Lý luận của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng lý luận đó ở VN hiện nay

Phần mở đầu Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương chiến lược đã được "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam " xác định. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế của nền kinh tế nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chính trị của Đảng đã chỉ rõ phải phát triển kinh tế tư bản - Nhà nước dưới nhiều hình thức. Tuy nhiên việc nhận định đúng đắn về kinh

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lý luận của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng lý luận đó ở VN hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế tư bản-nhà nước là hết sức khó khăn nhưng lại rất cần thiết. Có hàng loạt câu hỏi về vấn đề này cần được trả lời có luận cứ khoa học như: Kinh tế tư bản Nhà nước là gì? Những đặc trưng cơ bản nào của nó? Đó là một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức kinh doanh, một hình thức kinh tế quá độ hay một giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội?....Cũng có nhiều ý kiến chưa được thống nhất. Nhưng có một điều là vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là không thể phủ nhận được. Một nội dung kinh tế tổng quát xuyên suốt cả thời kỳ quá độ ở nước ta là sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường hỗn hợp nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản là phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước với tất cả các hình thức của nó. Lênin đã khẳng định "Chủ nghĩa tư bản độc quyền-Nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc thanh lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội không có một nấc thang nào ở giữa cả". Lênin chứng minh điều khẳng định của người như thế nào? Những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa tư bản Nhà nước là gì? Nghiên cứu những lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước sẽ giúp ta hiểu rõ vấn đề. Đề tài: "Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong thời kỳ chuyên chính vô sản. Sự vận dụng lý luận trên của Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" là một đề tài rất hấp dẫn. Vì muốn củng cố kiến thức của mình đồng thời muốn hiểu hơn về chủ nghĩa tư bản Nhà nước nên em chọn đề tài này. Do kiến thức hạn chế nên trong bài viết của em có nhiều thiếu sót. Em rất mong được các Thầy Cô giáo sữa chữa, bổ sung. Nội dung: I- Lý luận của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Luận điểm "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước" đóng một vai trò rất quan trọng trong lý luận của Lênin về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều tác phẩm bàn về công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước Nga- đặc biệt là cuốn "Bàn về thuế và lương thực" năm 1921- Lênin đã trình bày rất nhiều về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Ta sẽ đi tìm hiểu những lý luận của Người về vấn đề này-về thực chất của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong điều kiện chuyên chính vô sản, về vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về các hình thức của nó. Lý luận về chủ nghĩa tư bản Nhà nước của Lênin không phải được hình thành ngay một lúc mà lý luận này phải trải qua thực tiễn, rút kinh nghiệm, phát triển dần dần. Trước hết ta hãy nghiên cứu về "chính sách kinh tế mới" sự áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào nước Nga của Lênin. Chính sách "kinh tế mới" ra đời trong hoàn cảnh nào? Ngay khi cách mạng tháng Mười vừa thành công, chính quyền Xô viết Nga non trẻ phải đối mặt với vô vàn những khó khăn. Đó là sự khan hiếm lương thực do giai cấp địa chủ đầu cơ tích trữ lương thực, giai cấp tư sản và bọn phản động trong nước âm mưu giành lại chính quyền, 18 nước đế quốc vũ trang can thiệp vào nước Nga. Trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" đó thì Nhà nước Xô viết ban hành chính sách "Cộng sản thời chiến" nhằm mục tiêu ổn định tình hình kinh tế và chính trị. Nhà nước thực hiện trưng thu lương thực thừa của nông dân để cung cấp cho quân đội và công nhân; quốc hữu hoá toàn bộ các cơ sở công nghiệp; Nhà nước độc quyền mua bán trên thị trường thi hành chế độ nghĩa vụ lao động đối với tất cả những người có năng lực. Nhà nước Xô Viết đã thi hành cơ chế kế hoạch hoá tập trung từ trên xuống dưới. Chính sách "Cộng sản thời chiến" đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thắng lợi cho chính quyền Xô Viết non trẻ. Thế nhưng sau khi kết thúc nội chiến thì tình hình nước Nga hết sức bi đát. Lênin ví nước Nga lúc đó như "một người đã bị đánh gần chết,..., may mà nó vẫn cón có thể chống nạng mà đi được". Nước Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Điều nguy hại nhất là khối liên minh công-nông bị rạn nứt do giai cấp nông dân bất mãn với chính sách "Cộng sản thời chiến" Lêni đã nhận ra nguyên nhân và người ban hành chính sách "kinh tế mới" nhằm mục đích khôi phục kinh tế. Hai nội dung cơ bản nhất của chính sách "kinh tế mới" là: Thứ nhất, thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực. Thứ hai, Nhà nước cho phép giai cấp tư sản thuê hoặc mua lại các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ mà đã quốc hữu hoá trong thời kỳ nội chiến. Vậy thực chất của chính sách "kinh tế mới" là gì? Trong "dàn ý dự thảo huấn thị của Hội đồng lao động quốc phòng" năm 1921, Lênin viết "thực chất của chính sách kinh tế mới là phát triển đến mức tối đa lực lượng sản xuất; cải thiện tình cảnh của công nhân và nông dân, sử dụng tư bản tư nhân và hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước, ủng hộ toàn diện sáng kiến của địa phương, đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề". Lênin cho rằng muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa ở một nước tiểu nông thì giai cấp vô sản thực hiện quyền chuyên chính phải lấy công nghiệp để trao đổi với sản phẩm nông nghiệp của nông dân. Muốn vậy thì tất yếu phải thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực. Như vậy thì sau khi nộp thuế cho Nhà nước (như Lênin nói thì "thuế lương thực chỉ chiếm một phần rất nhỏ các sản phẩm") nông dân có toàn quyền tự do buôn bán trao đổi phần còn lại trên thị trường. Có tự do trao đổi, tự do buôn bán tất yếu dẫn đến phân hoá những người sản xuất hàng hoá ra thành kẻ sở hữu tư bản, người sở hữu sức lao động. Điều này có nghĩa là khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính sách "kinh tế mới" sẽ làm nảy sinh chủ nghĩa tư bản tư nhân trong nước Nga. Nhưng Nhà nước Xô Viết lại nằm trong tay của giai cấp vô sản và giai capá vô sản phải hướng chủ nghĩa tư bản tư nhân vào con đường chủ nghãi tư bản Nhà nước để phục vụ cho công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nếu không như vậy thì giai cấp vô sản sẽ mất chính quyền và thay đổi ngay bản chất của mình. Trong nội dung thứ hai của chính sách"kinh tế mới", Nhà nước Xô Viết cho phép giai cấp tư bản thuê hay mua lại các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ là nhằm mục đích gì? Đó là để phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp bằng cách lợi dụng ưt bản trong và ngoài nước trong khi mà với điều kiện và hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ giai cấp vô sản chưa thể tự làm được. Đến đây thì cũng làm xuất hiện vấn đền tất yếu là giai cấp vô sản phải thực hiện việc kiểm soát tư bản để nó phục vụ cho lợi ích của mình sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Như vậy thực chất của chính sách "kinh tế mới" là sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế nước Nga đưa nước Nga thoát khỏi tình trạng khủng hoảng sau nội chiến. Nhưng vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn hơn thế nữa. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là một mắt xích trung gian giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Đối với một nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản nhằm giảm bớt đau thương thì phải sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước . Như Lênin từng nói "trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội". Để giải thích vấn đề này được rõ ràng hơn Lênin đưa thí dụ cụ thể về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở nước Đức - nơi là "đỉnh cao" về kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa hiện đại và về tổ chức có kế hoạch. Nếu trình độ kỹ thuật và tổ chức đó là của nước Nga thì Lênin khẳng định "... các anh sẽ có tất cả các điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội". Nước Đức và nước Nga năm 1918 đã hợp đủ điều kiện để thực hiện chủ nghĩa xã hội. Nhưng mỗi nước lại đều không có đủ cả hai điều kiện mà mỗi bên chỉ "sở hữu" một nửa. Nước Đức có điều kiện kinh tế, sản xuất, kinh tế -xã hội, với trình độ khoa học kỹ thuật và trình độ tổ chức nền sản xuất lớn phát triển cao. Còn nước Nga lại có điều kiện Nhà nước là Nhà nước của nền chuyên chính vô sản. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có cả hai điều kiện trên. Nguyên văn trong cuốn "bàn về thuế và lương thực", Lênin viết " không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa chủ nghĩa được xây dựng trên những phá minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức Nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong việc sản xuất và phân phối sản phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được "và"Đồng thời nếu không có sự thống trị của giai cấp vô sản trong Nhà nước thì cũng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được..." Lênin ví nước Đức và nước Nga lúc bấy giờ là hai nửa rời rạc của chủ nghĩa xã hội cùng tồn tại bên cạnh nhau. Vậy thì vấn đề đặt ra là cần phải làm gì để có thể có đủ hai điều kiện cho nước Nga tiến hành chủ nghĩa xã hội. Lênin khẳng định điều trước tiên là hãy bằng tất cả sức lực phải học tập chủ nghĩa tư bản Nhà nước của người Đức tức là phải làm sao cho nước Nga có được một lực lượng sản xuất phát triển cao-đó là điều cốt yếu nhất. Từ sự phân tích điều kiện thực tế của nước Nga Xô Viết, Lênin đã đi đến kết luận chủ nghĩa tư bản Nhà nước là "có lợi