Lời mở đầu
Trong cuộc đua tranh phát triển kinh tế hiện nay, vấn đề tăng trưởng nhanh và lâu bền đang đặt ra gay gắt đối với tất cả các quốc gia. Đối với những nước đi sau, có điểm xuất phát thấp về kinh tế, yêu cầu này đặt ra như một đòi hỏi sống còn:hoặc là đuổi kịp và vượt lên trước, hoặc tụt lại sau và ngày càng xa rời các cơ hội phát triển.
Việt Nam nằm trong tình huống của những nước đi sau. Hơn thế, khi so sánh các mục tiêu của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
20 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 12631 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Lý luận về tích lũy tư bản và vận dụng vào thực tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đang theo đuổi với trình độ xuất phát vào loại thấp nhất thế giới thì yêu cầu nói trên càng trở nên cấp bách. Công cuộc chuyển sang hệ thống kinh tế thị trường những năm qua, với những thành tựu khá ngoạn mục, một mặt chỉ ra giải pháp phát triển tổng quát đáng tin cậy; mặt khác nó làm rõ các giới hạn cần gạt bỏ để nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh hơn. Trong số các giới hạn, nguồn vốn phát triển hiện đang là một trong những thách thức to lớn nhất, khó khắc phục nhất.
Với mức thu nhập quốc dân trên đầu người hàng năm khoảng 370 đô la Mỹ (USD), mức tích luỹ hiện tại của nước ta, xét cả trên chỉ số tương đối, lẫn khối lượng tuyệt đối, là rất thấp. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp, tăng cường tích luỹ vốn đang đòi hỏi cấp bách đối với nước ta nhằm đưa đất nước “Tiến nhanh, tiến mạnh, vững vàng” vào thế kỷ mới. Chính vì vậy em chọn đề tài này tuy không mới mẻ nhưng đầy sức hấp dẫn đối với nhà kinh tế nước ta hiện nay.
* Nội dung đề tài: bao gồm ý chính sau:
–Lý luận về tích lũy tư bản, động cơ và quy luật chung của tích lũy tư bản.
–Vận dụng lý luận tích lũy tư bản vào thực tiễn ở Việt Nam, vai trò động lực của tích lũy trong giai đoạn hiện nay từ đó rút ra ý nghĩa và đưa ra một số giaỉ pháp cho việc tăng cường tích lũy vốn ở Việt Nam.
–Cụ thể cấu trúc đề tài như sau: chia 2 chương
+Chương I : Lý luận về tích lũy tư bản và động cơ của tích lũy tư bản.
+Chương II: Vận dụng lý luận tích lũy vào thực tế ở Việt Nam.
Vì đề tài là một vấn đề quan trọng, đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, thảo luận dưới nhiều góc độ khác nhau. Là một sinh viên, mặc dù đã cô gắng nhưng sự hiểu biết cũng như cách tiếp cận tham khảo tài liệu còn hạn chế nên nội dung đề tài còn nhiều thiếu sót, em mong rằng sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo thêm để em hiểu rõ vấn đề này.
Qua đây em xin cảm ơn cô Trần Thanh Hương đã hướng dẫn, chỉ bảo em trong việc tìm tài liệu tham khảo và trong cách viết để em hoàn thành tốt tập đề án này.
NộI DUNG Đề TàI
Chương I: Lý luận về tích lũy tư bản
Học thuyết của Mác về tích lũy tư bản về sự kế tục trực tiếp và phát triển thêm một bước học thuyết giá trị thặng dư.
Lê-nin đánh giá rất cao lý luận về tích lũy tư bản. Người viết:
“...Điều hết sức mới mẻ và quan trọng là sự phân tích của Mác về tích lũy tư bản” V.I Lê-Nin: Các Mác và chủ nghĩa Mác, nhà sản xuất bản sự thật, Hà Nội, 1968, tr.33.
.
Muốn hiểu rõ lý luận về tích lũy tư bản, trước hết chúng ta cần nghiên cứu vấn đề tái sản xuất.
