Mục lục.
STT Nội dung Trang
Phần mở đầu 4
Chương1: Quy luật giá trị và các vấn đề có liên quan.
1.1. Quy luật giá trị 6
1.1.1. Khái niệm giá trị hàng hoá 6
Quy luật giá trị- Quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và
Trao đổi hàng hoá 6
Mối quan hệ giữa giá cả sản xuất, giá cả thị trường, giá cả
độc quyền với giá trị hàng hoá 6
1.1.4. Các quy luật có liên quan và mối quan hệ của chúng với
quy luật giá trị 8
vận dụng lý luận của các Mác về tiền công vào cảI cách tiền 12
lương
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1979 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Lý luận giá trị của C.Mác & sự vận dụng vào nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở nước ta hiện nay
2.1. Vai trò của quy luật giá trị 18
Chương 2: Vai trò của quy luật giá trị đối với sự phát triển kinh tế thị
Trường ở Việt Nam. 20
2.1. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế thị trường 20
2.1.1. Quá trình lưu thông vật chất được thực hiện chủ yếu bằng
phương thức mua bán 20
2.1.2. Người trao đổi hàng hoá phải có quyền tự do nhất định khi 21
tham gia trao đổi trên thương trường
2.1.3. Hoạt động mua bán phải được thực hiện thường xuyên, ổn
định trên cở sở một kết cấu hạ tầng tối thiểu, đủ để việc mua
bán diễn ra thuận lợi, an toàn. 21
2.1.4. Nền kinh tế thị trường hiện đại bao gồm những doanh nhân
biết thống nhất mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị-
xã hội- nhân văn 22
2.1.5 Có sự quản lý của nhà nước 22
2.2. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về
bản chất và cấu trúc của nó. 22
2.3. Vai trò của quy luật giá trị trong sự phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta. 25
Phần kết luận 33
Tài liệu tham khảo 35
Lý luận giá trị của c.mác và sự vận dụng vào nền kinh tế ở việt nam hiện nay
Phần mở đầu:
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 đã chỉ rõ “ tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện , đổi mới nội dung , phương pháp giảng dạy va học , hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục , thực hiện chuẩn hoá , xã hội hoá … thực hiện giáo dục cho mọi người , cả nước trở thành một xã hội học tập “ Đặc biệt phảI tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng đạo đức , lối sống cho học sinh , sinh viên .CảI tiến giảng dạy và học tập môn khoa học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học cao đẳng và dạy nghề , trong đó có môn kinh tế chính trị , kinh tế chính trị nghiên cứu vê quan hệ sản xuất dưới sự tác động qua lại của lực lượng sản xuất , dựa trên đó Mác đưa ra nhiều lý luận mà cho đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị va còn là cơ sở cho các nhà khoa học nghiên cứu xâu sắc hơn , trong đó có lý luận giá trị , lý luận nay đóng vai trò rất quan trọng trong thưc tiễn , nhưng vấn đề này chưa được lam rõ thực sự hoặc chưa được nghiên cứu đầy đủ nên việc tiếp tục nghiên cứu đề tàI này la rất cần thiết .
Cũng như các lĩnh vực khoa học xã hội khác “ lý luận giá trị và van dụng vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay “ cân nghiên cứu theo phương pháp trừu tượng hoá và tham khảo nhiều cách tiếp cận khác nhau của các nhà khoa hoc , các tac giả viết sáchvề vấn đề nay . nghiên cứu đề tài nàycần phải làm rõ các vấn khoa hoc của đề tàI và ứng dụng vào thực tiên co thể áp dụng vao thực tiễn vào nền kinh tế thị trường hiện nay . N goài phần mở đầu và kết luận , đề tàI nghiên cứu được chia lam hai chương :
Chương1 : quy luật giá trị và các vấn đề có liên quan
Chương2: sự vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Nền kinh tế thế giới đang trên đà phát triển mạnh mẽ mà biểu hiện rõ nhất là quá trình toàn cầu hoá , hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, tiến trình đó có không ít những vấn đề như khủng hoảng kinh tế chu kỳ , suy thoái đạo đức, phân hoá giàu nghèomà nguyên nhân chính, sâu xa nhât của nó bắt nguồn từ quy luật giá trị. Vậy quy luật giá trị là gì, nó có vai trò ra sao , tác động của nó như thế nào là vấn đề chúng ta cần làm rõ, nhất là trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày nay.
