Lý luận tiền tệ của Mác và sự vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Mở đầu Cùng với việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nhiều chính sách kinh tế mới được ban hành và phát huy tác dụng tích cực đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế. Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạng dạn lúc đầu, đến sử dụng có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát đã được đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp; yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5020 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lý luận tiền tệ của Mác và sự vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp nhiều trở ngại trước là sự am hiểu về phương pháp điều hành mới còn nhiều hạn chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành chính sách tiền tệ theo nghĩa gốc của mỗi công cụ. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp nào để xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn còn là một ẩn số và chắc chắn có những bất cập là điều khó tránh khỏi. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, tôi chọn đề tài "Lý luận tiền tệ của Mác và sự vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam" để viết đề án kinh tế chính trị cho mình. Chương 1: lý luận chung về Tiền tệ và chính sách tiền tệ I. Lý luận chung về tiền tệ và thị trường tiền tệ 1.Tiền tệ .Bản chất và chức năng của tiền tệ Sự ra đời và bản chất của tiền tệ Mọi hàng hoá đều có giá trị,giá trị của hàng hoá do lao động của con người sáng tạo ra trong quá trình sản suất, nhưng nó chỉ bộc lộ ra bên ngoài trong quá trình lưu thông. Ngày nay giá trị của mọi thứ hàng hoá đều biểu hiện bằng tiền. Tiền đã xuất hiện cách đây trên 2000 năm trước công nguyên, sau may nghìn năm phát triển của sản xuất va trao đổi trong xã hội loài người, trải qua nhiều hình thức trao đổi khác nhau như: trao đổi sản phẩm trực tiếp, trao đổi mở rộng qua nhiều sản phẩm khác, trao đổi gián tiếp qua vật ngang giá chung của từng khu vực, từng bộ lạc... đến khi tất cả các địa phương các quốc gia đều thống nhất sử dụng vàng bạc làm vật ngang giá chung, thì tiền tệ trở thành vật ngang giá chung của toàn thế giới. Vật ngang giá chung là hình thái biểu hiện giá trị của nhiều hàng hoá nên nó có thể trao đổi trực tiếp với nhiều hàng hoá khác. Trong thời gian đầu, vật ngang giá chung chưa cố định vào một hàng hoá nào, mỗi địa phương mỗi dân tộc đều có một thứ hàng hoá riêng biệt làm vật ngang giá chung. Trong thời cổ đại ,Trung Quốc đã từng sử dụng da súc vật ,vỏ trai, gạo, ngọc trai, vàng bạc làm vật ngang giá chung... Trong quá trình phát triển của sản xuất trao đổi hàng hoá, những hàng hoá thông thường mất dần vai trò làm vật ngang giá chung vì thị trường trong nước và thị trường thế giới ngày càng mở rộng, đòi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất,cố định,có giá trị thực tế, dễ bảo quản vận chuyển, dễ sử dụng có thể chia nhỏ để dùng trong những giao dịch nhỏ, không bị thiên nhiên phá hoại . Trong các loạ hàng hoá làm vật ngang giá chung, chỉ có vàng bạc là đủ những tính chất như vậy, nên vàng bạc đã được dùng làm vật ngang giá chung . Đến cuôí thế kỉ 19, vàng loại bỏ bạc, làm vật ngang giá chung độc nhất, duy nhất của thị trường thế giới cũng như thị trường của từng dân tộc. Vàng trở thành thước đo giá trị chung của toàn thế giới. Xét về bản chất tiền tệ là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá đã phát triển cao, một thứ hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung, thước đo giá trị chung của mọi hàng hoá và tài sản khác. Tiền có khả năng trao đổi trực tiếp với mọi hàng hoá: vật chất và phi vật chất,mọi tài sản lớn nhỏ. Bản chất của tiền là một loại hàng hoá đặc biệt, độc quyền làm vật ngang giá chung, vật trung gian trao đổi hàng hoá, vật biểu hiện