Lý luận về tích luỹ tư bản và vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam

Lời mở đầu Nhằm thực hiện sự nghiệp đổi mới, từ đại hội Đảng lần thứ VI ( 12-1986) và tiếp tục phát triển qua Đại hội Đảng lần thứ VIII (3-1996) nước ta chuyển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch và các công cụ kinh tế khác. Vì vậy việc nghiên cứu kinh tế chính trị học là một vấn đề cần thiết cho sinh viên các trường kinh tế cũng như những người quan tâm đến kinh tế thị trường. Để làm rõ phần nào bản chất của tư bản và toàn bộ tài sản của giai

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Lý luận về tích luỹ tư bản và vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp tư sản cùng như việc cần phải thiết lập quan hệ sản xuất mới khác với quan hệ sản xuất TBCN. Đó là quan hệ sản xuất XHCN thì việc nghiên cứu vấn đề tích luỹ cơ ban là vấn đề không kém phần quan trọng. Đối với vấn đề tích luỹ tư bản đã được nhiều nhà kinh tế nổi tiếng như Adamsmit, J.B.Sang, Sammesơn, Cacmac nghiên cứu nội dung một cách chi tiết và sâu rộng. Chính vì thế mà việc nghiên cứu đề tài “Lý luận về tích luỹ tư bản và vận dụng vào thực tiễn của Việt Nam” là rất thiết thực cho mỗi sinh viên. Nội dung đề tài gồm hai chương : Chương I : Lý luận chung về tích luỹ tư bản Chương II : Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản và thực tiễn Việt Nam Chương I Lý luận chung về tích luỹ tư bản I / Thực chất và động cơ của tích luỹ 1/ Thực chất của tích luỹ tư bản a/ Khái niệm Trong xã hội luôn vận động và phát triển. Vì vậy xã hội không thể ngừng tiêu dùng hay không thể ngừng sản xuất. Xét trong mối liên hệ không ngừng thì quá trình sản xuất xã hội cũng là quá trình tái sản xuất. Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tơ bản. Hình thức tiến hành của CNTB là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất mở rộng TBCN là quá trình lập lại sản xuất với quy mô lớn hơn trước với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy phải biến một bộ phận quá trình thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng quá trình thặng dư làm tư bản hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Như vậy thực chất tích luỹ tư bản là tư bản hoá giá trị thặng dư. Xét một cách cụ thể, tích luỹ tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành tư bản được là vì giá trị trặng dư đó mang sẵn những yêú tố vật chất của tư bản mới. b/ Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng : Những điều kiện sản xuất đồng thời cùng là những điều kiện của tái sản xuất. Quá trình lao động trong phương thứ sản xuất TBCN chỉ là một phương tiện cho quá trình làm tăng thêm giá trị thì tái sản xuất cũng vậy. Nó cũng chỉ là một phương tiện để tái sản xuất ra giá trị ứng trước với tư cách là tư bản. Tức là giá trị tự tăng thêm giá trị. Giả sử số tiền ứng trước để tái sản xuất là 100 USD, trong năm nay đã biến thành tư bản và đã sản xuất ra một giá trị thặng dư là 20 USD, năm sau nó cũng phải lập lại một công việc y như thế. Nếu như thu nhập đó chỉ được dùng làm quỹ tiêu dùng cho nhà tư bản hay nếu như nó cũng được tiêu dùng theo từng chu kỳ giống như người ta đã kiếm ra được nó, thì trong những diều kiện khác không thay đổi, sẽ chỉ diễn ra có tái sản xuất giản đơn thôi. Vậy tái sản xuất giản đơn là việc lặp đi lặp lại quá trình sản xuất của chủ nghĩa tư bản mà không tăng thêm về quy mô. Nhưng đây không phải là hình thức tái sản xuất của CNTB, với mục đích theo đuổi là