Nội dung :
CHƯƠNG 1: QUY LUậT GIá TRị Và CáC VấN Đề Có LIÊN QUAN
quy luật giá trị và các vấn đề có liên quan
khái niệm giá trị hàng hoá
- Gía trị hàng hoá là lao động xã hội kết tinhtrong hàng hoá hay là chi phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá .
1.1.2 Quy luật giá trị - quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưư thông hàng hoá.
- Nội dung của quy luật này: sản xuất và trao đổi hàng hoá thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết . Hay nói cách khác : sản xuất và trao đổi hàng hoá phải trên cơ sở lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra hàng hoá đó .
- Yêu cầu của quy luật này:sản xuất ,trao đổi hàng hoá phải được tiến hành theo nguyên tắc ngang giá.
Những người sản xuất và trao đổi hàng hoá tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị .Gía cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị . Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền.Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày quy luật giá trị , một quy luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó.
- Do tầm quan trọng của cơ chế tác động và để tăng ý nghĩa thực tiễn của quy luật giá trị, những năm gần đây, các nhà khoa học thấy cần phải nhấn mạnh các nhân tố cạnh tranh , lượng tiền cần thiết cho lưư thông và cung cầu đối với sự biến đoọng của giá cả thị trường và trinhf bày chúng thành các quy luật kinh tế riêng, song về nhận thức lý luận , chúng ta cũng chỉ nên coi chúng là những quy luật phát sinh từ quy nluật giá trị, hiểu thao nghĩa đầy đủ của quy luật này.
1.1.3 Mối quan hệ giũa giá cả , giá cả thị trường, giá cả độc quyền và giá trị hàng hoá.
Quy luật giá trị biểu hiện qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bảnthành quy luật giá cả sản xuất( giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh) và thành quy luật giá cả độc quyền ( giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền). Nó tiếp tục tồn tại và hoạt động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghjĩa xã hộỉ các nước xã hội chủ nghĩa ở các nước và ở nước ta.
Ta xét mối quan hệ giũa giá cả , giá cả thị trường , giá cả độc quyền với giá trị hàng hoá :
- Gía cả : là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá . Gía trị là cơ sở của giá cả .Khi quan hệ cung cầucân bằng,giá cả hàng hoá cao hay thấp là ở giá trị của hàng hoá quyết định
Trong diều kiện sản xuất hàng hoá, giá cả hàng hoá tự phát lên xuỗngoay quanh giá trị tuỳ theo quan hệ cung cầu, canhj tranh và sức mua của đồng tiền.Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện ở sự lên xuống của giá cả trên thị trường.Tuy vậy, sự biến động của giá cả vẫn có cơ sở là giá trị , mặc dầu nó thường xuyên tách rời giá trị.Điều đó có thể hiểu theo hai mặt:
+ Không kể quan hệ cung cầu như thees nào, giá cả không tách rời giá trị xã hoọi.
+ Nếu nghiên cứu sự vận động của giá cả trong một thời gian dài thì thấy tổng số giá cả bằng tổng só giá trị , vì bộ phận vưqợt quá giá trị sẽ bù vào bộ phận giá cả thấp hơn giá trị (giá cả ở đây là mgiá cả thị trường. Gía cả thị trường là giá cả sản xuấtgiữa người mua và người bán thoả thuận với nhau)
- Giá cả sản xuát là hình thái biến tướng của giá trị , nó bằng chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân.
Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh do hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân nên hàng hoá khoong bán theo giá trị mà bán theo giá cả sản xuất
Gía trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuaats không phải làphủ nhận quy luật giá trị mà chỉ lả biểu hiện cụ thể của quy luật giá trị trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh.Qua hai điểm dưới đây sẽ thaays rõ điều đó:
+ Tuy giá cả sản xuaats của hàng háo thuộc nghành cá biệt có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị , nhưng tổng giá trị sản xuất của toàn bộ hàng hoá của tất cả các nghành trong toàn xã hội đều băngf tổng giá trị của nó.Tổng số lơi nhuận mà các nhà tư bản thu được cũng bằng toỏng số giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
+ Giá cả sản xuát lệ thuộc trực tiếp vào giá trị . Gía trị hàng hoá giảm xuống, giá cả sản xuất giảm theo, giá trị hàng hoá tăng lên kéo theo giá cả sản xuất tăng lên.
