Lời mở đầu
Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với các quan hệ quốc tế của chúng. Ngày nay, nền kinh tế thế giới là một thực thể kinh tế đặc thù, duy nhất, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau. Chính vì vậy, các nước không thể chỉ bó hẹp hoạt động kinh tế của mình trong phạm vi quốc gia mà còn phải tham gia và
59 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1948 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Lý luận và thực tiễn áp dụng thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các hoạt động kinh tế toàn cầu hoặc khu vực nhằm tận dụng mọi lợi thế so sánh. Sự giao lưu quốc tế của các nước trên thế giới càng mở rộng và phức tạp thì càng cần thiết phải có pháp luật quốc tế thích hợp để điều chỉnh các mối quan hệ đó.
Để hoà chung với nhịp độ phát triển của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang mở rộng chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới ở nhiều lĩnh vực. Quá trình hội nhập kinh tế này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật kinh doanh. Hội nhập kinh tế không chỉ là một giải pháp cải cách, mà đồng thời cũng là một đảm bảo để Việt Nam chuyển đổi một cách thành công sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta cần tiếp cận, đẩy mạnh nghiên cứu và vận dụng pháp luật quốc tế nhằm tạo cơ sở cho các hoạt động đối nội và đối ngoại, thúc đẩy quan hệ thương mại quốc tế đã và đang phát triển mạnh mẽ giữa các thương nhân Việt Nam với các chủ thể thương mại quốc tế.
Thông qua hoạt động ngoại thương, Việt Nam có thể tranh thủ được các nguồn lực ở bên ngoài và tận dụng khai thác các tiềm năng thế mạnh của đất nước. Hoạt động ngoại thương bao gồm hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu, mà thanh toán quốc tế là một khâu không thể thiếu trong quá trình này.
Để người bán thu được tiền nhanh, đúng và đầy đủ, còn người mua là nhập hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng hạn, các bên tham gia mua bán hàng hoá quốc tế phải dựa vào đặc điểm của từng thương vụ mua bán mà lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp.Trong thanh toán quốc tế hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ (L/C) được sử dụng phổ biến vì độ tin cậy cao, nó đảm bảo thanh toán nhanh chóng, an toàn chính xác với sự tham gia của các ngân hàng.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với tư cách là ngân hàng đối ngoại chủ lực của nước ta, một trung thanh toán quốc tế lớn tại Việt Nam, có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. Với bề dày kinh nghiệm và mối quan hệ đại lý với hơn 1000 ngân hàng tại 90 nước trên thế giới, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sử dụng nhiều phương thức thanh toán quốc tế, tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ vẫn được các bên lựa chọn hàng đầu.
Bài nghiên cứu: “Lý luận và thực tiễn áp dụng thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam” chủ yếu đề cập đến lý luận chung về phương thức tín dụng chứng từ, những rủi ro và lợi ích mà nó mang lại cho các bên liên quan, đồng thời cũng đề cập đến thực tế sử dụng phương thức này tại phòng thanh toán xuất khẩu tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và một số giải pháp để có thể giải quyết những bất cập trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng Ngoại thương nói riêng và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung. Với khuôn khổ có hạn, chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Chế độ pháp lý về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Chương II: Thực tiễn áp dụng thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp
Trong quá trình hoàn thiện bài viết này tôi đã được sự giúp đỡ tận tình của TS.Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS.Hoàng Xuân Trường, cùng với sự chỉ bảo nhiệt tình của anh Nguyễn Tuấn Anh, nhân viên phòng thanh toán xuất khẩu Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
ChươngI: Chế độ pháp lý về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Trong điều kiện quốc tế hoá nền kinh tế thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để đạt tới vị trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi thương mại quốc tế. Trong xu thế hội nhập kinh tế đó, việc thiết lập một hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động giao lưu ấy có vai trò hết sức quan trọng. Hệ thống pháp luật đó là Luật Thương mại quốc tế.
Luật thương mại quốc tế điều chỉnh các hành vi thương mại, xác định địa vị pháp lý của thương nhân và quy định các nguyên tắc, chuẩn mực trong hoạt động thương mại quốc tế. Một trong những hành vi đựơc luật thương mại điều chỉnh chính là hoạt động xuất nhập khẩu, mà thanh toán quốc tế là cầu nối rất quan trọng. Không có hoạt động thanh toán quốc tế thì hoạt động xuất nhập khẩu khó thực hiện. Chính vì tầm quan trọng đó, nên cần phải có các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế. Hệ thống các văn bản pháp luật này tạo nên hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế được diễn ra thuận lợi, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của các quốc gia, góp phần thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển.
I. Thanh toán quốc tế trong thương mại quốc tế
1. Khái niệm thanh toán quốc tế
1.1 Cơ sở hình thành thanh toán quốc tế
Từ xa xưa, khi con người sống trong các bầy đoàn nguyên thuỷ thì hoạt động lao động của họ đã bắt đầu dựa trên cơ sở hợp tác giản đơn (hợp tác chưa có sự phân công lao động). Phân công lao động là bước tiến lớn nhất trong xã hội loài người, con người chỉ chú tâm làm một số việc theo chuyên môn nhất định, nhờ đó mà năng suất lao động tăng cùng với quan hệ trao đổi xuất hiện. Đầu tiên, con người trao đổi theo phương thức hàng đổi hàng. Tuy nhiên, do các loại hàng hoá có đặc tính khác nhau nên không tránh khỏi sự bất công trong giao dịch giữa các bên. Khi xã hội phát triển, quan hệ trao đổi này không còn phù hợp và tiền tệ ra đời giải quyết mâu thuẫn này.
Có thể nói, một quốc gia không thể tự sản xuất mọi thứ mình cần. Điều kiện tự nhiên, địa lý, trình độ phát triển và các yếu tố khác của mỗi nước xác định phạm vi và năng lực sản xuất của nước đó. Điều này nói lên rằng, các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau về rất nhiều loại hàng hoá cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng.Khi kinh tế phát triển, nhu cầu trao đổi càng lớn, dần dần chúng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dẫn đến sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia trên thế giới.
Kết quả là, một nước sẽ nhập khẩu những hàng hoá với giá rẻ, đồng thời xuất khẩu những hàng hoá có ưu thế về năng suất lao động, nhằm tận dụng lợi thế so sánh (tuyệt đối và tương đối) trong quan hệ kinh tế quốc tế, mà thanh toán quốc tế là một phần trong nó, được ra đời như một tất yếu khách quan.
Hơn nữa, nền kinh tế các nước phát triển không đồng đều về khoa học kỹ thuật, điều này dẫn đến sự khác nhau về điều kiện tái sản xuất như nguồn vốn, trình độ khoa học kỹ thuật…đòi hỏi các quốc gia phải mở rộng phạm vi giao lưu buôn bán, trao đổi quốc tế và thanh toán quốc tế là một khâu không thể thiếu trong quá trình này.
Quan hệ quốc tế giữa các nước bao gồm nhiều lĩnh vực, như kinh tế, chính trị ngoại giao, văn hoá, khoa học kỹ thuật…trong đó quan hệ kinh tế (chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu) chiếm vị trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình tiến hành các hoạt động quốc tế dẫn đến những nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau, từ đó hình thành và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó, ngân hàng là cầu nối trung gian giữa các bên.
Như vậy, thanh toán quốc tế ra đời như một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới, đó là một hoạt động bao gồm rất nhiều các hoạt động thanh toán với nhiều hình thức đa dạng.
1.2 Khái niệm thanh toán quốc tế
Hoạt động trao đổi quốc tế được diễn ra liên tục và thanh toán quốc tế là một phần không thể thiếu trong tổng thể này, thanh toán quốc tế đã trở thành một cầu nối giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan. Giáo trình “Thanh toán quốc tế”_PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến, trang 159
Như vậy, việc thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế, thương mại và các mối liên hệ khác (chính trị, ngoại giao, hợp tác văn hoá, khoa học kỹ thuật…) giữa các nước, các tổ chức, các công ty, các chủ thể khác nhau của các nước chính là thanh toán quốc tế.
