Tài liệu Marketing quốc tế với việc đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty Cổ phần Dệt May Hà Nội: MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ 4
DANH MỤC BẢNG BIỂU 5
LỜI NÓI ĐẦU 6
PHẦN I.TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 9
1.1.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 9
1.1.1.Quá trình hình thành của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 9
1.1.2.Các giai đoạn phát triển của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 9
1.2. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 13
1.2.1.Nội dung các lĩnh vực s... Ebook Marketing quốc tế với việc đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty Cổ phần Dệt May Hà Nội
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Marketing quốc tế với việc đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty Cổ phần Dệt May Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản xuất kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 13
1.2.2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 14
1.2.3.Hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty 15
1.3.HÌNH THỨC TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 19
1.3.1.Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 19
1.3.2.Cơ cấu tổ chức bộ máy Xuất- Nhập khẩu 25
PHẦN II. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 28
2.1.ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 28
2.1.1.Mặt hàng xuất khẩu 29
2.1.2.Thị trường xuất khẩu 34
2.2.THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 36
2.2.1.Nghiên cứu thị trường Mỹ 36
2.2.1.1.Môi trường kinh tế 38
2.2.1.2.Môi trường chính trị - luật pháp 39
2.2.1.3.Môi trường văn hoá – xã hội 39
2.2.1.4.Môi trường cạnh tranh 40
2.2.2.Chiến lược xâm nhập thị trường của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội.. 41
2.2.2.1.Xuất khẩu trực tiếp 42
2.2.2.2.Gia công xuất khẩu 47
2.2.3.Chính sách Marketing Mix của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 47
2.2.3.1Quyết định sản phẩm trên thị trường quốc tế 47
2.2.3.2.Quyết định giá trên thị trường quốc tế 51
2.2.3.3.Quyết định kênh phân phối trên thị trường quốc tế 52
2.2.3.4.Quyết định xúc tiến thương mại trên thị trường quốc tế 54
2.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 57
2.3.1.Kết quả đã đạt được 57
2.3.2.Hạn chế còn tồn tại 58
PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 60
3.1.NHẬN ĐỊNH VỀ THỊ TRƯỜNG CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 60
3.1.1.Chương trình giám sát hàng dệt amy nhập khẩu từ Việt Nam của Mỹ 60
3.1.2.Sự suy thoái của đồng USD 62
3.1.3.Tình hình cạnh tranh tại thị trường Mỹ 63
3.2.NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC 64
3.3.KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI 68
3.4.TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG 69
3.5.GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH MARKETING MIX TRÊN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU 71
3.5.1.Chính sách hoàn thiện sản phẩm 71
3.5.2.Hoàn thiện chính sách giá cả 73
3.5.3.Mở rộng hệ thống kênh phân phối 74
3.5.4.Tăng cường hiệu quả của chính sách xúc tiến thương mại 75
3.6.CÁC GIẢI PHÁP BỔ SUNG 76
3.6.1.Giải pháp về nguồn nhân lực 76
3.6.2.Nâng cao ngân sáchvà hiệu quả sử dụng ngân sách 76
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ1.1.Cơ cấu tổ chức bộ máy Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 23
Sơ đồ1.2.Cơ cấu tổ chức Phòng Xuất - Nhập khẩu 26
Sơ đồ2.1.Khái quát quy trình xuất khẩu hàng hoá trực tiếp tại Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 46
Sơ đồ2.2.Kênh phân phối hàng dệt may xuất khẩu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 52
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1.1.Cơ cấu lao động của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 16
Bảng 1.2.Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng 17
Bảng 2.1.Các chỉ tiêu kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 27
Bảng 2.2.Tình hình xuất khẩu các mặt hàng 29
Bảng 2.3.Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội 33
Bảng 2.4.Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ 40
Bảng 3.1.Bảng tính giá cho sản phẩm áo sơmi 72
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, khi hội nhập toàn cầu đang là xu thế phát triển chung trên toàn thế giới thì bất kì một quốc gia nào nếu không ngừng nỗ lực để hội nhập vào xu thế chung, tạo ra sức mạnh cạnh tranh cho quốc gia của mình đều sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển. Như nhiều quốc gia khác, Việt Nam cũng nhận thức được những đòi hỏi cấp bách của tình hình chung và đang không ngừng cải cách, chuyển đổi trên nhiều lĩnh vực, trong đó không thể không kể đến xuất nhập khẩu một lĩnh vực đóng vai trò rất quan trọng giúp Việt Nam mở rộng được các mối quan hệ cũng như tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội hơn để xâm nhập thị trường quốc tế.
Thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng đã được Đảng và Nhà nước đặt nhiều sự quan tâm, nó được coi là hướng ưu tiên, là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng đang ngày càng được mở rộng, từ những mặt hàng truyền thống từ lâu đã quen thuộc với bạn hàng quốc tế như dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ hay thuỷ hải sản…Đến những mặt hàng có hàm lượng kĩ thuật cao hơn như phần mềm điện tử. Trong đó, mặt hàng dệt may đã, đang và sẽ tiếp tục là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng bậc nhất của Việt Nam.
Nhìn chung tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn đang diễn biến khá thuận lợi, minh chứng là kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng, uy tín ngày càng cao và thị trường ngày càng được mở rộng…tuy nhiên bên cạnh đó những hạn chế còn tồn tại của hàng dệt may Việt Nam như chất lượng sản phẩm chưa ổn định, quy mô sản xuất không lớn, vẫn chủ yếu là gia công xuất khẩu lại đang trở thành trở ngại lớn cho hoạt động mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là ở một thị trường khó tính như Mỹ, một thị trường lớn, giàu tiềm năng đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam nhưng đồng thời cũng là thị trường có nhiều trở ngại lớn. Với hệ thống pháp luật phức tạp, cùng sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều nhà cung ứng trên thế giới và đặc biệt là những chính sách bảo hộ sản phẩm trong nước dưới các hình thức thuế chống bán phá giá, yêu cầu kí quỹ, quy định khắt khe về chất lượng sản phẩm…đang gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Vì thế để chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, từ đó đạt được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cao hơn đòi hỏi Đảng và Nhà nước nói chung cùng các doanh nghiệp dệt may nói riêng phải có công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu hơn, đồng thời không ngừng tự hoàn thiện để bắt kịp với những thay đổi và xu hướng mới của thời đại. Bên cạnh đó việc đánh giá đúng hiện trạng Marketing quốc tế đối với hàng hoá dệt may Việt Nam để có những giải pháp hiệu quả đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ là vô cùng cấp thiết.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội, em đã có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, nhất là về lĩnh vực Marketing quốc tế. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài:
“Marketing quốc tế với việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội.”
nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về các hoạt động Marketing quốc tế tại các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như tại Tổng công ty nói riêng, đồng thời khẳng định lại những kiến thức đã được học tại trường Đại học Kinh tế quốc dân cũng như thấy được sự vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế.
Ngoài lời mở đầu, chuyên đề tốt nghiệp gồm ba phần như sau:
Phần I: Tổng quan về Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ( Vinatex - Hanosimex ).
Phần II:Thực trạng ứng dụng Marketing quốc tế tại Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội ( Vinatex - Hanosimex ).
Phần III: Một số giải pháp phát triển hoạt động Marketing quốc tế tại Tổng công ty Dệt may Hà Nội ( Vinatex - Hanosimex ).
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu của các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy giáo TS. Vũ Huy Thông và toàn bộ các cô chú, anh chị trong phòng Xuất nhập khẩu của Tổng công ty đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
1.1.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
1.1.1.Quá trình hình thành của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Tổng công ty cổ phần dệt may Hà Nội là một Tổng công ty thành viên lớn trực thuộc Tập đoàn dệt may Việt Nam (Viet Nam Textile & Garment Group- VINATEX). Được chính thức thành lập từ ngày 21/11/1984 với tiền thân là Nhà máy sợi Hà Nội nay đổi tên là Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội, và lấy tên giao dịch đối ngoại là
Hanoi Textile-Garment Joint Stock Corporation
( viết tắt là: VINATEX - HANOSIMEX )
1.1.2.Các giai đoạn phát triển của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Từ khi đi vào hoạt động đến nay trải qua 24 năm, HANOSIMEX đã có 14 thành viên. Bao gồm 2 nhà máy sợi, 3 nhà máy dệt và nhuộm, 1 nhà máy giặt và 8 nhà máy may mặc nằm trên khu đất rộng 24 ha với hơn 6000 công nhân và kĩ sư lành nghề. Nhưng để đạt được những thành công bước đầu này Tổng công ty đã phải trải qua rất nhiều giai đoạn.
Giai đoạn 1: từ khi thành lập đến ngày 28/02/2000
Tổng công ty đã trải qua nhiều lần đổi tên như: Vào ngày 30/04/1991: Nhà máy sợi Hà Nội được đổi tên thành Xí nghiệp Liên hợp Sợi - Dệt Kim Hà Nội, tên giao dịch quốc tế là HANOSIMEX . Sau đó, đến ngày 19/06/1995: Công ty đổi tên từ Xí nghiệp Liên hợp Sợi- Dệt Kim Hà Nội thành công ty Dệt Hà Nội. Và vào ngày 28/02/2000: Một lần nữa công ty được đổi tên thành Công ty Dệt may Hà Nội.
Giai đoạn 2: từ năm 2000 đến năm 2005
Đây là giai đoạn tiếp tục phát triển không ngừng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển đổi mô hình doanh nghiệp và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Doanh thu của HANOSIMEX trong giai đoạn 2000-2003 tăng khoảng 20% nhưng mức tăng này không kéo theo sự gia tăng của lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy các chuyên gia tài chính của Tổng công ty cho rằng cần tiến hành việc chuyển đổi cơ cấu tổ chức của HANOSIMEX để Tổng công ty có thể hoạt động độc lập hơn, chủ động hơn theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời đây cũng là một bước quá độ tiến tới cổ phần hoá và nâng cao các cơ hội thu hút vốn từ bên ngoài…Vì vậy theo Quyết định số 113/2003/QĐ-TTG ngày 09/06/2003 của Thủ tướng Chính Phủ, Tổng công ty Dệt may Hà Nội ( HANOSIMEX) được phép xây dựng thí điểm theo mô hình “ Công ty mẹ - Công ty con” trực thuộc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VINATEX).
Trong đó để trở thành công ty mẹ, HANOSIMEX sẽ tiến hành cổ phần hoá các đơn vị trực thuộc cùng với việc mua lại hoặc tiếp nhận các doanh nghiệp Nhà nước khác cụ thể là: Sáp nhập 4 đơn vị phụ thuộc là Nhà máy Kéo sợi Hà Nội, Nhà máy Dệt kim và nhuộm Hà Nội, Xí nghiệp May số 1,2,3 Hà Nội, hệ thống kho bãi Hà Nội để hình thành nên công ty mẹ HANOSIMEX. Tiếp đến là thực hiện chuyển Công ty Kéo sợi Vinh thành Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, trong đó HANOSIMEX sở hữu 100% vốn đồng thời sáp nhập với Công ty Dệt kim Hoàng Thị Loan, một đơn vị thành viên của VINATEX. Còn đối với đơn vị phụ thuộc là Công ty Dệt Hà Đông và Nhà máy Dệt vải bò cũng sẽ chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên do HANOSIMEX sở hữu 100% vốn và di dời đến Khu công nghiệp Phố Nối vào năm 2005. Riêng đơn vị phụ thuộc là Nhà máy May Đông Mỹ, Nhà máy May hàng thời trang và toàn vộ 10 cửa hàng bán lẻ sẽ được chuyển thành công ty cổ phần, trong đó HANOSIMEX sở hữu 51% vốn. Đối với các đơn vị phụ thuộc còn lại là bộ phận dịch vụ cơ khí và bộ phận sản xuất ống giấy sẽ hợp thành một công ty cổ phần, trong đó HANOSIMEX sở hữu 35% vốn. Thời gian tiến hành được tính đến năm 2005.
Với cách thức triển khai đạt tới quy mô của Công ty mẹ, trong tương lai HANOSIMEX sẽ trở thành đơn vị sản xuất kinh doanh chính trong chủ trương xây dựng nhóm ngành dệt may của Tập đoàn kinh tế VINATEX.
Tính đến năm 2005, tuy vẫn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức trong cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và trên thế giới nhưng với những nỗ lực lớn của mình HANOSIMEX đã vượt lên với những con số đầy ngoạn mục :
♦ Tổng doanh thu đạt : 1.430.168 triệu đồng tăng 30,3% so với năm trước
♦ Kim ngạch xuất khẩu đạt : 35,218 triệu USD, tăng hơn năm trước 34,7%
♦ Lợi nhuận đạt : 7.761 triệu đồng
♦ Nộp ngân sách Nhà nước : 6.805 triệu đồng
Giai đoạn 3: từ năm 2005 đến nay
Tập trung cho việc triển khai thực hiện mô hình “Công ty mẹ - Công ty con” và thực hiện cổ phần hoá Tổng công ty cùng các công ty thành viên.