- Giá cả độc quyền :
Trong giai đoạn tư bản độc quyền, tổ chức độc quyền đã nâng giá cả hàng hoá lên trên giá cả sản xuất và giá trị . Gía cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền vượt quá lợi nhuận bình quân.
Khi nói giá cả độc quyền thì thường hiểu là giá cả bán ra cao hơn giá cả sản xuất và giá trị, đồng thời cũng cần hiểu còn có giá cả thu mua rẻ mà tư bản độc quyền mua của người sản xuất nhỏ, tư bản vừa và nhỏ ngoài độc quyền.
Gía cả độc quyền không xoá bỏ giới hạn của giá trị hàng hoá , nghĩa là giá cả độc quyền không thể tăng thêm hoặc giảm bớt giá trị và tổng giá trị thặng dưdo xã hội sản xuất ra; phần giá cả độc quyền vượt quá giá trị chính là phần giá trị mà những người bán ( công nhân, người sản xuất nhỏ , tư bản vừa và nhỏ…) mất đi.Nhìn vào phạm vi toàn xã hội , toàn bộ giá cả độc quyền cộng với giá cả không độc quyền về đại thể bằng toàn bộ giá trị .
1.1.4 Các quy luật có liên quan và mối quan hệ của chúng với quy luật giá trị .
a/ Quy luật lưu thông tiền tệ.
- Còn sản xuất hàng hoá thì còn lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Quy luật lưu thông tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan.
- Nội dung của quy luật này thể hiện ở mối quan hệ giữa lượng tiền tệ phát hành với các nhân tố có liên quan . Các Mác trình bày nội dung của quy luật này qua côngh thức khái quát và công thức ở dạng cụ thể của nó :
+ ở dạng khái quát, nội dung của quy luật này là:
Trong đó :
M là lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thông
P là mức giá cả hàng hoá, dịch vụ
Q là khối lượng hàng hoá, dịch vụ đem ra lưu thông
V là vòng quay trung bình của đồng tiền cùng loại
+ ở dạng cụ thể, khi Các Mác xem xét công thức khái quát gắn với các chức năng thanh toán, gắn với tín dụng, công thức biểu diễn nội dung quy luật này là:
Trong đó:
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đem bán
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ bán chịu
là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ khấu trừ cho nhau
tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đến kỳ thanh toán
là vòng quay trung bình của tiền tệ cùng tên gọi.
Từ công thức trên có thể tìm thấy những nhân tố có quan hệ đến lượng tiền phát hành, trong đó: M tỷ lệ thuận với (1) và (4) và tỷ lệ nghịch với (2), (3) và (5)
Cần ý thức rằng quy luật lưu thông tiền tệ như đã phân tích ở trên là quy luật lưu thông của tiền (vàng). Khi vận dụng quy luật này trong điều kiện tiền giấy thì tình hình có sự khác đi nhất định. Vì tiền giấy không có tác dụng tự điều chỉnh qua hai kênh lưu thông và tích luỹ như tiền (vàng). Bởi vậy, để quy luật này có hiệu lực trong điều kiện tiền giấy phải rất coi trọng khi điều khiển và khống chế lượng tiền giấy phát hành cho lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại làm xuất hiện nhiều loại tiền như: Tiền mặt, tiền điện tử. Việc tính toán lượng tiền phát hành sẽ phức tạp hơn nhiều nên quy luật lưu thông tiền tệ của Các Mác mang nhiều ý nghĩa về mặt định tính hơn là về mặt định lượng. Bởi vậy, khi vận dụng cần lưu ý đặc điểm này, nhất là khi nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, hệ thống ngân hàng, trình độ chuyên môn và cơ sở vật chất chưa được hiện đại hoá, chưa phù hợp với trình độ và thông lệ quốc tế.
b/ Quy luật cung cầu hàng hoá, dịch vụ
- Lý luận và thực tiễn đều khẳng định: ở nơi nào có nhu cầu thì ở nơi đó cũng xuất hiện luồng cung ứng hàng hoá, dịch vụ để hình thành mối quan hệ cung cầu
- Mối quan hệ nhân quả giữa cung và cầu liên tục tiếp diễn trên thị trường, tồn tại một cách khách quan, độc lập đối với ý thứccủa con người được gọi là quy luật cung cầu.