Vì các hoạt động kinh tế đối ngoại nêu trên liên quan đến các bên ở các nước có địa lý và tập quán khác nhau, nguồn luật điều chỉnh vừa mang tính địa phương vừa mang tính quốc tế, từ đó các tranh chấp cũng thường phát sinh. Hơn nữa, đồng tiền các nước sử dụng trong thanh toán các nghĩa vụ phát sinh cũng khác nhau. Do đó, việc tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động giao lưu ấy có ý nghĩa rất quan trọng. Và hệ thống văn bản đó chính là Luật thương mại quốc tế
2. Vai trò của thanh toán quốc tế trong thương mại quốc tế
Trước xu thế kinh tế thế giới ngày càng được quốc tế hoá, các quốc gia đang ra sức phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hợp tác và hội nhập; trong bối cảnh đó, thanh toán quốc tế nổi lên như là chiếc cầu nối giữa kinh tế trong nước với phần kinh tế thế giới bên ngoài, có tác dụng bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, đầu tư nước ngoài, thu hút kiều hối và các quan hệ kinh tế khác. Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng được khẳng định trong hoạt động kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng.
Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có hoạt động thanh toán quốc tế thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu khó tồn tại và phát triển được. Nếu hoạt động thanh toán quốc tế được nhanh chóng, an toàn, chính xác sẽ giải quyết được mối quan hệ lưu thông hàng hoá - tiền tệ giữa người mua và người bán một cách thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Nếu thật sự đạt đựơc như vậy thì quan hệ thanh toán này sẽ tạo được thiện chí, uy tín, sự tin cậy giữa các bên, việc mở rộng và phát triển các mối quan hệ từ đây đã có thể dễ dàng hơn.
Trong thanh toán quốc tế, lợi ích cá nhân thường mâu thuẫn với lợi ích chung, tuy vậy, nếu dung hoà được hai điểm mâu thuẫn này, khi mà hai bên đều có lợi thì quan hệ bạn hàng sẽ được phát triển, đây là một điều vô cùng quan trọng trong điều kiện kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Hoạt động thanh toán quốc tế còn là thước đo hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh tế. Có thể nói như vậy, vì hoạt động thanh toán quốc tế phản ánh cán cân xuất nhập khẩu, từ đó nhà nước có thể quản lý được lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, chủng loại và giá trị của hàng hoá, xác định được mặt hàng chủ lực của quốc gia, tình hình cán cân đang xuất siêu hay nhập siêu, từ đó sẽ có những chính sách ngoại thương phù hợp.
Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng trong hoạt động xuất nhập khẩu, khép lại chu trình quan hệ giao dịch hàng hoá. Hoạt động thanh toán quốc tế ngoài phụ thuộc vào thoả thuận của các bên còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố của thị trường trong và ngoài nước như chính sách về xuất nhập khẩu, về ngoại hối. Không những thế, tỷ giá và thuế là đại lượng luôn biến đổi, luôn tác động vào hoạt động này, nên yếu tố an toàn luôn được đặt lên hàng đầu để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra thuận lợi. Cũng qua hoạt động thanh toán quốc tế mà ta có thể dánh giá được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nắm bắt được thông tin về thị trường trong và ngoài nước, cũng như hiểu rõ hơn về đối tác kinh doanh. Từ việc nắm bắt được các thông tin cần thiết trên thị trường và cân đối với khả năng của mình, các doanh nghiệp sẽ có những quyết định đúng đắn, phòng ngừa rủi ro một cách hữu hiệu.
3.Quy trình chung về thanh toán quốc tế
3.1 Công cụ thanh toán
Thương phiếu là công cụ thanh toán quốc tế thông dụng, được hiểu là chứng chỉ có giá chứng thực nghĩa vụ thanh toán vô điều kiện một số tiền nhất định của người này đối với người khác vào thời điểm nhất định. Thương phiếu bao gồm hối phiếu (bill of exchange) và kỳ phiếu ( promissory note).
Uỷ ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc ban hành văn kiện số A/CN 9/211, ngày 18/2/1982 quy định việc sử dụng thương phiếu trong thanh toán quốc tế.
Để điều chỉnh công cụ thanh toán này, ngày 24/2/1999, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam ban hành pháp lệnh thương phiếu. Tiếp đó, ngày 11 tháng 9 năm 2005, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá X đã thông qua Luật các công cụ chuyển nhượng thay thế cho Pháp lệnh thương phiếu và các văn bản quy phạm pháp luật khác về thương phiếu và séc, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006.
*) Hối phiếu
Hối phiếu là một lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này, khi nhìn thấy phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày cụ thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc cho một người cầm phiếu.2 Giáo trình “Luật thương mại quốc tế”_TS. Trần Thị Hoà Bình, PGS.TS Trần Văn Nam, trang 268
Công ước quốc tế đầu tiên giải thích hối phiếu ký năm 1930 tại Giơnevơ là “Luật thống nhất về hối phiếu” (gọi tắt là ULB 1930).
Để điều chỉnh công cụ thanh toán này, Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005 của Việt Nam chia hối phiếu thành hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ.
Tại khoản 2 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng thì “Hối phiếu đòi nợ là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Tiếp đó, khoản 3 điều này lại quy định “Hối phiếu nhận nợ là giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng”.
Hối phiếu ghi tên người thụ hưởng, có thể là người được ghi tên trên hối phiếu hoặc cũng có thể là người khác. Theo khoản 8 Điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng: “ Người thụ hưởng là người sở hữu công cụ chuyển nhượng với tư cách của một trong những người sau đây:
a, Người được nhận thanh toán số tiền ghi trên công cụ chuyển nhượng theo địa chỉ của người ký phát, người phát hành;
b, Người nhận chuyển nhượng công cụ chuyển nhượng theo các hình thức chuyển nhượng theo quy định tại Luật này;
c, Người cầm giữ công cụ chuyển nhượng có ghi trả cho người cầm giữ.”
Hối phiếu có những đặc điểm sau:
- Tính trừu tượng của hối phiếu, hay tính độc lập của khoản nợ ghi trên hối phiếu.
Sau khi được ký phát hành, hối phiếu trở thành loại giấy tờ có giá trị độc lập hoàn toàn với giao dịch kinh tế sản sinh ra nó. Khi đã tách ra khỏi hợp đồng thương mại và nằm trong tay người thứ ba, thì hối phiếu trở thành nghĩa vụ trả tiền độc lập, không phụ thuộc hợp đồng thương mại.
- Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu.
Theo pháp luật thì người bị ký phát phải trả tiền theo đúng nội dung của hối phiếu, không được viện bất kỳ lý do riêng hoặc chung nào để từ chối trả tiền, trừ khi hối phiếu được lập trái với luật điều chỉnh nó, nghĩa là việc trả tiền không được kèm theo bất kỳ điều khoản nào.
- Tính lưu thông của hối phiếu.
Trong thời hạn của nó, hối phiếu có thể được dung một hay nhiều lần để thanh toán tiền mua hang há hay trả một khoản nợ bất kỳ; chuyển nhượng hối phiếu cho người khác; cầm cố thế chấp hoặc chiết khấu…
*) Kỳ phiếu (Lệnh phiếu)
Lệnh phiếu là một tờ cam kết vô điều kiện, trong đó người ký phát cam kết sẽ trả một số tiền nhất định vào một ngày nhất định cho người hưởng lợi, được chỉ định trên lệnh phiếu hoặc theo lệnh của người hưởng lợi trả cho người khác.
Nhìn chung, về quy tắc lưu thông và các nguồn luật điều chỉnhcủa lệnh phiếu và hối phiếu là giống nhau. Tuy nhiên có một số đặc điểm sau:
- Kỳ hạn được quy định rõ trên lệnh phiếu.
- Một lệnh phiếu có thể do một hoặc nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho một hay nhiều người hưởng lợi.
- Thông thường, lệnh phiếu có sự bảo lãnh của ngân hang. Sự bảo lãnh này đảm bảo khả năng của lệnh phiếu.
- Lệnh phiếu chỉ có một bản chính do con nợ phát ra chuyển cho người hưởng lợi.
Hiện nay trong thương mại quốc tế, lệnh phiếu ít được sử dụng làm phương tiện thanh toán trong thực tế.