Với mục tiêu chủ yếu là đa dạng hoá sản phẩm mẫu mã đẹp, đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, giá bán có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới, tiếp tục giữ vững vị trí doanh nghiệp mạnh hàng đầu ở Việt Nam về lĩnh vực hàng dệt may. Trên cơ sở đã đề ra, Tổng công ty tiến hành tổ chức sắp xếp lại sản xuất hợp lý từ Công ty mẹ đến các Công ty con để khai thác đạt hiệu quả cao mọi nguồn lực hiện có và đầu tư đồng bộ thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến cho tất cả các khâu kéo sợi, dệt nhuộm hoàn tất và may hoàn chỉnh sản phẩm.
Nhưng một bước ngoặt lớn đối với Tổng công ty Dệt may Hà Nội là vào ngày 11/01/2007 Bộ công nghiệp đã có quyết định về việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước từ Tổng công ty Dệt May Hà Nội thành Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội, với tên giao dịch đối ngoại là :
Hanoi textile- garment joint stock corporation
( viết tắt là : VINATEX - HANOSIMEX)
Song song với đó Tổng công ty cũng tiến hành luôn việc cổ phần hoá các công ty thành viên bằng cách: tiến hành sáp nhập Nhà máy sợi Vinh vào Công ty Dệt May Hoàng Thị Loan và Cổ phần hoá doanh nghiệp này, Công ty mẹ giữ vai trò sở hữu Nhà nước chiếm 55% tổng số vốn điều lệ ; tiếp tục cổ phần hoá Công ty Dệt Hà Đông và Công ty May Đông Mỹ, trong đó Công ty mẹ chiếm 51-49% tổng số vốn điều lệ; cùng với đó Tổng công ty đã tiếp nhận, củng cố xong và đang cổ phần hoá Công ty sản xuất xuất nhập khẩu Hải Phòng, đồng thời mua 30% tổng số cổ phần Công ty Dệt-May Huế.
Thêm nữa Tổng công ty cũng đã tổ chức di dời các nhà máy dệt nhuộm hoàn tất vải dệt kim ở nội thành Hà Nội về khu Công nghiệp dệt-may tại Phố Nối (Hưng Yên) đã có đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật xử lý môi trường để đảm bảo phát triển ổn định bền vững lâu dài. Nhà máy này sẽ đảm bảo cung ứng đầy đủ kịp thời 2.300 tấn vải dệt kim chất lượng tốt cho 4 xí nghiệp chuyên may quần áo dệt kim phục vụ xuất khẩu là chủ yếu, bao gồm May 1, May 2, May Đông Mỹ và May thời trang với tổng năng lực trên 6,5 triệu sản phẩm/năm.
Với hàng loạt hoạt động hiệu quả được thực hiện bài bản công ty đã đạt được những kết quả đáng kể :
♦ Tổng doanh thu đạt : 1.939.755 triệu đồng
♦ Lợi nhuận đạt : 17.000 triệu đồng
♦ Nộp ngân sách Nhà nước : 23.000 triệu đồng.
Để hướng vào mục tiêu tiếp tục duy trì sự phát triển với hiệu quả cao của Tổng công ty sau khi cổ phần hoá, Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội đã đưa ra phương án kinh doanh cho toàn bộ Tổng công ty trong giai đoạn tới ( từ 2008-2010) phấn đấu tăng trưởng chung đạt trên 15%/năm, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, Tổng công ty, cổ đông và người lao động bằng cách: Tổ chức lại sản xuất kinh doanh. Từ năm 2008 đến năm 2010 sẽ lần lượt chuyển các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Tổng công ty sang tổ chức theo mô hình Công ty cổ phần để trở thành công ty liên kết với vốn Nhà nước chiếm không quá 30% vốn điều lệ của Công ty cổ phần đó. Cụ thể là: Công ty cổ phần Dệt kim Phố Nối HANOSIMEX, Công ty cổ phần May HANOSIMEX, Công ty cổ phần Thời trang HANOSIMEX, công ty cổ phần Thương mại HANOSIMEX, Công ty cổ phần đầu tư HANOSIMEX, Công ty cổ phần cơ điện HANOSIMEX, Công ty cổ phần liên doanh đầu tư và kinh doanh Bất động sản.
Bên cạnh đó tiếp tục rút kinh nghiệm hoàn thiện cơ chế hoạt động Công ty mẹ- Công ty con đã được xác lập và thí điểm trong những năm qua để tạo ra mối liên kết kinh tế gắn bó lâu dài giữa Tổng công ty mẹ và các Công ty con, Công ty liên kết trong tổ hợp HANOSIMEX với vai trò chi phối của Tổng công ty mẹ (là cổ đông lớn nhất, chi phối về thương hiệu và về thị trường) để quản lý hiệu quả vốn Nhà nước tại từng Công ty cổ phần. Kết hợp với việc khuyến khích và tạo điều kiện để các công ty con, Công ty liên kết phát huy tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh để khai thác tìm kiếm thị trường và đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, liên kết hợp tác nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó tăng cường hợp tác liên kết với các đối tượng trong và ngoài nước để thành lập, mua, thuê doanh nghiệp mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hoá loại hình kinh doanh, ngành nghề sản xuất kinh doanh để tăng sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập.
1.2. ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
1.2.1.Nội dung các lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Từ một đơn vị chủ yếu sản xuất mặt hàng sợi cung cấp cho thị trường, sau chặng đường đổi mới, đầu tư phát triển với tinh thần dám nghĩ, dám làm, đến nay, Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội đã tạo dựng được nhiều chủng loại sản phẩm đa dạng, chất lượng cao đáp ứng tốt cho nhu cầu tiêu dùng ở cả trong nước và trên thế giới. Những mặt hàng mà Tổng công ty chuyên sản xuất- kinh doanh- xuất nhập khẩu bao gồm: Các loại nguyên liệu bông, sơ, sợi, vải dệt kim và sản phẩm may mặc dệt kim, vải denim và các sản phẩm may dệt thoi; các loại khăn bông, nguyên phụ liệu, hoá chất (trừ những loại bị Nhà nước cấm kinh doanh), thuốc nhuộm, thiết bị, phụ tùng, động cơ, vật liệu, điện tử, nhựa, cao su, các mặt hàng tiêu dùng khác.
Cùng với đó, Tổng công ty còn tiến hành các hoạt động kinh doanh kho vận, vận tải, cho thuê văn phòng, nhà xưởng; kinh doanh cơ sở hạ tầng; kinh doanh nhà hàng, khách sạn; siêu thị; các dịch vụ vui chơi giải trí ( không bao gồm kinh doanh quán bar, phòng hát Karaoke, vũ trường).
Ngoài ra, VINATEX - HANOSIMEX còn hoạt động dịch vụ đào tạo, đào tạo công nhân ngành dệt may, dịch vụ khoa học, công nghệ, sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị (chỉ hoạt động sau khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép); lắp đặt thiết bị công nghiệp, hệ thống điện lạnh, thiết bị phụ trợ ngành dệt may.
Không chỉ dừng lại ở đó, với lộ trình liên tục đầu tư mở rộng sản xuất mặt hàng mới gắn liền với việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ góp phần giúp Tổng công ty vừa giữ được chữ tín với khách hàng, vừa không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình trên tất cả các thị trường mà công ty đang hoạt động.
1.2.2.Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội được phép kinh doanh độc lập trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may cùng việc nhập khẩu máy móc, nguyên phụ liệu may mặc phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ cùng các kế hoạch có liên quan. Tự tạo thêm nguồn vốn, quản lý và khai thác, sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tuân thủ các chính sách, các chế độ quản lý kinh tế, quản lý xuất nhập khẩu và giao dịch đối ngoại. Thực hiện đầy đủ các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng kinh tế có liên quan. Nâng cao chất lượng, gia tăng lượng hàng xuất khẩu , mở rộng thị trường quốc tế, thu hút ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đào tạo cán bộ có tay nghề cao, đồng thời hoàn thành tốt trách nhiệm xã hội đã được phân công.
1.2.3.Hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty
♦ Nguồn vốn của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Trong vòng 24 năm hoạt động, VINATEX - HANOSIMEX luôn giữ được nhịp độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, tiêu biểu như các chỉ tiêu thực hiện năm 2003 (so với 1994), giá trị tổng sản lượng tăng hơn 8 lần, doanh thu tăng gần 3 lần, kinh phí ngạch xuất khẩu tăng 3,55 lần. Cũng trong năm 2003, lợi nhuận đạt gần 30 tỷ đồng - tỷ suất lợi nhuận trên vốn là 19,36%; trích khấu hao đứng đầu trong các doanh nghiệp của VINATEX (53,8 tỷ đồng). Cũng vì những thành công này của công ty mà nguồn vốn của VINATEX - HANOSIMEX ngày càng được bổ sung không ngừng.
Đặc biệt, sau nhiều năm nỗ lực hoạt động đến ngày 11/01/2007 Bộ công nghiệp đã có quyết định chính thức số 04/2007/QĐ-BCN về việc thay đổi cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Dệt may Hà Nội thành Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội. Quyết định này đã góp phần mang lại cho Tổng công ty một lượng vốn điều lệ rất lớn, lên tới 205 tỷ đồng. Số vốn này đủ để Công ty duy trì và phát huy tốt khả năng kinh doanh, hoàn thành các chỉ tiêu được giao, đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống của công nhân viên trong toàn công ty.
Không chỉ có vậy, Tổng công ty còn thực hiện bổ sung vốn kinh doanh của mình thông qua các quỹ tích luỹ bảo toàn vốn, quỹ hàng hoá, quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, huy động vốn nhà rỗi từ công nhân viên, vay ngân hàng và vay nợ nước ngoài.
♦ Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của Tổng công ty
Năm 2005, vừa tổ chức lại sản xuất, Tổng công ty vừa đầu tư về chiều sâu thêm 165 tỷ đồng cho các dự án mở rộng nhà máy sợi Hà Nội và đổi mới dây chuyền sản xuất ống giấy, đồng thời tiến hành mở thêm một xí nghiệp chuyên may hàng dệt kim thời trang với hơn 100 lao động.
Ngoài ra, việc hoàn thiện hệ thống mạng máy tính trong toàn Tổng công ty nhằm nâng cao chất lượng xử lý thông tin nhanh, chính xác, hiệu quả trong công tác điều hành sản xuất kinh doanh cũng đã được thực hiện.
Cùng với đó là việc thực hiện đổi mới hệ thống công nghệ xử lý nước thải có công suất 1.000m3/ngày để giảm thiểu ô nhiễm môi trường...
Hơn nữa Tổng công ty cũng đã đầu tư một số tiền đáng kể cho các chương trình tiến bộ kỹ thuật để giảm mức tiêu thụ điện năng, từ đó giảm chi phí sản xuất và góp phần hạ giá thành sản phẩm, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của Tổng công ty trên thị trường. Trong đó đáng kể nhất là chuyển đổi các nồi hơi chạy dầu phải nhập khẩu sang đốt than sẵn có trong nước theo công nghệ cao, không gây ô nhiễm môi trường, lại tiết kiệm được trên 10 tỷ đồng tiền điện; lắp đặt thiết bị mới nâng cao hiệu suất sử dụng động cơ điện và máy biến áp phân phối điện, giảm được mức tiêu hao điện năng, đồng thời làm lại trần nhà mới cho xí nghiệp sợi, giảm được điện năng điều hoà hệ thống điều hoà không khí và thông gió, tiết kiệm mỗi năm 4-5 tỷ đồng tiền điện.
Với việc không ngừng quan tâm và đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật. Đến nay VINATEX - HANOSIMEX cùng với các trang thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến nhất từ Đức, Ý, Nhật, Bỉ, Mỹ…đã chứng tỏ phần nào về thế mạnh của công ty trong quá trình cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng và giá cả của sản phẩm.
♦ Nguồn nhân lực của Tổng công ty
Là một doanh nghiệp lớn với trên 6000 công nhân viên và kĩ sư lành nghề, nên việc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ, cũng như chăm lo đến đời sống hằng ngày cho đội ngũ cán bộ, công nhân - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thành công của doanh nghiệp, đặc biệt với một doanh nghiệp quy mô lớn có nhiều thiết bị tiên tiến, hiện đại, tự động hoá cao vào loại bậc nhất của VINATEX như HANOSIMEX laị càng được ban lãnh đạo công ty quan tâm hơn.
Hiện tại, trong gần 6000 lao động Công ty có 310 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học; cao đẳng và trung cấp là 219 người và hơn 5.000 lao động có tay nghề. Chính nhờ xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn sâu, bản lĩnh vững VINATEX - HANOSIMEX đã giúp đỡ được nhiều doanh nghiệp khó khăn tưởng chừng không vượt qua giai đoạn suy thoái. Tổng công ty đã tiếp nhận, đổi mới quản lý thành công Nhà máy Sợi Vinh, Nhà máy Dệt Hà Đông, đỡ đầu Công ty Dệt kim Hoàng Thị Loan, Dệt Nghệ An, May Nghệ An, giúp Công ty Sợi Trà Lý đào tạo công nhân và đầu tư dây chuyền kéo sợi Trung Quốc.