I. Thực chất của tích lũy tư bản và động cơ của nó
Thực chất của tích lũy tư bản
Tích lũy tư bản là nhằm có được lương tư bản ngày càng lớn. Chính tư bản đã lớn lên được từ quá trình tái sản xuất. Để hiểu rõ thực chất của tích lũy tư bản phải phân tích quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tái sản xuất là gì?
Sản xuất của cải vật chất là điều kiện tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Xã hội không thể ngừng tiêu dùng, do đó không thể ngừng sản xuất. Quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng gọi là quá trình tái sản xuất.
Tái sản xuất có hai loại: tái sản xuất đơn giản và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa.
Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô như cũ. Toàn bộ giá trị thặng dư là được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân. Thí dụ nhà tư bản đầu tư 1.000 đô la (gồm 800c + 200v) sản xuất ra 1200 đô la hàng hóa. Số giá trị thặng dư đạt được là 200 đô la, nhà tư bản đem tiêu dùng hết cho cá nhân thì nếu mọi điều kiện không thay đổi, quá trình sản xuất chỉ lặp lại quy mô như cũ (800c + 200v) nghiên cứu tái sản xuất giản đơn có thể thấy rõ:
Một là, nguồn gốc của tư bản khả biến hay tiền lương.
Đặc điểm của việc mua bán hàng hóa sức lao động là: người bán chỉ được trả tiền sau khi cung cấp lao động tạo ra hàng hóa. Hàng hóa được tạo ra có giá trị bằng c+v+m, trong đó c là giá trị tư liệu sản xuất được chuyển vào v+m là giá trị mới được sáng tạo ra. Nhà tư bản trả lương cho công nhân chẳng qua là trích ra bộ phận v trong giá trị mới đó. Vậy tiền lương chỉ là một bộ phận giá trị của hàng hóa mà chính công nhân tạo ra.
Hai là, địa vị phụ thuộc của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư sản.
Điều kiện tiên quyết của sản xuất tư bản chủ nghĩa là người lao động bị tách rời khỏi tư liệu sản xuất.Người lao động buộc phải bán sức lao động để sống và chỉ còn có sự tự do bán cho ông chủ này hay ông chủ khác do vậy công nhân hoàn toàn chịu sự chi phối của nhà tư bản.
Ba là, nguồn gốc toàn bộ tư bản ứng trước.
Nguồn gốc toàn bộ tư bản ứng trước là ở đâu? Theo lý luận của giai cấp tư bản, nguồn gốc của tư bản ứng trước là kết quả của sự lao động cần cù, là do nhà tư bản “nhịn ăn tiêu” mà có v.v. Điều đó không đúng. Chúng ta biết rõ rằng quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản là quá trình tước đoạt bằng bạo lực đối với nông dân và người sản xuất nhỏ khác. Lý luận về tích lũy nguyên thủy vạch rõ nguồn gốc đầu tiên của tư bản.
Nhưng, nguồn gốc vốn đầu tiên của các nhà tư bản là chính đáng, là do lao động của các nhà tư bản tạo ra thì sau một quá trình sản xuất giản đơn nhất định, số tư bản ấy sẽ không còn một tý giá trị nào do họ làm ra nữa, mà là kết quả bóc lột công nhân làm thuê, là giá trị thặng dư biến thành tư bản.
Trở lại thí dụ trên: nhà tư bản ấy ứng ra 1000 đô la, giá trị thặng dư hàng năm là 200 đô la được đem tiêu dùng hết cho cá nhân trong nâưm đó. Sau 5 năm đã tiêu dùng 1000 đô la. Như vậy nhà tư bản sẽ ăn hết vốn và 1000 đô la vẫn duy trì chẳng qua chỉ là đại biểu cho số giá trị thặng dư đã chiếm đoạt.
Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa và tích lũy tư bản
Tái sản xuất giản đơn không phải là tái sản xuất đển hình của chủ nghĩa tư bản, mà hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước. Muốn vậy phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng làm tư bảnhay chuyển hóa giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản.
Như vậy, tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Xét một cách cụ thể, tích lũy tư bản nhằm tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng. Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển hóa thành tư bản được là vì giá trị thặng dư đã mang sẵn những yếu tố vật chất của một tư bản mới.