- Sự hoạt độngk của quy luật này thể hiện ở cơ chế vận động giữa giá cả thị trường và giá trị hàng hoá thông qua các trường hợp : cung bằng cầu , cung lớn hơn cầu và cung nhỏ hơn cầu:
+ Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá trong sản xuất
+ Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất
+ Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất
- Vai trò của quy luật cung cầu:
Quy luật cung cầu giải thích rõ nhất, chính xác nhất vì sao giữa giá trị và giá cả thị trường lại không ăn khớp với nhau, tạo điều kiện cho quy luật giá trị có cơ chế hoạt động. Tuy cung cầu không trực tiếp quyết định sự hình thành giá trị hàng hoá, nhưng nó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến chu kỳ sản xuất sau đối với việc hình thành giá trị hàng hóa, thông qua tác động của thị trường làm thay đổi điều kiện sản xuất và thay đổi năng suất lao động, giúp các giám đốc có những quyết định năng động, linh hoạt trong sản xuất, kinh doanh và trong ký kết các hợp đồng kinh tế
c/ Quy luật cạnh tranh
- Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa người sản xuất với người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, nhằm giành được những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Những người sản xuất, tiêu thụ có điều kiện khác nhau về trình độ trang bị kỹ thuật, chuyên môn, không gian, môi trường sản xuất, điều kiện nguyên vật liệu v.v. nên chi phí lao động cá biệt khác nhau. Kết quả có người lãi nhiều, người lãi ít, người phá sản. Để giành lấy các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc họ phải cạnh tranh. Cạnh tranh có hai loại: Cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là dùng tài năng của mình về kinh tế và quản lý để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, vừa có lợi cho nhà kinh doanh, vừa có lợi cho xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh là dùng những thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm pháp luật (trốn thuế, nâng giá…) có hại cho xã hội và người tiêu dùng.
- Quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộ để thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại: Nghiên cứu các quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ và cung cầu không chỉ để nhận thức lực lượng khách quan chi phối cơ chế thị trường, mà còn có ý nghĩa đối với việc thực hiện chức năng quản lý ở hai tầng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước và quản lý kinh tế vi mô của các doanh nghiệp.
Có thể khái quát mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường qua sơ đồ sau:
Quy luật giá trị
Quy luật cung cầu
Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật cạnh tranh
Từ sơ đồ trên cho thấy không thể làm chủ kinh tế thị trường và cơ chế vận hành của nó nếu không nắm bắt và vận dụng một cách tổng hợp các quy luật kinh tế nói trên trong kinh tế và quản lý kinh tế. Cũng từ sơ đồ trên cho thấy các quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu chỉ là những quy luật kinh tế phái sinh từ quy luật giá trị. Nó có tác dụng bổ sung và thông qua bổ sung tạo ra vẻ đẹp cho sự hoạt động hay tạo ra cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Từ đó cần phê phán những quan điểm không đúng khi họ cường điệu quá đáng, thậm chí thừa nhận quy luật cung cầu mà không thừa nhận quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế căn bản của sản suất và trao đổi hàng hoá đã được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và Các Mác phát hiện và hoàn thiện quy luật này.