Bảng 1.1.Cơ cấu lao động của Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội.
STT
Phân loại theo trình độ
Số lao động
( người)
Tỷ lệ %
1
Trình độ đại học và trên đại học
310
5,45%
2
Trình độ cao đẳng và trung cấp
219
3,84%
3
Công nhân kỹ thuật
5.162
90,71%
Tổng cộng
5.691
100%
(Nguồn: Phòng Quản trị nhân sự- Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội )
Bên cạnh việc đào tạo, sử dụng và khai thác có hiệu quả đội ngũ cán bộ, công nhân, Tổng công ty còn có chính sách linh hoạt nhằm cải thiện đời sống cho người lao động. Thu nhập bình quân tăng 2,4 lần trong vòng 10 năm nay đạt mức bình quân là 1,5-1,9 triệu đồng/ tháng. Tổng công ty cũng đã hoàn thành việc chuyển đổi lương từ Nghị định 26CP sang chế độ lương mới cho cán bộ, công nhân theo đúng quy định và vận dụng nhiều hình thức thưởng ngoài lương, khuyến khích mọi người gắn bó với công ty.
Bảng 1.2. Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng
(Đơn vị tính: 1000vnđ / người / tháng)
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Khu vực Hà Nội
1.700.000
1.850.000
2.450.000
Khu vực Hà Đông
1.520.000
1.600.000
2.300.000
Khu vực Đông Mỹ
1.500.000
1.550.000
1.900.000
Khu vực Hải Phòng
-
1.150.000
1.800.000
( Nguồn: Phòng Quản trị nhân sự - Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội)
Nhờ khai thác và phát huy tốt mọi tiềm năng sáng tạo của đội ngũ cán bộ công nhân viên và phát động các phong trào thi đua lao động giỏi, người tốt, việc tốt, hàng năm Tổng công ty có từ 1.800 - 2.000 lao động giỏi, 30 - 40 chiến sỹ thi đua cấp cơ sở và 250 - 350 lao động giỏi cấp Tổng công ty. Chăm sóc sức khoẻ, tổ chức khám và chữa bệnh cho người lao động được duy trì đều đặn. Ngoài ra, Tổng công ty còn cải thiện điều kiện và môi trường làm việc với các trang thiết bị văn minh, hiện đại, công tác an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, phòng chống cháy nổ luôn được duy trì tốt và có nề nếp.
♦ Năng lực tổ chức và quản lý của Tổng công ty
Là một doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn, với tiền thân là nhà máy Sợi Hà Nội, sau hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, VINATEX - HANOSIMEX đã vươn lên thành một công ty đa ngành, đa nghề, với 8 đơn vị thành viên. Hơn nữa, Tổng công ty còn luôn giữ vững được vị trí là đơn vị dẫn đầu của Tập đoàn Dệt may Việt Nam về thành tích xuất khẩu. Để đạt được thành công này bộ máy quản lý điều hành của Tổng công ty đã phải đối mặt rất nhiều khó khăn, nhưng với mô hình quản lý " Công ty mẹ - công ty con" đã giúp ban lãnh đạo giải quyết phần nào những khó khăn đó và trên hết lại tạo ra động lực để mỗi đơn vị thành viên phát huy mạnh mẽ hơn nữa quyền chủ động, năng lực sáng tạo của mình, qua đó xây dựng Tổng công ty ngày càng vững mạnh, năng lực sản xuất kinh doanh ngày càng đạt hiệu quả cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ quản lý nên Tổng công ty thường xuyên tiến hành công tác đào tạo mới, đào tạo lại để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và năng lực quản lý điều hành sản xuất kinh doanh cho đội ngũ cán bộ chủ chốt. Vì vậy một nguồn ngân sách đáng kể đã được bỏ ra để tổ chức 54 lớp chuyên đề cho 528 lượt cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân giỏi đi nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm trong quản lý kinh tế - kỹ thuật, điều hành sản xuất kinh doanh của các đơn vị đầu ngành ở trong nước và một số nước ngoài.
Nhờ đó, hiện nay VINATEX - HANOSIMEX đã có đội ngũ cán bộ quản lý giàu kinh nghiệm và có trách nhiệm cao, đủ khả năng tiếp nhận, quản lý, kiểm tra, giám sát việc vận hành hệ thống các thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến. Từ đó mang lại hiệu quả cao trong tiến trình đầu tư phát triển đồng bộ cùng một lúc ở cả các khu vực Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng, Hưng Yên và Nghệ An của Tổng công ty.
1.3. HÌNH THỨC TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA TỔNG CÔNG TY
1.3.1.Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội vừa đảm bảo theo đúng quy định của Nhà nước đồng thời vừa đảm bảo phù hợp với phương thức hoạt động của Tổng công ty.
♦ Ban giám đốc
Tổng giám đốc
Điều hành mọi hoạt động của Tổng công ty
Phó tổng giám đốc- Điều hành sợi
Quản lí, điều hành công tác kĩ thuật, sản xuất, đầu tư và môi trường thuộc lĩnh vực Sợi, hoạt động lĩnh vực công nghệ thông tin.
Phó tổng giám đốc- Điều hành dệt nhuộm
Quản lí, điều hành công tác kĩ thuật, sản xuất, đầu tư và môi trường thuộc lĩnh vực Dệt nhuộm.
Phó tổng giám đốc- Điều hành may kiêm đại diện lãnh đạo phụ trách hệ thống quản lí chất lượng
Quản lí, điều hành công tác kĩ thuật, sản xuất, đầu tư và môi trường thuộc lĩnh vực May và Trung tâm đào tạo công nhân may.
Thay mặt Tổng giám đốc điều hành việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9001:2000.
Phó tổng giám đốc- Điều hành công tác xuất nhập khẩu
Quản lí, điều hành các công việc liên quan đến lĩnh vực Xuất Nhập khẩu, công tác Hợp tác quốc tế, công tác Mẫu thời trang, hệ thống Kho tàng.
Phó tổng giám đốc- Điều hành tiêu thụ nội địa
Quản lí, điều hành lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm Dệt may nội địa, hoạt động kinh doanh Siêu thị Tổng hợp; Kiểm tra, đánh giá doanh nghiệp.
Phó tổng giám đốc- Điều hành quản trị nguồn nhân lực và hành chính kiêm đại diện lãnh đạo phụ trách hệ thống trách nhiệm xã hội
Quản lí, điều hành lĩnh vực lao động tiền lương, chế độ, chính sách, bảo vệ quân sự, đời sống, hành chính.
Thay mặt Tổng giám đốc điều hành việc xây dựng và áp dụng hệ thống trách nhiệm xã hội SA8000, WRAP.
♦ Các phòng ban
Phòng đầu tư và công nghệ thông tin
Giúp Tổng giám đốc thống nhất quản lí hoạt động, vận hành cơ sơ hạ tầng kĩ thuật công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản trị hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn Tổng công ty; đồng thời tìm kiếm địa điểm và mức độ đầu tư thích hợp với nguồn lực của doanh nghiệp
Phòng quản trị hành chính
Văn thư lưu trữ, phục vụ, khánh tiết, quản lí đội xe con, công tác bảo vệ công sự và phòng chống cháy nổ.
Trung tâm thương mại
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại thị trường nội địa.
Phòng kinh doanh
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác kinh doanh tại thị trường trong nước bao gồm: Tổ chức nghiên cứu đánh giá thị trường, bạn hàng, để tìm kiếm giao dịch với đối tác kinh doanh. Tổ chức đàm phán và làm các thủ tục ký kết hợp đồng buôn bán và triển khai cho các đơn vị liên quan thực hiện
Phòng xuất nhập khẩu
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác xuất nhập khẩu bao gồm: Tổ chức nghiên cứu đánh giá thị trường, bạn hàng để tìm kiếm, giao dịch với đối tác xuất khẩu và nhập khẩu. Tổ chức đàm phán và làm các thủ tục ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu và triển khai cho các đơn vị liên quan thực hiện.
Phòng kế toán tài chính
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác Kế toán tài chính của công ty nhằm sử dụng đồng vốn hợp lí, đúng mục đích, đúng chế độ, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty được duy trì liên tục và đạt hiệu quả cao.
Phòng quản trị nhân lực
Tham mưu cho Tổng giám đốc về công tác ._.quản trị nguồn nhân lực, hành chính quản trị và an ninh an toàn của công ty bao gồm: Tổ chức cán bộ, lao động tiền lương, đào tạo nguồn nhân lực, chế độ chính sách đối với người lao động, cổ phần hoá doanh nghiệp.
Phòng đời sống
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác quan tâm chăm sóc đến đời sống của đội ngũ cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp như phục vụ ăn uống cho cán bộ công nhân viên trong thời gian làm việc tại công ty; quản lý cây xanh, vệ sinh mặt bằng toàn công ty.
Trung tâm y tế
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu và tổ chức khám sức khoẻ định kì cho người lao động, chịu sự chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ chủa Sở y tế Hà Nội và sự quản lí của ngành, của Trung tâm y tế Tổng công ty Dệt may Việt Nam.
Trung tâm thí nghiệm và kiểm tra chất lượng sản phẩm
Tham mưu giúp việc cho Tổng giám đốc về công tác thí nghiệm và kiểm tra chất lượng các loại nguyên liệu bông, xơ, sợi trước khi đưa vào sản xuất; và các loại sản phẩm do Tổng công ty sản xuất theo tiêu chuẩn chất lượng của Tổng công ty đã ban hành. Tham gia xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO. Nghiên cứu đề ra các biện pháp, sáng kiến nhằm tiếp cận với những phương pháp quản lý chất lượng tiên tiến tác động kịp thời vào sản xuất.
Ngoài ra, Tổng công ty còn mới có sự thay đổi cơ cấu bộ máy khi tách phòng Kỹ thuật may thành Phòng điều hành may và Phòng điều hành sợi dệt nhằm phân chia công việc rõ ràng, giúp tập trung và sử dụng nguồn lực hợp lý từ đó thu được kết quả hoạt động cao hơn
Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình trực tuyến chức năng gồm những phòng ban với chức năng, chuyên ngành riêng biệt nhưng cùng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ban lãnh đạo ( gồm Tổng giám đốc và các Phó tổng giám đốc). Mối quan hệ giữa các phòng ban trong Tổng công ty là mối quan hệ bình đẳng, hợp tác và cùng giúp đỡ lẫn nhau.Qua đó vừa phát huy được tính chủ động của từng bộ phận vừa mang tính thống nhất trong hoạt động của toàn bộ Tổng công ty.
Phó TGĐ - XNK
Phó TGĐ - May
Phó TGĐ - Sợi
Phó TGĐ - Dệt, nhuộm
Tổng giám đốc
Phó TGĐ - tiêu thụ nội địa
Phó TGĐ - nhân sự
Phòng điều hành Sợi-Dệt
Trung tâm Đầu tư &CNTT
Phòng QTNS
Trung tâm Thương Mại
Phòng XNK
Phòng KTTC
Phòng điều hành May
Phòng
QT - HC
Siêu thị Vinatex HĐ
T.Tâm TKế thời trang
T.Tâm TN & KTCLSP
Nhà máy Dệt Denim
T.Tâm Y Tế
Phòng kinh doanh
N/m May 1
Trung tâm Dệt kim PN
Nhà máy sợi
Phòng
KH - VT
N/m May 2
Trung tâm Cơ khí TĐH
Phòng Đời Sống
Chi nhánh HCM
N/m May 3
Cty CP Dệt
May HTL
Cty CP May Đông Mỹ Hanosimex
Cty CP Dệt Hà Đông Hanosimex
Cty CP TM Hải Phòng Hanosimex
May Thời Trang
May Hải Phòng
Sơ đồ 1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Tổng công ty
Ghi chú:
: Điều hành trực tuyến
: Điều hành hệ thống QLCL và Hệ thống TNXH
:Tham gia quản lý, điều hành, đại diện vốn Nhà nước hoặc vốn Hanosimex, liên kết kinh doanh
1.3.2.Cơ cấu tổ chức của bộ máy Xuất nhập khẩu
Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội (VINATEX – HANOSIMEX) là một tổng công ty có phạm vi hoạt động lớn trải rộng cả ở trong và ngoài nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó hoạt động xuất nhập khẩu đã và đang giữ vai trò quan trọng nhất đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Vì thế việc tổ chức một bộ máy xuất nhập khẩu phù hợp với bộ máy chung để quản lý toàn bộ các mối quan hệ, các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu với đối tác nước ngoài là một đòi hỏi thiết yếu đối với Tổng công ty.
Cơ cấu của phòng xuất nhập khẩu bao gồm:
Trưởng phòng Xuất nhập khẩu
Là người có chức năng tham mưu cho Tổng giám đốc về công tác Xuất nhập Khẩu, đồng thời phải chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty.
Phó phòng 1
Là người có chức năng tham mưu, giúp việc cho Trưởng phòng, giải quyết các công việc được Tổng Giám đốc và Trưởng phòng phân công, đảm bảo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao theo đúng quy định của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội và luật pháp hiện hành.
Phó phòng 2
Là người có chức năng tham mưu, giúp việc cho Trưởng phòng, giải quyết các công việc được Tổng Giám đốc và Trưởng phòng phân công đảm bảo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao theo đúng quy định của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội và pháp luật hiện hành.
Nhóm trưởng
Là người có nhiệm vụ:
+ Bao quát, điều phối công việc trong nhóm một cách hiệu quả
+ Đề xuất lãnh đạo phòng những biện pháp nhằm giải quyết công việc của nhóm hiệu quả.
Người quản lí đơn hàng
Là người có nhiệm vụ:
+ Liên hệ giao dịch với khách hàng để có được đơn hàng theo quy định từng tháng cụ thể của lãnh đạo phòng.
+ Triển khai thực hiện hợp đồng
+ Kiểm soát việc thực hiện đơn hàng
+ Kiểm soát giao hàng
+ Kiểm soát việc doanh thu tuần/ tháng, thanh toán, tiền về
+ Hoàn tất bộ hồ sơ miễn thuế chuyển bộ phận miễn thu thuế
+ Giải quyết các khiếu nại và các tồn tại liên quan đơn hàng (nếu có)
Người phụ trách nhập khẩu nguyên phụ liệu
Là người có nhiệm vụ:
+ Đặt nguyên phụ liệu theo nhu cầu, duyệt giá, soạn hợp đồng nhập khẩu
+ Kiểm soát hồ sơ nhập khẩu nguyên phụ liệu kết hợp cán bộ TTNK đảm bảo hồ sơ miễn thuế đúng quy định.
+ Báo cáo tình hình nguyên phụ liệu cho người quản lí đơn hàng
+ Giải quyết các khiếu nại liên quan đến nhập khẩu nguyên phụ liệu
Sơ đồ 1.2.Cơ cấu tổ chức phòng Xuất - Nhập khẩu
Thị trường
Hành chính
Dự án đầu tư
NK hoá chất thuốc nhuộm
NK nguyên liệu bông xơ
XK Vải dệt thoi
XK SP may dệt kim
Mạng thông tin nội bộ
Hệ thống ISO,SA,WRAP
Tiêu thụ hàng sau XK
XK SP May dệt thoi
NK Thiết bị, phụ tùng
XK Sợi
XK Khăn
Phó phòng 2
Phó phòng 1
Trưởng phòng
PHẦN II
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
2.1.ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
Như đã trình bày ở phần trên, xuất khẩu luôn được coi là hoạt động mũi nhọn trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội. Do vậy việc tiến hành nghiên cứu các đặc điểm của hoạt động xuất khẩu là một vấn đề cần thiết nếu muốn thấy phần lớn hoạt động sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty.
Bảng 2.1.Các chỉ tiêu kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
(Đơn vị tính: USD)
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Thực hiện
So sánh (%)
Thực hiện
So sánh (%)
Thực hiện
So sánh(%)
Tổng doanh thu (tr.vnđ)
1.430.168
139,4
1.824.149
127,6
1.939.755
113.1
Kim ngạch xuất khẩu
35.218.553
134,7
39.452.759
112,1
51.067.137
129,2
Kim ngạch nhập khẩu
23.667.249
105,5
32.526.685
92,4
30.250.000
85,9
( Nguồn: Phòng kế hoạch vật tư - Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội)
Qua bảng số liệu các chỉ tiêu kinh doanh trên chúng ta có thể nhận thấy kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội hằng năm đều đạt được những con số đáng mừng, hơn nữa năm sau luôn cao hơn năm trước và nó góp một phần rất quan trọng vào mức doanh thu hàng năm của VINATEX – HANOSIMEX.
Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt mức 35.218.553 USD tăng 34.7% so với năm 2004, năm 2006 tiếp tục tăng 12.1% so với năm 2005 và đến năm 2007 giá trị kim ngạch lên tới 51.067.137 USD tăng 29.2% so với cùng kì năm 2006. Nhưng nhận thấy rằng kim ngạch xuất khẩu tăng chỉ thực sự mang lại hiệu quả cao hơn khi kim ngạch nhập khẩu phải ổn định hoặc giảm, nên Tổng công ty luôn tìm mọi biện pháp để giảm bớt giá trị kim ngạch nhập khẩu của mình. Năm 2005 mức kim ngạch nhập khẩu đạt 23.667.249 USD chỉ tăng 5,5% so với năm 2004, đến năm 2006 giảm 7,6% xuống còn 32.526.685 USD, đặc biệt vào năm 2007 với nhiều cải tiến và biến đổi trên thị trường nên mức kim ngạch lại giảm xuống 14,1% chỉ còn 30.250.000 USD.
Kết quả của những nỗ lực trên là doanh thu của Tổng công ty không ngừng tăng góp phần bổ sung thêm nguồn vốn kinh doanh, cải thiện dần đời sống của người lao động và hơn hết là hoàn thành tốt hơn nghĩa vụ đối với xã hội.
Với vị thế quan trọng kể trên việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu đáng được Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội quan tâm hơn bao giờ hết vì nó sẽ mang đến cho ban lãnh đạo của Tổng công ty những thông tin chính xác về ưu điểm và nhược điểm còn tồn tại trong hoạt động xuất khẩu. Qua đó ban lãnh đạo Tổng công ty sẽ có chính sách để vận dụng tối đa những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm thậm chí điều chỉnh những nhược điểm đó thành lợi thế của Tổng công ty.
Việc nghiên cứu hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội sẽ được thực hiện trên những khía cạnh như: các mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu và phương thức xuất khẩu.
2.1.1. Các mặt hàng xuất khẩu
Trong thời gian gần đây, do nhận thấy nhu cầu mới từ phía khách hàng Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội đã không ngừng nỗ lực mở rộng danh mục sản phẩm của mình để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi đó. Vì vậy từ danh mục hàng hoá ban đầu chỉ gồm khoảng 3,4 sản phẩm như sợi, vải dệt kim, khăn, quần áo dệt kim thì nay đã được bổ sung thêm các mặt hàng như vải denim, quần áo denim, vải dệt thoi, lều,…làm cho danh mục hàng hoá lên tới gần chục chủng loại. Với danh mục hàng hoá đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm cao và ổn định, nhất là một danh tiếng đã được khẳng định nhiều năm…tất cả đã làm cho sản phẩm của VINATEX - HANOSIMEX được khách hàng biết đến và tin dùng, góp phần đẩy mạnh doanh thu của Tổng công ty ngày càng tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước.
Sau đây là bảng báo cáo kết quả xuất khẩu của Tổng công ty theo mặt hàng, qua đó chúng ta có thể nhận thấy những sản phẩm thế mạnh của Tổng công ty trong thời gian qua.
Bảng 2.2. Tình hình xuất khẩu các mặt hàng
Sản phẩm
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số lượng (chiếc)
Trị giá (USD)
Số lượng (chiếc)
Trị giá (USD)
Số lượng (chiếc)
Trị giá (USD)
Quần áo dệt kim
419.217
1.399.082,04
-
23.906.076,48
634.382
1.197.905
Sợi (tan)
381.136,6
921.521,02
3.491.791,64
14.820.063,92
525
600.000
Khăn các loại
721.780
405.156,2
11.380,522
7.866.330,85
1.520.000
600.000
Quần áo denim
72.773
170.910,04
946.777,70
2.204.560,21
135.000
95.000
Vải denim
55.211
57.745,45
1.080.928,47
1.832.951,32
30.000
45.000
(Nguồn: Phòng kế hoạch vật tư - Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội)
Theo bảng số liệu về cơ cấu xuất khẩu theo thị trường đối với từng sản phẩm trên ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng:
Về sản phẩm Quần áo dệt kim
Sản phẩm dệt kim ra đời lần đầu là vào khoảng năm 1991, khi đó loại sản phẩm này được sản xuất ra chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước vì nó chỉ có chất lượng trung bình, chủng loại, mẫu mã nghèo nàn nên giá cả rẻ thích hợp với điều kiện sống của người dân Việt Nam trong thời gian ấy. Trong hoàn cảnh đó thị trường quốc tế chưa phải thị trường trọng điểm mà ban lãnh đạo Tổng công ty nhắm đến trong giai đoạn này vì họ nhận thấy năng lực cạnh tranh của sản phẩm quần áo dệt kim còn thấp nên cả cơ hội xâm nhập thị trường thế giới và khả năng cạnh tranh là hầu như không có.
Nhưng chỉ một năm sau, năm 1992 nhận thấy nhiều nhu cầu về loại sản phẩm này trên thị trường thế giới và nhất là khi đây lại là sản phẩm thế mạnh của mình nên ban lãnh đạo Tổng công ty đã tiến hành nhiều biện pháp như: đầu tư mở rộng sản xuất, trang bị nhiều máy móc hiện đại, công nghệ tiên tiến…nhằm cải thiện cả về số lượng cũng như chất lượng, mẫu mã của sản phẩm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng ở cả trong nước và trên thế giới.
Đáp lại những cố gắng đổi mới của toàn Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội, sản phẩm quần áo dệt kim đã được người tiêu dùng nhiều nước trên thế giới biết đến và tin dùng. Vì thế giá trị kim ngạch xuất khẩu loại sản phẩm này không ngừng tăng lên. Nếu như vào năm 2005, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng Quần áo dệt kim đã đạt mức 17.251.193 USD tăng 21.2% so với năm 2004 thì năm 2006 mức kim ngạch đạt được tiếp tục tăng 5% so với năm 2005 dù có thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng của năm trước nhưng vẫn đạt mức 18.141.572 USD. Và đến năm 2007 giá trị kim ngạch xuất khẩu quần áo dệt kim đã tăng cao trở lại với mức tăng ngày càng khả quan hơn là 33.4% so với cùng kì năm 2006 vươn lên 24.234.669 USD.
Về sản phẩm Khăn
Là loại sản phẩm được đưa vào danh mục sản xuất của Tổng công ty từ những ngày đầu hoạt động đủ thấy tầm quan trọng của chủng loại sản phẩm này trong nhận thức của ban lãnh đạo. Tuy nhiên sau vài năm đi vào hoạt động, kết quả kinh doanh không đạt được như ý muốn, thậm chí có thời kỳ sản phẩm bán ra chỉ hoà vốn, không thu được lãi về. Điều này khiến cho ban lãnh đạo buộc phải đưa ra quyết định tạm ngừng sản xuất.
Nhưng đến năm 1995, khi điều kiện cho phép Tổng công ty có thể đầu tư nâng cao chất lượng, chủng loại và mẫu mã sản phẩm bằng cách cung cấp thêm nhiều dây chuyền sản xuất theo công nghệ hiện đại. Ban lãnh đạo Tổng công ty đã có một quyết định sáng suốt khi cho tiến hành lại hoạt động sản xuất loại hàng này. Và hệ quả do quyết định đó mang lại là Tổng công ty đã có những thành công không ngờ khi sản phẩm mới được khách hàng chấp nhận và tiêu dùng ở mức độ cao. Kim ngạch xuất khẩu khăn các loại này ngày càng tăng. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu khăn đạt 5.839.419 USD tăng 18.5% so với năm 2004, đến năm 2006 mức kim ngạch đạt được còn cao hơn khi ở mức 6.931.196 USD, và vào năm 2007 mức kim ngạch đã lên đến 7.856.518 USD tăng 13.4% so với cùng kỳ năm 2006.
Mặc dù có công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến nhưng việc sản xuất mặt hàng khăn các loại hiện nay tại Tổng công ty vẫn gặp nhiều khó khăn, mà chủ yếu là ở chỗ nguồn nguyên liệu đa số là nhập khẩu nên việc sản xuất bị phụ thuộc nhiều vào nhà cung cấp sợi quốc tế. Và kết quả tất yếu là lượng hàng hoá chưa đủ đáp ứng nhu cầu, đặc biệt là giai đoạn cao điểm, lúc đó Tổng công ty sẽ bỏ qua thị trường trong nước để ưu tiên hơn thị trường nước ngoài nơi sẽ mang về cho Tổng công ty mức lợi nhuận cao hơn. Điều này sẽ gây ra những bất lợi không nhỏ đối với Tổng công ty trong việc giữ vững thị phần trong nước, tránh sự gia nhập thị trường của đối thủ cạnh tranh trong giai đoạn Tổng công ty không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Về sản phẩm Sợi
Đây cũng là loại sản phẩm được ban lãnh đạo Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội xếp vào danh mục sản phẩm chiến lược ngay từ đầu. Có hai lí do để ban lãnh đạo đi tới quyết định này, thứ nhất sợi là loại sản phảm không cần hàm lượng kỹ thuật cao, đơn giản dễ sản xuất nên rất thích hợp với điều kiện của Tổng công ty giai đoạn đầu, thứ hai quan trọng hơn đây còn là loại sản phẩm đầu vào cho các hoạt động dệt may. Vì thế nếu không có sợi sẽ không có các hoạt động tiếp theo tại Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội và ở cả các doanh nghiệp dệt may khác.