Thí dụ: nhà tư bản ứng ra 1000 đô la, sản xuất được 200 đô la giá trị thặng dư và chỉ tiêu dùng cá nhân 100 đô la còn 100 đô la bỏ vào sản xuất thì quy mô sản xuất của quá trình sản xuất tiếp sau đó sẽ là 1.100 đô la.
Những kết luận rút ra từ tái sản xuất giản đơn đều biểu hiện đầy đủ trong tái sản xuất mở rộng. Song nghiên cứu tái sản xuất mở rộng mở rộng còn cho phép rút thêm một số kết luận mới:
Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản chủ nghĩa là giá trị thăng dư, và tư bản tích luỹ chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản, còn tư bản ứng trước chỉ là một “giọt nước trong dòng sông ngày càng lớn của tích luỹ” C.Mac–Ănghen: toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, T23, trang 805.
. Như vậy, toàn bộ sự giàu có của giai cấp tư sản đều là kết quả của sự chiếm đoạt giá trị thặng dư của giai cấp công nhân tạo ra.
Hai là, sự chuyển hóa các quy luật sở hữu của nền sản xuất hàng hóa thành các quy luật chiếm hữu tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, sự xuất hiện hàng hóa sức lao động đã làm cho quyền sở hữu của sản xuất hàng hóa biến thành quyền chiếm đạt tư bản chủ nghĩa mà không hề vi phạm quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa.
Động cơ của tích luỹ tư bản
Động cơ thúc đẩy tích luỹ tư bản và tái sản xuất mở rộng, tư bản chủ nghĩa là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không ngừng của giá trị. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy và tái sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản để bóc lột công nhân.
Mặt khác do cạnh tranh, các nhà tư bản buộc phải không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng nhanh tích lũy tư bản.
Quá trình phát triển sản xuất tư bản cũng là quá trình phát triển và tăng cường ứng dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất. Song để sử dụng được khoa học kỹ thuật mới, nhà tư bản phải có lượng tư bản đầu tư thích ứng. Do đó, việc tích luỹ tư bản được đặt ra hết sức bách bối với nhà tư bản...v.v.
II. Những nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản
Tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng.
Quy mô tích luỹ thuộc vào khối giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập (tức là bộ phận giá trị thặng dư được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân).
Với một khối giá trị thặng dư nhất định, một trong hai phần đó càng lớn thì càng phân chia thành nhỏ. Nếu những điều kiện khác không thay đổi, thì tỷ lệ phân chia đó quyết định đại lượng tích lũy.
Khối lượng giá trị thặng dư
Khi tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản và thu nhập không thay đổi, quy mô tích luỹ còn do các nhân tố khác quyết định.
Nâng cao trình độ bóc lột sức lao động
Nâng cao trình độ bóc lột bằng cách cắt xén tiền công. Nghiên cứu sản xuất ra giá trị thặng dư, C.Mac đã giả định rằng: công nhân nhận được tiền công đúng giá trị sức lao động. Trên thực tế, nhà tư bản tìm mọi cách để cắt xén tiền công. Vậy nhà tư bản không chỉ chiếm đoạt lao động thặng dư mà còn chiếm đoạt cả một phần lao động tất yếu của công nhân, biến một phần quỹ tiêu dùng của công nhân thành quỹ tích luỹ của tư bản.
Nâng cao trình độ bóc lột bằng cách tăng thời gian sử dụng thiết bị máy móc trong ngày. Nhà tư bản có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm, do đó có nhiều giá trị thặng dư hơn, bằng cách buộc công nhân tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao động hoặc nâng cao hệ số ca kíp sản xuất để tận dụng thiết bị máy móc và tư liệu lao động khác.
Nâng cao năng xuất lao động xã hội
Năng suất lao động tăng lên sẽ làm cho giá trị hàng hóa rẻ đi. Do đó, với một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể mua được tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn, phần dành cho tiêu dùng của nhà tư bản cũng có thể giảm để tăng tích luỹ mà không ảnh hưởng đến tiêu dùng của họ.
Sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật sẽ tạo thêm nhiều yếu tố phụ thêm cho tích luỹ. Nó cho phép đổi mới trang thiết bị kỹ thật trong kinh doanh để tao ra năng suất lao động cao hơn.
Năng suất lao động cao thì lao động sống càng sử dụng được những lao động quá khứ hơn, càng chuyển được nhiều giá trị tư liệu sản xuất vào sản xuất mới, làm cho những giá trị cũ tái hiện dưới hình thái có ích mới, được sử dụng làm chức năng tư bản ngày càng nhiều, do đó càng làm tăng quy mô của tư bản tích luỹ.
Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng.
Trong quá trình sản xuất, tất cả các bộ phận cấu thành máy móc tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ gía trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tư nhiên. Những sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ được lao động sống nắm ấy và làm sống lại đang tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích lũy.
Quy mô của tư bản ứng trước
Trong kinh doanh, quy mô tư bản ứng trước lớn hơn sẽ có khối lượng tư liệu sản xuất lớn hơn, có thể hiện đại hơn. Do đó, khối lượng giá trị thặng dư thu được cũng sẽ lớn hơn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô tích luỹ.
III. Quy luật chung của tích luỹ tư bản
Quy luật chung của tích luỹ tư bản:
Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng.
Trong quá trình phát triển, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo. Cần phân biệt cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo kỹ thuật biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu về mặt kỹ thuật do trình độ phát triển của kỹ thuật quyết định. Để biểu thị cấu tạo kỹ thuật, người ta thường dùng chỉ tiêu số lượng năng lượng hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất: 100 kw điện /1 công nhân, 5 máy dệt/ 1 công nhân.
Cấu tạo giá trị của tư bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất.
Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ phụ thuộc nhau. Nói chung sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật sẽ dẫn sự thay đổi trong cấu tạo giá trị. Để thể hiện mối liên hệ giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị. Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó.
Do trình độ kỹ thuật không ngừng phát triển nên yêu cầu tích luỹ tư bản tăng nhanh và làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản không ngừng tăng lên: Cấu tạo hữu cơ tăng lên sẽ làm tăng năng suất lao động tạo thêm giá trị thặng dư, góp phần làm tăng quy mô tích luỹ tư bản. Đồng thời, cấu tạo hữu cơ tăng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành nạn nhân khẩu thừa trong xã hội tư bản.
Quá trình tích lũy tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
Trong quá trình tích lũy tư bản, tổng số tư bản được tăng lên không ngừng thông qua hai con đường tích tụ tư bản và tập trung tư bản.
Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất nhiều tư bản sẵn có thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn.
Tích tụ và tập trung tư bản đều làm tăng quy mô tư bản cá biệt, do đó tăng cường sự thống trị của tư bản đối với lao động. Nhưng hai quá trình này có những điểm khác nhau.
Nguồn tích tụ tư bản là giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản lảm tăng đồng thời cả tư bản cá biệt và tư bản xã hội. Tập trung tư bản làm tăng tư bản cá biệt, nhưng không làm tăng tư bản xã hội.
Tích tụ tư bản trực tiếp biểu hiện quan hệ giữa tư bản và lao động vì nó là kết quả của việc tư bản hóa giá trị thặng dư bóc lột công nhân; còn tập trung tư bản trực tiếp biểu hiện quan hệ nội bộ giữa các nhà tư bản với nhau, do cạnh tranh thôn tính hoặc liên kết với nhau.
Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy phát triển. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô sức mạnh của tư bản cá biệt, do đó cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến tập trung mạnh hơn. Tập trung tư bản lại tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường đẩy mạnh tích tụ. ảnh hưởng qua lại giữa tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy tư bản ngày càng tăng.
Quá trình tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp công nhân.