*) Séc
Séc là một mệnh lệnh vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình ra để cho người có tên trong sec, hoặc trả theo lệnh của người ấy hoặc trả người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hoặc bằng chuyển khoản.
Luật về séc quốc tế do Uỷ ban thương mại quốc tế Liên Hiệp quốc, Tài liệu số A/CN 9/212 ngày 18/02/1982.
Séc có giá trị thanh toán như tiền tệ, do vậy, séc phải đáp ứng những quy định về nội dung và hình thức do luật định (Công ước Giơnevơ về séc năm 1931).
Việt Nam có Quy chế phát hành và sử dụng séc được ban hành kèm theo Nghị định số 30/1996/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/05/1996. Và sau đó được thay thế bằng Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 và có hiệu lực thi hành từ 01/07/2006.
Tại khoản 4 điều 4 Luật các công cụ chuyển nhượng có định nghĩa: “Séc là giấy tờ có giá do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nướcvn trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng”.
Điểm cơ bản trong việc lập séc là người phát hành séc phải có tiền trên tài khoản mở tại ngân hàng, số tiền trên tờ séc không được vượt quá số dư trên tài khoản ở ngân hàng. Séc có thể được phát hành để trả tiền cho một cơ quan, tổ chức, một hoặc nhiều cá nhân, hoặc séc do ngân hàng này phát hành trả tiền cho một ngân hàng khác.Tuy nhiên, theo ULC 1931, người ký phát séc có thể phát hành tờ séc mà tại thời điểm đó, tài khoản của họ không đủ số dư; miễn sao vào thời điểm lúc vào thanh toán tờ séc, trên tài khoản có đủ tiền nếu không tờ séc đã phát hành vẫn có giá trị nhưng người ký phát séc sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Séc thường được in sẵn theo mẫu có những dòng để trống để người phát hành điền vào.
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc thanh toán nếu thời hạn có hiệu lực của nó chưa hết. Thời hạn có hiệu lực của séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó phụ thuộc vào luật pháp các nước.
3.2 Các phương thức thanh toán
3.2.1 Phương thức thanh toán chuyển tiền
*) Kái niệm
Thanh toán chuyển tiền là một phương thức thanh toán, trong đó khách hàng (người có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình, chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định và trong một thời gian nhất định.
*) Đặc điểm
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán quốc tế đơn giản và nhanh chóng nhất. Trong thanh toán chuyển tiền, việc trả tiền hay không phụ thuộc vào thiện chí của người mua, do đó rủi ro thanh toán hoàn toàn phụ thuộc về người bán. Chính vì vậy, trong ngoại thương chuyển tiền thường chỉ được áp dụng trong trường hợp các bên mua bán có uy tín cao và thực sự tin cậy lẫn nhau.
Phương thức thanh toán chuyển tiền có thể được thực hiện bằng hai hình thức chủ yếu sau:
Chuyển tiền bằng thư –Mail Transfer (M/T)
Chuyển tiền điện- Telegraphic Transfer (T/T)
Trong phương thức này, người chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau, ngân hàng chỉ đóng vai trò chung gian thanh toán theo sự uỷ nhiệm để hưởng hoa hồng và không bị ràng buộc bất cứ trách nhiệm gì đối với người chuyển tiền và người thụ hưởng.
3.2.2 Phương thức thanh toán Nhờ thu
*) Khái niệm
Nhờ thu là phương thức thanh toán, trong đó bên bán (nhà xuất khẩu) sau khi giao hang hay cung ứng dịch vụ, uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình xuất trình bộ chứng từ thông qua ngân hàng thu hộ cho bên mua (nhà nhập khẩu) để được thanh toán, chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
*) Đặc điểm
Để nhờ thu trở thành phương thức thanh toán hiệu quả, thì người bán và người mua phải thoả thuận chi tiết các điều kiện thanh toán quy định trong hợp đồng ngoại thương. Trên cơ sơ thoả thuận này, người bán thực hiện nhờ thu qua ngân hàng phục vụ mình. Mức độ tham gia của ngân hàng phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung các chỉ thị và chứng từ mà người bán uỷ quyền cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ. Hành động của ngân hàng luôn tuân theo chỉ thị nhờ thu và nội dung phù hợp với “ Quy tức thống nhất về nhờ thu” của Phòng Thương mại quốc tế, bản sửa 1995 (Unifrom Rulé for the Collection, 1995 Revíion No. 522, ICC). Bản quy định cũng là những quy định pháp lý tuỳ ý, có nghĩa là muốn áp dụng nó, các bên phải thoả thuận thống nhất và đưa vào trong hợp đồng.
*) Các loại nhờ thu:
Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection)
Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection)
3.2.3 Phương thức tín dụng chứng từ (L/C)
*) Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán theo thoả thuận, trong đó, một ngân hàng (ngân hàng mở tín dụng), theo yêu cầu của một khách hàng (người xin mở tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba đó (người hưởng lợi) hoặc sẽ trả, chấp nhận, mua hối phiếu do người hưởng lợi phát hành hoặc cho phép một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hoặc mua hối phiếu khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã quy định và mọi điều kiện đặt ra đều được thực hiện đầy đủ. Giáo trình “Luật thanh toán quốc tế”_ TS. Trần Thị Hoà Bình, PGS.TS Trần Văn Nam, trang 292
*) Đặc điểm
Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng không chỉ là ngưởi trung gian thu hộ, chi hộ mà còn:
Là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, bảo đảm cho nhà xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hóa mà họ đã cung ứng.
Là người bảo đảm cho nhà nhập khẩu nhận được số lượng và chất lượng hàng do bộ chứng từ đại diện và tương ứng với số tiền đã bỏ ra.
III. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
1. Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán, trong đó theo yêu cầu của khách hàng, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư, gọi là L/C (Letter of Credit), ngân hàng phát hành sẽ cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối phiếu cho một bên thứ ba khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện và điều khoản quy định trong L/C.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ:
- Người xin mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác.
- Ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu, ngân hàng này cấp tín dụng cho người nhập khẩu.
- Người hưởng lợi thư tín dụng là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng ở nước ngoài hưởng lợi.
- Ngoài ra, trong từng trường hợp còn có thể có các ngân hàng khác tham gia vào phương thức này như ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu…
2..Cơ sở của phương thức thanh toán L/C
2.1 Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế
Để điều chỉnh các quan hệ trong nước, mỗi nước phải xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng phù hợp với thể chế chính trị, xã hội, tập quán và trình độ phát triển; chính vì vậy, luật pháp giữa các nước là khác nhau. Tuy nhiên, khi tham gia các hoạt động quốc tế, các nước đều bình đẳng với nhau, nên không thể dùng luật pháp của một nước nào đó áp đặt buộc các nước khác phải theo. Để giải quyết vấn đề mâu thuẫn luật pháp giữa các nước trong quan hệ quốc tế, người ta đã xây dựng một hệ thống luật pháp thống nhất mang tính quốc tế để điều chỉnh các hoạt động quốc tế, trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế.
2.1.1 Nguồn luật quốc tế
*) Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ (The Uniform Custerm anh Practice for Documentary Credit – UCP)
Bản UCP đầu tiên được soạn thảo và công bố năm 1933 và được Hội nghị ICC lần thứ 7 tại Viene thông qua. Bản quy tắc đã được ICC tu chỉnh 7 lần vào các năm 1951,1962,1974,1983,1993 và gần đây nhất là ấn phẩm UCP 600 (The Uniform Customs and Pratice for Documentary Credit, ICC Publication No.600) sẽ có hiệu lực từ 01/07/2007.
Các bản UCP sau ra đời không tuyên bố huỷ bỏ các bản trước đó, toàn bộ 7 bản UCP đã được ban hành vào các năm khác nhau vẫn còn nguyên hiệu lực trong thanh toán quốc tế. Chính vì vậy, việc áp dụng bản UCP nào là tuỳ thuộc vào thoả thuận của các bên và nhất thiết phải được dẫn chiếu vào hợp đồng thương mại và L/C. UCP chỉ áp dụng trong thanh toán quốc tế, không áp dụng trong thanh toán nội địa.