Hiện nay, lượng sợi sản xuất ra được ưu tiên đáp ứng cho nhu cầu của 3 công ty dệt trực thuộc Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội là Công ty cổ phần dệt kim Phố Nối HANOSIMEX, Công ty cổ phần dệt may Hoàng Thị Loan và Công ty cổ phần dệt Hà Đông HANOSIMEX. Phần còn lại Tổng công ty mới tính đến việc bán cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và các công ty nước ngoài có nhu cầu.
Thời gian gần đây do năng lực sản xuất có nhiều biến đổi và được đầu tư thêm các trang thiết bị kỹ thuật mới nên lượng sợi sản xuất được đã tăng nhiều so với trước, đủ để đáp ứng được cả nhu cầu của Tổng công ty lẫn các doanh nghiệp trong nước và thậm chí cho cả các doanh nghiệp nước ngoài. Chính vì vậy giá trị kim ngạch xuất khẩu của loại mặt hàng này thường khá cao, năm 2005 kim ngạch tăng 83.1% so với năm 2004, năm 2006 mặc dù có giảm đáng kể nhưng mức tăng vẫn là 17.9%, đến năm 2007 con số này lại tăng lên là 15.042.227 USD hơn năm 2006 43.8%.
Về sản phẩm Quần áo denim và Vải denim
Đây là những mặt hàng mới của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội xuất hiện trong danh mục hàng hoá vào cuối năm 1999. Tổng công ty bắt đầu tiến hành sản xuất mặt hàng này khi nhận thấy đây là loại sản phẩm có nhiều tiềm năng nhưng vào thời điểm đó mới chỉ có 2 nhà cung cấp, cũng với nhận thức như vậy ban lãnh đạo Tổng công ty đã đầu tư 7 dây chuyền công nghệ cao chuyên sản xuất mặt hàng vải denim và quần áo từ vải denim.
Đáp lại những ưu ái của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này không ngừng tăng nhanh, mang lại cho Tổng công ty nhiều mối lợi lớn. Nếu như vào năm 2004 mặt hàng vải denim còn chưa được xuất khẩu, 100% được tiêu thụ trong nước thì đến năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này là 481.015 USD; năm 2006 tăng lên 1.115.182 USD gấp 2.3 lần so với năm 2005; và vào năm 2007 là 2.002133 USD. Cùng với đó mặt hàng quần áo denim cũng tăng trưởng đáng kể, năm 2005 đạt 2.771.712 USD, năm 2006 đạt 2.801.207 USD, nhưng năm 2007 lại giảm xuống chỉ còn 1.894.562 USD.
2.1.2.Thị trường xuất khẩu
Với uy tín cao tạo dựng qua nhiều năm hoạt động, cung cấp các sản phẩm phù hợp với yêu cầu và sự tận tuỵ trong việc phục vụ khách hàng, từng đấy lý do đủ để trả lời cho câu hỏi “ Tại sao danh sách khách hàng quốc tế của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ngày càng dài thêm?”.
Bảng 2.3. Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Kim ngạch xuất khẩu theo từng nước
Thực hiện tháng báo cáo
Luỹ kế từ đầu năm đến hết tháng báo cáo
Ước tính tháng 1/2008
Trị giá (USD)
Trị giá (FOB)
Trị giá (USD)
Trị giá (FOB)
Trị giá (USD)
Trị giá (FOB)
Tổng kim ngạch XK
2.954.414,75
3.262.351,05
50.629.982,78
50.937.919,08
2.537.905,00
2.537.905,00
Nhật Bản
368.767,90
368.767,90
6.448.355,63
6.448,355,63
647.905,00
647.905,00
Đài Loan
480.501,02
480.501,02
3.710.922,14
3.710.922,14
200.000,00
200.000,00
Hàn Quốc
248.871,00
248.871,00
6.762.006,90
6.762.006,90
445.000,00
445.000,00
Phlippin
192.149,00
192.149,00
2.448.879,33
2.448.879,33
-
-
Anh
315.030,93
315.030,93
2.948.188,46
2.948.188,46
250.000,00
25.000,00
Mỹ
1.349.094,90
1.657.031,20
25.000.387,39
25.308.323,69
995.000,00
995.000,00
Singapore
-
-
3.675,00
3.675,00
-
-
Cộng hoà Czech
-
-
53.338,36
53.338,36
-
-
Isarel
-
-
89.586,00
89.586,00
-
-
Colombia
-
-
1.855.097,97
1.855.097,97
-
-
Tây Ba Nha
-
-
45.964,16
45.964,16
-
-
Đan Mạch
-
-
4.350,00
4.350,00
-
-
Pháp
-
-
10.050,00
10.050,00
-
-
Đức
-
-
1.249.181,44
1.249.181,44
-
-
( Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu - Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội)
Trong giai đoạn đầu hoạt động, Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội chỉ nhắm đến những thị trường truyền thống là Nhật, Pháp, Đức, Italia và khách hàng lớn nhất là Liên Xô, nhưng trải qua nhiều biến động về chính trị và kinh tế đã khiến cho hoạt động xuất khẩu dệt may của Tổng công ty bị ảnh hưởng nặng nề. Vì vậy trước những đòi hỏi của thời cuộc về một thị trường mới, mạnh mẽ, giàu tiềm năng, có thể giúp Tổng công ty vượt qua giai đoạn khó khăn này đã buộc doanh nghiệp phải tiến hành tìm kiếm và mở rộng thị trường. Kết quả là hàng loạt các thị trường mới, hoặc thị phần mới làm cho công tác xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty đã có những bước tăng trưởng nhanh chóng. Tiêu biểu như Hàn Quốc với mức kim ngạch tăng đến 139 lần so với năm 2001 đạt 49.774.20 USD, nhưng con số này vẫn chưa ấn tượng bằng kết quả xuất khẩu sang Mỹ đặc biệt là sau Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ ( năm 2001) giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng vọt lên 35.582.990 USD, trong khi vào năm 2000 giá trị này chỉ khoảng 29.769 USD.
Đây là một bước tiến lớn đối với toàn bộ Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội khi những nỗ lực tìm kiếm đã đạt được kết quả mong đợi: Mỹ, một thị trường lớn, giàu tiềm năng và hiện nay đã trở thành khách hàng lớn nhất của toàn doanh nghiệp hứa hẹn sẽ mang lại cho Tổng công ty nhiều mối lợi lớn.
2.2.THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
2.2.1.Nghiên cứu thị trường Mỹ
Việc tiến hành nghiên cứu thị trường trước khi tiến hành kinh doanh tại thị trường đó là một đòi hỏi tất yếu. Và Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội cũng đã thực hiện hoạt động nghiên cứu này tại thị trường Mỹ.
So với toàn thế giới, Mỹ chiếm 7,2% về diện tích, 4,6% về dân số, 28,5% về GDP, 9,5% về kim ngạch xuất khẩu, gần 20% về kim ngạch nhập khẩu. Mỹ đứng hàng đầu thế giới về khoa học - công nghệ, đứng thứ ba về diện tích (sau Liên bang Nga và Canada), đứng thứ ba dân số (sau CHND Trung Hoa, Ấn Độ), đứng thứ nhất về GDP, đứng thứ hai về xuất khẩu (sau Đức), đứng đầu về nhập khẩu, nhiều gấp 2,5 lần nước đứng thứ hai (Đức).
Nhập khẩu của Mỹ ở mức khổng lồ không chỉ do quy mô dân số đông (gần 300 triệu người), quy mô GDP lớn (hơn 1,25 nghìn tỉ USD), mức tiêu dùng và tỷ lệ tiêu dùng so với GDP rất cao (trên 80%), mà trong những năm gần đây, Mỹ có chủ trương chuyển việc sản xuất ở trong nước ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển để tận dụng lực lượng lao động đông đến mức dôi thừa, giá nhân công rẻ ở những nước này và tránh được ô nhiễm nếu sản xuất ở trong nước.
Vốn, kỹ thuật - công nghệ cao, dung lượng thị trường lớn (nhập khẩu lên đến 1.600 tỉ USD), Mỹ là niềm mơ ước của hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhất là những nước đang phát triển. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ từ năm 1995, ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ cuối năm 2000, từ cuối năm 2006 -đầu năm nay đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Mỹ đã trao Quy chế thương mại PNTR. Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Mỹ đã phát triển khá nhanh.
Xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng mạnh, nếu năm 1995 mới đạt 169,7 triệu USD, năm 2000 mới đạt 732,8 triệu USD, thì năm 2006 đã đạt 8,6 tỉ USD. Năm 2006 đã gấp nhiều lần năm 1995 và năm 2000 gấp hơn 50 lần năm 1995 bình quân 1 năm tăng 42,9%, gấp 11,7 lần năm 2000 bình quân 1 năm tăng 50,7%), đều cao hơn nhiều các chỉ số tương ứng của tổng kim ngạch xuất khẩu trong cùng thời gian của Việt Nam (2,75 lần và 18,4%/năm). Tỷ trọng xuất khẩu sang Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vì thế đã tăng nhanh qua các năm (năm 1995 mới đạt 3,1%, năm 2000 mới đạt 5,1% thì đến năm 2006 đã đạt 21,6%) và Mỹ đã vượt qua Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Bước sang năm 2007, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tiếp tục tăng cao hơn tốc độ chung (bốn tháng đầu năm đạt 2,8 tỉ USD, tăng 23,1% so với cùng kỳ, trong đó dệt may đạt 1,2 tỉ USD, tăng 32,9% và chiếm 45% tổng kim ngạch dệt may của Việt Nam; giày dép đạt 290 triệu USD, tương ứng chiếm 24,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 267 triệu USD, tương ứng chiếm 35,3%). Đáng lưu ý, trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và Việt Nam, Việt Nam có vị thế xuất siêu. Mức xuất siêu đã tăng nhanh và hiện đạt quy mô khá lớn (năm 2000 mới đạt 0,4 tỉ USD, thì năm 2006 đạt 7,5 tỉ USD).
Tuy nhiên, xuất khẩu vào Mỹ đang gặp khó khăn, hiện đang bị chững lại do Mỹ thực hiện Chương trình giám sát hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ của Việt Nam - một chương trình phi lý về ba mặt (Việt Nam không cạnh tranh với sản xuất dệt may trong nước của Mỹ vì Mỹ không sản xuất hàng dệt may hàng loạt; kim ngạch dệt may của Việt Nam vào Mỹ chỉ chiếm chưa đến 3% tổng kim ngạch dệt may nhập khẩu của Mỹ, Việt Nam đứng thứ 8 trong các nước xuất khẩu vào Mỹ nhưng chỉ có Trung Quốc và Việt Nam là 2 nước có nền kinh tế chuyển đổi lại bị giám sát, còn 6 nước đứng trên Việt Nam lại không bị, chứng tỏ Mỹ đối xử không công bằng).
Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam tuy đứng sau nhiều nước nhưng hiện đang đứng vị trí cao cả về hai nghĩa. Một mặt, lượng vốn tính đến hết tháng 3.2007 đã đạt 2.302 triệu USD, đứng thứ 8 trong hơn 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Mặt khác, đó là những dự án có kỹ thuật - công nghệ khá cao, phần nhiều đều thuộc công nghệ nguồn.
Lượng khách đến Việt Nam cũng đã tăng nhanh qua các năm, năm ngoái đạt trên gần 386 nghìn lượt người, đứng thứ ba trong các nước và vùng lãnh thổ. Thời gian lưu trú của Việt Nam dài, mức chi tiêu khá, nên tổng số tiền khách Mỹ chi tiêu ở Việt Nam lớn nhất, lên đến trên nửa tỉ USD, chiếm 16% tổng số tiền chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam.
2.2.1.1.Môi trường kinh tế
Mỹ là nền kinh tế có quy mô lớn nhất thế giới. GDP năm 2006 là 13.163.870 tỷ USD ( số liệu thống kê của World Bank năm 2006) chiếm tới 34% GDP của toàn thế giới. Mức GDP cao kéo theo mức thu nhập bình quân đầu người tại Mỹ cũng thuộc loại cao trên thế giới đạt mức 43.500 USD/người/năm ( theo báo cáo về nền kinh tế Mỹ của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội - năm 2006), chính vì vậy sức mua hàng hoá cũng cao hàng năm đều vào khoảng 7000 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2006 đã tăng 0.2% so với năm 2005 đạt mức 815 tỷ USD, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu là 1.476 tỷ USD và hàng hoá của Việt Nam chiếm tới 8 tỷ 566 USD tăng 29.2% so với năm 2005 khi chỉ đạt có 6 tỷ 631 USD.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Mỹ là máy móc, thiết bị, ôtô, linh kiện, hàng tiêu dùng, nông sản…và bên cạnh đó các mặt hàng nhập khẩu là dầu thô và các sản phẩm từ dầu, máy móc, ôtô, hàng tiêu dùng, thực phẩm đồ uống, vật liệu công nghiệp, hàng dệt may…
2.2.1.2.Môi trường chính trị - luật pháp
Mỹ là một trong những quốc gia còn thực hiện chế độ chính trị “tam quyền – phân lập” trong đó Quốc hội thực thi quyền lập pháp, Tổng thống thực thi quyền hành pháp và Toà án thực thi quyền tư pháp. Các hoạt động này diễn ra một cách độc lập nhưng cùng hướng tới một mục đích chung là tạo lập nên một Hiến pháp chung cho toàn liên bang.