quan hệ xã hội của mọi người trong nền kinh tế. Bản chất của tiền tệ được biểu hiện đầy đủ qua các chức năng của nó. 1.1.2.Chức năng của tiền tệ Phương tiện thanh toán: Tiền được dùng trong giao dịch mua, bán hàng hoá, dịch vụ.Vậy tiền cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá trực tiếp. Nó tạo thuận lợi đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng hoá , được xem là dầu bôi trơn cho mọi hoạt động kinh tế, thúc đẩy phân công lao động và mở rộng chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu thông tiền tệ trở thành hệ thống huyết mạch cho toàn bộ nền kinh tế thị trường. Dự trữ giá trị : Tiền hôm nay có thể được tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai. Vì thế nó tạo khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh,tăng thêm thu nhập trong hiện tại, nhưng có thể để dành một phần kết quả đạt được cho tiêu dùng ngày mai. Như vậy tiền là một loại tài sản tài chính má nhờ nó đã mở rộng cho hoạt động tín dụng,thúc đấy quá trinh tích tụ để mở rộng sản xuất. Đơn vị hoạch toán: Tiền cung cấp một đơn vị tiêu chuẩn giá trị, được dùng để đo lường giá trị của các hàng hoá khác nhau. Đặc biệt, nó cần thiết cho mọi nền kinh tế, vì khả năng so sánh các chi phí và lợi ích của các phương án kinh tế. Nó còn là cơ sở để hoạch toán mọi hoạt động kinh tế từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng của mọi quốc gia. . Các khối tiền tệ trong lưu thông Các khối tiền tệ trong lưu thông tập hợp các phương tiện được sử dụng chung làm phương tiện trao đổi, được phân chia tuỳ theo “độlỏng” của các phương tiện đó trong những khoảng thời gian nhất định của một quốc gia. Độ lỏng của phương tiện trao đổi được hiểu là khả năng chuyển đổi từ phương tiện đó ra hàng hoá dịch vụ, tức là phạm vi và mức độ có thể sử dụng những phương tiện đó trong việc thanh toán chi trả. Các phép đo khối lượng tiền được đưa ra tuỳ thuộc vào các phương tiện hệ thống tài chính cung cấp và thường xuyên có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng nhìn chung các khối tiền trong lưu thông bao gồm : 1.2.1. Khối tiền giao dịch(M1) Gồm những phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán chi trả về hàng hoá dịch vụ, bộ phận này có tính lỏng cao nhất : - Tiền mặt trong lưu hành : Bộ phận tiền mặt(giấy bạc ngân hàng và tiền đúc) nằm ngoài hệ thống ngân hàng. - Tiền gửi không kỳ hạn tại các tổ chức tín dụng. - Một số phương tiện khác như ngân phiếu thanh toán, tiền gửi khác có thể phát séc ... 1.2.2. Khối tiền mở rộng (M2) gồm: - M1 - Tiền gửi có kỳ hạn Bộ phận tiền gửi có kì hạn mặc dù không trực tiếp sử dụng làm phương tiện trao đổi, nhưng chúng cũng co thể được chuyển đổi sang tiền giao dịch một cách nhanh chóng và với phí tổn thấp. Bộ phận này còn có thể được chia ra theo kì hạn hoặc số lượng. 1.2.3 Khối tài sản (M3)gồm: - M2 - Trái khoán có mức lỏng cao như: Hối phiếu, Tín phiếu kho bạc... Bộ phận trái khoán này là tài sản tài chính nhưng vẫn có thể được chuyển đổi ra tiền giao dịch tương đối nhanh chóng . Mặc dù số liệu về các khối tiền tệ được công bố và sử dụng vào những mục đích nhất định, nhưng việc đưa ra các phép đo lượng tiền chỉ có ý nghĩa khi nó vừa tập hợp được các phương tiện trao đổi trong nền kinh tế, vừa tạo cơ sở dự báo lạm phát và chu kì kinh doanh. Vì vậy, hiện nay một số nước đang nghiên cứu đưa ra phép đo “tổng lượng tiền có tỉ trọng” trong đó mỗi loạ tài sản có một tỉ trọng khác nhau tuỳ theo độ lỏng của nó khi cộng lại với nhau. Việc lựa chọn phép đo nào phụ thuộc vào nhận thực và khả năng của ngân hàng TW trong điều hành chính sách thực tế. Tuy nhiên, sử dụng trực tiếp trong các giao dịch làm phương tiện giao dịch chủ yếu là khối tiền M1, vì vậy định ngiã M1 được sử dụng thường xuyên khi nói tới tiền trong giao dịch trực tiếp 2. Thị trường tiền tệ 2.1 Định