A - Lời nói đầu
Lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản của K.Marx là một trong những lý luận quan trọng hàng đầu và nó có giá trị rất lớn đối với hệ thống lý luận của ông. Việc chúng ta nghiên cứu nó để vận dụng là một công việc hết sức cần thiết và đòi hỏi sự tỉ mỉ và sáng suốt cao. Cần đứng trên một cái nhìn khách quan mà không phải là một cách hiểu áp đặt và tuỳ tiện. Bởi sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, giữa quá trình tạ
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lý thuyết tuần hoàn & chu chuyển tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o ra giá trị thặng dư và quá trình thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất, cần nghiên cứu quá trình lưu thông cùng những quan hệ bóc lột của tư bản, giải thích được đầy đủ những biểu hiện bên ngoài của chủ nghĩa tư bản.
Theo nghĩa hẹp: lưu thông tư bản là quá trình biến tư bản từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hoá và từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ diễn ra trên thị trường hàng hoá và thị trường lao động.
Qua sự nghiên cứu, tìm hiểu kỹ càng về lý thuyết tuần hoàn chu chuyển của tư bản chúng ta nên vận dụng nó một cách linh hoạt, tránh cứng nhắc và máy móc, rập khuôn như một kiểu sao chép không chọn lọc. Kinh tế thị trường là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, đặc biệt là khi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung XHCN sang nền kinh tế thị trường có điều tiết của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa thì điều đó càng là một vấn đề mới mẻ. Vận dụng lý luận tuần hoàn, chu chuyển tư bản là điều tất yếu, khách quan, nó giúp cho các nhà kinh doanh sử dụng và lưu thông tư bản nhanh chóng, có hiệu quả, thu được nhiều lợi nhuận từ đó tăng khả năng mở rộng đầu tư và khả năng tái sản xuất, làm cho nền kinh tế trở nên sôi động hơn.
Muốn làm được như vậy, Nhà nước ta phải có những chính sách đúng đắn nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tham gia hưởng ứng và hoạt động hiệu quả để đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Lý thuyết tuần hoàn - chu chuyển tư bản là một vấn đề khó, khi nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Được sự quan tâm và giúp đỡ to lớn của thầy giáo song cũng chưa thể hoàn hảo được bài làm của mình, tôi hy vọng sự giúp đỡ hợp tác của các bạn sinh viên để bài làm của mình được hoàn chỉnh hơn.
B - nội dung
I. Tuần hoà của Tư bản
1. Ba giai đoạn của sự vận động của tư bản và sự biến hoá hình thái của tư bản.
Mọi tư bản đều xuất hiện trước hết dưới một hình thức một số lượng tiền tệ nhất định và được sử dụng để mang lại tiền tệ phụ thêm bằng cách bóc lột lao động làm thuê muốn đạt được kết quả ấy tư bản phải vận động qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất: Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là người mua, thực hiện hành vi tiền hàng (T- H).
+ Giai đoạn thứ hai: Nhà tư bản tiêu dùng sản xuất các hàng hoá đã mua tức là tiến hành sản xuất. Kết quả là nhà tư bản có được 1 hàng hoá có giá trị lớn giá trị của các yếu tố sản xuất ra hàng hoá đó.
+ Giai đoạn thứ ba: Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán, thực hiện hành vi H’ - T’
a. Giai đoạn thứ nhất (T - H)
Mới thoạt nhìn thì hành vi T-H cũng là một sự mua bán thông thường. Tiền tệ ở đây được sử dụng làm phương tiện mua như mọi tiền tệ khác trong lưu thông. Nhưng nếu xét kỹ các loại hàng hoá mà nhà tư bản đã mua thì tiền tệ đã đóng một vai trò khác hẳn. Hàng hoá mua ở đây là tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là của những nhân tố vật chất và người của sản xuất hàng hoá. Dĩ nhiên là đặc tính của các nhân tố này phải phù hợp với nhân tố cần chế tạo, ngoài sự phù hợp về tính chất ra sức lao động và tư liệu sản xuất phải bảo đảm đầy đủ cho việc sử dụng triệt để toàn bộ thời gian lao động tất yếu là lao động thặng dư của sức lao động.