UCP là văn kiện tập hợp toàn bộ những quy tắc và định nghĩa thống nhất quốc tế về tín dụng chứng từ, được hầu hết các quốc gia (hơn 165 quốc gia) công nhận. UCP cũng phân định rất rõ ràng, cụ thể quyền lợi, nghĩa vụ, và trách nhiệm của tất cả các bên tham gia vao giao dịch tín dụng chứng từ.
*) Tiêu chuẩn quốc tế về thực hành ngân hàng trong kiểm tra chứng từ theo phương thức Tín dụng chứng từ (International Standard Banking Practice for The Examination of Documents Under Documentary Credit – ISBP)
Tại cuộc họp vào tháng 5/2000, uỷ ban kỹ thuật và thực hành ngân hàng của Phòng thương mại Quốc tế (Uỷ ban ngân hàng của ICC) đã thành lập nhóm công tác để soạn thảo văn bản Tiêu chuẩn quốc tế về thực hành ngân hàng trong kiểm tra chứng từ xuất trình theo phương thức tín dụng chứng từ được ban hành theo Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ do ICC xuất bản số 500 (The uniform Customs and Practice for Documentary Credit, ICC Publication No.500 – UCP No.500).
Tiêu chuẩn quốc tế và thực hành ngân hàng thể hiện trong văn bản này là sự nhất quán với UCP 500 cũng như các quan điểm và các quyết định của uỷ ban ngân hàng của ICC. Đây không phải văn bản luật, cũng không sửa đổi UCP 500 mà chỉ giải thích rõ ràng cách thức thực hiện UCP 500 đối với những người làm thực tế liên quan đến tín dụng chứng từ.
*) Các nguồn luật điều chỉnh quan hệ thanh toán hối phiếu
Năm 1930, hội nghị về luật hối phiếu được tổ chức tại Giơneve, các nước thành viên đã phê chuẩn Công ước về luật hối phiếu, gọi là Công ước Giơnevơ 1930 về luật hối phiếu thống nhất (Uniform Law for Bill of Exchange – Genever Convention 1930, ULB 1930).
Tuy nhiên, Mỹ và Anh, hai cường quốc về thương mại và tái chính đã không tham gia công ước Giơnevơ 1930 mà họ tự xây dựng riêng luật về hối phiếu cho mình, cụ thể là:
- Hệ thống luật các nước thuộc khối Anglo-saxon dựa trên cơ sở luật hối phiếu của Anh quốc (Bill of Exchange Act 1882 – BEA).
- Luật thương mại thống nhất 1962 của MỸ (Uniform Commercial Codes of 1962).
Đứng trước tình hình như vậy, Liên hợp quốc đã nỗ lực nhằm thống nhất Hệ thống luật điều chỉnh hối phiếu trên toàn thế giới, nên đã xây dựng và ban hành Công ước Liên hợp quốc về hối phiếu và lệnh phiếu quốc tế - International Bill of Exchange and Promissory Notes – UN convention 1980.
*) Các nguồn luật điều chỉnh quan hệ thanh toán séc
Năm 1930, hội nghị quốc tế về séc tại Giơnevơ đã được 30 nước thông qua luật thống nhất về séc quốc tế (Uniform law on Check – ULC 1931).
Nội dung chủ yếu đề cập tới những quy định thống nhất về: hình thức, nội dung, tính chất, việc phát hành và lưu thông séc, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan tới séc.
Tuy nhiên hai cường quốc về kinh tế, thương maị và tài chính là Anh và Mỹ đã không tham gia Công ước Giơnevơ 1931 về Luật séc quốc tế, vì vậy hiện nay hệ thống luật về séc của Anh - Mỹ cũng được áp dụng trong thương mại quốc tế.
*) Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng (The Uniform Rules for Bank – to – Bank Reimbursement under Documentary Credit, ICC Pub. No. 525, 1995 – Inforce as of July 01, 1996, gọi tắt là UR 525)
Một thực tế là, trong khi UCP là một tiêu chuẩn quốc tế (tương đối hoàn hảo và thống nhất) cho giao dịch tín dụng chứng từ, theo đó khối lượng hoàn trả giữa các ngân hàng đã tăng lên đáng kể, nhưng việc hoàn trả giữa các ngân hàng vẫn còn là vấn đề tuỳ thuộc vào tập quán địa phương trong các khu vực tài chính trên thế giới. Để đáp ứng sự cần thiết về tiêu chuẩn quốc tế thống nhất và nhằm hỗ trợ nền thương mại toàn cầu, uỷ ban ngân hàng của ICC đã thành lập ban soạn thảo vào năm 1993 nhằm soạn thảo “Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng theo tín dụng chứng từ”. Quy tắc này đã được ban hành và có hiệu lực từ 01/07/1996, với tên gọi “Quy tắc thống nhất về hoàn trả liên hàng theo tín dụng chứng từ, Phòng Thương mại quốc tế, số xuất bản 525, 1995 hiệu lực 01/07/1996”
Ngoài các văn bản pháp lý nêu trên, hoạt động thanh toán quốc tế còn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp lý khác như: phụ trương UCP 500 về việc xuất trình chứng từ điện tử bản 1.0 –eUCP (Supplement to UCP 500 for electronic presentation version 1.0), các thoả ước ngân hàng, pháp luật của các quốc gia có liên quan…
2..1.2 Nguồn luật quốc gia
- Bộ luật Dân sự
- Luật thương mại
- Luật ngoại hối
- Luật các công cụ chuyển nhượng…
- Văn bản hiện hành của NHNN liên quan đến việc phát hành L/C:
+ Quy chế Mở thư tín dụng nhập hàng trả chậm, ban hành kèm theo Quyết định 711/2001/QĐ-NHNN ngày 25/05/2001 của Ngân hàng Nhà nước.
+ Một số yêu cầu khi mở L/C trả ngay, quy định tại công văn 405/NHNN-QLNH ngày 23/01/2006 của Vụ Quản lý Ngoại hối – Ngân hàng Nhà nước.
Để thấy được trình tự pháp lý, tại Điều 6, Luật các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam quy định (đây cũng là quy tắc chung đối với các nước):
“1. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
2. Trong trường hợp quan hệ công cụ chuyển nhượng có yếu tố nước ngoài, các bên tham gia quan hệ công cụ chuyển nhượng được thoả thuận áp dụng các tập quán thương mại quốc tế gồm Quy tắc thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ, Quy tắc thống nhất về nhờ thu của Phòng Thương mại quốc tế có liên quan khác theo quy định của Chính phủ.
3. Trong trường hợp công cụ chuyển nhượng được phát hành ở Việt Nam nhưng được châp nhận, bảo lãnh,chuyển nhượng, ._.cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện ở một nước khác thì công cụ chuyển nhượng phải được phát hành theo quy định của Luật này.
4. Trong trường hợp công cụ chuyển nhượng được phát hành ở nước khác nhưng được chấp nhận, bảo lãnh, khởi kiện ở Việt Nam thì việc chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán, truy đòi, khởi kiện được thực hiện theo quy định của Luật này.”
Từ thực tiễn trên ta rút ra các đặc điểm sau:
1.Trình tự ưu tiên về tính pháp lý theo thứ tự giảm dần sẽ là: Công ước và Luật quốc tế, Luật quốc gia, Thông lệ và tập quán quốc tế. Nếu có mâu thuẫn giữa các nguồn luật thì: Luật quốc gia sẽ được ưu tiên vượt lên trên về tính chất pháp lý đối với thông lệ và tập quán quốc tế; Công ước và luật quốc tế sẽ được ưu tiên vượt lên trên về tính chất pháp lý đối với luật quốc gia.
2. Thông lệ và tập quán quốc tế chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật tuỳ ý. Điều này được thể hiện ở các nội dung sau:
- Chúng chỉ có hiệu lực khi trong hợp đồng có dẫn chiếu áp dụng. Đồng thời, một khi trong hợp đồng có dẫn chiếu áp dụng, thì chúng lại trở nên văn bản pháp lý có tính chất bắt buộc thực hiện.
- Các bên tham gia hợp đồng có thể loại trừ, bổ sung hay sửa đổi các điều khoản của thông lệ và tập quán quốc tế. Trong trường hợp này, thì những quy định khác rõ ràng trong hợp đồng sẽ được ưu tiên vượt lên trên về mặt pháp lý đối với thông lệ và tập quán quốc tế.