Hiến pháp của Mỹ là hệ thống pháp luật rất phức tạp gồm hai ngành chính là công pháp và tư pháp. Công pháp là hình thức luật pháp được quy định rõ ràng dưới hình thức văn bản bao gồm Hiến pháp, Bộ luật, Đạo luật và căn bản dưới luật. Tư pháp là hình thức luật bất thành văn, gồm các quy phạm luật không được soạn thảo và tập hợp một cách có hệ thống mà hình thành dần dần thông qua các quyết định và bản án của toà trong thực tiễn xét xử còn được gọi là các án lệ.
Không chỉ quy định các vấn đề liên quan tới xã hội, hệ thống luật pháp của Mỹ còn có những quy định phức tạp hơn đối với các hoạt động kinh doanh, buôn bán trên lãnh thổ Mỹ, trong đó đặc biệt phải kể đến hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu do Quốc hội quản lý.
2.2.1.3.Môi trường văn hoá – xã hội
Mỹ là một quốc gia đa chủng tộc gồm người da trắng, da đen, da vàng và cả người Indian bản địa. Theo báo cáo của Trung tâm người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, số dân nhập cư có nguồn gốc châu Á và La-tinh nhiều hơn người da trắng và da đen. Khi dân số đạt 200 triệu vào năm 1967, có đến 85% người Mỹ là dân da trắng. Dân nhập cư gốc châu Á ít hơn, không đến 1% dân số Mỹ. Nhưng ngày nay, người gốc Á khoảng 5%, người da trắng chiếm khoảng 82%, số còn lại là người da đen và dân bản địa. Đây sẽ vừa là thuận lợi cũng vừa là khó khăn đối với các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường này.
Cũng do đặc điểm trên nên người dân Mỹ thường không có khung thẩm mỹ chung một phần là do họ thường đề cao chủ nghĩa cá nhân phần khác là do các nhóm người có cùng văn hoá và tôn giáo sẽ sống và hành động theo chính bản sắc văn hoá của mình từ đó tạo ra những gu thẩm mỹ riêng biệt. Chính đặc điểm này đã làm cho nhận thức của người dân Mỹ có những nét khác biệt so nhận thức người dân ở các quốc gia khác, dẫn đến thói quen tiêu dùng cũng có nhiều điểm khác biệt như: coi trọng ấn tượng đầu của các sản phẩm mới, không quan tâm nhiều đến chất lượng hàng hoá nếu giá cả của hàng hoá đó phù hợp, nhóm tham khảo không chiếm ưu thế…
2.2.1.4.Môi trường cạnh tranh
Hiện nay môi trường cạnh tranh tại thị trường Mỹ khá phức tạp, với sự xuất hiện của nhiều nhà cung ứng trên nhiều lĩnh vực, do đó phương thức cạnh tranh cũng khá đa dạng và phong phú. Chỉ riêng trong lĩnh vực dệt may cũng có thể nhận thấy những đặc điểm tiêu biểu của môi trường cạnh tranh tại Mỹ. Hiện nay, các nhà cung ứng chủ yếu trong lĩnh vực dệt may và là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Việt Nam vẫn là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…Tuy nhiên cũng không thể phủ định những lợi thế vượt trội hơn bao hàm trong hàng hoá dệt may của các đối thủ cạnh tranh này như đẹp hơn về mẫu mã, đa dạng hơn về chủng loại, chất lượng tốt hơn hoặc giá cả rẻ hơn…nên trường vượt trội thị phần của hàng dệt may Việt Nam.
Bảng 2.4. Cơ cấu thị trường nhập hàng dệt may của Mỹ
(Đơn vị tính: %)
Quốc gia
2000
2007
Trung Quốc
18
25
H ồng Kông
15
16
Đài Loan
13
12
Hàn Quốc
12
10
Việt Nam
2
3
EU
13
15
Nhật Bản
14
17
Tổng cộng
43 tỷ USD
86 tỷ USD
( Nguồn: Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam)
Trước những khó khăn này đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nếu muốn bảo vệ hoặc mở rộng thị phần cần có những chiến lược đúng đắn hơn để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam.
2.2.2.Chiến lược xâm nhập thị trường của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Hiện nay, chiến lược xâm nhập thị trường quốc tế nói chung và xâm nhập thị trường Mỹ nói riêng của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội đều được thực hiện qua hai phương thức là xuất khẩu trực tiếp và gia công xuất khẩu.
2.2.2.1.Xuất khẩu trực tiếp
Trong đó hình thức xuất khẩu trực tiếp được thực hiện thông qua phòng xuất nhập khẩu và là hình thức xuất khẩu được Tổng công ty mong muốn chiếm tỷ lệ cao hơn trong thời gian tới. Một quy trình xuất khẩu thông thường được Tổng công ty sử dụng có kết cấu như sau:
- Giao dịch
Sau khi thu thập được các thông tin về bạn hàng và mặt hàng mà họ quan tâm, Tổng công ty sẽ tiến hành lập các đơn chào hàng bao gồm các nội dung như: tên mặt hàng, số lượng, giá cả, phương thức thanh toán… và gửi kèm theo hàng mẫu đến khách hàng.
Một mẫu đơn chào hàng của Tổng công ty thường được trình bày như sau:
HANOI TEXTILE – GRAMENT JOINT STOCK CORPORATION
( VINATEX – HANOSIMEX)
ADD : NO. I MAIDONG STREET, HOANGMAI DIST, HANOI, VIETNAM
TEL : 04-4-8624611 FAX : 04-4-8622334
TO: BIG EYES CO., LTD
ADD: 196 Nhan Hoa, My Hao, Hung Yen province, Vietnam
TEL : 0321.952759 FAX : 03210952758
Attn : Mr. Toshifumi Yuki/ Ms. Van/ Ms. Khoi
Date: 9-Jan-08
Thank you for your interest in our products. We would like to offer you on items as below:
Commod Children long sleeved shirts
Material : In terlock Ne 40/1 185g/m2
Specifica: As sample sent on Jan 07th, 2008
Quantity : 20.000 Pcs
Un._. nhiều nới lỏng. Theo Vụ chính sách thuế - Bộ tài chính, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, hàng dệt may khi xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%, vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng ân hạn nộp thuế 275 ngày. Khi thực hiện xuất khẩu, sản phẩm được hoàn thuế nhập khẩu với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu đầu vào tương ứng với tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh theo hợp đồng hợp tác liên doanh thời hạn miễn thuế 5 năm áp dụng với nguyên liệu sản xuất, vật tư, linh kiện trực tiếp phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Với các máy móc, thiết bị dây chuyền công nghệ với các dự án đầu tư nước ngoài và các dự án đầu tư trong nước chưa sản xuất được khi nhập khẩu được miễn thuế nhập khẩu.
3.1.2. Sự suy thoái của đồng USD
Trong bối cảnh giá cả nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng từ đầu năm đến nay tăng vọt thì sự suy thoái của đồng USD, đồng tiền thanh toán chủ yếu trong giao dịch mua bán và vay vốn ngân hàng lại càng có tác động mạnh mẽ hơn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may.
Thứ nhất, các doanh nghiệp có USD muốn bán để trả tiền lương công nhân viên, nguyên vật liệu, trả nợ…nhưng các ngân hàng lại ngừng mua, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp có khả năng chi trả nhưng vẫn phải nợ gây ảnh hưởng đến đời sống của công nhân viên, gây khó khăn trong việc mua nguyên vật liệu để sản xuất
Thứ hai, theo tính toán, riêng về ngoại tệ cứ 01 USD các doanh nghiệp mất khoảng 500 đồng, cộng thêm giá đầu vào các thứ cộng lại mất thêm 500 đồng. Nếu giữ nguyên tiền lương hiện nay đã lỗ 1.000 đồng /01 USD. Vì vậy nếu một doanh nghiệp đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu 10 triệu USD, coi như doanh nghiệp đó đã mất đi 10 tỷ đồng. Nhưng đó vẫn chỉ là tình hình hiện nay, còn sắp tới tình hình sẽ thế nào nếu không có giải pháp?
3.1.3.Tình hình cạnh tranh tại thị trường Mỹ
Theo đánh giá của Ủy ban thương mại quốc tế Mỹ sau khi loại bỏ quota dệt may, Trung Quốc kỳ vọng trở thành nhà cung cấp được ưa chuộng đối với hầu hết các nhà nhập khẩu Mỹ vì nước này có khả năng sản xuất hầu như bất cứ loại sản phẩm dệt may nào với bất kỳ mức chất lượng nào mà vẫn đảm bảo một mức giá cạnh tranh. Tuy nhiên, mức độ mà Trung Quốc tiếp tục gia tăng xuất hàng sau khi bỏ quota sẽ bị kiềm chế bởi Mỹ và EU- hai khối thị trường dệt may lớn nhất thế giới bị đe dọa bởi hàng dệt may giá rẻ của Trung Quốc sẽ sử dụng đến chế tài tự vệ hàng dệt may trong nước của mình. Vì vậy, thời gian gần đây, Bộ Thương mại Trung Quốc đã phải áp đặt mức thuế xuất khẩu mới đối với hàng dệt may của nước này nhằm giảm bớt "nhiệt" tăng trưởng xuất khẩu trong năm tới.
Chính vì thế, để giảm bớt rủi ro của việc đặt mua hàng từ một nước duy nhất, các nhà nhập khẩu Mỹ thường có kế hoạch mở rộng quan hệ thương mại với các nước có giá cả thấp khác để làm nguồn thay thế cho Trung Quốc, đặc biệt là Ấn Độ. Ấn Độ cũng được đánh giá là nước có nền sản xuất rất lớn có thể sản xuất một chuỗi đa dạng nhiều sản phẩm dệt may với giá cả cạnh tranh và có một nguồn cung lao động lớn với giá rẻ.
Dù vậy, nhưng nếu tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao trong thời gian dài hạn thì hàng xuất khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ có thể bị ảnh hưởng bởi tốc độ tăng trưởng của chính mình. Điều này dẫn đến khả năng cầu nội địa tăng với hàng dệt may cũng như đối với lao động và vốn để làm ra những sản phẩm này.
Ngoài ra nguồn cung cấp hàng dệt may xuất khẩu cho Mỹ còn ở một số nước như Bangladesh, Pakistan và một số nước thuộc Trung Mỹ hay tiềm năng nhất là Việt Nam và Indonesia- những nước thành viên ASEAN duy nhất được đánh giá là có khả năng cạnh tranh như các nhà cung cấp lớn và có thể thay thế cho Trung Quốc hay Ấn Độ.
Tuy nhiên, để thực sự trở thành nhà cung ứng lớn có khả năng thay thế cho Trung Quốc và Ấn Độ trong tương lai, đòi hỏi Việt Nam cần thẳng thắn nhìn nhận những yếu kếm của mình như:
- Phần lớn số nguyên phụ liệu ngành dệt may sử dụng như bông, xơ... hiện đang dựa vào nguồn nhập khẩu là chính. Trong khi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 5% về bông, khoảng 30% về sơ tổng hợp thì việc phải nhập khẩu là tất yếu, vì thế dẫn đến tình trạng giá thành sản phẩm thường khá cao. - Theo đánh giá của chuyên gia, hiện các doanh nghiệp sản xuất dệt - nhuộm chưa có hiệu quả, đặc biệt là chưa làm chủ được kỹ thuật, làm chất lượng vải không ổn định. Vì vậy, chưa được khách hàng tiêu thụ sản phẩm may đánh giá để có thể trở thành nhà cung cấp vải cho các doanh nghiệp may gia công trong nước chứ chưa nói đến việc gia tăng xuất khẩu vải. - Hiện vải dệt kim trong nước mới đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu, vải dệt thoi khoảng 30%. Cũng chính vì thế mà khách hàng Mỹ thường chỉ định nhà cung cấp vải từ các nơi (như Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan...) để cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam. Như vậy, có thể nhận định rằng tại các doanh nghiệp dệt may trong nước hiện nay đang tồn tại nhiều yếu kém không nhỏ. Khó khăn, thách thức đòi hỏi những nỗ lực. Vì vậy, muốn đẩy mạnh sự phát triển bắt buộc Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói riêng phải cố gắng về mọi mặt một cách sâu sát hơn.
3.2.NHỮNG KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC
Trước những cơ hội và thách thức của thời đại mới, Chính phủ Việt Nam cần phải thực hiện một số biện pháp như:
Thứ nhất, Nhà nước nên có chính sách bình ổn giá cả hiệu quả hơn. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong vấn đề tài chính như: đảm bảo tỷ giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách ổn định; yêu cầu các Ngân hàng mua lại những đồng USD thanh toán từ các hợp đồng xuất khẩu cố gắng ở biên độ giá cao nhất và cho vay để phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu vay với biên độ thấp nhất. Ngoài ra có thể xem xét đến việc bỏ thu một số loại phí không thực sự cần thiết để tăng lương cho công nhân.