Quá trình tích lũy tư bản dẫn đến kết quả hai mặt trái ngược: một mặt, giai cấp tư sản tập trung trong tay ngày càng nhiều của cải, cuộc sống ngày càng xa hoa; mặt khác giai cấp vô sản bị bóc lột áp lực nặng nề, nghèo khổ thất nghiệp... Như vậy quá trình tích lũy tư bản là quá trình hai mặt tích lũy sự giàu sang về phía giai cấp tư sản và tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp vô sản.
Xu hướng lịch sử của tích lũy tư bản.
Chủ nghĩa tư bản ra đời trên cơ sở dùng bạo lực để tước đoạt của những người sản xuất nhỏ, đặc biệt là nông dân. Quá trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ phân tán lạc hậu thành sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định đối với những người sản xuất nhỏ.
Nhưng khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành thì quá trình tích lũy và cạnh tranh dẫn đến tư bản sản xuất được tập trung ngày càng lớn, do đó sản xuất được xã hội hóa cao hơn, lực lượng sản xuất phát triển mạnh hơn. Điều đó làm mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển này tất yếu dẫn tới sự thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển. Sự phát triển của mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến sự thay thế xã hội tư bản bằng một xã hội khác cao hơn , tiến bộ hơn.
chương II: vận dụng lý luận tích lũy tư bản
vào thực tế ở việt nam
Trong mọi xã hội, muốn cho sản xuất được mở rộng thì phải thực hiện tích lũy; tích lũy là nguồn gốc của tái sản xuất mở rộng của mọi xã hội, là quy luật kinh tế chung vốn có của các hình thái xã hội. Nhưng trong mỗi hình thái xã hội khác nhau, quy luật đó biểu hiện khác nhau, chịu sự tác động của quy luật kinh tếcơ bản của xã hội đó. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa tích lũy diễn ra dưới hình thức tích lũy tư bản, tư bản hóa giá trị thặng dư, tức là nhận thêm một phần giá trị thặng dư vào tư bản, hoặc biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản. Trái lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, có quy luật tích lũy xã hội chủ nghĩa, nó quy định việc sử dụng có hệ thống một phần thu nhập quốc dân để không ngừng mở rộng sản xuất và tăng thêm tài sản quốc dân, nhằm mục đích nâng cao không ngừng phúc lợi của nhân dân.
Hiện nay, khi chúng ta tiến vào thế kỷ mới với mục tiêu hoàn thành CNH, HĐH trước năm 2000 đã gặp rất nhiều trở ngại đòi hỏi phải giải quyết. Trong số các trở ngại đó nguồn vốn phát triển đang là một thách thức to lớn nhất khó khắc phục nhất.
I. Vốn trong nước và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế.
Bài học của những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới đã khẳng định tích lũy vốn trong nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp hiện đại đất nước. ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng của cả nền kinh tế chủ yếu dựa vào lượng đầu tư lớn, từ việc tích lũy nội bộ nền kinh tế thông qua quá trình tích tụ vf tập trung vốn cả các doanh nghiệp cũng như cả cộng đồng dân cư.
Vốn trong nước.
Vốn trong nước là toàn bộ yếu tố cần thiết để cấu thành quá trình sản xuất kinh doanh, được hình thành nên từ các nguồn lực kinh tế và sản phẩm thặng dư của nhân dân lao động qua nhiêù thế hệ trong mỗi gia đình, trong mỗi doanh nghiệp trong mỗi quốc gia.
Vốn hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ tích lũy của một cá nhân, một doanh nghiệp hay một quốc gia. Vì thế việc tích tụ và tập trung nguồn vốn là cực kỳ cần thiết cho sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Việt Nam muốn đẩy mạnh tốc độ CNH và HĐH nền kinh tế cần huy động tối đa không chỉ nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác trong dân cư mà cần phải huy động các nguồn tài lực những kinh nghiệp quản lý và cả những quan hệ bang giao cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế.