Quá trình này có thể trình bày theo công thức:
T - H
TLSX
SLĐ
Rõ ràng trong quá trình này, hành vi T - SLĐ (việc mua sức lao động), là yếu tố đặc trưng khiến tiền xuất hiện là tư bản. Hành vi T - SLĐ chỉ cần thiết cho sức lao động đã mua có thể hoạt động được. Song T - SLĐ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là vì tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện rất sớm để mua cái gọi là những sự phục vụ, nhưng mặc dầu thế, tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư bản tiền tệ, nét đặc trưng ở đây không phải là ở chỗ người ta có thể mua được sức lao động bằng tiền mà là ở chỗ sức lao động thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán, một quan hệ tiền tệ, nhưng trong đó, người mua là nhà tư bản, kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê đã tách rời hoàn toàn với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ đề ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa, trái lại, chính sự tồn tại của mối quan hệ đó mới làm cho chức năng đơn giản của tiền biến thành chức năng của tư bản. Do đó chính trên cơ sở của tư liệu sản xuất và sức lao động hoàn toàn tách rời nhau, quan hệ giai cấp giữa nhà tư bản và người lao động làm thuê đã có, mà tiền của nhà tư bản ứng ra để thực hiện hành vi
T - H
TLSX
SLĐ
Hoàn thành quá trình này, giá trị tư bản trút bỏ hình thái tiền tệ để tồn tại dưới hình thái hiện vật là sức lao động và tư liệu sản xuất, dưới hình thái các yếu tố của sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là hình thái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
b. Giai đoạn thứ hai (.... SX ....)
Mua được hàng hoá sức lao động rồi, nhà tư bản không thể đem nó trong một thời gian nhất định. Hơn nữa, chỉ có tiêu dùng sức lao động mới tiêu dùng được tư liệu sản xuất đã mua. ở đây người sở hữu muốn thu được tiền về thì phải có hàng hoá để bán, do đó buộc anh ta phải tiến hành sản xuất hàng hoá. Nói cách khác, tiếp theo giai đoạn thứ nhất (mua tư liệu sản xuất và sức lao động) tất yếu phải đến giai đoạn sản xuất, quá trình này có thể biểu diễn như sau:
H
TLSX
SLĐ
.... SX - H ’
Quá trình sản xuất diễn ra ở đây cũng như mọi quá trình sản xuất của mọi hình thái xã hội là do kết hợp hai yếu tố người và tư liệu sản xuất hợp tác lại mà có. Song sự kết hợp này là do vốn hoàn toàn tách rời nhau này là do “công lao” của nhà tư bản ứng tiển của họ ra để thực hiện sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì vậy, trở thành hình thái của giá trị tư bản ứng trước, chúng phân thành những yếu tố khác nhau của tư bản sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi làm chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của bản thân nó để biến thành các thành phần ấy thành một sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng hoá mới tạo ra, khác về giá trị so với các hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất.
Hàng hoá mới này là hàng hoá đã mang giá trị thặng dư nó đã trở thành hàng hoá H’ có giá trị bằng sản xuất + m tức là bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí để chế tạo ra nó, cộng với giá trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Như vậy kết quả của giai đoạn hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
c. Giai đoạn thứ ba (H’ - T’)
Sản xuất ra hàng hoá rồi, tư bản chưa thể ngừng sự vận động của nó lại được. Tư bản bây giờ tồn tại dưới hình thái hàng hoá nên cần phải đem bán hàng hoá để thu tiền về thì mới tiếp tục được công việc kinh doanh.