Thứ hai, nên có chính sách hỗ trợ và hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp dệt may nhanh chóng xác lập và đăng ký tiêu chuản quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9000, ISO 14000, SA 8000...), bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền, ghi nhãn, mã số, mã vạch theo quy chế và sớm đăng ký nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp tại thị trường quốc tế mà trước hết là các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada.
Thứ ba, trước tình hình bị Mỹ áp dụng chính sách chống bán phá giá, các cơ quan Bộ và ngang Bộ nên áp dụng cơ chế điều hành xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ theo hướng giám sát các mặt hàng dệt may mà phía dự kiến giám sát. Mục đích của cơ chế này là nhằm tăng cường niềm tin của các nhà nhập khẩu, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu, giảm thiểu các lô hàng đơn giản có đơn giá thấp, quản lý tốt quá trình tăng trưởng xuất khẩu, chống chuyển tải bất hợp pháp và gian lận thương mại…Cùng với đó Chính phủ Việt Nam cần kiểm tra ngay các tiêu chuẩn của một nước có nền kinh thế thị trường để được chấp nhận một cách thức kiểm tra các điều kiện cạnh tranh tương tự có lợi nhất cho doanh nghiệp.
Thứ tư, sự cồng kềnh quan liêu của bộ máy hành chính, các thủ tục xuất khẩu phức tạp và một hệ thống pháp luật chưa rõ ràng đang là những cản trở không nhỏ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì thế Nhà nước cần tập trung thực hiện nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính, đào tạo, bồi dưỡng sắp xếp nhân sự, thường xuyên nghiên cứu cải tiến, hoàn thiện quy trình làm việc, đảm bảo tính khoa học, nâng cao hiệu suất làm việc. Qua đó sẽ nâng cao được hiệu quả công tác quản lý Nhà nước.
Thứ năm, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ đặc biệt về lãi suất vay ưu đãi, về thuế, về chi phí vận tải xuất khẩu, về thị trường kết hợp với cải cách thủ tục hải quan theo hướng áp dụng hải quan điện tử, hải quan một cửa.... qua đó khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhanh chóng mở rộng đầu tư nhằm hình thành chợ nguyên liệu có thể cung ứng cho một ngành hàng hoặc là trung tâm tổng hợp, tăng cường năng lực tự sản xuất của ngành dệt may dẫn đến việc giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu.
Thứ sáu, Nhà nước nên có nhận định chính xác và tổng quan nhất cho toàn ngành, trên cơ sở những khó khăn chung của các doanh nghiệp nhận định đâu là khó khăn chủ quan, đâu là khó khăn khách quan do các rào cản gây ra để tìm hướng khắc phục.
Thứ bảy, Nhà nước nên sử dụng hệ thống thương vụ và đội ngũ tham tán thương mại Việt Nam làm việc ở nước ngoài vì họ là những người nắm rất rõ những thông tin về chính sách, về xu hướng tiêu dùng theo từng mùa cụ thể, về mức giá bán mong muốn, về khả năng nhập khẩu, về yêu cầu chất lượng và đồng thời về những đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh tại nước sở tại, hơn nữa lại có khả năng giải quyết các xung đột thương mại...Với những lợi thế đó Nhà nước cũng nên chủ động sắp xếp các cuộc tiếp xúc giữa đội ngũ tham tán thương mại và các doanh nghiệp xuất khẩu để họ chủ động phối hợp với nhau trong phát hiện nhu cầu hàng hoá, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao khả năng cạnh tranh, góp phần mở rộng thị trường.
Đội ngũ tham tán này cũng có thể thu hút lượng đầu tư lớn từ bên ngoài vào Việt Nam thông qua việc vận động giới doanh nghiệp kiều bào Việt Nam tham gia hợp tác xúc tiến đầu tư, chuyển giao công nghệ, phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
Hơn nữa, họ có thể triển khai đầu tư từ trong nước trên thị trường nước sở tại một cách thuận lợi hơn.
Và thậm chí đề xuất với Bộ những cơ chế và chính sách phù hợp với cả pháp luật của ta và của địa bàn nước ngoài phục vụ phát triển sản xuất và xuất khẩu.
Nếu muốn tiếp tục duy trì và phát triển những lợi thế mà đội ngũ tham tán thương mại mang lại Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau:
Một, nên thường xuyên tổ chức các khoá học nâng cao trình độ chuyên môn của các tham tán thương mại.
Hai, xây dựng các dự thảo luật về cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như một số văn bản kèm theo để phân biệt rõ ràng giữa công tác ngoại giao và kinh tế, tránh sự chồng chéo làm giảm hiệu quả làm việc của các đại sứ quán và các thương vụ.
Ba, để nâng cao năng lực cho thương vụ thì cần thiết phải thuê thêm nhân lực địa phương, họ là những người thường xuyên giúp tham tán những nội dung công việc mà cán bộ Việt Nam không thể thực hiện có hiệu quả như: quan hệ với cơ quan Chính phủ, Quốc hội, thu thập thông tin ngoài luồng, tổ chức vận động hành lang, tư vấn và sắp xếp các cuộc gặp đặc biệt.
Thứ tám, tạo thuận lợi cho khu vực đầu tư nước ngoài và Trung ương hoạt động, có các giải pháp hướng tới tập trung đầu tư, tạo ra tác động vào khu vực kinh tế địa phương để đảm bảo tăng trưởng tốc độ và tính bền vững trong xuất khẩu.
Thứ chín, tăng cường việc tư vấn và hỗ trợ pháp lý cho việc xử lý xung đột thương mại cho các doanh nghiệp dệt may.
Thứ mười, ổn định nguồn lao động bằng cách di dời các doanh nghiệp về địa phương, giải quyết giảm tối đa tranh chấp và thiếu hụt lao động. Kết hợp với việc hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực thông qua thực hiện các chương trình đào tạo nghề và nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Thứ mười một, nâng cao vai trò của Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội trong việc phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp để cung cấp thông tin, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm và xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, đề xuất các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành.
Thứ mười hai, khuyến khích và hỗ trợ Tập đoàn dệt may Việt Nam (VINATEX) thiết lập một hệ thống chuyên bán lẻ với những nhân viên có kinh nghiệm chuyên chịu trách nhiệm phân phối hàng dệt may. Có hệ thống này gánh nặng lớn về phương thức xuất khẩu của doanh nghiệp thành viên sẽ được giải quyết.
Tóm lại, sản phẩm dệt may của Việt Nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, lại đang có thị trường xuất khẩu, suất đầu tư không lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Nếu thực hiện được đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo cơ sở quan trọng để thực hiện “chương trình đầu tư tăng tốc phát triển ngành dệt may” cũng như mục tiêu xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010.
3.3.KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
Hiện nay, đa số lãnh đạo của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may đều cho rằng, trước khi đợi sự hỗ trợ từ phía Nhà nước các doanh nghiệp hãy tự cứu lấy mình.
Một là, các doanh nghiệp cần cô đọng lại, số lượng lao động ít nhất, hiệu quả cao nhất.
Hai là, nên thay đổi đồng tiền thanh toán như bảng Anh, Euro…những đồng tiền mạnh có độ ổn định cao để tránh một số khó khăn do tiền mất giá như giai đoạn này.
Ba là, thường xuyên kiểm tra và đào tạo lại cho đội ngũ nhân viên quản lý của doanh nghiệp vì đây là một trong những yếu tố quyết định hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội diễn ra một cách nhanh chóng hay chậm chạp, cẩn thận hay còn nhiều sai sót qua đó sẽ tác động tới kết quả kinh doanh là cao hay thấp.
Bốn là, chủ động đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường.
Năm là, chủ động chuẩn bị cho mình những bộ hồ sơ mang đầy đủ tính pháp lý để đối phó với trường hợp hàng hoá của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội bị phía Mỹ kiểm tra. Tốt nhất là thuê những luật sư quốc tế, có khả năng tranh cãi về các vấn đề liên quan đến chống bán phá giá và quy trình giải quyết tranh chấp trong WTO.
Nhưng dù có đưa ra những giải pháp gì đi nữa, cũng nên dựa trên nguyên tắc chia sẻ. Trước hết là chia sẻ giữa doanh nghiệp và người lao động để thấu hiếu và cùng nhau vượt qua khó khăn. Chia sẻ với khách hàng để đàm phán tăng giá một cách hợp lý hoặc chuyển đổi ngoại tệ thanh toán phù hợp. Chia sẻ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp về thông tin, kinh nghiệm, kỹ thuật để cùng tìm ra giải pháp để phát triển; nhất là đồng lòng với nhau về việc đàm phán tăng giá. Và cuối cùng là chia sẻ khó khăn giữa doanh nghiệp và nhà nước, để kịp thời có những biện pháp phù hợp với yêu cầu và biến động của thị trường.
3.4.TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG
Hoạt động nghiên cứu thị trường Mỹ cần phải được quán triệt là một phần trọng yếu trong hoạt động xuất khẩu. Kết quả cuối cùng của hoạt động này là những thông tin về hệ thống luật pháp, môi trường kinh tế, môi trường văn hoá – xã hội, và tình hình cạnh tranh trên thị trường…từ đó tạo cho Tổng công ty cái nhìn tổng quát ban đầu về thị trường xuất khẩu mà doanh nghiệp đang hướng đến, góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua việc cung cấp cho khách hàng những sản phẩm phù hợp. Vì vậy, để hoạt động nghiên cứu thị trường diễn ra một cách dễ dàng Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội cần tiến hành đầu tư một cách đồng bộ cả về số nhân sự có chuyên môn cao được đào tạo bài bản lẫn nguồn ngân sách hợp lý.
Các nhân viên nghiên cứu thị trường quốc tế của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội có thể thu thập thông tin sơ cấp từ: Các trang website có thông tin thương mại như trang web của Bộ thương mại Mỹ, trang web của World Bank; hoặc tham khảo tin tức tại các báo, tạp chí kinh tế Mỹ như Business American, Times nơi thường xuyên cung cấp cho độc giả những tin thị trường mới nhất cũng như các báo cáo về điều kiện kinh doanh tại thị trường Mỹ; hay họ có thể tìm kiếm các thông tin cần thiết thông qua các ấn phẩm của Việt Nam như báo cáo hàng tháng của Bộ thương mại, của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam…
Nhưng tốt hơn hết vẫn là trực tiếp khảo sát và nghiên cứu thị trường nếu điều kiện của Tổng công ty cho phép, với trình độ chuyên môn cao các nhân viên này sẽ biết cách đưa ra tập hợp các dữ liệu thứ cấp một cách chính xác nhất, không mang nặng cảm tính của người nghiên cứu lại có thể tránh cả cái nhìn phiến diện lẫn những thiếu sót nhầm lẫn từ phía người đưa thông tin hoặc lập báo cáo.
Trường hợp khác, nếu Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội cần các dữ liệu về thị trường Mỹ dưới cái nhìn của những người bản địa, cùng chung văn hoá và lối sống thì Tổng công ty có thể uỷ thác công việc nghiên cứu cho các công ty nghiên cứu tại Mỹ. Tuy nhiên phương pháp có thể mang đến cho Tổng công ty một số khó khăn như: tốn kém, hệ thống luật pháp cũng như văn hoá giữa hai quốc gia là khác nhau nên khó đi đến những nhận định chung và đặc biệt khó khăn trong công tác đánh giá hoạt động nghiên cứu.
Các kết quả của quá trình nghiên cứu sẽ phải mang đến cho Tổng công ty những kết quả rõ ràng, dễ hiểu và chính xác. Cụ thể như: kết quả của việc nghiên cứu hệ thống luật pháp Mỹ phải cho VINATEX - HANOSIMEX nắm được những quy định điều chỉnh việc xuất khẩu, về những mức thuế quan mà doanh nghiệp phải chịu, những danh mục hàng hoá được phép kinh doanh và các tiêu chuẩn nhập khẩu nói chung…Còn kết quả của việc nghiên cứu môi trường văn hoá lại phải cho VINATEX - HANOSIMEX nắm được hành vi và thói quen tiêu dùng sản phẩm hàng dệt may của người tiêu dùng Mỹ, nghiên cứu môi trường cạnh tranh cho phép doanh nghiệp nhận biết và nắm bắt được tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh ( nguồn lực, khả năng tài chính, điểm mạnh, điểm yếu…).
Tóm lại, việc tiến hành hoạt động nghiên cứu thị trường là bắt buộc nếu VINATEX - HANOSIMEX muốn kinh doanh hiệu quả tại thị trường Mỹ, có nhiều cách thức để nghiên cứu thị trường nhưng đòi hỏi đầu tiên trước khi tiến hành hoạt động này là một nguồn ngân sách phù hợp và một đội ngũ nhân viên đủ trình độ chuyên môn.