vận dụng lý luận C Mác vế tiền lương vào cải cách tiền lương ở nước ta hiện nay
a)tiền công là giá cả sức lao động
theo C.Mac khi sức lao động trở thành hàng hoá thì tiền công chính là giá cả của sức lao động .Giá cả sức lao động lại là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động và lệ thuộc vào nhân tố sau đây :
+ giá trị của sức lao động :
cũng như các loại hàng hoá khác , giá trị của sức lao động được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất , và do đó để táI sản xuất ra sức lao động .TáI sản xuất ra sức lao động là duy trì cuộc sống người lao động .Muốn vậy , cần có một tư liệu sinh hoạt cần thiết nhất định , nên thời gian lao động cần thiết để táI sản xuất ra sức lao động , hay nói cách khác sưc lao động la giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ấy phân tích cụ thể hơn , giá trị của sưc lao động bao gồm
thu nhất : giá trị những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống người lao động .Sức lao động chỉ được thực hiện trong lao động .Trong quá trình lao động phảI hao phí nhất định về cơ , thần kinh và não … Sự hao phí đó phảI bù lại . Do đó , phảI đủ tư liệu sinh hoạt để duy trì thể lực và sưc khoẻ của người lao động như trước , trong một trạng thái sinh hoạt bình thường .Bản thân những nhu cầu tự nhiên như thức ăn , quần áo mặc , nhà ở …vv cũng khác nhau , tuỳ theo khí hậu và đặc thù của các nước .Mặt khác quy mô của cáI gọi là nhu cầu thiết yếu , cũng như phương thức thoả mãn những nhu cầu đó lại phụ thuộc vào những điều kiện và những thói quen ở từng nơI mà người lao động sinh sống , nghĩa là một đại lượng được xác định .
thứ hai : giá trị những tư liệu sinh hoạt cho người sẽ thay thế .Người sở hữu sức lao động phảI về hưu hay chết .Những sứclao động rút khỏi thị trường lao động ấy cần phảI thường xuyên thay thế bằng sức lao động mới , ít ra cũng với một con số ngang như thế .Vì vậy , tổng số những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho viện sản xuất ra sức lao động bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho nhưng người thay thế đó , tức là cho con của những người lao động .
thứ ba : chi phi đào tạo .Muốn cho sức lao động trở thành một sức lao động phát triển và đặc thù , thì cần phảI có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó nên phảI có những chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của sức lao động .Do đó những chi phí ấy đều ra nhập vao tổng số những giá trị chi phí để sản xuất ra sưc lao động và tiền công cho lao động phức tạp phảI cao hơn lao động giản đơn . một phần tư liệu sinh hoạt được tiêu dùng hằng ngày như thức ăn , đồ uống … vì vậy cũng phảI được hoàn lại từng ngày .Những tư liệu sinh hoạt khác , như quần áo , đò gỗ được tiêu dùng trong khoảng thời gian dàI hơn , vì vậy chỉ cần hoàn lai trong thời gian dàI hơn , Giả sử khối lượng hàng hoá cần thiết hàng ngày để sản xuất ra sức lao động băng A , khối lượng các hàng cần thiết cho mỗi tuần bằng B , khối lượng hàng hoá cho mỗi quý bằng C…thì
số lượng trung bình hàng ngày của những hàng hoá ấy là : 365A+52B+4C+vv…. Nhưng , trong phương thức sản xuất TBCN thì tiền công chỉ được trả sau khi sức lao động đã hoạt động trong một thời gian nhất định theo quy định của hợp đồng mua sức lao động đó ,nên tiền của người mua làm chưc năng phương tiện thanh toán . Khi hợp đồng được kí kết thì giá trị sử dụng sức lao động chưa thực sự chuyên sang tay người mua .Cái mà người mua quan tâm là giá tị mới , do sự hoạt động của sức lao động tạo ra , phải lớn hơn giá trị sức lao động .Người lao động chỉ có thể tiếp tục bán được sưc lao động của mình để nhận tiền công , chừng nào còn đáp ứng được nhu cầu ấy của ngươi mua .Dù tiền công tính theo thời gian hay tiền công tính theo sản phẩm thì người lao động cũng chỉ nhận được phần tất yếu , còn phần lao động thặng dư thuộc về người mua sức la động . Bởi vật , người lao động phải đản bảo năng xuất lao động , một cường độ lao động vì một thời gian lao động nhất định để tạo ra giá trị lớn hơn giá trị sức lao động thì mới có quyền đòi hỏi tiền công ngang mới giá trị sức lao động .
a)quan hệ cung cầu trên thị trường lao động:
cũng như các hàng hóa khác , giá cả sức lao động cũng chụi sự tac động của cung cầu . về sức lao động . Khi cung nhỏ hơn cầu (thường là đối với sức lao động lành nghề ) thì giá cả sức lao động cao hơn giá trị của nó .Ngược lại , khi cung lớn hơn cầu ( thường là đối với lao động giản đơn )thí giá cả sức lao động thấp hơn giá trị sức lao động của nó . trong trường hợp này , người mua , thường tìm cách hạ thấp tiền công .Vì vậy ở nhiều nước nhà nước phải can thiệp bằng đạo luật về tiền công tối thiểu . Theo Mác giới hạn tốt nhất hay tối thiểu của giá trị sức lao động la khối lượng giá trị hàng hóa ma hàng ngày nếu thiếu nó thì người mang sức lao động sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình , tức là khối lượng giá trị của những tư liêu sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý .
Mức này thấp hơn giá trị của sưc lao động và sức lao động chỉ được duy trì và phát triển dưới một trạng thái lay lất mà thôi
giá trị của tiền
tiền công tính thành tiền gọi là tiền công danh nghĩa .Khối lượng tư liệu sinh hoạt mua đựoc bằng tiền gọi là tiền công thực tế
.Nếu giá trị của tiền vàng (hay sức mua của tiền giấy ) không đổi thì tiền thực tế sẽ chụi vào giá trị của những tư liệu sinh hoạt và vận dụng ngược chiều với giá cả các tư liệu sinh hoạt . Theo nguyên lý , giá cả thị trường cua hàng hóa tỉ lệ thuận với giá trị thị trường của nó và tỉ lệ nghịch với giá trị (hay sức mua) của tiền . khi tiền mất giá thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên . Nếu tiền công danh nghĩa không được tăng lên tương ứng với mức mất giá của tiền thì tiền công thực tế sẽ hạn xuống thấp hơn giá trị sức lao động . Bởi vậy , khi có lạm phát thì mức sống người lao động hưởng lương sẽ bị giảm .
2. Tiền công theo sản phẩm là hình thức tiền công thích hợp nhất để kiểm soát chất lượng và cường độ lao động .
tiền công theo sản phẩm là hình thức chuyển hóa thành tiền tính theo thời gian ,cũng như tiền công tính theo thời gian là hình thức chuyển hóa của giá trị hay giá cả sức lao động . trong hình thức tiền công sản phẩm , chất lượng của lao động được kiểm tra bởi chính ngay sản phẩm của lao động ; sản phẩm phải đạt được chất lượng quy định mới được nghiêm thu và mới được trả công . Tiền công theo sản phẩm chính là thước đo để người sử dụng lao động đo cường độ lao động một cách chính xác .Chỉ thời gian lao động nhậ vào khối lượng sản phẩm đã quy định trước mới được coi a thời gian lao động xã hội cần thiết được trả công vì chất lượng và cường độ la động ở đây đã bii chính hình thức tiền công kiểm soát , nên công viêc giám đốc lao động lớn trở thành thừa .
Hình thức tiền công này tạo điều kiện thưc hiện việc gia công những người lao động làm việc tại nhà , nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho những cai thầu ăn bớt tiền công của những người nhận gia công .
Lợi nhuận của những người chung gian môi giới là khoản chênh lệch giữa tiền công mà nhà tư bản trả với tiền công ma họ trả cho những ngườg nhận gia công .
Trong hình thức tiền công theo sản phẩm . lợi ích cá nhân kích thích người lao động làm việc với cường độ cao nhất và kéo dàI ngày lao động để tăng thu nhập ; điều đó tạo điều kiện dễ dàng cho người sử dụng lao động làm thuê nâng cao mức bình thường của cường độ lao động , tức la ngay cả khi tiền công tính theo sản phẩm ko đổi thì tự thân no cũng bao hàm một sự giảm sút giá cả của sức lao động . Chính vì vậy , để đảm bảo sức khoẻ của người lao động trong luật lao động quy định giới hạn làm thêm giờ .