Quá trình này có thể trình bày bằng công thức: H’ - T’. Hàng hoá - tư bản ném vào lưu thông cũng không có gì phân biệt với hàng hoá thông thường, nó cũng chỉ thực hiện chức năng vốn có của hàng hoá là trao đổi để lấy tiền. Nhưng sở dĩ nó là tư bản hàng hoá vì ngay sau quá trình sản xuất, nó đã là H’, đã mang trong mình giá trị của tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Vì vậy, chỉ cần tiến hành trao đổi theo đúng quy luật như các hàng hoá thông thường và nếu bán được toàn bộ thì H’, đảm bảo thu được T’ nghĩa là thu được số tiền trội hơn so với tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H’, do đó là chức năng của mọi sản phẩm hàng hoá, song đồng thời lại là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản đã được thực hiện. Tư bản đã trở lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Tổng hợp quá trình vận động của cả ba giai đoạn của tư bản ta có công thức sau:
T - H
TLSX
SLĐ
.... SX .... H ’ - T’
Trong công thức này, tư bản biểu hiện thành một giá trị thông qua chuỗi biến hoá hình thái quan hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau; thông qua một chuỗi những biến hoá hình thái mà bao nhiêu biến hoá hình thái ấy bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn trong quá trình vận động của tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn lần lượt mang ba hình thái để rồi trở lại về hình thái ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên, là sự tuần hoàn của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Mặt khác, bản thân sự tuần hoàn làm cho tư bản phải nằm lại ở chỗ mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần hoàn của tư bản là một sự vận động liên tục không ngừng, đồng thời là sự vận động đứt quãng không ngừng, chính trong sự vận động mâu thuẫn đó mà tư bản tự bảo tồn, chuyển hoá giá trị và không ngừng lớn lên.
2. Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp.
Tư bản trong quá trình vận động trải qua ba giai đoạn, lần lượt khoác lấy các hình thái tư bản - tiền tệ, tư bản - sản xuất, tư bản và hàng hoá ở mỗi hình thái như thế, nó hoàn thành một chức năng thích hợp, tư bản đó là tư bản công nghiệp, công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành sản xuất kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ như vậy là tư bản công nghiệp là hình thái tồn tại duy nhất của tư bản, mà chức năng của nó không phải chỉ chiếm lấy giá trị thặng dư.
Do đó, tư bản tiền tệ, tư bản hàng hoá và tư bản sản xuất đều không phải là tư bản độc lập. ở đây, các tư bản ấy chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp với ý nghĩa bao quát mọi ngành sản xuất kinh doanh phương thức tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì tư bản hình thái tồn tại duy nhất của tư bản, mà chức năng của nó không phải là chiếm lấy giá trị thặng dư mà còn tạo ra giá trị thặng dư.
Do đó, tư bản tiền tệ và tư bản hàng hoá và tư bản sản xuất đều không phải loại tư bản độc lập. ở đây, các tư bản ấy chỉ là những hình thái chức năng đặc thù của tư bản công nghiệp. Tư bản này lần lượt mang ba hình thái ấy, và nếu xét trong quá trình vận động liên tục thì mỗi hình thái đều xem là điểm xuất phát đồng thời là điểm hồi quy của nó. Tuần hoàn của tư bản công nghiệp, tuần hoàn của tư bản tiền tệ hoặc dạng tuần hoàn của tư bản sản xuất, hoặc cũng có thể là dạng tuần hoàn của tư bản hàng hoá.
a. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ có công thức T - H ... SX .... H’ - T’, với điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’, đã biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ, mục đích vận động của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền và tích luỹ tiền. Trong tuần hoàn này, T là phương tiện được ứng ra trong lưu thông, nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn, còn giai đoạn sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được một “tai vạ” cần thiết để làm ra tiền. Chính do đó mà tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất của tư bản tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Song cũng chính do đó mà nó là hình thái phiến diện nhất, che dấu nhất quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa.