Chúng ta có thể còn thiếu nhiều về công nghệ và cũng có thể chưa có nhiều về vốn tiền mặt, nhưng nguồn nhân tài của đất nước thì không thiếu. Vấn đề chúng ta phải biết biến nguồn nhân lực đó thành tiền mặt và của cải để phát triển kinh tế. Muốn vậy trước hết chúng ta phải biết sử dụng hiệu quả nguồn tiền mặt hiện có và ưu tiên cho đầu tư phát triển. Thứ hai, sử dụng hiệu quả nguồn thời gian của cộng đồng dân cư. Thứ ba, cách sử dụng tài năng của mỗi con người cũng phải có cách nhìn nhận, đánh giá, cân nhắc một cách linh hoạt. Như vậy nguồn vốn theo cả nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng của VN không phải là quá khan hiếm. Điều quan trọng là phải tìm ra một cơ chế huy động, cơ chế sử dụng vốn đó sao cho có hiệu quả nhất.
Về mức tích lũy vốn trong nước và những yếu tố ảnh hưởng tích lũy vốn (để đạt được mục tiêu tích lũy)
Về mức tích lũy vốn trong nước.
Để đạt được mục tiêu tích lũy vốn cao thì vấn đề tiếp theo là phải xã hội được mức tích lũy trong GDP cần hướng tới trong từng giai đoạn phát triển. ứng với mỗi mục tiêu khác nhau thì việc xã hội mức tích lũy vốn trong nước thường khác nhau, điều quan trọng là phải xã hội được mức tích lũy vốn chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong GDP sẽ quyết định quá trình tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy muốn tăng tốc nền kinh tế thì tỷ lệ tích lũy vốn trong nước phải chiếm 30% trong GDP. Như vậy tỷ lệ tích lũy của Việt Nam còn thấp so với các nước trong vùng.
Những yếu tố ảnh hưởng đều tích lũy vốn.
Nguyên nhân dẫn đến sự điều chỉnh tích lũy vốn của nhà nước là tích lũy và tập trung có thể bị một số nhân tố làm ảnh hưởng. Chẳng hạn:
Năng suất lao động;
Mức độ tích lũy của các hộ gia đình và các doanh nghiệp;
Khả năng chi của Nhà nước;
Chính sách thuế của Nhà nước;
Tích chất của một số lĩnh vực khác nhau;
Các thủ tục hành chính rườm rà của hệ thống tín dụng.
Do vậy khi đề ra các công cụ biện pháp cần phải làm rõ và hạn chế các nguyên nhân làm ảnh hưởng tới tích lũy vốn trong nước.
Vai trò của tích lũy vốn trong nước đối với quá trình tăng trưởng kinh tế.
Chính vì vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất vì những tiến bộ xã hội, vì thế nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, các nguồn lực về con người sử dụng có hiệu quả hơn. Từ đó, tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế của đất nước chuyển dịch nhanh chóng theo hướng CNH và HĐH. Làm cho nền kinh tế có ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao và hướng mạnh về xuất khẩu. Chính điều đó đã dẫn tới nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Từ những điều trên có thể kết luận rằng: Tích lũy vốn là điều kiện tiên quyết cho quá trình CNH và HĐH, nhịp độ CNH nhanh hay chậm chính là do nguồn vốn quyết định.
II. Vốn nước ngoài
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn ở điểm xuất phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao để thực hiệ những mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra, chúng ta không thể chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước (mặc dù có vai trò quết định) mà phải biết thu hút cả nguồn vốn nước ngoài.
1. Vốn nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế hiện đại.
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế của một nước, do mức thu nhập còn thấp nên khả năng tiêu dùng cũng như tích lũy còn rất khiêm tốn. Trong khi đó lại cần một số vốn lớn để đầu tư nhằm mục tiêu hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Do đó trong giai đoạn này, thường tồn tại khoảng cách giữa đầu tư và tiết kiệm (thiếu tiết kiệm). Hơn nữa, trong giai đoạn này cán cân thương mại và cán cân thanh toán hầu như luôn nằm trong tình trạng thâm hụt nặng nề. Đây là thách thức thuộc loại khó giải quyết trong chặng phát triển đầu tiên của một nước. Để đáp lại thách thức này ngoài việc cần có các chính sách kinh tế vĩ mô trong nước hợp lý, hướng tới làm dịu áp lực ngoại tệ. Nhiều nước đã tìm mọi cách để huy động nguồn vốn nước ngoài, coi đây như một giải pháp chiến lược quan trọng.