lợi nhuận hay giá trị thặng dư : TBCN sẽ luôn chọn cho mình hình thức tái sản xuất chủ yếu là tái sản xuất mở rộng. Có thể minh hoạ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng TBCN bằng ví dụ sau : Năm thứ nhất, quy mô sản xuất của nhà tư bản là : 80c + 20v + 20m. Giả định nhà tư bản không tiêu dùng hết 20m mà dành 10m1 cho tiêu dùng và 10m2 cho tích luỹ, khi đó 10m chia thành 8c2+ 2v2. Khi đó quy mô sản xuất năm sau là 88c+22v+22m (Nếu m vẫn như cũ) Như vậy vào năm thứ hai quy mô sản xuất đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng. 2/ Động cơ của tích luỹ tư bản Động cơ tích luỹ và tái sản xuất mở rộng TBCN là quy luật kinh tế cơ bản của CNTB. Mục đích của sản xuất TBCN là sự lớn lên không ngừng của giá trị và thu được càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Trong sản xuất TBCN nói chung khi tư bản ứng trước càng lớn thì lợi nhuận thu được càng lớn. Vì vậy để thực hiện mục đích đó các nhà tư bản không ngừng tích luỹ và tái sản xuất mở rộng. Xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột công nhân. Mặt khác, trên thị trường cũng được ví như chiến trường, mọi hoạt động diễn ra rất quyết liệt và luôn mang tính chất sống còn. Các nhà tư bản cạnh tranh với nhau vì vậy mà họ luôn bằng mọi cách để tăng thêm tư bản của mình để tăng thêm chất lượng sản phẩm, tăng uy tín trên thị trường …Để làm được điều này các nhà tư bản tăng nhanh tư bản tích luỹ. II/ Quy luật chung của tích luỹ tư bản 1/Tích tụ, tập trung tư bản, mối quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư bản. a/ Tích tụ, tập trung tư bản Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường tập trung và tích tụ tư bản. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hoá giá trị thặng dư. Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách liên kết hay sát nhập những tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn b/ Mối liên hệ giữa tích luỹ, tích tụ, và tập trung tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Sự khác biệt này không chỉ về chất mà còn khác nhau về lượng. Mọi tư bản cá biệt đều là một sự tích tụ nhiều hay ít tư liệu sản xuất với một sự chỉ huy tương ứng đối với một đội quân lao động lớn hay nhỏ. Cùng với khối lượng đó tăng lên của của cải làm chức năng tư bản, tích luỹ lại mở rộng sự tích tụ của cải ở đó trong tay những nhà tư bản cá biệt. Vì vậy mà mở rộng cơ sở của sự sản xuất trên quy mô lớn và của những phương pháp đặc thù TBCN 2/ Sự giảm bớt tương đối của tư bản khả biến trong quá trình tích luỹ. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng trước một lượng tư bản và nó chia thnàh hai phần : Tư bản khả biến (V) và tư bản bất biến ( C). Trong đó bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giữ được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm gọi là tư bản bất biến, còn bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của chủ nghĩa làm thuê mà tăng lên gọi là tư bản khả biến. Qua hai phần tư bản bất biến và tư bản khả biến này, nhà tư bản sẽ tiến hành sản xuất và thu được giá trị thặng dư (m). và trong xu thế phát triển của xã hội, mọi sự đều vận động và phát triển, xã hội tư bản cũng vậy, luôn luôn tăng lên cả về chất cũng như về lượng. Vì thế phần giá trị thặng dư sẽ tăng lên, quá trình tích luỹ tư bản cũng tăng lên đồng nghĩa với việc mức độ bóc lột sức lao động tăng lên, tinh vi hơn. Hình thức tăng năng suất lao động là một hình thức bóc lột sức lao động của người CN cực kỳ tinh