b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất có công thức: SX .... H’ - T’ - H’ .... SX nói lên sự lặp đi lặp lại một cách chu kỳ của tư bản. Hình thái tư bản hàng hoá trong tuần hoàn này cho thấy rất rõ là nó từ quá trình sản xuất mà ra là kết quả trực tiếp của sản xuất; còn hình thái tiền tệ của tư bản - kết thúc sự thực hiện của tư bản hàng hoá (H’) - là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, tức là chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn này cũng đã vạch rõ được nguồn gốc của tư bản. Dù là tái sản xuất giản đơn hay tái sản xuất mở rộng, nguồn tư bản đều từ quá trình sản xuất mà ra. Song tuần hoàn này lại không biểu thị việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Dù là SX hay SX’ (nếu có tái sản xuất mở rộng), kết cục nó cũng chỉ xuất hiện dưới hình thái cần thiết làm chức năng của tư bản sản xuất, thực hiện quá trình tái sản xuất, nó không hề chỉ ra mục đích của quá trình làm tăng giá trị thặng dư cho người ta dễ nhầm rằng mục đích của nó chỉ là bản thân sản xuất, trung tâm của vấn đề chỉ là cố gắng sản xuất thật nhiều và thật rẻ, có trao đổi cũng chỉ là trao đổi để tiến hành sản xuất được liên tục, nên cũng không có hiện tượng sản xuất thừa.
c. Tuần hoàn của tư bản hàng hoá.
Tuần hoàn của tư bản hàng hoá có công thức: H’ - T’ - H ... SX .... H’ khác hẳn các hình thức tuần hoàn khác ở chỗ: điểm xuất phát bao giờ cũng bằng H’, bằng một giá trị đã tăng thêm giá trị thặng dư với bất kỳ tăng thêm một giá trị tư bản ứng trước đã chứa đựng giá trị thặng dư với bất kỳ quy mô như thế nào. Điểm này làm cho nó có một số đặc điểm khác là:
Một là, ngay từ cực đầu, nó đã biểu hiện ra là hình thái của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa, nên từ đầu nó đã bao gồm tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân.
Hai là, kết thúc bằng H’, chưa chuyển hoá trở lại thành tiền đã tăng thêm giá trị (T’), nó là hình thái chưa hoàn thành và còn phải tiếp tục tiến hành, vì vậy nó đã bao hàm tái sản xuất.
Ba là, nó là hình thái làm nổi bật lên sự liên tục của lưu thông. H’ điểm bắt đầu tuần hoàn và H’ của lưu thông đều biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán. Do đó nếu H’ điểm bắt đầu tuần hoàn đòi hỏi lưu thông thì điểm kết thúc H’ cũng đòi hỏi ngay một quá trình lưu thông mới.
Bốn là, hình thái tuần hoàn này còn trực tiếp bộc lộ mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau. Mỗi nhà tư bản đều ném H’ vào lưu thông và dùng T’ đã thu được để mua các hàng hoá để tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Cả hai loại hàng hoá này đều nằm trong lưu thông và cũng là do các nhà tư bản công nghiệp cung cấp cho nhau. Do đó hình thái tuần hoàn này không phải chỉ là một hình thái vận động chung cho mọi nhà tư bản công nghiệp cá biệt - mà đồng thời còn hình thái vận động của tổng số những tư bản cá biệt, tức là hình thái vận động của tổng tư bản của giai cấp tư bản, là một vận động trong đó vận động của mỗi một tư bản công nghiệp chỉ biểu hiện thành vận động bộ phận, chằng chịt với những bộ phận, chằng chịt với những vận động của các tư bản khác và bị chế ước với những vận động này. Như vậy là hình thái tuần hoàn H’ - H’ đã vạch rõ rằng sự thực hiện hàng hoá là điều kiện thường xuyên của các quá trình sản xuất và tái sản xuất, song nó cũng quá nhấn mạnh tính liên tục của lưu thông hàng hoá, nên người ta có ấn tượng rằng tất cả mọi yếu tố của quá trình sản xuất đều là do lưu thông hàng hoá mà ra và chỉ gồm có hàng hoá thôi.
Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hoàn thì mỗi hình thái chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện: mỗi hình thái đều làm nổi mặt bản chất này và lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động của tư bản công nghiệp. Do đó phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hoàn mới nhận thức đầy đủ sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết đúng đắn bản chất của mối quan hệ mà giai cấp mà tư bản biểu hiện trong vận động của nó.