Nói chung các nước nghèo đi lên, thường xuất hiện cái gọi là vòng luẩn quẩn của sự phát triển.
Thu nhập bình quân thấp
Năng suất thấp Tiết kiệm và đầu tư thấp
Tăng trưởng chậm
Một cách logic, cách đặt vấn đề duy nhất đúng là trong “vòng luẩn quẩn”, sự đột phá chỉ có thể bắt đầu từ khâu tạo ra mức sản lượng và thu nhập ngày càng gia tăng. Trơt ngại lớn nhất để thực hiện điều đó với các nước nghèo là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư này là cơ sở để tạo công ăn việc làm cho số người lao động thường là dư thừa. ở đây, để thực hiện phân công lao động mới nhằm mục tiêu nâng cao năng suất lao động. Việc hy vọng xử lý vấn đề này bừng con đường tích lũy nội bộ, bằng phương thức “thắt lưng buộc bụng là đúng về lâu dài. Nhưng trong một thế giới biến đổinhanh như hiện nay,nếu chỉ trông chờ vào “tự lực cánh sinh” đó thì hậu quả khó tránh khỏi sự tụt hậu phát triển. Tại điểm này, tính “mở” của hệ thống kinh tế thị trường, của nền kinh tế quốc tế hiện nay đưa ra một gợi ý có quyết định huy động và sử dụng nguồn lực từ bên ngoài, cụ thể là vốn và kỹ thuật từ các nước phát triển cao hơn, để nâng cao bằng năng lực đầu tư cho nền kinh tế.
Có thể chỉ ra một số nét cụ thể hơn lợi ích của việc huy động vốn đầu tư nước ngoài đối với công cuộc tăng trưởng và phát triển của các quốc gia.
+Tạo ra công ăn việc làm, thực ra đây là tác động kép tạo ra công ăn việc làm và cũng có nghĩa là tăng thu nhập cho người lao động cho người lao động và cho đất nước.
+Chuyển giao công nghệ – kỹ thuật. Lợi ích quan trọng thứ hai mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại là công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến cũng như năng lực thị trường của các nước đi trước.
+Lợi ích về vấn đề – ngoại tệ. Lợi ích này dưới dạng tổng quát hơn, chính là lợi ích tăng trưởng của đất nước. Xét riêng vấn đề vốn và ngoại tệ, nguồn lực huy động từ bên ngoài có những tác dụng căn bản sau.
*Rút ngắn thời gian tích lũy ban đầu cho CHN
*Tạo ra cơ sở xuất khẩu cho đất nước trong tương lai.
*Thu một phần lợi nhuận của các công ty nước ngoài.
*Thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ...v.v.
Tuy nhiên, không bao giờ được quên rằngtrong hciến lược phát triển chung của một nước, nguồn vốn nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng chỉ là một bộ phận trong tổng thể các nguồn lực của nó. Khi đặt trong bối cảnh dài hạn. Nguồn vốn nước ngoài không thể đóng vai trò quyết định so với nguồn lực riêng của nước đó.
2. Các hình thức huy động vốn nước ngoài
Nguồn vốn vay
Nguồn vốn này được cấu thành từ 2 yếu tố: tài trợ phát triển chính
thức (ODF) và nguồn vay tư nhân.
*Nguồn ODF
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế chính phủ (hoặc cơ quan đại diện chính phủ) cung cấp. Các tổ chức quốc tế như Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), Ngân hàng phát triển châu á (ADB)...v.v. Cùng với các chính phủ là đối tượng cung cấp chủ yếu.
Đặc điểm của loại vốn này là mức ưu đãi về lãi suất thời hạn vay dài và khối lượng vốn vay lớn. Riêng ODA với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển, nó mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác thông thường, trong ODA, có một phần là viện trợ không hoàn lại, phần này khoảng dưới 25% tổng số.
Mục tiêu tổng quát của ODF là hỗ trợ các nước nghèo thực hiện chương trìnhphát triển và tăng phúc lợi của mình.Tuy nhiên, tinhs ưu đãi dành cho loại vốn này thương đi kẻm với các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe.