3.Khi so sánh tiền công giữa các nước khác nhau phải quy về tiền công tính theo sản phẩm gắn với năng xuất lao động
Khi so sánh tiền công giữa các nước khác nhau phảI cân nhắc tất cả các yếu tố quyết định sự thay đổi đại lượng giá trị của sức lao động :
Giá cả và số lượng nhu cầu sinh sống thiết yếu và tự nhiên và đã phát triển trong lịch sử , những chi phí đào tạo người công nhân vai trò của lao động phụ nữ và trẻ em , năng xuất lao động , độ dài của thời gian lao động va cường độ lao động .Trước hết , phảI quy tiền công trung bình hằng ngày của một nghành sản xuất giống nhau .Rồi lại phảI chuyển tiền công tính theo thời gian thành tiền công tính theo sản phẩm mới là thước đo năng xuất lao động cũng như cường độ lao động .Trên thị trường thế giới , dân tộc nào có năng xuất lao động cao hơn được coi như lao động có cường độ cao hơn .Trong điều kiện cạnh tranh không bắt buộc , nước có năng xuất cao hơn phải hạ thấp giá bán hàng hoá của mình xuống ngang với giá trị của nó . Bởi vậy , những lượng khác của cùng một loại hàng hoá mà người ta sản xuất ra tại các nước khác nhau trong một thời gian lao động như nhau lại có những giá trị quốc tế khác nhau , biểu hiện thành những giá cả sản xuất khác nhau , nghĩa là thành những số tiền nhỏ hơn la nước co nền sản xuất TBCN phát triển hơn thì giá trị tương đối của tiền sẽ nhỏ hơn là nước có nền sản xuất TBCN kém phát triển hơn , từ đó có thể thấy rằng tiền công danh nghĩa ở các nước thứ nhất cũng sẽ cao hơn các nước thứ hai , nhưng như thế không hoàn toàn có nghĩa rằng điều đó áp dụng với tiền công thực tế .Nhiều khi tiền công ngày , tiền công tuần ở nước thứ nhất cao hơn ở nước thứ hai trong khi giá cả tương đối của lao động , tưc giá cả của lao động so với giá trị thặng dư và giá trị của hàng hoá , ơ nước thứ hai lại cao hơn ở nước thứ nhất .Mac dẫn ra thí dụ của giêm_xơ An-déc-sơn nhà kinh tế học người anh chỉ ra rằng mặc dù xét bề ngoàI tiền công ở các nươc nghèo , nơi mà giá ngũ cốc rẻ , thường thấp hơn , nhưng trên thực tế phần lớn trường hợp lại cao hơn ở nước giàu . ở Xcốt-len , lao động được đánh giá theo ngày rẻ hơn rất nhiều so với ỏ anh Nhưng lao động nói chung tính theo sản phẩm ở anhlại rẻ hơn .Như vậy phảI so sánh tiền công trong giá cả của một đơn vị hàng hoá mới kết luận được giá cả sức lao động rẻ hay đắt , chứ không thể so sánh tiền công theo thời gian . Điều này rất có ý nghĩa khi quy định mức tiền công ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
Khi còn thừa nhận sức lao động là hàng hoá thì còn phảI có thể vận dụng những quan điểm lý luận của Mác về tiền công nói trên vào việc cải cách hệ thống tiền lương nước ta hiện nay , một hệ thống tiền lương còn nhiều điểm bất hợp lý , còn nhiều tàn dư của xã hội cũ , của cơ chế bao cấp , chưa thích nghi với kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước .
Sự vận dụng này phải dựa trên tiền đề là việc tuyển dụng lao động và việc tổ chức , quuản lý lao động phảI đảm bảo cho người lao động có thể có được năng xuất lao động nhất định sao cho lượng giá trị mới được tạo ra phảI lớn hơn giá trị của sức lao động :
Bản thân người lao động phảI chấp hành nghiêm chỉnh luật lao động với độ dàI thời gian lao động và cường độ lao động thích đáng .Nếu tổ chức và quản lý lao động thấp , dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp hay thua lỗ , thì không thể đòi hỏi được nhân tiền công theo giá trị của sức lao động .
Dựa trên tiền đề đó , cần vận dụng những điểm sau đây vào cảI cách hệ thống tiền lương ở nước ta :
Một la : mức tiền lương khởi điểm phảI đảm bảo khối lượng tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động , bao gồm .
Duy trì sức lao động bình thường của bản thân người lao động , nuôi con của họ ( trong điều kiện đang vận đống sinh đẻ có kế hoạch thì ít nhất cũng đủ nuôI một người cho đến lúc trưởng thành ) và tran trải chi phí đào tạo .