2.2. UCP
2.2.1. Nguyên tắc cơ bản của UCP
UCP là văn bản mang tính chất quy phạm tuỳ ý, có nghĩa là khi sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, nếu muốn áp dụng nó, thì các bên tham gia phải thoả thuận và ghi vào hợp đồng. Một khi ngân hàng phát hành đã nêu rõ trong tín dụng thư được phát hành là “tham chiếu theo UCP…” thì toàn bộ giao dịch tín dụng chứng từ đó phải tuân thủ theo những quy định trong UCP. Tuy nhiên, các bên cũng có thể thoả thuận khác, miễn sao có dẫn chiếu.
UCP cũng là một bản quy định linh hoạt hơn nhiều so với bất kỳ luật quốc gia hay một văn bản quốc tế nào. UCP không phải là luật bắt buộc mà chỉ áp dụng khi các ngân hàng tự nguyện đưa UCP vào các hợp đồng trên cơ sở đó hình thành nên các quan hệ tín dụng. Về cơ bản, UCP là sự thể chế hoá các tập quán thông lệ thương mại quốc tê, dựa trên kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại, người xuất khẩu và người nhập khẩu.
Hiện nay ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại và các đơn vị kinh doanh ngoại thương đã thống nhất sử dụng bản quy tắc này để điều chỉnh các quan hệ áp dụng thư tín dụng quốc tế giữa Việt Nam và nước ngoài.
2.2.2. Điểm mới của UCP 600
Sau 03 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006, Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã thông qua Bản Quy tắc Thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ mới (UCP600), phiên bản thứ 7, hoàn thiện Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ cũ (UCP 500) và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
UCP 600 có một số thay đổi cơ bản so với UCP 500 như sau:
- Về hình thức UCP 600 được bố cục lại với 39 điều khoản (so với 49 điều khảon của UCP 500), trong đó có bổ sung nhiều định nghĩa còn gây tranh cãi trong bản UCP 500. Chẳng hạn, điều 2 “Difinition” (Định nghĩa) của UCP 600 đã nêu ra một loạt định nghĩa như: Advising Bank (Ngân hàng thông báo), Complying presentation (Xuất trình phù hợp), Confirrmation (Xác nhận), Confirming Bank (Ngân hàng xác nhận), Negotiation (Chiết khấu), Presentation (Xuất trình chứng từ)…
- Loại bỏ điều chỉnh Tín dụng huỷ ngang:
Theo Điều 6 UCP 500: “Tín dụng có thể là huỷ ngang hoặc không huỷ ngang”.
Đến Điều 3 UCP 600 quy định: “Một tín dụng là không huỷ ngang cho dù không chỉ rõ điều đó”.
- Lưu ý hơn về trách nhiệm các bên:
+ Trách nhiệm của NHPH trong việc không kèm “hợp đồng mua bán” vào tín dụng:
Điều 3 UCP 500: “Tín dụng, về bản chất, là giao dịch độc lập với việc mua bán hoặc các hợp đồng mà tín dụng dựa trên đó và các ngân hàng không liên quan hoặc không bị ràng buộc với các hợp đồng này cho dù các hợp đồng này được dẫn chiếu trong tín dụng.
Điều 4 UCP 600: “ Ngân hàng phát hành không khuyến khích người mở đưa bản sao hợp đồng, hoá đơn hình thức hoặc các chứng từ tương tự vào thành một phần không thể tách rời của tín dụng.
+ Giới hạn trách nhiệm của ngân hàng trong giao dịch thư tín dụng:
Điều 4 UCP 500: “Trong giao dịch tín dụng, các bên liên quan làm việc trên chứng từ không làm việc với hàng hoá, dịch vụ và các nghĩa vụ khác mà các chứng từ đó có thể liên quan đến”.
Điều 5 UCP 600: “Các ngân hàng làm việc trên chứng từ, không làm việc với hàng hoá, dịch vụ và các nghĩa vụ khác mà các chứng từ đó có thể liên quan đến”.
+ Trách nhiệm của NHTB trong thông báo điều chỉnh tín dụng:
Điều 9 UCP 500: “Người hưởng cần việc chấp nhận hoặc từ chối các sửa đổi (tín dụng). Trường hợp người hưởng không thông báo, NHCĐ hoặc NHPH nhận được chứng từ phù hợp với tín dụng và với các điều khoản sửa đổi chưa được chấp nhận, điều đó được coi như người hưởng chấp nhận (các) sửa đổi đó và kể từ thời điểm đó, tín dụng được sửa đổi”.
Điều 10 UCP 600: “Một NHTB điều chỉnh (tín dụng) phải thông báo cho Ngân hàng mà từ ngân hàng đó họ nhận được sửa đổi (tín dụng) việc chấp nhận hoặc từ chối sửa đổi đó.
+ Trách nhiệm của ngân hàng trong kiểm tra chứng từ:
Điều 13 UCP 500: “NHPH, NHXN, nếu có, và NHCĐ, có một khoảng thời gian hợp lý, không quá 7 ngày ngân hàng kể từ sau khi nhận được chứng từ để kiểm tra chứng từ và quyết định chấp nhận hoặc từ chối…”
Điều 14 UCP 600: “Ngân hàng được chỉ định thực hiện theo sự chỉ định, NHXN, nếu có, và NHPH, sẽ có tối đa 5 ngày ngân hàng kể từ ngày xuất trình chứng từ để quyết định chứng từ xuất trình là phù hợp”.
- Sửa đổi quy định thời hạn xuất trình chứng từ:
Điều 43 UCP 500: “Tín dụng phải quy định thời hạn xuất trình chứng từ, trường hợp không quy định thì chuúng từ phải được xuất trình không muộn hơn 21 ngày kể từ ngày giao hang”.
Điều 14 UCP 600: “ Chứng từ có một hoặc nhiều bản chứng từ vận tải gốc phải được người hưởn hoặc người thay mặt người hưởng xuất trình không muộn hơn 21 ngày theo lịch sau ngày giao hàng…trong mọi trường hợp không được muộn hơn ngày hết hạn của tín dụng”.
- UCP 600 bổ sung một số quy định về chứng từ gốc (Điều 17), hoá đơn thương mại và chứng từ bảo hiểm (điều 18, 28), thời hạn xuất trình và nơi xuất trình chứng từ (Điều 6, 31); quy định rõ hơn về chứng từ vận tải (Điều 19, 23); hạn chế nơi xuất trình chứng từ đối với tín dụng chuyển nhượng (Đìều 38).
- UCP 600 đã quy định rõ thời gian cho việc từ chối hoặc chấp nhận các chứng từ xuất trình là khoảng thời gian cố định “5 ngày làm việc ngân hàng” (five banking days).
- UCP 600 đã đưa ra quy định mới về địa chỉ của người yêu cầu mở và người hưởng lợi thư tín dụng khi được thể hiện trên chứng từ xuất trình đúng như L/C.
- Theo UCP 600, ngân hàng phát hành được phép từ chối chứng từ và giao bộ chứng từ cho người yêu cầu mở thư tín dụng khi nhận được chấp nhận bộ chứng từ bất hợp lệ.
Như vậy, UCP 600 về cơ bản đã có nhiều điểm mới nhằm xác định rõ và giải quyết những xung đột trong thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ mà UCP 500 chưa thực hiện được.
UCP 600 đã ra đời và sẽ có hiệu lực vào 01/0702007.
3. Nội dung phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Tín dụng chứng từ là giao dịch của ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng nhằm thực hiện công đoạn cuối cùng của hang loạt các giao dịch thương mại quốc tế giữa hai bên mua và bán, đáp ứng yêu cầu của cả hai phía: Người bán giao hàng và được trả tiền; người mua trả tiền và nhận hàng. Ngân hàng, người đảm bảo thanh toán đã trở thành nhịp cầu nối đáng tin cậy trong các giao dịch này.