nghĩa Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi mua bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn. Theo nghĩa hẹp, thị trường tiền tệ là thị trường thuần tuý liên ngân hàng, với hai chức năng cơ bản là cân đối và điều hoà nguồn vốn vay, cho vay các tổ chức tín dụng và giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín dụng ,cân đối khả năng chi trả giữa các tổ chức tín dụng. Thị trường tiền tệ có một số đặc điểm sau: - Công cụ của thi trường tiền tệ là các khoản vay, hay các chứng khoán có thời hạn trong vòng một năm - Thị trường này có độ an toàn tương đối cao. 2.2 Chủ thể tham gia thị trường tiền tệ 2.2.1 Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh Các doanh ngiệp sản xuất kinh doanh khi bán sản phẩm nhận được các giấy nợ, hối phiếu họ thường đem chúng ra thị trường bán đẻ nhận tiền.Khi họ là người mua hàng, họ lại có thể mua loại giấy tờ có giá trị thích hợp tại thị trường tiền tệ. Các doanh nghiệp lớn, khi có thừa vốn tiền tệ, còn có thể bỏ ra mua các loại chứng khoán ngắn hạn để kiếm lời . 2.2.2 Tổ chức tín dụng. Đóng vai trò chủ lực, các tổ chức tín dụng tham gia thị trường tiền tệ để duy trì khả năng thanh toán, hoặc tận dụng triệt để vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để phục vụ cho mục đích kinh doanh. 2.2.3 Ngân hàng TW Ngân hàng TW tham gia thị trường tiền tệ với tư cách là người chỉ đạo thị trường 2.2.4 Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng Như quĩ đầu tư ,quĩ hưu trí,công ty bảo hiểm... Tham gia tích cực vào thị trường này để tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn. 2.2.5 Các nhà môi giới chuyên nghiệp Nhà môi giới với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các giấy tờ có giá giữa các bên. 2.2.6 Các tổ chức phi tài chính Các tổ chức phi tài như: Chính Phủ, chính quyền địa phương, các công ty...Những người đã tạo hàng hoá cho thị trường như tín phiếu kho bạc, thương phiếu, trái phiếu... Các chủ thể này tham gia vào thị trường với tư cách là người đi vay thông qua việc phát hành các công cụ vay vốn ngắn hạn. 2.3 Hàng hoá trên thị trường tiền tệ 2.3.1 Tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạclà giấy nợ do Chính Phủ phát hành với thời hạn 3 tháng, 6 tháng, 12  tháng. Chúng có tính thanh khoản cao, được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc ghi sổ. Tín phiếu kho bạc loại kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng đượng phát hành hàng tuần, loại kỳ hạn 1 năm được phát hành hàng tháng. Vì vậy gần như có một nguồn liên tục các tín phiếu kho bạc mới phát hành được trên thị trường . Hình thức mua bán chủ yếu của tín phiếu kho bạc là Bộ tài chính bán buôn cho ngân hàng TW, sau đó bán đấu giá lại cho các đơn vị dự thầu, tiếp tục bán lại cho các nhà đầu tư. Tín phiếu kho bạc là loại công cụ quan trọng nhất của thị trường tiền tệ, nó có độ an toàn cao. Khối lượng tín phiếu kho bạc mỗi lần phát hành thường rất lớn, song do có tính lỏng cao ,nên tín phiếu kho bạc rất hấp dẫn với các nhà đầu tư. 2.3.2 Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi là công cụ do ngân hàng phát hành, được thanh toán lãi theo định kì và thanh toán gốc khi đến hạn cho người sử dụng nó 2.3.3 Thương phiếu Là chứng chỉ co giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu. 2.4 Hoạt động của thị trường tiền tệ Hoạt động vay mượn giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín dụng cũng như giữa các tổ chức tín dụng với nhau được tiến hành trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng . 2.4.1 Hoạt động tín dụng giữa ngân hàng TW với các tổ chức tín dụng Ngân hàng TW có thể cấp tín dụng cho các tổ chức tín dụng qua các phương thức: Tái cấp vốn, tái chiết khấu các giấy tờ có giá, cho vay có đảm bảo bằng các giấy tờ có giá ngắn hạn... 2.4.2 Hoạt động tín dụng giữa các tổ chức tín dụng Các tổ chức tín dụng tham gia vào thị trường để tìm nguồn tài trợ tạm thời về vốn thiêú hụt hay tranh thủ kiếm lời trên số vốn tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian ngắn. Khi thị trường tiền tệ ở trạng thái cân bằng, ngân háng TW xuất hiện với tư cách là người tổ chức đơn thuần. Khi thị trường tiền tệ có biến động ,ngân hàng TW xuất hiện với tư cách người can thiệp thị trường thông qua nghiệp vụ thị trường mở. 2.5 Vai trò của thị trường tiền tệ 2.5.1 Thị trường tiền tệ tạo môi trường sinh lời cho các pháp nhân và thể nhân có tiền nhàn rỗi , đẩy nhanh vòng quay vốn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . 2.5.2 Thị trường tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng điều chỉnh các phương tiện chi trả, đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế . 2.5.3 Thị trường tiền tệ nơi thực hiện nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng TW. Bằng việc mua bán chứng khoán trên thị trường, ngân hàng TW đã tác động đến khối lượng tiền cung ứng, dẫn đến làm gia tăng sức mua hoặc thu hẹp sức mua của xã hội, kích thích tăng trưởng hoặc làm chậm đà tăng trưởng của kinh tế . II. Chính sách tiền tệ 1. Khái niệm và cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ 1.1. Khái niệm Chính sách tiền tệ là một hệ thống những quan điểm, giải pháp, những cách thức mà NHTW thực hiện nhằm tác động tới cung ứng tiền trong nền kinh tế và ảnh hưởng đến các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mà trong đó NHTW thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm đặt được các mục tiêu về sản lượng, giá cả và công ăn việc làm. 1.2. Cơ chế thực hiện. Quá trình thực hiện chính sách tiền tệ bao giờ cũng diễn ra theo một cơ chế nhất định. Trong cơ chế này, NHTW sẽ là người thiết kế và điều hành chính sách tiền tệ. Một chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được thực hiện theo hai hướng. 1.2.1. Chính sách tiền tệ "nới lỏng" là chính sách nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền trở nên dôì dào, lãi suất hạ xuống từ đó kích thích tiêu dùng và đầu tư. 1.2.2. Chính sách tiền tệ "thắt chặt" là chính sách nhằm giảm khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền tệ trở nên khan hiếm về số lượng, lãi suất bị đẩy lên cao, tổng cầu giảm và do đó giá cả trên thị trường giảm sút, lạm phát bị đẩy lùi. 2. Công cụ sử dụng trong chính sách tiền tệ 2.1. Công cụ trực tiếp: Công cụ trực tiếp là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến là hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy định cho từng ngân hàng tuỳ thuộc đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng. Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế ngay lập tức khối lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển hoặc mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay ngân hàng trung ương không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng thương mại thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của ngân hàng trung ương trong việc điều tiết tiền cung ứng. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi xuất lên cao hoặc làm giảm cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. 2.2. Công cụ gián tiếp: Công cụ gián tiếp là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ thông qua cơ chế thị trường mà các tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Thuộc về nhóm công cụ này gồm: - Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộclà số tiền mà các ngân hàng thương mại phải duy trì trên môt tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại ngân hàng trung ương, được xác định bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quản lý theo nguyên tắc bình quân. Khi ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc khả năng cho vay và khả năng thanh toán của ngân hàng bị thu hẹp khối lượng tín dụng trong nền kinh tế sẽ giảm. Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng lên đồng thời tăng xu hướng mở rộng tiền khối lượng tiền. Do tính chất và tác dụng như vậy nên tại các ngân hàng trung ương có quy định phân biệt tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho từng loại tiền gửi theo nguyên tắc: Tiền gửi tiết kiệm có tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp nhất sau đó đến tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn tỷ lệ cao nhất. - Chính sách tái chiết khấu: Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về điều khoản cho vay của ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại trên cơ sở chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn thông qua lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất có 2 tác dụng đó là trực tiếp và tác dụng gián tiếp. Tác dụng trực tiếp là nó làm tăng giảm lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động gián tiếp nó làm tăng hoặc giảm dự trữ của ngân hàng. Do vậy tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế. - Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở là các hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường mở rộng thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá. Các hoạt động này làm ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các ngân hàng thương mại và ảnh hưởng trực tiếp đến các mức lãi suất. Khi ngân hàng thương mại mua (bán) các giấy tờ có giá nó sẽ làm giảm (tăng) ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng thương mại vì thế khả năng tạo tiền thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng giảm xuống ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian rất có hiệu quả vì nó rất linh hoạt và chủ động. Tuy nhiên để sử dụng nó có hiệu quả cần phải có một thị trường vốn thứ cấp và thị trường tiền tệ phát triển. Chương 2: Chính sách tiền tệ ở Việt Nam thời gian qua I. Mục tiêu và nội dung chính sách tiền tệ ở Việt Nam 1. Mục tiêu Chính sách tiền tệ nhằm bảo đảm giá cả được ổn định, đồng tiền cần được giữ giá, là một trong những mục tiêu quan trọng về quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. ổn định tiền tệ là tiền đề cho việc phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế đang bị lạm phát cao, giữa ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế nếu có sự mâu thuẫn thì phải giữ nguyên tắc dùng các giải pháp kiềm chế khối lượng tiền cung ứng tăng thêm để ổn định tiền tệ là điều cần làm trước tiên. Chính sách tiền tệ theo đuổi các mục tiêu quán xuyến là: - ổn định tiền tệ, bảo vệ giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền trên cơ sở kiểm soát được giá cả, cân bằng được cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá hối đoái. - ổn định và tăng trưởng kinh tế. - Tạo công ăn việc làm, làm sao đạt đến mức toàn dụng mà không gây lạm phát. Cụ thể: 1.1. Về kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền. Trong điều kiện lưu thông các dấu hiệu giá trị thì lạm phát luôn luôn là khả năng tiềm tàng. Khi hệ thống tiền tệ tín dụng chuyển đổi và vàng không còn nữa thì ngân hàng trung ương luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hoá là tiền đề cho nền kinh tế phát triển bình thường. Giá trị đối nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước. Giá trị đối ngoại của đồng tiền được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng tiền có liên quan tác động qua lại với nhau. Vì vậy muốn ổn định tiền tệ và kinh tế trong nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái. ở Việt Nam ngân hàng nhà nước công bố điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt theo thị trường. Hiện nay tỷ giá hối đoái 12.998 VND/1 USD. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng +/-7% (13.908 VND/1 USD). Điều chỉnh tỷ giá hối đoái hiện nay có lợi cho xuất khẩu. Nhà nước kiểm soát được nhập khẩu. Thực tế hiện nay tỷ giá hối đoái giảm hơn so với khi quyết định. Về giá cả, do sản xuất hàng hoá tăng giá trị đồng tiền ổn định nên sức mua tăng. Đó là hai biện pháp để ổn định giá trị đồng tiền. 1.2. Tăng trưởng kinh tế Khi tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) lớn hơn nhịp độ tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế. Khi khối lượng tiền tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, đồng tiền "rẻ" đi sẽ kích thích đầu tư, tăng tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng, làm cho đầu tư giảm, tổng sản phẩm quốc dân giảm. Như vậy, muốn tăng trưởng kinh tế phải gia tăng đầu tư bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân hàng nhà nước, người ta phải chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống Ngân hàng dưới tác động của Ngân hàng trung ương. Đối với Việt Nam, từ nay đến năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9-10%, tốc độ tăng trưởng cao này đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cân bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và vay của nước ngoài để phục vụ mục tiêu này. 1.3. Tạo công ăn việc làm Cùng với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chính sách tiền tệ cũng ảnh hưởng vào mục tiêu tạo công ăn việc làm cho mỗi người nhất là đối vơí các quốc gia chưa phát triển. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu tuỳ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà có thể giảm dẫn đến thất nghiệp tăng. Nơi nào sức lao động là hàng hoá thì nơi đó thất nghiệp xảy ra là tự nhiên. Chính sách tiền tệ chỉ có thể hướng vào việc tạo ra công ăn việc làm nhiều hơn thông qua các tác động để mở rộng đầu tư, mở rộng các hoạt động kinh tế. Để đạt mục tiêu này Ngân hàng nhà nước Việt Nam trách nhiệmlà phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh. Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc tăng trưởng liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức thất nghiệp tự nhiên. 2. Nội dung của chính sách tiền tệ ở Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ soạn thảo phối hợp với uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính… tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, tín dụng, Ngân hàng trong cả nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền. 2.1. Cung ứng và điều hoà khối tiền tệ Ngân hàng trung ương phải có giải pháp để duy trì được tương quan giữa tổng cung và tổng cầu, giữa tiền và hàng bằng cách giữ nguyên hoặc tăng hay giảm khối tiền tệ. - Nếu nền kinh tế hàng năm tăng trưởng thì khối tiền tệ phải tăng bằng cách tăng trưởng kinh tế. - Nếu có lạm phát mà chưa kiềm chế được thì khối tiền tệ cung ứng còn phải được tăng thêm bằng tỷ lệ lạm phát được kiềm chế. - Trong điều kiện nhất định như nước ta có số lượng ngoại tệ nằm trong tay những người cư trú (Thể nhân và pháp nhân tương đối lớn nen cần được tính vào khối tiền tệ có sẵn và sẽ tăng thêm). - Khi kiểm soát khối tiền tệ còn phải tính đén tốc độ luân chuyển của nó. tức là phải kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền (M x V). Có khi gọi (M x V) là "Trao lượng tiền tệ", tức là tỏng số lượng tiền tệ để chi trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tốc độ lưu thông tiền tệ phụ thuộc nhiều yếu tố. Tốc độ chu chuyển vật tư hàng hoá, lòng tin của dân cư vào giá trị đồng tiền, khuynh hướng chi tiêu của dân chúng, chính sách kinh tế của Nhà nước trình độ klỹ thuật và khả năng tổ chức thanh toán của Ngân hàng. Về định hướng, tốc độ lưu thông tiền tệ (V) có thể do bằng tỷ số giữa GNP danh nghĩa và M (GNPIM), hoặc PQ (Tổng số giá cả hàng hoá) chia cho M (PQIM). Từ đó các nhà kinh tế "Trọng tiền" hiện đại theo học thuyết số lượng tiền tệ đến đẳng thức M x V = P x Q = GNP. Điều này có ý nghĩa là khi V và Q không đổi mà M tăng lên thì giá cả (P) sẽ tăng theo và GNP danh nghĩa tăng tương ứng. Tất nhiên cuộc sống phức tạp hơn. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng phải thực hiện từ gốc, qua các nhu cầu đối ứng đặt ra trong các lĩnh vực tạo tiền (Mua ngoại tệ, tạm ứng ngân sách, tín dụng cho nền kinh tế) bằng các chính sách tín dụng và ngoại hối. Để thực hiện toàn diện chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương sẽ cụ thể hoá từng mặt chính sách theo các kênh tiền của khối tiền tệ và sử dụng các công cụ điều tiết Vĩ mô. 2.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế Như chúng ta đã biết, khối lượng tài sản các Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng cung ứng cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình là từ hai nguồn: Thứ nhất là: Nguồn huy động tiền đã có sẵn trong lưu thông từ các tài khoảng gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi có kỳ hạn. Thứ hai là: Sử dụng tiền Trung ương trong quá trình tái cấp vốn từ Ngân hàng Trung ương. Sau khi Ngân hàn thương mại cho vay ra, sẽ diễn ra chu trình tạo tiền gửi và đẻ ra bội số tín dụng rất phức tạp. Theo lý thuyết, bội số này có thể tăng lên gấp nhiều lần so với số dư tiền gửi ban đầu. ở các nước công nghiệp phát triển công nghệ Ngân hàng phát triển cao, thị trường nhạy cảm thì người ta nặng về sử dụng các công cụ gián tiếp chủ yếu (Như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, ngiệp vụ thị trường mở lãi xuất) để điều tiết tổng khối lượng tín dụng, từ đó tác động đến tăng, giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Việc khống chế bằng hạn mức tín dụng chỉ là biện pháp hỗ trợ. Khối lượng tiền tệ tăng thêm được rót qua kênh tín dụng hình thành trước hết từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các nhà doanh nghiệp với Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng. Khi các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến Ngân hàng Trung ương xin tái cấp vốn (tái chiết khấu). ở đây Ngân hàng Trung ương luôn luôn là người cho vay cuối cùng, việc này nhằm thúc đẩy các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng phải huy động được tối đa nguồn tiền nhàn rỗi tỏng dân chúng để đầu tư và phát triển kinh tế, qua kênh gửi tiền vào Ngân hàng. Để tăng vai trò kiểm soát của Ngân hàng Trung ương, kiềm chế lạm phát, tăng nguồn vốn người ta thực hiện chính sách đa dạng hoá cơ cấu tiền gửi: Ngân hàng Trung ương khuyến khích và thúc đẩy việc các doanh nghiệp, cá nhân mở tài khoản tiền gửi, thanh toán và gửi tiền có kỳ hạn vào Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng, sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt (Séc, chuyển tiền điện tử, các loại thẻ điện tử…) phục vụ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp với giá cả (Lãi suất) sử dụng vốn hạ nhất vì muốn kích thích taưng đầu tư cho nền kinh tế, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì lãi suất tiền vay là một vấn đề hết sức quan trọng. Ngân hàng là các nhà buôn tiền nên không thể chấp nhận lãi suất âm (Lãi suất tiền gửi lớn hơn lãi suất cho vay). Nhưng Ngân hàng cũng không thể áp dụng mức lãi suất cho vay quá cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân thực tế của thị trường, mà phải đưa ra mức lãi suất hợp lý để các nhà sản xuất cho người gửi và chi phí cho hoạt động của mình không để mức chênh lệch tiền gửi và lãi suất cho vay quá lớn sẽ dẫn đến khuyến khích dân chúng chuyển từ dạng tiền gửi Ngân hàng sang dự trữ tài chính bằng vàng và ngoại tệ. Khuyến khích các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng huy động vốn trung và dài hạn để mở rộng nguồn vốn đầu tư vào các dự án cải tiến kỹ thuật, thay đổi trang thiết bị, tăng năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường, thực hiện triệt