Tái sản xuất sức lao của bản thân người lao động không chỉ gôm thực phẩm , mà còn cả nhu cầu về quần áo , nhà ở , đi lại , giải chí , ….. mức tiền lương khởi điểm ở nước ta hiện nay hầu như chỉ đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu về ăn , chưa tính đến các nhu cầu khác , càng chưa tính đến việc nuôI con và chi phí đào tạo . ví dụ : một sinh viên đại học chi phí từ 500.000 đến 1.000.000 một tháng tuỳ theo từng trường , nhưng sau khi tốt nghiệp , nếu xin được việc làm chỉ nhận được mức lương khởi điểm mỗi tháng khoảng 500.000 ( theo mức lương mới điều chỉnh ) , và phần lớn cảc trường hợp mới tuyển dụng phải tự lo ăn ở , đI lại . do vậy , những sinh viên ra trường , tuy đã xin được việc làm , nhưng vẫn phảI bươn trảI kiếm sống , nên họ khó có thể tận tâm , tận lực với công việc chuyên môn của mình .
Hai là: các cơ quan , đơn vị sử dụng lao động phải tín đến quan hệ cung cầu trên thị trường lao động để định mức tiền công thích hợp nhằm tuyển dụng người tài , hạn chế tình trạng “chảy máu chất xám “ .Mặt khác ,Nhà nước phải ban hành luật về tiền công tối thiểu để đảm bảo cuộc sống của những người lao động giản đơn .
Ba là : hàng năm phải điều chỉnh kịp thời mức lương theo mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng từ năm trước .
Bốn là : cần áp dụng phổ hình thức tiền công khoán theo sản phẩm hay theo kết quả lao động của các dịch vụ .
Năm là : để phát huy lợi thế của nguồn lao động rẻ , dồi dào nhằm thu hút đầu tư nước ngoài , quy định mức tiền công tối thiểu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , khi quy định mức tiền công tối thiểu cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần dựa vào mức tiền công giá trị của mỗi sản phẩm , tức là gắn với năng xuất lao động , chứ không nên chỉ căn cứ vào tiền công tính theo thời gian .
2.1 Vai trò của quy luật giá trị.
Trong nền kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị có những vai trò sau:
a/ Điều tiết sản suất và lưu thông hàng hoá.
Trong nền kinh tế hàng hoá thường xảy ra tình hình: Người sản xuất bỏ ngành này đổ xô vào ngành khác, quy mô sản xuất của ngành nàyđược thu hẹp, trong khi ở ngành khác lại được mở rộng, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được phân bố lại giữa các ngành. Hiện tượng này được gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường. Có thể hiểu vai trò điều tiết này thông qua những trường hợp biến động quan hệ cung cầu xảy ra trên thị trường:
- Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ để thoả mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy với lãi cao, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, những người trước đây sản xuất hàng hoá khác, nay chuyển sang sản xuất hàng hoá này. Như vậy, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển và ngành này nhiều hơn vào các ngành khác.
- Khi cung lớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hoá bán không chạy, có thể lỗ vốn, tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành này thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này mà tăng ở ngành khác mà họ thấy có lợi hơn.
Như vậy là theo “mệnh lệnh” của giá cả thị trường lúc lên, lúc xuống xoay quanh giá trị, khiến cho ngành sản xuất khác có lợi hơn ngành sản xuất này, mà có sự di chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động từ ngành này sang ngành khác, quy mô sản xuất của ngành khác được mở rộng nhanh hơn ngành này. Điều đó làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động bỏ vào từng ngành trong từng lúc có xu hướng phù hợp với yêu cầu của xã hội. Đó là biểu hiện vai trò điều tiết của quy luật giá trị, tạo nên những tỷ lệ cân đối nhất định giữa các ngành sản xuất. Nhưng vì sản xuất trong điều kiện chế độ tư hữu cạnh tranh vô chính phủ nên những tỷ lệ hình thành một cách tự phát đó thường xuyên bị phá vỡ và gây ra những lãng phí về của cải xã hội. Vì vậy, cân đối đó chỉ là hiện tượng tạm thời.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết sản xuất hàng hoá, mà còn điều tiết cả lưu thông hàng hoá. Gía cả của hàng hoá hình thành một cách tự phát theo quan hệ cung cầu. Cung và cầu có ảnh hưởng lớn đến giá cả, nhưng giá cả cũng có tác dụng khơ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0203.doc