3.1 Khái niệm, đặc điểm của thư tín dụng
3.1.1 Khái niệm
Thư tín dụng là một văn bản (thư hoặc điện tín) do ngân hàng phát hành mở ra, trên cơ sở yêu cầu của người nhập khẩu; trong đó ngân hàng này cam kết trả tiền cho người thụ hưởng, nếu họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Bằng một ngôn ngữ luật, định nghĩa về Tín dụng chứng từ được nêu tại Điều 2, UCP 600, như sau: “Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ, cho dù được mô tả hay gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không huỷ ngang của NHPH về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
Với khái niệm như vậy, thư tín dụng được gọi với nhiều tên khác nhau tuỳ theo thói quen và thông lệ của từng nước: Letter of Credit: Credit: Documentary Credit…Tương tự như vậy, ở Việt Nam thư tín dụng còn được gọi là tín dụng thư, tín dụng chứng từ, thư tín dụng, L/C…
Một cách tổng quát, có thể xem L/C là sự “bảo lãnh thanh toán có điều kiện” bởi một ngân hàng cho một người thụ hưởng khi người này xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định của L/C. Hay nói cách khác, L/C là cam kết của ngân hàng phát hành đối với chứng từ xuất trình phù hợp với quy định của L/C.
3.1.2 Đặc điểm
- L/C là hợp đồng kinh tế hai bên:
Nhiều người lầm tưởng L/C là hợp đồng kinh tế ba bên, bao gồm: người yêu cầu, NHPH và người thụ hưởng. Thực tế, L/C chỉ là một hợp đồng kinh tế dịch vụ ràng buộc giữa ngân hàng phát hành và người hưởng - thường không cùng quốc gia. Đó là văn bản thể hiện sự cam kết của ngân hàng nước người mua đối với người bán để thực hiện nghĩa vụ trả tiền quy định trong điều khoản thanh toán của hợp đồng mua bán, do đó, thư tín dụng mở ra trên cơ sở hợp đồng mua bán. Cụ thể là những nội dung cơ bản của hợp đồng như tên hang, số lượng, chất lượng, vận tải…là căn cứ duy nhất để người mua xin mở tín dụng cam kết trả tiền cho người bán
- L/C độc lập với hợp đồng cơ sở và hàng hoá:
Về bản chất, L/C là một giao dịch hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương hoặc hợp đồng khác mà hợp đồng nàu là cơ sở để hình thành giao dịch L/C. Trong mọi trường hợp, ngân hàng không liên quan đến hoặc bị rang buộc vào hợp đồng như vậy, ngay cả khi L/C có bất cứ dẫn chiếu nào đến hợp đồng này.
Như vậy, L/c có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại thương, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Một khi L/C đã được mở và đã được các bên chấp nhận, thì cho dù nội dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không cũng không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan.
Một số nhà nhập khẩu không hiểu hoặc làm ngơ quy tắc này, khi gặp rủi ro trong giao dịch hợp đồng cơ sở đã quay sang khiếu nại hay cản trở việc ngân hàng thanh toán bộ chứng từ xuất trình phù hợp. Điều này là không được phép.
- L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ.
Các ngân hàng chỉ trên cơ sở kiểm tra chứng từ, kiểm tra việc xuất trình để quyết định xem trên bề mặt của chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp hay không. Như vậy, các chứng từ trong giao dịch rất quan trọng, nó trở thành bằng chứng về việc giao hàng của người bán, là đại diện cho giá trị hang hoá đã được giao, do đó chúng trở thành căn cứ để ngân hàng trả tiền, là căn cứ để nhà nhập khẩu hoàn trả tiền cho ngân hàng, là chứng từ đi nhận hàng của nhà nhập khẩu…Việc nhà xuất khẩu có thu được tiền hay không, phụ thuộc duy nhất vào xuất trình chứng từ có phù hợp; đồng thời ngân hàng cũng hcỉ trả tiền khi bộ chứng từ xuất trình phù hợp, nghĩa là ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự thật của hàng hoá.
3.2 Các loại thư tín dụng
Theo Uỷ ban kỹ thuật và nghiệp vụ ngân hàng thuộc ICC, thư tín dụng được phân biệt theo hai dạng: theo loại hình và theo phương thức sử dụng.
Theo loại hình, có thư tín dụng có thể huỷ ngang và thư tín dụng không thể huỷ ngang.
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C) là một thư tín dụng mà ngân hàng và người mua lúc nào cũng có thể tự ý sửa đổi hoặc huỷ bỏ không cần báo cho người bán biết. Hiện nay UCP 600 đã loại bỏ loại thư tín dụng này (Điều 3 UCP 600 quy định: “Một tín dụng là không huỷ ngang cho dù không chỉ rõ điều đó”).
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C) là loại thư tín dụng, mà ngân hàng, khi đã mở thư tín dụng thì phải chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán trong thời hạn thư tín dụng có hiệu lực, không thể bị sửa đổi hoặc bị huỷ bỏ nếu không có sự đồng ý của tất cả các bên có liên quan.
Theo phương thức sử dụng:
- Thư tín dụng không huỷ ngang có giá trị trực tiếp: Là loại thư tín dụng mà ở đó, nghĩa vụ của NHPH chỉ có giá trị đối với người hưởng lợi về việc thanh toán hối phiếu/chứng từ và luôn luôn hết hiệu lực NHPH.
- Thư tín dụng với điều khoản đỏ (Red clause L/C): điều khoản của L/C được in và đánh máy bằng mực đỏ. Ở đây người mở thư tín dụng cam kết tài trợ cho người xuất khẩu ngay sau khi thư tín dụng được mở. L/C này thường được mở khi hai bên đối tác có quan hệ làm ăn lâu dài và có uy tín.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irevocable L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng. NHXN chịu trách nhiệm trả tiền cho người bán nếu như ngân hàng mở thư tín dụng không trả tiền được (bị phá sản).
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irevocable without recourse L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người bán đã được ngân hàng thanh toán rồi thì không phải truy hoàn lại số tiền họ đã nhận kể cả khi có tranh chấp vè chứng từ. Đối với loại thư tín dụng này, người bán được ghi lên hối phiếu của mình “không được truy đòi người phát phiếu”.
- Thư tín dụng có thể chuyển nhuợng (Irevocable Transferable L/C): là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà ngân hàng trả tiền được phép trả toàn bộ hay một phần số tiền cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên. Thư tín dụng có thể chuyển nhượng được sử dụng trong những thương vụ có người môi giới, khi người xuất khẩu hoặc đại lý là trung gian giữa người nhập khẩu và người cung cấp.
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revoling L/C): là loại thư tín dụng mà sau khi đã sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực lại tự động có hiệu lực như cũ và được tiếp tục sử dụng trong một thời gian nhất định. Loại thư tín dụng này được dung trong việc mua bán những mặt hang số lượng lớn nhưng giao thường xuyên, nhiều kỳ trong một năm và nếu người nhập khẩu là khách hàng thường xuyên của người xuất khẩu.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại thư tín dụng được mở ra căn cứ vào thư tín dụng khác đảm bảo.
- Thư tín dụng dự phòng (Stand By L/C): là loại thư tín dụng mà người hưởng lợi nó phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra cho người xin mở L/C, nếu người hưởng lợi không hoàn thành nghĩa vụ như quy định trong thư tín dụng.
- Thư tín dụng thanh toán dần dần (Deferreed L/C): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở thư tín dụng sẽ thanh toán dần dần trị giá thư tín dụng cho người hưởng lợi theo quá trình hoàn thành nghĩa vụ giao hang của họ. Loại thư tín dụng này áp dụng cho các hợp đồng giao hàng nhiều lần.
3.3 Quy trình thực hiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
- Người mua và người bán ký một hợp đồng mua bán hàng hoá.
- Người mua, căn cứ vào hợp đồng, làm đơn xin mở một thư tín dụng (Letter of Credit) tại một ngân hàng nhất định mà hai bên trong hợp đồng mua bán đã thoả thuận trong hợp đồng, yêu cầu ngân hàng này trả tiền cho người bán hàng nếu người bán nộp đủ bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín dụng.
- Ngân hàng mở thư tín dụng, căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, mở thư tín dụng và thông qua ngân hàng ở nước ngoài thông báo cho người bán biết về thư tín dụng đó rồi gửi bản chính của thư tín dụng cho người bán.