*Nguồn vay tư nhân
Các điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như ODF. Sang bù lại, nó có ưu điểm rõ ràng là hầu như không gắn với các sự ràng buộc chính trị –xã hội. Tuy vậy thủ tục khắt khe, thời hạn trả nợ nghiêm ngặt mức lãi suất cao là trở ngại đối với các nước nghèo.
Bộ phận lớn nhất của nguồn vốn vay này là từ các ngân hàng thương mại trên thế giới.
Nguồn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI).
Có những khác biệt cơ bản giữa nguồn FDI và nguồn vay đã nói ở trên. Thứ nhất, FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà còn đi kèm với vốn là cả kỹ thuật, công nghệ bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing, thứ hai việc tiếp nhận FDI không phát sinh nợ cho nước nhận. Thay cho lãi suất, nước đầu tư nhận được phần lợi nhuận xứng đáng khi công trình đầu tư nhận được phần lợi nhuận xứng đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Do đầu tư trực tiếp mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh nên nó thúc đẩy sự phát triển các nghề mới, đặc biệt các nghề đòi hỏi về kỹ thuật – công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nó có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH chuyển dịch cơ cấu và tăng hướng ở nước nhận đầu tư.
Các điều kiện huy động và sử dụng vốn nước ngoài có hiệu quả.
Vốn nước ngoài không tự chảy vào các nước đang phát triển để có thể huy động được vốn nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt trên thị trường vốn quốc tế, cần tạo ra “Những lợi thế so sánh” nhất định. Bản chất vấn đề ở đây không khác những gì xảy ra trên thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thường. Các “lợi thế” căn bản chia làm 2 loại:
+ Loại thứ nhất: là các yếu tố liên quan đến môi trường thể chế. Một môi trường kinh doanh thuận lợi, các quy chế pháp lý và kinh tế rõ ràng, cởi mở luôn tạo sức hấp dẫn lớn cũng như sự yên tâm đối với các đối tác nước ngoài.
+ Loại thứ hai: gồm các điều kiện đảm bảo triển vọng phát triển sáng sủa và lâu bên của kinh tế. Trong điều kiện này có thể kể đến sự ổn định chính trị – xã hội – kinh tế, chiến lược thích hợp và có tính năng động cao, những lợi thế so sánh của đất nước cho phép nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất tại bản địa trên thị trường thế giới và thu hút được mức sinh lợi cao trên đồng vốn đầu tư.
Riêng về sự ổn định vĩ mô nói chung, cầu lưu ý đến vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể tại điểm này, sự quan tâm đặc biệt phải dành cho nhiệm vụ chống lạm phát, ổn định tiền tệ.
III- Các giải pháp tăng cường tích lũy ở VN.
Trong việc tìm kiếm các giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển nền kinh tế trong thời gian tới, cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước coi vốn trong nước là quyết định,vốn bên ngoài là quan trọng. Trên cơ sở đó chúng ta cần đề ra hệ thống giải pháp huy động vốn phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Mặt khác, ở nước ta có nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của ngân sách nhà nước thì có hạn. Do đó, chúng ta cần thống nhất chủ trương của nhà nước là đa dạng hóa các nguồn vốn nhằm huy động sự đongs góp nhân lực, vật lực, tài lực của các tổ chức kinh tế – xã hội, của các tầng lớp dân cư và của toàn xã hội cho đầu tư phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thực tế cho thấy, việc huy động vốn đầu tư phát triển ở nước ta thời gian qua còn có một số mặt hạn chế và tồn tại cần được khắc phục. Đó là hình thức và công cụ huy động vốn còn nghèo nàn, đơn giản, thiếu tính hấp dẫn người đầu tư; chính sách lãi suất còn có sự bất cập với cơ chế thị trường, gây khố khăn cho việc huy động vốn; hệ thống pháp lý đảm bảo an toàn về vốn và tài sản cho các đối tượng vay và cho vay chưa đầy đủ và đồng bộ gây tiêu c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35069.doc