Lý luận về sản xuất giá trị thặng dư

BÀI TIỂU LUẬN SỐ 3: LÍ LUẬN VỀ SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ PHẦN I: LÍ LUẬN VỀ SẢN XUẤTGIÁ TRỊ THẶNG DƯ I. PHẠM TRÙ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ 1 Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản Tiền tệ ra đời là kết quả lâu dài và tất yếu của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá. đồng thời tìên tệ cũng là khởi điểm của tư bản. Nhưng bản thân tiền tệ không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định , khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác. Tiền được coi là ti

doc8 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2377 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lý luận về sản xuất giá trị thặng dư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền thông thườg thì vận đông theo công thức sau H-T-H (hàng - tiền - hàng) nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền , rồi tiền lại chuyển hoá thành hàng hoá. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo công thức T-H-T (tiền - hàng - tiền ) tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ biến động nào vận động theo công thức T-H-T đều chuyển hoá thành tư bản. Mục đích của lưu thông hàng hoá giản đơn là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu nên hàng hoá trao đổi phải có giá trị sử dụng khác nhau. Sự vận động sẽ kết thúc ở giai đoạn hai khi những người trao đổi có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì sự vận động trở nên vô nghĩa. Do vậy mà số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’ trong đó T’= T + ∆T. Số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra C Mac gọi là giá trị thặng dư. Vạy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư , nên sự vận động tư bản không có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn. Trong lưu thông hàng hoá được thay đổi ngang giá thì chỉ có sự thay hình thái giá trị , còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi là không đổi. Theo quan điểm của C Mac thì trong xã hội tư bản không có bất kỳ một nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn của nó thì khi mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra ∆T. Nếu hàng hoá được bán thấp hơn giá trị thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. như vậy, việc sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó. Giả định có một số người nhờ mánh khoé mà chuyên mua được rẻ bán được đắt thì như C Mac nói điều đó chỉ có thể là giải thích được sự làm giầu của những thương nhân cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giầu của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Bởi vì tổng số giá trị trước lúc trao đổi cũng như trong và sau khi trao đổi không thay đổi mà chỉ có phần giá trị nằm trong tay mỗi bên trao đổi là thay đổi. Như vậy, nếu người ta thay đổi những vật ngang giá thì không sinh ra giá trị thặng dư, và nếu người ta trao đổi những vật không ngang giá thì cũng không sinh ra giá trị thặng dư. Lưu thông không tạo ra giá trị mới. Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông tức là đứng ngoài lưu thông thì không thể làm cho tiền của mình lớn lên được. “vậy thì tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông”. 2. Hàng hoá sức lao động Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản, không thể phát sinh từ bản thân số tiền đó. Trong việc mua bán hàng hoá tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả hàng hoá, nên trước sau giá trị của nó vẫn không thay đổi. Sự chuyển hoá đó xẩy ra trong quá trình vận động của tư bản.Nhưng sự chuyển hoá đó không sảy ra ở giá trị trao đổi hàng hoá vì trong trao đổi người ta trao đổi nhưng vật ngang giá mà chỉ có thể ở giá trị sử dụng hàng hoá. Do đó hàng hoá đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hoá đó là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường. Như vậy, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình tái sản xuất ra một giá sử dụng. Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định. C Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện sau: Một là người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác.Vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình. Hai là người lao động phải tước hết tư liệu tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động, vì không còn cách nào khác để sinh sống. Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành hàng hoá. Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến thành tư bản. Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động là giá trị của tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta, những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của những người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân. Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hoá thông thường ở chỗ: nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng ta có sự khác nhau căn bản, giá trị hàng hoá hàng hoá thông thường biểu thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hoá sức lao động lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. còn hàng hoá sức lao động ngoài yếu tố vật chất nó còn có yếu tố tinh thần lịch sử, dân tộc, yếu tố gia đình và truyền thống nghề nghiệp mà hàng hoá thông thường đó không có. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Quá trình đó là quá trình sản xuất ra hàng hoá, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Như vậy giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. 3 Bản chất giá trị thặng dư Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị thặng dư. để sản xuất giá trị thặng dư. Nhà tư bản muốn sản xuất ra 1 giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà tư bản đó bỏ ra để mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư. Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa các quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C Mac viết: “với tư cách là sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”. Quá trình lao động với tư cách là quá trình tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng: Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho hiệu quả nhất. Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của người công nhân. C Mac đã lấy ví dụ về việc sản xuất của nước Anh làm đối tượng nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Mac đã sử dụng phương pháp giả định khoa học thông qua giải quyết chặt chẽ tiến hành nghiên cứu: không xét đến ngoại thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản đem tiêu dùng chuyển hết một lần giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế sản xuất giản đơn. Từ giả định trên mà C Mac đưa ra một loạt các giả thiết về nghiên cứu: Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi;giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị máy móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4 đôla; giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi. Từ đó ta có bảng sau: Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm -Gá trị 10kg bong: 10$ -Tiền hao mòn máy móc: 2$ -Tiền mua sức lao động trong 1 ngày:4$ -Giá trị của bông được chuyển vào sợi:10$ -Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi:2$ -Giá trị do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động:8$ Tổng cộng:16$ Tổng cộng:20$ Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi phí tư bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đã tăng lên 4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư. Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau: Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành tư bản diễn ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động. Sau đó nhàtư bản sử dụng hàng hoá đó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư bản. Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất (10 kg sợi), chúng ta thấy có hai phần : Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ. Giá trị do lao động trìu tượng của người công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là giá trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Ba là, ngày lao động của người công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành hai phần: Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết: trong thời gian này người công nhân tạo ra được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản giả cho mình (4 đôla). Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư : trong thời gian lao động thặng dư người công nhân tạo một lượng giá trị lớn hơn giá trị sức lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4 đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản ( nhà tư bản chiếm đoạt) Từ đó mà C Mac đã đi đến khái niệm về giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị tư bản chiếm đoạt. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi điểm mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả họ. Thực chất của sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó là sức lao động được trả ngang giá. II CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, do vậy mà các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối. 1 Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp thì phương pháp chủ yếu mà các nhà tư bản thường dùng để tăng giá trị thặng dư đó là kéo dài ngày lao động của công nhân , trong điều kiện thời gian lao động là tất yếu không thay đổi. Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối , vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên , trình độ bóc lột tăng lên đạt 200%(m’=200%). Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá , nhưng nó tồn tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người công nhân cần có thời gian để ăn ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khoẻ nhằm tái sản xuất sức lao động. Mặt khác , sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất , tôn giáo của mình. Như vậy , về mặt kinh tế , ngày lao động phải dài hạn thời gian lao động tất yếu , nhưng không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động. Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đã dẫn đến phong trào giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn , đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối. 2 Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư , trình độ bóc lột 100%.Giả thiết rằng công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng giá trị sức lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị thặng dư trong trường hợp đó cũng không thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300%(m’=300%). Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao động trong những nghành sản xuất tư liệu sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong những nghành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn sau khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối đã chiếm ưu thế. Hai phương pháp trên đã được các nhà tư bản sư dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. PHẦN II: Ý NGHĨA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu, sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu"Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước. Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó. Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền kinh tế quốc tế. Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26556.doc
Tài liệu liên quan