- Người bán kiểm tra kỹ nội dung của thư tín dụng, nếu chấp thuận thì giao hàng hoá cho người mua theo thư tín dụng, nếu không chấp thuận hoặc cần phải sửa đổi hoặc bổ sung những nội dung trong thư tín dụng thì người bán điện cho người mua hoặc cho ngân hàng mở thư tín dụng để ngân hàng đề nghị người mua sửa thư tín dụng. Mọi nội dung sửa đổi phải có sự xác nhận của ngân hàng mở thư tín dụng thì mới có hiệu lực. Văn bản sửa đổi trở thành một bộ phận cấu thành không thể tách rời của thư tín dụng cũ và huỷ bỏ nội dung.
- Sau khi hoàn thành việc giao hàng, người bán lập bộ chứng từ thanh toán đưa đến ngân hàng trong thời hạn xuất trình chứng từ.
- Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho ngân hàng mở thư tín dụng để ngân hàng này trả tiền cho người bán. Nếu ngân hàng thông báo đồng thời là ngân hàng trả tiền thì sẽ tiến hành trả tiền cho người bán và chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng mở thư tín dụng. Ngân hàng này sẽ hoàn lại số tiền đã trả cho ngân hàng thông báo.
- Ngân hàng mở thư tín dụng chuyển giao toàn bộ chứng từ hàng hoá cho ngưòi mua để người mua đi nhận hàng, đồng thời thu hồi lại ởp người mua số tiền đã trả cho người bán.
Quy trình tổng quát về nghiệp vụ tín dụng chứng từ Giáo trình Luật thương mại quốc tế_ TS. Trần Thị Hoà Bình- PGS.TS. Trần Văn Nam, trang 296
3.4 Quyền lợi và nghĩa vụ các bên có liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ
- Đối với người nhập khẩu:
Khi hợp đồng mua bán quy định áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thì việc người mua mở thư tín dụng là điều kiện tiên quyết để người bán thực hiện hợp đồng. Người mua phải mở thư tín dụng đúng thời hạn quy định trong hợp đồng. Người mua phải căn cứ vào nội dung của hợp đồng mua bán để làm đơn yêu cầu mở thư tín dụng gửi tới ngân hàng.
Người mua có quyền từ chối hoàn trả toàn bộ hay một phần của số tiền thư tín dụng cho ngân hàng nếu xét về bề ngoài bộ chứng từ không phù hợp với những điều kiện mà người mua đã nêu trong thư tín dụng.
- Đối với người xuất khẩu:
Người bán chỉ giao hàng khi nào biết người mua đã mở thư tín dụng cam kết trả tiền cho mình. Người bán phải kiểm tra thư tín dụng xem có đúng với nội dung của hợp đồng mua bán không, nếu sai với hợp đồng mua bán hoặc có những điều kiện không rõ ràng, không có lợi cho mình thì có quyền yêu cầu người mua sửa đổi hoặc bổ sung thư tín dụng. Nội dung sửa đổi thư tín dụng phải được ngân hàng mở thư tín dụng xác nhận thì mới có hiệu lực thanh toán.
Sau khi giao hàng người bán phải lập đầy đủ các chứng từ theo yêu cầu của thư tín dụng và xuất trình cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Người bán chỉ thu được tiền nếu ngân hàng kiểm tra thấy các chứng từ đó phù hợp về hình thức với các điều kiện của thư tín dụng.
- Đối với ngân hàng:
+ Ngân hàng mở thư tín dụng có nghĩa vụ căn cứ vào đơn yêu cầu, mở thư tín dụng cho người mua và tìm cách thông báo việc mở thư tín dụng này cho người bán biết. Ngân hàng mở thư tín dụng chịu trách nhiệm thẩm tra chứng từ do người bán xuất trình xem bề ngoài có phù hợp với những điều kiện của thư tín dụng hay không. Nếu phù hợp thì ngân hàng phải thanh toán tiền cho người bán vè nhận chứng từ, nếu ngân hàng làm sai thì ngân hàng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Sauk hi trả tiền cho người bán, ngân hàng trao chứng từ cho người mua và thu lại tiền từ người mua.
+ Ngân hàng thông báo: là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở thư tín dụng, có trách nhiệm thông báo cho người xuất khẩu rằng một thư tín dụng đã được mở cho người xuất khẩu hưởng. Bằng việc thông báo thư tín dụng, ngân hàng chỉ có chức năng làm cầu nối cho ngân hàng mở; ngân hàng thông báo không chịu thêm một rủi ro nào và chỉ có trách nhiệm đảm bảo là thư tín dụng chính xác và xác thực. Ngân hàng thông báo thường, nhưng không nhất thiết phải ở nước xuất khẩu. Một ngân hàng thông báo thường thực hiện một hoặc nhiều chức năng như xác nhận, chiết khấu hoặc thanh toán.
+ Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng (cũng thường là ngân hàng thông báo), theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng, đứng ra xác nhận trả tiền cho ngân hàng mở thư tín dụng. Việc xác nhận này cho phép người xuất khẩu được thanh toán bởi một ngân hàng ở nước xuất khẩu, hoặc một ngân hàng mà người xuất khẩu tin tưởng. NHXN cam kết trách nhiệm thanh toán không thể huỷ bỏ cho người xuất khẩu trên cơ sở nhận được các chứng từ đúng quy định.
+ Ngân hàng được chỉ định thanh toán là ngân hàng,với thoả thuận trong thư tín dụng được uỷ quyền để thanh toán, tiến hành thanh toán chấp nhận hối phiếu. Trừ khi thư tín dụng nói rõ là chỉ có ngân hàng mở thư tín dụng có quyền chỉ định thì ngân hàng mở mới chỉ định một ngân hàng khác. Một ngân hàng được chỉ định thường không bị buộc phải thanh toán theo một thư tín dụng trừ khi đã xác nhận trách nhiệm thanh toán trong thư tín dụng và trở thành ngân hàng xác nhận.
+ Ngân hàng thanh toán có thể là ngân hàng đã mở thư tín dụng hoặc là một ngân hàng khác được ngân hàng mở thư tín dụng uỷ thác trả tiền cho người bán. Khi nhận được các chứng từ do người xuất khẩu xuất trình, ngân hàng kiểm tra và nếu thấy phù hợp với các điều khoản và điều kiện cuả thư tín dụng, thì tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu.
+ Ngân hàng chiết khấu: là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu có kỳ hạn chưa đến hạn trả tiền do người bán ký phát cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng. Việc mua lại thường được đảm bảo là có thể truy đòi, nghĩa là nếu ngân hàng mở không thể thanh toán cho ngân hàng chiết khấu, ngân hàng chiết khấu sẽ thu lại tiền đã thanh toán cho người xuất khẩu. Đây là điểm khác biệt giữa ngân hàng chiết khấu và ngân hàng xác nhận.
Trong thực tế nghiệp vụ về tín dụng chứng từ, không nhất thiết phải có đủ các loại ngân hàng trên tham gia. Thông thường chỉ có hai hoặc đôi khi chỉ có một ngân hàng đứng ra làm tất cả các chức năng nói trên của ngân hàng về việc mở thư tín dụng và trả tiền thư tín dụng.
3.5 Ưu điểm và nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
Lợi ích lớn nhất của tín dụng chứng từ là nó đạt được đến sự thoả thuận có thể chấp nhận giữa những lợi ích đối kháng hiện nay của người mua và người bán thông qua việc làm cho thời gian trả tiền phù hợp với thời hạn giao hàng vì thế nó được đánh giá là phương thức ưu việt nhất trong thanh toán quốc tế hiện nay.
- Đối với người nhập khẩu: Công cụ này giúp người nhập khẩu loại bỏ rủi ro từ phía người xuất khẩu không thực hiện nghiêm chỉnh theo hợp đồng gây ra cho mình, thể hiện ở các điều kiện về hàng hoá, thời hạn giao hàng, chứng từ liên quan…Qua thư tín dụng, người nhập khẩu có thể thương lượng lại với nhà xuất khẩu điều khoản thanh toán, giá cả có lời với mình, và hơn hết giúp người nhập khẩu dễ dàng tìm được khách hàng, dựa trên uy tín của ngân hàng.