để nguyên tắc: "Vay để cho vay" Ngân hàng Trung ương chỉ là người cho vay cuối cùng đối với các Ngân hàn thương mại và Tổ chức tín dụng. Mở rộng mạng lưới hoạt động và dịch vụ Ngân hàng đến mọi vùng, mọi thành phần kinh tế: Trên thị trường teìen tệ khác hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn Ngân hàng, đến lượt mình Ngân hàng cũng có quyền chủ động lựa chọn khách hàng làm ăn nghiêm chỉnh, có hiệu quả để đầu tư, không phân biệt thành phần kinh tế, nghĩa là phải chuyển từ một chính sách tiền tệ chủ động, trong đó Ngân hàng Trung ương giữ vai trò chi phối, điều tiết. 2.3. Chính sách quản lý ngoại hối Để ổn định gía trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia Ngân hàng Trung ương thực hiện các nhiệm vụ: Quản lý ngoại hối, lập theo dõi diễn biến củâ cán thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất quản lý quĩ dự trữ ngoại hối của quốc gia, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, phấn đấu ổn định tỷ giá hối đoái để kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả trong nước. Quan hệ với Ngân hàng Trung ương các nước, với các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm timf kiếm nguồn tài trợ nước ngoài có điều kiện ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài và thu hút kiều hối vào nước mình, tổ chức quản lý nợ nước ngoài. Trong các vấn đề nêu trên thì chính sách hối đoái và dự trữ ngoại tệ, thị trường ngoại tệ và tỷ giá hối đoái là những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền tệ và giá trị đồng tiền trong nước cụ thể như sau. Chính sách quản lý ngoại hối hướng vào ngăn chặn việc tích tữ ngoại tệ trong các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, nếu có ngoại tệ phải bán cho Nhà nước, khi cần thi mua lại trên thị trường hối đoái, thu hút các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng Trung ương - Đây là chính sách mua bán đứt đoạn, có tác dụng làm tăng giá trị trên thị trường chỉ tiêu tiền nước mình, Nhà nước dễ kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông. Dự trữ ngoại tệ: Phục vụ cho nhu cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong nước. Ngân hàng Trung ương mua ngoại tệ vào làm cho quĩ dự trữ ngoại tệ tăng, đồng thời cũng làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Qua việc mua bán ngoại tệ Ngân hàng Trung ương thực hiện can thiệp thị trường. Chủ động tác động đến tỷ giá hối đoái theo chiều hướng tích cực. Trong điều kiện thực hiện nền kinh tế mở, thì chính sách tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Trung ương thực thi là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh mẽ đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Nếu tỷ giá quá thấp sẽ khuyến khích nhậph khẩu, gây khó khăn chô xuất khẩu vì hàng xuất khẩu sẽ đắt hơn, khó bán ra nước ngoài, gây trở ngại cho các ngành sản xuất những mặt hàng xuất khẩu đó, việc chuyển ngoại tệ từ nước ngoài vào gây bất lợi, dự trữ ngoại tệ bị xói mòn. nếu tỷ lệ hối đoái cao sẽ không có lợi cho nhập khẩu nhưng lại khuyến khích cho xuất khẩu, làm cho hàng xuất khẩu rẻ hơn dễ cạnh tranh trên thịi trường quốc tế, kích thích chuyển ngoại tệ vào trong nước, dự trữ ngoại tệ có cơ hội gia tăng. Như vậy có hai phương pháp để ổn định tỷ giá. Một là tỷ giá cao hay thấp là do Ngân hàng Trung ương can thiệp. Hai là tỷ giá thả nổi do cung cầu ngoại hối trên thị trường chi phối Ngân hàng Trung ương hoàn toàn không can thiệp. 2.4. Chính sách tạm ứng cho Ngân hàng Nhà nước. Chính sách tiền tệ của Ngân hàng muốn đạt được mục tiêu như mong muốn, cần xử lý tốt mối tương quan của nó đối với chính sách tài chính, trước hết là chính sách thu chi ngân sách Nhà nước. Tuỳ theo tình trạng ngân sách có cân bằng hay không sẽ ảnh hưởng tích cực hay ti._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28165.doc
Tài liệu liên quan