vi của các nhà tư bản. Khi năng suất lao động tăng lên thì trong cùng một khoảng thời gain xác định số sản phẩm sẽ tăng lên so với trước đó cũng đồng nghĩa với việc tăng thêm của tư liệu sản xuất. Sự thay đổi kết cấu kỹ thuật của tư bản, sự tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản ánh trở lại kết cấu giá trị của tư bản vào trong việc tăng thêm bộ phận bất biến của giá trị tư bản bằng cách lấy vào bộ phận tư bản khả biến của nó. VD : Lúc đầu 50% của một tư bản nào đó chi cho tư liệu sản xuất, 50% chi cho sức lao động. Sau đó cùng với sự phát triển của năng suất lao động, 80% được chi cho tư liệu sản xuất và 20% chi cho sức lao động … Ta thấy trong quá trình tích luỹ càng ngày tỷ lệ tư bản bất biến và tư bản khả biến càng chênh lệch, có thể nói rằng có sự giảm bớt tương đối của tư bản khả biến trong quá trình tích luỹ. Xét cho cùng thì nó cũng hợp với quy luật tự nhiên của xã hội TBCN. Vì cái đích cuối cùng cũng là lợi nhuận. Do đó phần tư bản ứng trước sẽ càng ngày càng lớn cùng với quá trình tích luỹ của nó. Nhưng khi có sự giảm bớt tương đối của tư bản khả biến thì ta cũng không thể nhìn nhận là giới tư bản ít ăn ít tiêu, bóp mồm, bóp miệng mà khi tích luỹ đến một quy mô nào đó ta sẽ thấy được sự xa xỉ của giới tư bản. 3/ Quy luật phổ biến của tích luỹ tư bản Trong xã hội TBCN các cuộc phân chia giai cấp là bắt đầu nhưng dến thời kỳ này nó càng ngày càng sâu sắc thêm. Của cải xã hội càng nhiều, tư bản hoạt động càng lớn, quy mô và cường độ của sự tăng lên càng lớn. Do đó đại lượng tuyệt đối của giai cấp vô sản và sức sản xuất của lao động càng lớn. Đồng nghĩa với nó là đội quân công nghiệp càng đông. Sức lao động nàh rỗi phát triển cũng do chính những nguyên nhânđó làm phát triẻn sức bành trướng của tư bản. Chính sự bành trướng và ngày càng phát triển của CNTB dã dần làm cho lực lượng lao động phát triển về trình độ, kỹ thuật do đó càng tăng thêm năng suất lao động. Điều này đã làm cho lực lượng lao động không tăng về số lượng mà chỉ tăng về chất lượng cũng có nghĩa là số nhân khẩu thừa cố định tăng thêm đông đảo và sự nghèo khổ của họ tỷ lệ thuận với sự bóc lột ngày càng tinh vi cảu giới tư bản. Sau khi những tầng lớp cùng khổ trong giới công nhân càng đông và đội quân công nhân trừ bị càng lớn thì sự bần cùng của chính thức càng lớn. Đó là quy luật phổ bến của tích luỹ tư bản chủ nghĩa. Chính cơ cấu của nền sản xuất và tích luỹ tư bản chủ nghĩa đã thường xuyên làm cho lượng công nhân phù hợp với các nhu cầu làm tăng giá trị của tư bản. Và chính nó dã tạo ra một nhân khẩu thừa tương đối hay một đội quân công nhân trừ bị, sau đó là nó tạo ra sự nghèo khó cho những tầng lớp ngày càng tăng lên trong đội quân lao động tại ngũ và tạo ra cái gánh nặng là sự bần cùng. Quy luật phổ biến cho rằng do sự tiến bộ của năng suất lao động xã hội, một khối lượng tư liệu sản xuất ngày càng lớn có thể vận dụng một chi phí sức lao dộng ngày càng giảm. Vậy theo đó không phải công nhân sử dụng tư liệu lao động mà là tư liệu lao động sử dụng công nhân, lại biểu hiện ra ở chỗ là sức sản xuất cảu lao động nagỳ càng cao thì sức ép của công nhân đối vơí phương tiện thuê mướn họ càng lớn. Do đó điều kiện tồn tại của họ, tức là việc bán sức mình để làm tăng thêm của cải cho kẻ khác lại càng bấp bênh hơn. Như vậy, việc tư liệu sản xuất và năng suất lao động lại mang một hình thức biểu hiện TBCN trái ngược lại là : Nhân khẩu công nhân luôn tăng nhanh hơn nhu cầu tăng thêm giá trị