3.5.GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH SÁCH MARKETING -MIX TRÊN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
3.5.1. Chính sách hoàn thiện sản phẩm
Càng ngày các sản phẩm dệt may nhất là mặt hàng may thời trang càng giảm dần tính đại trà, thiên về tính độc đáo bởi chất lượng cuộc sống được nâng cao và nhận thức xã hội ngày càng phức tạp. Vì vậy việc thường xuyên tạo ra các sản phẩm cao về chất lượng, đẹp về mẫu mã hiện đang là những đòi hỏi tất yếu. Nhưng lập luận trên phần nhiều vẫn chỉ tồn tại ở dạng lý thuyết, còn trong thực tế vấn đề nổi cộm là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và VINATEX - HANOSIMEX nói riêng mới chỉ dừng lại ở mức độ sản xuất và cố gắng duy trì các sản phẩm thông dụng, có tính truyền thống mà chưa quan tâm đến việc thay đổi mẫu mã mới để tiếp cận với yêu cầu của thị trường trong ngoài nước.
Chính vì thế khi tham gia vào một môi trường có mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn các sản phẩm của VINATEX - HANOSIMEX thường yếu thế hơn. Vậy làm thế nào để nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trước những thay đổi hiện nay đang là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp.
Một là, đầu tư xây dựng nhà xưởng hiện đại, đổi mới thiết bị, nâng cấp dây chuyền công nghệ theo hướng phải tiếp cận với công nghệ cao trong sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, hạ giá thành.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư hoàn chỉnh khâu vải và phụ liệu để đảm bảo cung cấp nguyên liệu cho may xuất khẩu nhằm tiến tới tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may mặc xuất khẩu từ 30% lên 60%.
Ba là, phải gắn kết các trung tâm thời trang với hoạt động sản xuất để có các sản phẩm may mặc đẹp, thiết kế độc đáo, tiện dụng hơn lại có tính năng mới như: độ bền, độ hút ẩm, tính năng an toàn, tính năng vệ sinh…để có thể vừa kích cầu vừa tránh bớt được áp lực cạnh tranh. Đây cũng là giải pháp để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm.
Bốn là, đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. VINATEX - HANOSIMEX phải thể hiện được phong cách riêng với khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm về màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu…Ngoài ra, nên thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường để tăng năng suất lao động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Năm là, phải đầu tư nâng cao trình độ tay nghề của công nhân viên, kết hợp với việc đào tạo cho công nhân kỹ thuật phù hợp để làm chủ được dây chuyền sản xuất mới.
Sáu là, hiện nay yếu tố quyết định thắng lợi trong cuộc cạnh tranh không chỉ còn là chất lượng, giá cả và dịch vụ khách hàng mà còn bao gồm cả cạnh tranh bằng giá trị gia tăng. Đây sẽ là xu hướng chiến lược sống còn cho mỗi doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
Để nâng cao các giá trị gia tăng của sản phẩm cần đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm, hay thậm chí phải nâng cao cả công tác quản lý và khả năng đáp ứng nhanh của doanh nghiệp.
Bảy là, phải áp dụng nghiêm túc các tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001, ngoài ra cần có chính sách về chất lượng sản xuất đảm bảo tới tay người tiêu dùng, chứ không phải chỉ đảm bảo trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
Tóm lại, nâng cao giá trị sản phẩm là chiến lược lâu dài và hết sức khó khăn nhưng thực sự đó là hướng phát triển tích cực và đúng đắn trong bối cảnh cạnh tranh ngày nay. Những việc VINATEX - HANOSIMEX đã và đang tiến hành chỉ là những bước khởi đầu trên con đường đầy gian khó ấy. Con đường cạnh tranh đòi hỏi chỉ đi đúng hướng mới có thể tồn tại và phát triển.
3.5.2.Hoàn thiện chính sách giá cả
Nếu có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, nhất là việc khuyến khích đầu tư vào các chợ nguyên liệu có khả năng cung ứng cho mọi doanh nghiệp, có thể tạo cho Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội nhiều điều kiện thuận lợi để giảm giá thành. Nhưng trong khi chờ đợi dự án được thực hiện Tổng công ty nên tự quy hoạch và đầu tư xây dựng các cơ sở vệ tinh sản xuất nguyên liệu, phụ liệu, bao bì với chất lượng cao cho ngành dệt may để từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá và là cơ sở để giảm giá thành sản phẩm. Ngoài ra đây cũng là cơ sở để gia tăng năng lực cạnh tranh cho VINATEX - HANOSIMEX về mặt giá cả vì phương pháp định giá của Tổng công ty hiện nay là dựa trên mức chi phí bỏ ra.
Phải tính toán cân đối hợp lý giữa giá bán và giá thành sản phẩm nhằm đảm bảo tính cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Cần có phương pháp tính giá phù hợp hơn, có tính đến yếu tố cạnh tranh hơn. Trwocs tiên cần tiến hành thu thập các thông tin về:
Một, thu thập thông tin về giá bán lẻ của nhãn hiệu cạnh tranh trên thị trường (chủ yếu là hàng của Trung Quốc và Ấn Độ).
Kết hợp với đó là tiến hành điều tra nhận thức, thái độ và mức độ nhạy cảm với giá của khách hàng Mỹ.
Hai, xác định mức độ co dãn của cầu theo giá.
Ba, xác định tất cả các loại thuế xuất khẩu doanh nghiệp phải trả và tìm các giải pháp tiết kiệm thuế.
Bốn, xác định khối lượng của đơn hàng.
Năm, tập hợp và đánh giá các chi phí phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm.
Sáu, đưa ra mức lợi nhuận mong muốn.
Trên cơ sở các yếu tố trên lựa chọn cho mình một mức giá hợp lý bằng cách xác định mức giá tối thiểu
Mức giá tối thiểu = ( chi phí sản xuất sản phẩm +thuế xuất khẩu
+ mức lợi nhuận mong muốn) / khối lượng đơn hàng.
Sau đó dựa trên khoảng thích hợp để lựa chọn mức giá phù hợp
Mức giá tối thiểu < Mức giá của sản phẩm < Mức giá của đối thủ cạnh tranh.
Một ví dụ về phương pháp tính giá trên tại Công ty Hữu Nghị
Bảng 3.1.Bảng tính giá cho sản phẩm áo sơmi.
Đơn vị tính: USD
Tên khoản mục
Mức chi phí
Số lượng ( chiếc)
Chi phí/ 1 áo sơmi
Nguyên phụ liệu
17.800
-
-
Lương
1.430
-
-
Khấu hao TSCĐ
200
-
-
Thuế xuất khẩu (2.2%)
427,46
-
-
Mức lợi nhuận (10%)
1.943
-
-
Tổng cộng
21.800,46
9.910
2.1
( Nguồn: báo cáo tình hình sản xuất- Công ty Hữu Nghị)
Trong khi đó mức giá bán sản phẩm tương tự của Trung Quốc là khoảng 1.9 USD. Vì vậy, nếu muốn tạo lợi thế cạnh tranh nhờ mức giá Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội cần chờ chính sách giảm thuế xuất khẩu của Nhà nước hoặc giảm mức lợi nhuận mong muốn.
3.5.3.Mở rộng hệ thống kênh phân phối
Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội cần phải từng bước chuyển từ hình thức gia công sang trực tiếp sản xuất và xuất khẩu. Trước tiên là bằng cách nhận các đơn hàng sản xuất, gia công xuất khẩu những mặt hàng có chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, không giảm giá bán để tăng khối lượng xuất khẩu. Sau đó, thực hiện chính sách đảm bảo chất lượng của mặt hàng sợi và vải làm cho các khách hàng tin tưởng chuyển sang lựa chọn các sản phẩm nguyên chiếc của Tổng công ty cổ phần dệt may Hà Nội.
Tổng công ty cần tự xác lập cho mình một hệ thống kênh phân phối để tiêu thụ những sản phẩm may đo thời trang độc đáo với số lượng có hạn. Những giá trị gia tăng và lợi thế cạnh tranh ban đầu này sẽ giúp cho sản phẩm dễ được người tiêu dùng ưa chuộng hơn, qua đó làm cho khả năng thành công của kênh lớn hơn.
Có thể tận dụng kênh này làm cho hoạt động xuất khẩu trực tiếp các mặt hàng truyền thống của doanh nghiệp diễn ra dễ dàng hơn.
Do việc xây dựng hệ thống kênh còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là những định chế về ngoại giao đối đẳng nên không phải chúng ta muốn mở chỗ nào cũng được mà còn phụ thuộc vào việc cơ quan lãnh sự được mở ở đâu. Nên nếu chưa đủ nguồn lực và điều kiện tiến hành xây dựng kênh, Tổng công ty có thể sử dụng hệ thống kênh đại diện chung do Nhà nước thành lập. Khi đó, doanh nghiệp sẽ chuyển thẳng sản phẩm sang cho hệ thống bán lẻ chung.
3.5.4.Tăng cường hiệu quả của chính sách xúc tiến thương mại
Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng của báo và tạp chí Mỹ.
Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp tới người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường.
Tăng cường đầu tư xúc tiến thương mại trong điều tra, khảo sát, nắm vững nhu cầu thị trường dệt may ở Mỹ
Cần tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh doanh nghiệp dệt may VINATEX - HANOSIMEX theo phương châm “chất lượng, nhãn hiệu, uy tín dịch vụ, trách nhiệm xã hội” thông qua việc: Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO 14000, SA 8000.
Tham gia nhiều hơn các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế.
Tiếp tục tham dự chương trình hội nghị bàn tròn các thành phố đối tác để duy trì sự quan tâm, thu hút sự chú ý của doanh nghiệp và người tiêu dùng tại thị trường Mỹ thông qua các hoạt động quảng bá, tuyên truyền của đội ngũ ngoại giao ở cấp cao, góp phần quảng bá cho sản phẩm của Việt Nam, tạo ra một hình ảnh nhiều sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng Mỹ.
3.6.CÁC GIẢI PHÁP BỔ SUNG
3.6.1. Giải pháp về nguồn nhân lực
Điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam là đội ngũ lao động dồi dào. Tuy nhiên, chủ yếu lại là lao động phổ thông chưa qua đào tạo nên hầu hết các doanh nghiệp trong đó có VINATEX – HANOSIMEX thường phải tự đào tạo nghề cho lao động của mình, dẫn đến chi phí cho một lao động cao hơn so với Trung Quốc, Indonesia. Do đó việc thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá, tổ trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu là vô cùng cần thiết.
Tiến hành sắp xếp lại các vị trí nhân viên theo đúng năng lực làm việc, sở thích và trình độ của họ, tạo cho họ sự thoải mái khi làm việc, từ đó có thể nâng cao kết quả hoạt động của Tổng công ty.
3.6.2. Nâng cao ngân sách và hiệu quả sử dụng ngân sách
Mức ngân sách cần thiết dành cho hoạt động Marketing quốc tế của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội năm 2008 được dự đoán là khoảng 5,4 tỉ. Nhưng thực tế số tiền dành cho ngân sách chỉ khoảng 2 tỷ đồng, hơn nữa số tiền này lại được chia đều để thực hiện cả hoạt động Marketing nội địa.
Chính vì thế, nhiều năm qua kết quả của hoạt động Marketing quốc tế tại Tổng công ty thường rất thấp. Để giải quyết tình hình này, bộ phận Marketing của Tổng công ty cần lên những kế hoạch rõ ràng với những khoản mục thực sự cần thiết như: quảng cáo trên báo nào, tần suất bao nhiêu, tham gia những hội chợ nào, chính sách khuyến mãi ra sao, cần những yếu tố nào để cải thiện sản phẩm…từ đầu năm, đệ trình lên Ban giám đốc và xin được cấp kinh phí đáp ứng đủ các hoạt động đó. Chỉ có vậy kết quả của các hoạt động Marketing quốc tế mới thực sự mang lại hiệu quả cao.
KẾT LUẬN
Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội là doanh nghiệp chuyên sản xuất các sản phẩm dệt may, một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Với nhiều cố gắng và nỗ lực giá trị kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty đạt được năm sau luôn cao hơn năm trước. Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam - Mỹ bắt đầu có hiệu lực thì hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty càng gặp nhiều thuận lợi hơn, qua đó góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Có những thành công trên là nhờ Tổng công ty đã biết vận dụng và tiến hành các hoạt động Marketing quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay các hoạt động này vẫn chưa được tiến hành triệt để nên lợi ích mang lại là chưa cao.
Chuyên đề tốt nghiệp này đã phần nào khái quát được thực trạng ứng dụng Marketing quốc tế tại Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội, xác định những mặt được và những hạn chế còn tồn tại. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp đối với doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Do hạn chế về thời gian và chưa đủ kinh nghiệm thực tế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự thông cảm và đóng góp của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của TS. Vũ Huy Thông và các cô chú, anh chị phòng Xuất nhập khẩu Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội để em có thể hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Marketing căn bản- GS. Trần Minh Đạo chủ biên
Năm 2006 - NXB Giáo dục- Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
2.Quản trị Marketing- Phillip Kotler- NXB Thống Kê.
3.Các báo cáo tổng hợp tại Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
4.Tạp chí kinh tế, tạp chí Marketing.
5.Các trang web:
www.hanosimex.com.vn
www.mof.gov.vn
www.smenet.com.vn
www.vienkinhte.hcmcity.gov.vn
6.Các luận văn khác.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11162.doc