Trong thực tế, cũng chỉ có sự thống nhất cũng chỉ có ba hình thái tuần hoàn thì quá trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành một cách liên tục không ngừng. Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường chỉ khi nào trải qua cả ba giai đoạn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một giai đoạn nào đó bị ngừng trệ thì toàn bộ sự tuần hoàn sẽ bị phá hoại. Song muốn bảo đảm được không bị ngừng trệ của tư bản, muốn đảm bảo cho tư bản liên tục chuyển hoá hình thái của các giai đoạn chuyển tiếp kế tục nhau thì phải có đủ hai điều kiện:
Thứ nhất, toàn bộ tư bản phải phân ra ba bộ phận tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái;
Thứ hai, mỗi bộ phận ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không ngừng liên tục trải qua cả ba hình thái.
Hai điều kiện này ràng buộc chặt chẽ nhau, là tiền đề khăng khít của nhau. Chỉ khi nào có sự sắp xếp kề nhau của các bộ phận tư bản tồn tại đồng thời cả ba hình thái thì mới có sự kế tục nhau không ngừng thì tư bản mới tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái được. Vì vậy, C.Mác viết: “... tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp, trong sự liên tục của nó, không những là sự thống nhất của quá trình lưu thông và quá trình sản xuất mà cũng là sự thống nhất của cả 3 tuần hoàn của nó”.
II. Chu chuyển của tư bản.
1. Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển:
Sự tuần hoàn của tư bản nói lên sự biến hoá hình thái của tư bản của các giai đoạn lưu thông và sản xuất. Nhưng tư bản không phải chỉ biến hoá hình thái một lần rồi dừng lại “... tư bản là một sự vận động, chứ không phải là một vật đứng yên”(1) C.Mác - Tư bản, quyển II, tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội 1961, trang 134
. Tư bản nếu muốn tồn tại là tư bản thì phải không ngừng đi vào lưu thông tiếp tục thực hiện liên tục quá trình biến hoá hình thái, tức là sự tuần hoàn liên tục không ngừng, sự tuần hoàn của tư bản được lặp đi lặp lại nhiều lần - có định kỳ - đó là sự chu chuyển của tư bản. Mác nói: “Tuần hoàn của tư bản khi được coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải là một chương trình cô lập, thì gọi là vòng chu chuyển của tư bản”(1) Sách đã dẫn , trang 203
.
* Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy có kèm theo giá trị thặng dư. Chu chuyển của tư bản chỉ là tuần hoàn tư bản xét trong một quá trình định kỳ nên thời gian chu chuyển của tư bản cũng là tổng số thời gian lưu thông và giai đoạn sản xuất trong quá trình tuần hoàn tức là bằng tổng số thời gian lưu thông và thời gian sản xuất.
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất lại bao gồm:
- Thời gian lao động, tức là thời gian mà người lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào tư liệu lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư của nhà tư bản.
- Thời gian gián đoạn lao động, tức là thời gian để đối tượng lao động hoặc bán thành phẩm chịu tác động của tự nhiên mà không cần lao động của con người góp sức. Đó là những trường hợp thóc giống đã gieo, rượu để cho lên men, gỗ, gạch để phơi khô,... chẳng hạn.
- Thời gian dự trữ sản xuất, tức là thời gian mà tư bản sản xuất sẵn sàng làm điều kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa phải là yếu tố hình thành sản phẩm, cũng chưa phải là yếu tố hình thành giá trị. Bộ phận tư bản này là tư bản ở hàng hoá, nhưng tình trạng ở hàng hoá này không ngừng quá trình sản xuất.
- Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất là thời gian không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn các thời gian này cũng giảm bớt sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân tố, chủ yếu là bốn nhân tố sau đây:
a. Tính chất của ngành sản xuất: thời gian sản xuất của ngành công nghiệp đóng tàu dài hơn thời gian sản xuất của công nghiệp nhẹ như dệt, may, thực phẩm,...
b. Năng suất lao động cao hay thấp.
c. Vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
d. Dự trữ sản xuất nhiều hay ít.
* Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian của tư bản trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng tư bản sản xuất, do đó không sản xuất ra tư bản hàng hoá và cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông dài hay ngắn khiến cho quá trình sản xuất lặp đi lặp lại nhanh hay chậm, khiến cho khối lượng một tư bản nhất định làm chức năng tư bản sản xuất được tăng thêm hay bị rút bớt, do đó mà năng xuất của tư bản đẻ ra giá trị thặng dư lớn lên hay giảm sút.
Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán, trong đó thời gian bán là quan trọng và khó khăn hơn. Thời gian lưu thông dài hay ngắn chủ yếu là ba nhân tố sau:
- Tình hình thị trường xấu hay tốt.
- Khoảng cách thị trường xa hay gần.
- Phương tiện giao thông khó khăn hay thuận lợi.
Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt nhân tố nên độ dài của thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của các tư bản không thể giống nhau. Do đó, thời gian chu chuyển của các tư bản trong các ngành khác nhau và cả những tư bản trong một ngành cũng rất khác nhau. Thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác nhau như vậy nên muốn tính toán và so sánh với nhau được thì phải có một đơn vị đo lường thống nhất, đơn vị đó là năm. Dùng năm làm tốc độ đo lường chu chuyển của tư bản, có nghĩa là muốn xác định tư bản quay được mấy vòng trong một năm. Lấy n là số lần chu chuyển; CH là năm đơn vị đo lường, và ch là thời gian chu chuyển một vòng của tư bản thì sẽ có công thức tính số vòng chu chuyển của tư bản như sau:
n =
Ví dụ: một tư bản chu chuyển một vòng mất 6 tháng thì số vòng chu chuyển sẽ là:
n = = 2 vòng
- Một tư bản khác chu chuyển một vòng hết 24 tháng thì số vòng chu chuyển là:
n = = 0,5 vòng
2. Tư bản cố định và tư bản lưu động.
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu chuyển của các bộ phận tư bản phải ứng ra để tiến hành sản xuất. Nhưng phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau, do đó vòng chu chuyển của chúng cũng rất khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau, người ta phân chia các bộ phận tư bản ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
a. Tư bản cố định: là bộ phận tư bản tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó chuyển từng phần vào sản phẩm, được xếp vào tư bản cố định trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động (máy móc, thiết bị, nhà xưởng,...) đang được sử dụng trong quá trình sản xuất, hình thái giá trị sử dụng của bộ phận tư bản này luôn luôn được duy trì, tồn tại như khi nó mới gia nhập vào quá trình lao động. Chức năng tư liệu lao động trong quá trình sản xuất giữ chúng lại đó, do đó bộ phận giá trị tư bản ứng ra được cố định lại dưới hình thái ấy. Bộ phận tư bản này luôn được duy trì, tồn tại như khi nó mới gia nhập vào quá trình lao động, chức năng tư liệu lao động trong quá trình sản xuất chỉ chủng loại đó và do đó bộ phận giá trị tư bản ứng ra được cố định lại dưới hình thức giá trị sử dụng của nó, chỉ có giá trị của nó lưu thông thôi và lưu thông dần dần từng phần một theo một nhịp độ mà giá trị đó được chuyển vào sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy không ngừng giảm cho đến khi tư liệu lao động trở thành vô dụng. Tư liệu lao động càng bền bao nhiêu, càng chậm hao mòn bao nhiêu thì giá trị tư bản bất biến sẽ được cố định dưới hình thái giá trị sử dụng ấy trong thời gian càng lâu bấy nhiêu. Xếp vào tư bản cố định còn có bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái các tư liệu sản xuất mà xét về mặt chuyển giá trị, do đó về phương thức lưu thông giá trị cũng giống như tư liệu lao động nói trên. Ví dụ những chất dùng để cải tạo chất đất, những chất này đem vào trong đất những nguyên tố hoá học và tác dụng kéo dài trong nhiều thời kỳ sản xuất,... Trường hợp này không phải chỉ có một bộ phận giá trị của tư bản cố định được chuyển vào sản phẩm mà cả giá trị sử dụng của bộ phận giá trị ấy cũng được chuyển vào sản phẩm.
b. Tư bản lưu động:
Là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên liệu, vật liệu phụ, nhiên liệu,... trong quá trình lao động bộ phận tư bản khả biến, xét về mặt phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu động nó cũng được sắp xếp vào tư bản lưu động.