của tư bản. III/ Những nhân tố quyết định đến quy mô của tư liệu tư bản Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư (M) đó thành quĩ tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu tỷ lệ phân chia đó đã cho sẵn thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định qui mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định qui mô của khối lượng giá trị thặng dư. Những nhân tố đó là: 1. Mức độ bóc lột sức lao động Khi xã hội ngày càng phát triển, trình độ của lực lượng lao động xã hội cũng phát triển thì trình độ bóc lột sức lao động cũng ngày càng tinh vi, xảo quyệt và tình trạng bóc lột sức lao động ngày càng tăng. Nâng cao mức bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công hay tăng thời gian lao động. Khi nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, Các Mác giả định rằng: Sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản. Giả sử rằng một nhà tư bản thuê 100 công nhân làm việc 8 giờ 1 ngày vậy sẽ có 800 giờ làm việc 1 ngày. Nếu nhà tư bản muốn tăng giờ làm vịêc lên 1,5 lần thì cần thuê thêm 50 công nhân nữa như vậy cần phải đầu tư thêm không những một lượng tư bản khả biến mà còn đầu tư thêm một lượng tư bản bất biến nữa cho máy móc, nhà xưởng. Như vậy nhà tư bản thấy khá tốn kém và đã tăng giờ làm việc của công nhân lên 12 giờ 1 ngày với nhiều hình thức khuyến khích khác nhau. Vậy lượng tư bản bất biến trên không cần đầu tư thêm nữa, và nhà tư bản đã chiếm không phần tư bản khả biến tăng thêm. 2. Trình độ năng suất lao động xã hội. Cùng với sự phát triển của toàn xã hội, lực lượng công nhân cũng phát triển cả về chất lẫn lượng với những thành tựu khoa học mà sức sản xuất và trình độ của mỗi người công nhân trong xã hội ngày càng được nâng lên. Khi sức sản xuất của lao động tăng lên thì khối lượng sản phẩm biểu hiện một giá trị nhất định và do đó biểu hiện một đại lượng giá trị thặng dư nhất định cũng tăng lên. Với một tỷ suất giá trị thặng dư không thay đổi hay thậm chí với một tỷ suất giá trị thặng dư đang giảm xuống thì khối lượng sản phẩm thặng dư giảm xuống chậm hơn mức tăng của sức sản xuất của lao động. Vì vậy với một tỷ lệ phân chia sản phẩm thặng dư thành thu nhập và tư bản phụ thêm không thay đổi, sự tiêu dùng của nhà tư bản vẫn có thể tăng lên mà không cần giảm tích luỹ. Có thể thấy rằng năng suất lao động mà tăng lên thì công nhân cũng trở nên rẻ đi và do đó tỷ suất giá trị thặng dư cũng tăng lên ngay cả khi tiền công thực tế được nâng cao. Tiền công này không bao giờ tăng lên theo cùng một tỷ lệ với năng suất lao động. Cũng vẫn một giá trị tư bản khả biến ấy là vận dụng được nhiều sức lao động hơn, vẫn một giá trị tư bản bất biến ấy lại biểu hiện thành một lượng tư liệu sản xuất nhiều hơn, do đó cung cấp nhiều yếu tố tạo sản phẩm cũng như nhiều yếu tố tạo ra giá trị hơn. Vì vậy khi giá trị của tư bản phụ thêm không thay đổi hay thậm chí giảm xuống tích luỹ cũng vẫn được đẩy nhanh. Chẳng những qui mô tái sản xuất được mở rộng về mặt vật thể mà sản xuất giá trị thặng dư cũng tăng lên nhanh hơn giá trị của tư bản phụ thêm. Việc nâng cao năng suất lao động làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá. Nhưng tích luỹ còn chịu sự chi phối bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do khối lượng giá trị thặng dư chuyển hoá thành. Vậy là năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, do đó làm tăng qui mô của tích luỹ. 3. Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Khi tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, các thứ khí tài cũng tăng lên. Những thứ đó đều hoạt động với toàn bộ qui mô của chúng hay được dùng để đạt một hiệu quả tới mức nhất định nhưng nó chỉ hao mòn dần và phần giá trị hao mòn chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá trị của nó chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn. 4. Qui mô của tư bản ứng trước. Xét theo một chuỗi logic thì ta có thể thấy dễ dàng qui mô của tư bản ứng trước là một nhân tố quyết định đến quá trình tích luỹ. Khi nhà tư bản đầu tư vào sản xuất thì phần tư bản đầu tư vào sản xuất chia làm 2 phần: tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến (v). Từ tư bản khả biến sẽ phát sinh ra giá trị thặng dư, nhiều hay ít tuỳ thuộc vào lượng đầu tư của tư bản khả biến. Vì nếu khối lượng tư bản khả biến càng lớn, sức lao động càng lớn tương ứng với mức bóc lột sức lao động của nhà tư bản để chiếm lấy giá trị thặng dư và như vậy qui mô tích luỹ sẽ tăng. Chương II Vận dụng lý luận tích luỹ tư bản vào thực tiễn Việt Nam. I- Vai trò của tích luỹ vốn ở Việt Nam hiện nay. 1. Vai trì của tích luỹ đối với quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nguốn để phát triển kinh tế là một trong những mấu chốt quan trọng. Ngay cả các nước phát triển hàng đầu thế giới hiện nay như Mỹ, Nhật, Anh… cũng luôn chú trọng vào các nguồn vốn được đầu tư vào xã hội. Như vậy ta có thể nói rằng Vốn để phát triển kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trong đó Việt nam không phải là 1 trường hợp cá biệt. Thu hút và tích luỹ vốn ở Việt Nam lại càng trở nên quan trọng khi nước ta từ 1 nước có cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp với một nền kinh tế kém phát triển, năng suất thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ khoa học lạc hậu, dân trí chưa cao. Nay chuyển sang kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước, cả nước lại đang bước vào thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc tăng cường nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội lại càng có 1 vị thế hết sức then chốt. Vì vậy mà đảng và nhà nước luôn quan tâm đến quan hệ tích luỹ và thu hút vốn đầu tư phát triển ở trong nước cũng nước ngoài. 2. Vai trò của tích luỹ đến quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Việt nam vốn là nước nền kinh tế đang phát triển, vừa chuyển đổi cơ chế kinh tế vì vậy mà vẫn còn là một nước nghèo, công cuộc đổi mới kinh tế, hoà nhập với thị trường thế giới là một việc hết sức đúng đắn của Đảng và nhà nước và để có thể có một nền kinh tế vũng mạnh thì cần phải có một cơ sở hạ tầng vững chắc, qúa trình công nghiệp hoá hiện đại hoá là rất cần thiết và cấp bách. Nhưng để thực hiện được nó, mỗi người dân trong toàn xã hội cần phải gióp sức mình voà đó không chỉ là sức lực trí lực mà còn là vật chất. Có những kinh nghiệm trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng nguồn vốn bên ngoài là rất quan trọng nhất là nước ta có nguồn vốn tích luỹ trong nước còn thấp. Nhưng nguồn vốn trong nước vẫn đóng vai trò quyết định vì nguồn vốn đầu tư bên ngoài lớn đến mấy nếu không có các nguồn đầu tư do sự tích luỹ từ bên ngoài thì nguồn vốn bên ngoài cũng không thể sử dụng có hiệu quả. Suy cho cùng quá trình tích luỹ hay cả tích tụ tập trung vốn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. II- Thực trạng của qúa trình tích luỹ vốn và huy động vốn trong nước và nước ngoài. Từ các nước khác và thực