn kết dân tộc", Mặt trận, (10), tr. 8- 12.
152.
Đỗ Quang Tuấn (chủ biên) (2006), Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
153.
Hoàng Văn Tuệ (2006), "Vấn đề phản biện xã hội với yêu cầu thực tế hiện nay", Triết học, (4), tr.53- 57.
154.
Đinh Văn Tư (2004), "Suy nghĩ về sự phối hợp và thống nhất hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam", Mặt trận, (18), tr.22- 24.
155.
Đào Trí úc (chủ biên) (2005), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
156.
Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học (1976), Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
157.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập I (lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
158.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập II (lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
159.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, tập III (lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
160.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2004), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
161.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung tâm công tác lý luận (2004), Một số vấn đề về đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (kỷ yếu khoa học), Hà Nội.
162.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Báo cáo kết quả cuộc vận động "Ngày vì người nghèo" năm 2006.
163.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Kỷ yếu khoa học đề tài cấp Bộ, Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo nhằm góp phần xây dựng chính quyền cơ sở do Nguyễn Ngọc Dinh chủ nhiệm.
164.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), Báo cáo tình hình kết quả thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư".
165.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2007), Báo cáo tình hình triển khai và kết quả bước đầu thực hiện thông tri 06 về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức vụ chủ chốt do Hội đồng nhân dân xã bầu và trưởng thôn năm 2006.
166.
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Tài liệu bồi dưỡng công tác Mặt trận (lưu hành nội bộ), Hà Nội.
167.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An (2007), Báo cáo kết quả thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp xã và trưởng thôn năm 2006.
168.
Viện khoa học- xã hội Việt Nam (1993), Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
169.
Trần Khắc Việt (2004), "Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra và giải pháp", Lý luận chính trị, (9), tr.65- 69.
170.
Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn (2004), Bàn về khoan dung trong văn hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
171.
Hồ Văn Vĩnh (2007), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta", Lý luận chính trị, (5), tr.47- 54.
172.
Nguyễn Văn Vĩnh (chủ biên) (2005), Góp phần đẩy lùi nguy cơ, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
173.
Nguyễn Tiến Võ (2003), "Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài", Mặt trận, (13), tr.19- 22.
174.
Nguyễn Tiến Võ (2004), "Doanh nhân Việt Nam- vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới", Mặt trận, (19), tr.34- 36.
175.
Y Xuôi (2006), "Phát huy vai trò của già làng, người có uy tín thực hiện chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong cộng đồng các dân tộc tỉnh Kon Tum", Mặt trận, (28), tr.42- 45.
176.
Nguyễn Bình Yên (2002), ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tiếng anh
177.
Nicholas Rescher (1993), Pruzalism: Against the Demand for consensus, Oxford University Press, USA.
178.
Consensus Conflict Perspectives in social theory, student/htlm.
Tiếng pháp
179.
Le petit Larouse illustre (2002), 21 rue du mon Tparnasse, 75 283 Paris cegex 06.
Tiếng nga
179.
ДАНИЛЕНКО (2000), СОВPЕМЕННЫЙ ПОЛИЧИЧЕСКИЙ СЛОВАРЬ, ИЗДАЧЕЛЬСТВО HОТАБЕН, MOCKBA
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2600.doc