Lý thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và vận dụng nó ở Việt Nam

Bộ giáo dục và đào tạo Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Đề án kinh tế chính trị Đề tài: Lý thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về nền kinh tế thị trường và vận dụng nó ở Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : phạm thành Sinh viên thực hiện : nguyễn văn hoàn Lớp : kiểm toán 41 Hà nội - 2000 A- Phần mở đầu Từ những năm đầu của thập kỷ 90 trở lại đây có lẽ không còn mấy ai nghi ngờ về vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế thị trường trong sự nghiệp xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên ch

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lý thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về nền kinh tế thị trường và vận dụng nó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy vậy khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vẫn không ít ý kiến tranh luận có phải cơ chế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản hay không và sự vận dụng của ta có phải là sự vận dụng kinh nghiệm của chủ nghĩa tư bản hay không? bên cạnh đó do ảnh hưởng của những quan điểm trước đây về một xã hội chủ nghĩa không có kinh tế hàng hoá, không có quan hệ thị trường và do bản thân kinh tế thị trường lại có tính hai mặt của nó. Cho nên trong thực tế, việc nhận thức cho đúng vai trò của kinh tế thị trường đốivới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn còn nhiều vấn đề cần thảo luận. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm hiểu lý thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin về kinh tế thị trường và sự vận dụng của nó ở Việt Nam là cần thiết không chỉ đối với những người nghiên cứu khoa học kinh tế hay đối với những cán bộ quản lý kinh doanh... mà nó còn có ý nghĩa đối với những sinh viên như chúng em – những người chủ tương lai của đất nước. Trong bối cảnh thế giới hiện nay Đảng và nhân dân ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để có cơ sở cho sự thống nhất cao hơn cho đường lối của Đảng và nhân dân ta thì việc nghiên cứu về kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác – Lênin là hết sức cần thiết. Dưới góc độ môn kinh tế chính trị và hạn chế về kiến thức đề án của em chỉ đề cập đến những lý luận cơ bản về kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác – Lênin và quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường ở Việt Nam. B- Phần nội dung I- Lý luận Mác – Lênin về kinh tế thị trường. 1. Thế nào là kinh tế thị trường. Trước hết để hiểu được khái niệm kinh tế thị trường thì ta cần tìm hiểu khái niệm kinh tế hàng hoá, bởi vì kinh tế thị trường chỉ là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị trường. Khi một nền kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao trùm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện, mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường. 2. Sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường. 2.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá. a. Khái quát về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá. Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức tổ chức kinh tế xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên chỉ gồm hai khâu sản xuất và tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế của nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá mục đích của sản xuất là để trao đổi hay để bán. Mục đích đó được xác định trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. So với kinh tế tự nhiên kinh tế hàng hoá có những ưu thế cơ bản sau đây: Một là: Trong kinh tế hàng hoá do sự phát triển của phân công lao động xã hội cho nền sản xuất được chuyên môn hoá ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng. Điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất thúc đẩy việc cải tạo tiến công cụ lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hai là: Trong kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất không phải là để tiêu dùng cho chính bản thân người sản xuất mà để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Chính nhu cầu ngày càng tăng của thị trường đã làm hình thành động lực mạnh mẽ do sự phát triển của sản xuất hàng hoá. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao thì sản xuất phải mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Ba là: Trong kinh tế hàng hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Yêu cầu của cạnh tranh đòi hỏi những đơn vị sản xuất hàng hoá phải thường xuyên quan tâm tới năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm.... để thu được lợi nhuận ngày càng cao vì thế đãk thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bốn là: Trong kinh tế hàng hoá, do sản xuất xã hội ngày càng phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng mở rộng, cho nên sản phẩm hàng hoá ngày càng phong phú về đa dạng, giao lưu kinh tế giữa các vùng ngày càng phát triển. Đời sống vật chất, tinh thần và văn hoá của dân cư ngày càng được nâng cao. b. Những tiền đề của quá trình chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng đinhj kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh của những tiền đề sau: - Sự phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội cho nên mỗi người chuyên làm một việc trong một ngành với một nghề nhất định và chuyên sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất phải tiến hành trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. - Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất. Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau. Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu thuẫn họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Giải quyết mối quan hệ mâu thuẫn này tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dự trên cơ sở trao đổi ngang giá. Khi trao đổi trở thành tập quán và là một mục đích của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời. Phân công lao động xã hội phát triển thì quan hệ trao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phức tạp. Phân công lao động xã hội làm xuất hiện thủ công nghiệp và tách nó ra khỏi ngành nông nghiệp làm hình thành xu hướng công nghiệp thành thị dần dần tách khỏi nông nghiệp nông thôn. - Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp, khi thương nghiệp ra đời, quan hệ trao đổi có sắc thái mới. Người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qau người thứ ba là thương nhân. Việc mở rộng phạm vi xã hội hoá sản xuất đồng thời cũng kéo theo việc chuyên môn hoá ngành nghề. Người sản xuất chuyên sản xuất, còn lưu thông hàng hoá đã có thương nhân đảm nhận. Thông qua hoạt động mua bán của mình, thương nhân đã thực hiện vai trò nối liền sản xuất với sản xuất và sản xuất với tiêu dùng. Qua đó khơi dậy những nhu cầu mới đối với sản xuất và hướng sản xuất phục vụ nhu cầu của thị trường. Thương nghiệp phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Điều này dẫn tới sự mở rộng quan hệ trao đổi giữa các vùng, đồng thời liên kết những người sản xuất với nhau, cuốn hút họ vào quĩ đạo của kinh tế hàng hoá. - Sự phát triển của hệ thống thông tin vào giao thông vận tải. Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển. Đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. Sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống giao thông vận tải có vai trò thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển cao hơn. Điều này dẫn tới sự ra đời của các hoạt động dịch vụ, chế biến... làm cho dân cư chịu sự chi phối của những qui luật phổ biến của sản xuất và lưu thông hàng hoá. 1.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. a. Kinh tế thị trường là hìh thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế ktrong sản xuất đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường. b. Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện sau đây: Một là: Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Trước hết cần khẳng định sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng lao động của mình là là chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được bước tiến bộ lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động để phục vụ túi tiền của các nhà tư bản. Vì vậy làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê. Trong điều kiện lịch sử mới – thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội – không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối lợi ích kinh tế và của chi phí cơ hội, những người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác nếu như họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh. Trong lịch sử, sự hoạt động của qui luật giá trị đã từng dẫn tới sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo. Sự phân hóa này dẫn ra chậm chạp, cho nên cần phải có bạo lực của Nhà nước để thúc đẩy sự phân hoá này diễn ra được nhanh hơn. Chính sự phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo tới một giới hạn nhất định đã làm nảy sinh hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Sự xuất hiện hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành kinh tế thị trường là vi: - Kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển. Nó có năng suất lao động cao. Ngoài những sản phẩm cần thiết còn có những sản phẩm thặng dư. Chính sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động đã phảnánh điều đó. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Tính chất đặc biệt của nó được thể hiện tập trung ở thuộc tính giá trị sử dụng của nó. Do kỹ thuật sản xuất phát triển cho nên năng suất lao động của người công nhân đã cao, ngày lao động của người công nhân được chia thành hai phần, phần thời gian lao động cần thiết và phần thời gian lao động thặng dư. Chỉ đến một giới hạnh nhất định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất- khi kỹ thuật sản xuất phát triển- năng suất lao động xã hội được nâng cao thì sức lao động của người ta mới trở thành đối tượng của quan hệ mua bán. Sự xuất hiện hàng hoá sức lao động phản ánh giai đoạn sản xuất đã phát triển trong đó năng suất lao động đã cao. - Nhờ có sự xuất hiện của hàng hoá lao động và thị trường lao động mà tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Với sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động dẫn tới sự hình thành thị trường các yếu tố sản xuất một cách hoàn chỉnh. Hai là: Phải tích luỹ được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Ba là: Kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, coh nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Để hình thành được nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, ngân hàng còn quá yếu ớt hệ thống quan hệ tín dụng còn quá giản đơn không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh doanh. Bốn là: Sự hình thành nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, trên cơ sở đó mới đảm bảo cho lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. Năm là: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nhiều nowcs, đây là điều kiện có tính then chốt hình thành nền kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời Nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lý hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Các qui luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ. 1.3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn, mô hình kinh tế thị trường – xã hội của cộng hoà Liên bang Đức, kinh tế thị trường của Thuỵ Điển, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc... Nếu gác lại những đặc điểm riêng, cá biệt của những mô hình kể trên, chỉ tính đến những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường, có thể nêu lên những đặc điểm mang tính phổ biến như sau: Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ, năng động. Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán. Người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên. Sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường, một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội mặt khác cũng nói lên mức độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ của phân công lao động xã hội và sự phát triển của thị trường. Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá dịch vụ. Trên cơ sở giá trịk thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của qui luật lưu thông hàng hoá. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn luôn muốn bán giá cao, người mua luôn luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp được chi phí và có doanh lợi càng nhiều càng tót. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được cả lợi ích của người mua lẫn lợi ích người bán. Tất nhiên trong cuộc “giằng co” giữa người mua và người bán để hình thành giá cả thị trường, lợi thế sẽ nghiêng về phía người bán, nếu như cung ít, cầu nhiều và ngược lại, lợi thế sẽ nghiêng về phía người mua nếu như cung nhiều, cầu ít. Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu cầu của qui luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lưu thông. Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm: Cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. Cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao gồm: cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi nhuận. Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. 3. Thị trường và cơ chế thị trường. 3.1. Thị trường. a. Khái niệm và phân loại thị trường. Thị trường nếu được hiểu theo nghĩa ban đầu – nghĩa nguyên thuỷ, thị trường gắn liền với một địa điểm nhất định. Nó là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Thị trường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường. Nói tới thị trường trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng và tiền, người mua và người bán. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mua bán, cung cầu và giá cả hàng hoá. Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. b. Phân loại thị trường. Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều cách phân loại thị trường khác nhau. Chẳng hạn, dựa vào các hình thức lưu thông hàng hoá, người ta đã phân chia thị trường thành: Thị trường cung ứng vật tư kỹ thuật, thị trường hàng tiêu dùng. Dựa vào quan hệ sở hữu, người ta chia thị trường thành thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Việc phân loại thị trường như trên có nhiều hạn chế. Có thể phân loại thị trường như sau: - Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. ở thị trường này người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc.... Những hàng hoá tiêu dùng ngày càng nhiều theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá. Ngoài những hàng hoá hữu hình, còn có những hàng hoá vô hình được coi là dịch vụ như: sửa chữa, may vá.... Hoạt động dịch vụ ngày càng phát triển và nó đem lại những thu nhập ngày càng lớn. Nhìn chung, ở thị trường hàng hoá và dịch vụ người ta mua bán những sản phẩm là kết quả của sản xuất, nên thị trường này được gọi tắt là thị trường “đầu ra”. - Thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như: các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, sức lao động... Thị trường này được gọi là thị trường “đầu vào”. Sự phân loại thị trường thành hai loại như trên là dựa trên cơ sở chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường, dựa vào sự phát triển của phạm trù hàng hoá. Hàng hoá mở rộng tới đâu thì thị trường cũng mở rộng ra tới đó. c. Vai trò của thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá, cần sản xuất mặt hàng gì, với số lượng bao nhiêu, điều đó phải thông qua thị trường. Như vậy thị trường chính là lực lượng hướng dẫn, đặt nhu cầu cho sản xuất. Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo quan hệ tỷ lệ nhất định. Quan hệ tỷ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất. Nếu kỹ thuật tiến bộ thì một lượng sức lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Để sản xuất cần phải có các yếu tố sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán. Thị trường là nơi tiêu thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp. Thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn. Như vậy, doanh nghiệp là người mua các yếu tố sản xuất và bán những sản phẩm mình làm ra. Qui mô của việc mua vào và bán ra này sẽ quyết định qui mô của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp như những cơ thể sống thì thị trường là nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống đó và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để cho sự sống tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện và là môi trường cho hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp. Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng chủng loại các hàng hoá, số lượng hàng hoá cũng như chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó, có thể nói thị trường điều tiết sản xuất và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày công nghệàg năng động hơn, sáng tạo hơn, hiệu quả của sản xuất kinh doanh ngày càng tốt hơn. Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân cá biệt thành lao động xã hội. 3.2. Cơ chế thị trường. Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường chính là bộ máy điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các qui luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là qui luật giá trị – qui luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sự hoạt động của qui luật giá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị thị trường của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá trị thị trường. Ngoài ra giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quan hệ cung – cầu hàng hoá. Tính qui luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện: - Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường. Còn nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động đến quan hệ cung cầu hàng hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu của thị trường về loại hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung tăng lên, đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống. Như vậy có thể nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện quan hệ giữa những người bán và những người mua cũng như quan hệ giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng. Trên thị trường người bán luôn muốn bán hàng hoá của mình với giá cao, người mua lại luôn luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua với người bán. Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, qui luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Nếu giá cả của hàng hoá trong một ngành kinh tế nào đó có xu hướng tăng lên thì ngành đó sẽ thu hút thêm lao động xã hội, làm cho qui mô sản xuất của ngành này tăng lên. Ngược lại, nếu giá cả của hàng hoá có xu hướng tăng lên sẽ làm cho những người sản xuất hàng hoá thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy những người sản xuất hàng hoá khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cả cao, mở rộng qui mô sản xuất. Nếu giá cả giảm xuống thì diễn biến của sản xuất có xu hướng ngược lại, nghĩa là giá cả giảm xuống sẽ làm cho qui mô sản xuất thu hẹp lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không”. Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, qui luật giá trị còn có tác dụng điều tiết lưu thông hàng hoá nghĩa là chi phối luồng vận động của hàng hoá. Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ những thị trường có giá cả thấp đến những thị trường có giá cả cao. Khả năng tách rời giá trị của giá không phải là nhược điểm của qui luật giá trị mà trái lại nó lại là vẻ đẹp riêng biệt của qui luật giá trị, là cơ chế hoạt động của qui luật giá trị. Nếu giá cả thị trường của hàng hoá luôn luôn ngang bằng với giá trị của nó thì không có sự hoạt động của qui luật giá trị, nói khác đi điều đó cũng có nghĩa là phủ định sự hoạt động của qui luật giá trị. Trong những giai đoạn khác nhau của sản xuất và lưu thông hàng hoá qui luật giá trị cũng có những biểu hiện hoạt động khác nhau. Trong giai đonạ cạnh tranh tự do, vì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất (Giá cả sản xuất = Chi phí sản xuất + Lợi nhuận bình quân) cho nên sự hoạt động của qui luật giá trị trong giai đoạn này có biểu hiện: giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá cả sản xuất. Trong giai đoạn độc quyền, sự hoạt động của qui luật giá trị lại có biểu hiện mới: giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả độc quyền. Giới hạn thấp nhất của giá cả thị trường chính là chi phí sản xuất (c + v). Giá cả phải bù đắp được chi phí sản xuất. Giới hạn trên của giá cả tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thị trường. Người bán phải biết bán giá cả cao, nhưng nếu giá cao quá sẽ có lợi cho đối thủ trong cạnh tranh vì người mua luôn luôn muốn mua với giá thấp. Giá bán cao quá sẽ mất khách hàng, hàng hoá khó tiêu thụ, bước chuyển hàng hoá thành tiền không thực hiện được. Vì vậy, giới hạn cao của giá cả chính là nhu cầu có khả năng thanh toán của người mua. Giá cả thị trường có những chức năng sau đây: - Chức năng thông tin giá trị là phương tiện phát tín hiệu thông qua đó các doanh nghiệp được mình cần phải sản xuất loại hàng hoá gì để có nhiều lợi nhuận. Giá cả thấp sẽ không hấp dẫn các nhà kinh doanh. - Giá cả làm cân bằng cung cấp cầu nên các nguồn lực được sử dụng hợp lý. - Giá cả làm chức năng phân phối và p n lại thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội. - Giá cả là phương tiện nối liền hàng hoá với tiền tệ, người sản xuất với người tiêu dùng. Nói tới cơ chế thị trường là nói tới cơ chế vận động của thị trường theo những qui luật nội tại của nó: qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật lưu thông tiền tệ. Nói đến cơ chế thị trường cần phải nói tới cạnh tranh. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế thị trường. Nó đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với những xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế. Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa. Vì vậy tác động của cơ chế thị trường được phát hiện khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là "Bàn tay vô hình" điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 4. Những ưu thế và khuyết tật của cơ chế thị trường 4.1. Những ưu thế của cơ chế thị trường. Trước hết cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động. Động lực này đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ. Hai là, cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. Sở dĩ như vậy là vì: trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên. Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do vậy, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội. 4.2. Những hạn chế của cơ chế thị trường. Trước hết phải nói tới những căn bệnh gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường đó là: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hoá giàu nghèo và gây ô nhiễm môi trường. Khủng hoảng "thừa" là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển. ở đây, do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35032.doc
Tài liệu liên quan