Sự phân chia tư bản thành bộ phận cố định và bộ phận lưu động là đặc điểm riêng của tư bản sản xuất. Chỉ có tư bản sản xuất mới có sự phân chia này, và căn cứ của sự phân chia là phương thức chu chuyển của tư bản. Do đó, những tư liệu sản xuất khi được coi là tư bản cố định, khi được coi là tư bản lưu động tuỳ theo chức năng của nó trong quá trình sản xuất. Ví dụ: trâu bò kéo cầy là tư bản cố định, nhưng trâu bò thịt là tư bản lưu động. Trong quá trình sản xuất, tư bản cố định bị hao mòn dần dần. Từ một chiếc máy mới nguyên vẹn, nó bị hao mòn dần dần và cuối cùng chỉ là đống sắt vụn. Đó là mặt hao mòn về giá trị sử dụng. Đồng thời với hao mòn vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần do đã chuyển từng phần một sang sản phẩm, đó là mặt hao mòn về giá trị, những sự hao mòn đó được gọi là hao mòn hữu hình, những hao mòn này là do sử dụng vào sản xuất, do sức phá hoại của thiên nhiên gây ra, (ví dụ máy móc bị gỉ,...).
Ngoài hao mòn hữu hình, tư bản cố định còn có hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình là sự hao mòn về mặt giá trị, trong khi giá trị sử dụng mới hao mòn một phần hoặc còn nguyên vẹn. Hao mòn vô hình xảy ra do các nguyên nhân sau đây:
Năng suất lao động tăng lên, do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ, tuy giá trị sử dụng của những chiếc máy này còn nguyên vẹn hoặc mới hao mòn một phần.
- Kỹ thuật cải tiến nên người ta sản xuất được những máy móc tuy có giá trị bằng giá trị của máy cũ (hoặc cao hơn chút ít) nhưng lại có công xuất vượt xa công suất của máy cũ. Tình hình này làm cho những chiếc máy cũ tuy giá trị sử dụng vẫn nguyên vẹn, giá trị đã giảm sút đi nhiều.
Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình bình quân của tư bản cố định được tính chuyển giá trị vào sản phẩm, lưu thông cùng sản phẩm, chuyển hoá thành tiền và trở thành quỹ dự trữ tiền tệ để đổi mới, tư bản cố định khi đến kỳ tái tạo ra tư bản đó dưới hình thái hiện vật, đó là quỹ khấu hao tư bản. Để phát huy hiệu quả của tư bản, bộ phận quỹ khấu hao này có thể được đưa ra sử dụng để mở rộng doanh nghiệp (tăng quy mô theo chiều rộng) hoặc cải tiến máy móc làm cho máy móc tăng thêm hiệu suất (tăng quy mô theo chiều sâu). Vậy là có thể thực hiện được tái sản xuất mở rộng mà không cần có sự tích luỹ tư bản thực sự.
Để tránh những hao mòn bất thường và bảo đảm phát huy hiệu quả cao, tư bản cố định đòi hỏi những chi phí bảo quản đặc biệt. Việc bảo quản ấy được thực hiện một phần ở bản thân quá trình lao động sử dụng nó, bảo tồn nó và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cống hiến tự nhiên không mất tiền của lao động sống. Nhưng để bảo quản tốt, tư bản cố định còn đòi hỏi phải chi phí thực sự sức lao động nữa. Máy móc yêu cầu thỉnh thoảng phải được lau chùi. Đấy là công việc phụ, nhưng nếu không làm thì máy móc sẽ hỏng. Ngoài việc cần được bảo quản, tư bản cố định còn cần được tu bổ, sữa chữa cần thiết, do đó đòi hỏi phải có những khoản chi về tư bản và lao động.