- Đối với người xuất khẩu: Người xuất khẩu cũng được loại bỏ rủi ro từ phía người nhập khẩu gây ra cho mình khi không thanh toán vì chắc chắn họ sẽ thu được tiền với một bộ chứng từ hoàn hảo, khi họ hoàn thành nghĩa vụ của mình. Không những thế, người xuất khẩu còn có thể thu hồi vốn nhanh đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thông qua việc bán hối phiếu dạng được chấp nhận của chứng từ này trên thị trường hoặc tại ngân hàng của mình dưới hình thức chiết khấu. Ngoài ra, rủi ro do người quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu cũng được loại trừ, vì khi làm đơn mở L/C, người nhập khẩu phải có giấy phép chuyển ngoại tệ của cơ quan quản lý ngoại hối.
- Đối với ngân hàng: Ngân hàng ngoài thu được phí dịch vụ của khách hàng, ngân hàng còn huy động được thêm một khoản tiền gửi (tiền ký quỹ) phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp khác như bảo lãnh và cho vay.
Tuy nhiên, do bộ chứng từ là căn cứ duy nhất để ngân hàng trả tiền nên người mua khó loại trừ khả năng người bán giả mạo hoặc thay đổi chứng từ để đòi tiền trong khi giao hàng không phù hợp với chứng từ xuất trình. Ngược lại, nếu người mua không có thiện chí với người bán, họ có thể tìm những lỗi rất nhỏ trên chứng từ để từ chối thanh toán mặc dù hàng giao đúng phẩm chất, thời hạn quy định, người bán có thể rất khó khăn trong việc đáp ứng những đòi hỏi nghiêm ngặt, chặt chẽ về chứng từ.
Chương II: Thực tiễn áp dụng thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
I. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương
1. Giới thiệu chung về Ngân hàng Ngoại thương
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Vào những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội, làm hậu thuẫn cho công cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì vấn đề thành lập một chế định tài chính chuyên về nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại đã được đặt ra một cách khẩn trương. Ngày 30/10/1962, Hội đồng Chính Phủ đã ban hành Nghị định 114/CP thành lập NHNT Việt Nam trên cơ sở bộ máy của Cục ngoại hối trực thuộc Ngân hang Nhà nước Việt Nam.
Ngày 01 tháng 04 năm 1963, NHNT chính thức được thành lập theo Quyết định số 115/CP do Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 30 tháng 10 năm 1962 trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý Ngoại hối trực thuộc Ngân hàng Trung ương (nay là Ngân hàng Nhà nước). Theo quyết định nói trên, NHNT đóng vai trò là ngân hàng chuyên doanh đầu tiên và duy nhất của Việt Nam tại thời điểm đó hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm cho vay tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ kinh tế đối ngoại khác (vận tải, bảo hiểm...), thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho Chính phủ trong các quan hệ thanh toán, vay nợ, viện trợ với các nước xã hội chủ nghĩa (cũ)... Ngoài ra, NHNT còn tham mưu cho Ban lãnh đạo ngân hàng nhà nước về các chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước và về quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
Ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký Quyết định số 286/QĐ-NHNN về việc thành lập lại NHNT theo mô hình Tổng công ty 90, 91 được quy định tại Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Trải qua gần 45 năm xây dựng và trưởng thành, tính đến thời điểm cuối năm 2006, NHNT đã phát triển lớn mạnh theo mô hình ngân hàng đa năng với 58 Chi nhánh, 1 Sở Giao dịch, 87 Phòng Giao dịch và 4 Công ty con trực thuộc trên toàn quốc; 2 Văn phòng đại diện và 1 Công ty con tại nước ngoài, với đội ngũ cán bộ gần 6.500 người. Ngoài ra, NHNT còn tham gia góp vốn, liên doanh liên kết với các đơn vị trong và ngoài nước trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kinh doanh bảo hiểm, bất động sản, quỹ đầu tư... Tổng tài sản của NHNT tại thời điểm cuối năm 2006 lên tới xấp xỉ 170 nghìn tỷ VND (tương đương 10,4 tỷ USD), tổng dư nợ đạt gần 68 nghìn tỷ VND (4,25 tỷ USD), vốn chủ sở hữu đạt hơn 11.127 tỷ VND, đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo chuẩn quốc tế.
Trong năm 2007, bên cạnh việc tập trung nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng vẫn duy trì vị thế dẫn đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương được trao tặng giải thưởng Thương hiệu mạnh Việt Nam 2006 do thời báo kinh tế và Cục xúc tiến Bộ Thương mại tổ chức. Đặc biệt thương hiệu Vietcombank được lọt vào top ten (mười thương hiệu mạnh nhất) trong số 98 thương hiệu đạt giải. Đây là lần thứ 3 liên tiếp Vietcombank được trao tặng giải thưởng này.
Năm 2007, NHNT được bầu chọn là “Ngân hàng cung cấp dịch vụ ngoại hối cho doanh nghiệp tốt nhất năm 2007” do tạp chí Asia Money bình chọn.
Năm 2007 cũng là một năm đáng nhớ đối với Sở giao dịch NHNT. Từ tháng 7 năm 2007, Sở giao dịch NHNT sẽ hoạt động và hạch toán độc lập với trung ương.
1.2 Tổ chức, quản lý
1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Theo Nghị định 115/CP ngày 30 tháng 12 năm 1962 của Hội đông Chính phủ về thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ sau:
Về đối ngoại, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một ngân hàng thương mại có tư cách pháp nhân độc lập, có vốn riêng, có trụ sở độc lập với Ngân hàng Nhà nước, có hội đông quản trị, ban điều hành và hoạt động theo điều lệ đựơc công bố. Tuy nhiên về đối nội, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn đảm nhiệm chức năng của Cục ngoại hối - một đơn vị tham mưu cho ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước về chính sách quản lý ngoại tệ, vàng bạc, quản lý quỹ ngoại tệ của Nhà nước, làm tham mưu cho Ngân hàng Nhà nước trong quan hệ với các Ngân hàng Trung ương các nước, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế…
Về hoạt động ngân hàng, ngoài nhiệm vụ cho vay nhằm khai thác các nguồn hàng xuất khẩu, cho vay mở rộng các dịch vụ đối ngoại như vân tải, bảo hiểm, dịch vụ cung ứng tàu biển…các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, quản lý vốn ngoại tệ gửi tại các ngân hàng nước ngoài, làm đại lý cho chính phủ trong quan hệ thanh toán, vay nợ viện trợ với các nước bạn bè đều được tập trung toàn bộ vào Ngân hàng Ngoại thương. Chính về vị thế đặc biệt trên, Ngân hàng Ngoại thương đã sớm là một ngân hàng thương mại chuyên nghiệp về nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại duy nhất ở Việt Nam sánh vai với các ngân hàng quốc tế ở khắp các châu lục.
Khi cơ chế thị trường đặt ra một yêu cầu bức xúc là phải năng động, nhạy bén, sang tạo mới thích nghi được với môi trường mới, với bề dày kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đối ngoại và sau nhiều bước đi quá độ, đến nay Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã chuyển hắn sang kinh doanh theo cơ chế thị trường. Nhờ đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã giữ được vị thế là ngân hàng thương mại được Nhà nước tin tưởng, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức, hệ thống quản lý, điều hành hoạt động của ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
1.2.2.1 Cơ cấu tổ chức
1.2.2.2 Bộ máy quản lý điều hành
Ngân hàng Ngoại thương được tổ chức và hoạt động theo Luật các Tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15 tháng 06 năm 2004.
Cơ sở của hoạt động quản trị và điều hành ngân hàng là các văn bản pháp luật của Nhà nước và Điều lệ được hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương ban hành kèm theo quyết định số 62/QĐ-HĐQT ngày 08 tháng 11 năm 2001, có hiệu lực thi hành kể từ khi được thồng đốc ngân hàng Nhà nước chuẩn y ngày 26 tháng 11 năm 2001 tại Quyết định số 1476/2001/QĐ-NHNN.
*) Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của NHNT. Hội đồng quản trị quản lý NHNT theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng, các quy định của Chính phủ về tổ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7695.doc