tế cho thấy rằng để hoạt động và phát triển xã hội nói chung và kinh tế nói riêng thì không thể nào bỏ qua được khâu đầu tiên, đó là vật chất. Nhận thức đúng đắn được vai trò này mà đảng và nhà nước đã vạch ra những đường lối chính sách để thu hút, huy động các nguồn vốn tích luỹ để phát triển kinh tế, xã hội. Nhờ đó, từ năm 1995-2000, thực hiện vốn đầu tư phát triển xã hội ngày một tăng cao. Từ 60.75 ngàn tỷ đồng năm 1995 lên 67.49 ngàn tỷ đông năm 1996; 79.20 tỷ đồng năm 1997; 75.58 ngàn tỷ đồng năm 1998; 80.08 ngàn tỷ đồng năm 1999 và ước tính khoảng 91.80 ngàn tỷ đồng năm 2000. Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn năm 1996-2000 nhìn chung là tăng với tốc độ cao, từ năm 1998 giảm chút ít so với năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực. Tính chung tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thức hiện của cả giai đoạn 1996-2000 thì cả nước đạt 394,1 ngàn tỷ đồng, tăng 66,7% sơ với giai đoạn 1991-1995. Việc tích luỹ và tập trung vốn ngày càng tăng giúp cho công cuộc phát triển đất nước ngày càng có nhiều thuận lợi. Nó giúp cho mọi ngành kinh tế phát triển, làm cho các cơ sở hạ tầng được vững chắc, giúp nguồn lực phát triển cả về chất lẫn lượng, nâng cao trình độ khoa học-kinh tế cho toàn xã hội… Trong khi các ngồn vốn nhà nước đề có tốc độ tăng nhanh thì nguồn vốn ngoài quốc doanh qua giai đoạn 1996-2000 lại có xu hướng ngày càng giảm sút. Nếulấy năm 1995 làm mốc thì năm 1996 giảm 1,1 %, năm 1997 giảm 8,45%; năm 1998 giảm 10,9%; năm 1999 giảm 10,5%; ước tính năm 2000 giảm 1,8%. Cùng với tình trạng trên vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) giai đoạn 1996-2000 cũng giảm sút (từ năm 1997 so với năm 1995 tăng 26,1%). Cụ thể so với 1995 năm 1996 giảm 1,7%; năm 1998 giảm 3,9%; năm 1999 giảm 25,8% và ước tính năm 2000 giảm 14,9%. Tuy nhiên tính chung cho giai đoạn 1996-2000 so với gian đoạn 1991-1995 thì tổng vốn đầu tư tăng, xã hội tăng 1,67 lần. Trong đó vốn nước ngoài tăng 2,34 lần, vốn ngoài quốc doanh tăng 1,02 lần vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài tăng 1,51 lần. Việt nam sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến quan trọng và đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng chúng ta vẫn là nước nghèo, mức sống vẫn còn thấp, tích tụ và tập trung vốn trong nội bộ nền kinh tế còn qúa thấp. Có thể nó thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai dodạn 1996-2000 đã đem lại nhiền thành tưu to lowns trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế-xã hội góp phần làm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội tạo đà cho đất nước tiến vào con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. III- Các giải pháp tăng cường tích luỹ vốn ở Việt Nam Trước mắt để hoàn thành xong những dự án quan trong nhằm đưa vào khai thác và sử dung trong năm 2001, tăng cường dầu tư nhằm tạo bước phát triển mạnh về sức cạnh tranh trong thị trường, chuẩn bị cho những dự án cực kỳ quan trọng và có tính khả thi cao, phục vụ cho đất nước trong kế hoạch năm 2001-2005. Tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, hỗ trợ đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa….đòi hỏi phải huy động trên 150.000 tỷ đồng cho đầu tư phát triển. Nhưng trên thực tế nhà nước mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ còn lại vẫn là trên sổ sách. Vì vậy nhiệm vụ được đặt ra là rất nặng nề cho tất các cả cấp từ trung ương đến địa phương trong việc triển khai thực hiện tốt các giải pháp huy động vốn được đề ra, đồng thời phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã được huy động. Đối với nguồn vốn từ ngân sách Các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển của đất nước. Vì vậy quá trình tích luỹ hay tích tụ, tập trung tư bản qua kênh ngân sách Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Việc tích tụ, tập trung vốn qua kênh ngân sách Nhà nước dựa chủ yếu vào: thu thuế, phí, lệ phí từ nguồn tài sản công, từ vay nợ…. Trong đó nguồn thu chủ yếu là thuế, phí và lệ phí. Cũng đã thấy rõ được tầm quan trọng của nó mà Chính phủ đã ban hành thuế giá trị gia tăng (VAT) đó là một quyết định hết sức đúng đắn. Ngoài ra các ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh mức lãi suất thấp để thu hút vốn đầu tư nhàn rỗi trong dân, một nguồn đầu tư rất lớn mà chưa được khai thác triệt để. Đặc biệt với hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm sẽ tăng thêm phần trách nhiệm của người dân do đó sẽ là một điều kiện thuận lợi để phát triển các mặt trong xã hội. Tích tụ và tập trung trong các doanh nghiệp Nhà nước Với cơ chế hiện nay, Việt Nam đang đi theo con đường chủ nghĩa xã hội vì vậy Nhà nước nắm trong tay hầu như các nhà máy xí nghiệp lớn của đất nước để định hướng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế mà tài sản cũng như mức đầu tư vào các doanh nghiệp này không phải nhỏ, do đó cần có những giải pháp căn bản để tích tụ, tập trung vốn: - Nâng cao tiết kiệm trong qua trình sử dụng vốn, vật tư, nhà xưởng. - Tăng hệ số sử dụng các vật tư, máy móc trong các doanh nghiệp - Cho phép doanh nghiệp bán các vật tư ứ đọng, các tài sản cần thanh lý để đưa vào vốn lưu động. - Nâng cao tỷ lệ giữa vốn lưu động trên vốn cố định để các doanh nghiệp chủ động sản xuất kinh doanh. - Đối với doanh nghiệp thực sự không cần sự có mặt của Nhà nước thì cần bán, tư nhân hoá để lấy vốn đầu tư vào các doanh nghiệp cần thiết. Tích tụ và tập trung vốn qua ngân hàng và thị trường chứng khoán Tích tụ, tập trung vốn qua các tổ chức tài chính tín dụng Việc thu hút vốn đầu tư nhàn rỗi hay không nhàn rỗi trong dân là hết sức quan trọng vì vậy Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau: - Mở rộng các hình thức tiết kiệm cho mọi đối tượng - Cải tiến thủ tục cho nhanh gọn - Mở rộng và hoàn thiện thị trường thanh toán liên ngân hàng - Triển khai rộng rãi việc mở tài khoản tư nhân và dùng séc cá nhân thanh toán qua ngân hàng - Khuyến khích các ngân hàng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu….. - Tiết kiệm tối đa trong các hoạt động Ngoài ra trong quá trình tích luỹ vốn ở Việt Nam còn qua nhiều hình thức khác nhau nhằm phát triển về qui mô cuả vốn được đầu tư như: Tích tụ tập trung vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia và tài sản công còn bỏ phí Tích tụ tập trung vốn đầu tư từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Tích tụ tập trung vốn từ các hộ gia đình Một hình thức tích tụ tập trung vốn rất quan trọng và hiệu quả và cần có hướng đầu tư đúng đắn nữa là các nguồn vốn từ nước ngoài. Điều kiện để thu hút các nguồn vốn này - mà nước ta vẫn chưa biết cách lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài - là một hệ thống pháp luật đơn giản ít tham nhũng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ, có như thế ta sẽ tạo được một nguồn vốn đầu tư rất lớn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35077.doc
Tài liệu liên quan