Thông thường, mỗi tư bản cố định đều đầu tư trong một ngành công nghiệp nhất định đều được dự tính theo kinh nghiệm những công việc lau chùi, những yêu cầu tiểu tu, đại tu sau những quãng thời gian hoạt động nhất định cũng như sửa chữa hư hỏng thông thường và bất thường có thể xảy ra. Những chi phí cho những khối lượng bảo quản và sửa chữa đó được phân phối bình quân vào suốt cuộc đời phục vụ trung bình của tư bản và được tính vào giá cả sản phẩm được sản xuất ra. Như vậy là những chi phí đó đã được dự tính trước để phân phối đồng đều cho các vòng chu chuyển của tư bản ngay từ vòng đầu. Số tư bản chia ra cho công việc sửa chữa, bảo quản có tính chất đặc biệt, không thể xếp vào tư bản lưu động.
3. Tác dụng của việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản và phương pháp tăng tốc độ ấy.
Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Công thức tính tốc độ của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ của tư bản cố định và giá trị chu chuyển của tư bản lưu động trong năm chia cho tổng tư bản ứng trước.
Song phương pháp đó lại buộc các nhà tư bản lại tăng thêm tư bản ứng trước, là nhất là phải tăng thêm bóc lột, cho nên lại làm tăng thêm mâu thuẫn trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Phương pháp rút ngắn thời gian lưu thông có thể thực hiện bằng cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp, đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải,... Song việc rút ngắn thời gian lưu thông của tư bản lại rất trở ngại sản xuất phát triển, phạm vi thị trường càng mở rộng làm trầm trọng thêm tính chất cạnh tranh vô Chính phủ trong xã hội tư bản, khiến hàng hoá lưu thông hỗn loạn, có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phí do đầu cơ mù quáng, quảng cáo phô trương, hình thức gây ra. Mặt khác, đông đảo quần chúng lao động bị bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm nên sức mua ngày càng giảm.
Như vậy là do mâu thuẫn đối kháng của bản thân chủ nghĩa tư bản, việc rút ngắn thời gian lưu thông của chủ nghĩa tư bản và thời gian sản xuất, do đó việc tăng tốc độ chu chuyển của chủ nghĩa tư bản đã vấp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được sử dụng hết ở các nước đế quốc hùng mạnh, mức độ cạnh tranh, giành giật gay gắt thị trường giữa các nước này hiện nay càng xác minh rõ điều đó.
Tăng tốc độ chu chuyển tư bản và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của mọi nền sản xuất.
C. Sự vận dụng lý thuyết đó vào quản lý các doanh nghiệp nước ta trong nền kinh tế thị trường.
1. Đa dạng hoá loại hình doanh nghiệp và xu hướng cổ phần hoá doanh nghiệp.
a. Đa dạng hoá loại hình doanh nghiệp.
Để huy động tối đa tiềm năng kinh tế cho sự phát triển của đất nước. Từ chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã có những chính sách đa dạng hoá loại hình sở hữu - đa dạng hoá loại hình doanh nghiệp. Nhằm tranh thủ vốn, trình độ quản lý, kỹ thuật, công nghệ của mọi tầng lớp nhân dân của nước ngoài. Để đẩy nhanh tiến độ của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, rút ngắn sự tụt hậu của nước ta với khu vực và thế giới. ở nước ta, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước ta là doanh nghiệp của Đảng - doanh nghiệp Nhà nước phải là những doanh nghiệp chiếm đa số và những doanh nghiệp vững mạnh trong nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo và là xương sống - trụ cột của nền kinh tế, là chỗ dựa cho các thành phần kinh tế khác. Trong những năm đầu của thời kỳ cách mạng XHCN - các doanh nghiệp Nhà nước đã thống trị toàn bộ nền kinh tế và nó đã thể hiện sức mạnh của kinh tế Nhà nước. Nhưng các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn hầu hết là thua lỗ hoặc không có lãi. Nhà nước phải bù lỗ trong kinh doanh và đã làm cho doanh nghiệp Nhà nước suy yếu. Sản lượng và giá trị của DNNN giảm hăn và dần nhường vị trí cho kinh tế tư._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0048.doc