và cần thiết". Vậy thì chủ nghĩa tư bản Nhà nước có lợi như thế nào? Và cần thiết như thế nào? Ta lần lượt xét các vấn đề sau: Trước hết phải khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước có lợi cho chính bản thân giai cấp vô sản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đến đây có một câu hỏi đặt ra là chủ nghĩa tư bản đời nào lại chịu đi phục vụ cho chủ nghĩa xã hội? Để trả lời câu hỏi này ta phải phân biệt chủ nghĩa tư bản Nhà nước thông thường và chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới thời chuyên chính vô sản. Khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền thì xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Các tổ chức độc quyền chiếm địa vị thống trị tuyệt đối trong các ngành sản xuất và ngân hàng hình thành nên tư bản tài chính, các tổ chức độc quyền nắm những mạch máu kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa. Chúng cấu kết với bộ máy Nhà nước và Nhà nước tư sản phụ thược chúng. Nhà nước tư bản là chuyên chính của tư bản độc quyền, mọi hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của tư bản độc quyền và nó vẫn dựa trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất. Do đó nó là chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong một nước mà chính quyền thuộc về tư bản. Còn chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà ta đang bàn đến là chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở trong một Nhà nước vô sản. Lênin nói "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi khác về căn bản so với chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở những nước có chính phủ tư sản, sự khác biệt là ở chỗ Nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô sản" và "chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi... chẳng những nắm ruộng đất mà còn nắm cả những bộ phận quan trọng nhất của công nghiệp nữa". Giai cấp vô sản sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là để phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình cũng như toàn thể nhân dân lao động. Lợi ích mang lại ở đây chính xác là lợi ích cơ bản và lâu dài. Bởi vì ban đầu những người được lợi nhiều hơn là các nhà tư bản, những người có sức mạnh kinh tế và kỹ thuật hơn hẳn. Điều này âu cũng hợp lý vì việc phân chia lợi ích trong kinh doanh được dựa trên sức mạnh kinh tế và kỹ thuật. Nước Nga lúc đó về sẽ mạnh kinh tế và kỹ thuất chưa thể so sánh với các nước tư bản. Do đó đầu tiên, giai cấp vô sản phải chấp nhận cho nhà tư bản có những quyền lợi như được phép sử dụng những hầm mỏ, được khai thác một số tài nguyên... để thu được lợi ích cơ bản hơn, lâu dài hơn. Và như Lênin phân tích nhà nước vô sản lại được lợi ngay trên cái lợi của nhà tư bản. Vì khi chủ nghĩa tư bản được lợi thế thì sản xuất công nghiệp được tăng lên, giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn mạnh lên và là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất có ích cho xã hội. Chủ nghĩa tư bản nhà nước tại sao lại cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước tiểu nông đã có điều kiện chính quyền nằm trong tay giai cấp vô sản? Bởi vì nó là con đường, là phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất lên trình độ cao, là biện pháp biến các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thành xí nghiệp xã hội chủ nghĩa. Vì chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp từ tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ở các nước tiểu nông lên giai cấp vô sản " phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, làm con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên". Đó là vấn đề thứ hai. Vậy thì những cái lợi cụ thể sẽ đạt được khi sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay tác dụng cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước là như thế nào? Chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội phải được xây dựng trên cơ sở kinh tế là nền sản xuất lớn hiện đại. Nhưng đối với những nước tiểu nông như nước Nga thời gian sau nội chiến thì kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập do giữa chúng vẫn chưa có cái gì để chúng liên kết lại với nhau. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không thể để nền kinh tế nhỏ tồn tại riêng rẽ, manh mún như vậy được. Và chính chủ nghĩa tư bản Nhà nước là công cụ kết hợp nền sản xuất nhỏ lại. Bởi vì theo qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và lịch sử đã chứng minh nền sản xuất nhỏ phát triển đển mức độ nào đó tất yếu sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. "Tư bản làm cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, tư bản sinh ra từ sản xuất nhỏ". Nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản Nhà nước thì sẽ phát triển được nền đại sản xuất tiên tiến thay cho nền tiểu sản xuất lạc hậu để có điều kiện phát triển chủ nghĩa xã hội. Là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại thì nó cũng là công cụ để đấu tranh chống tính tự phát triển tư bản và tư bản chủ nghĩa. Trong một nước tiểu nông thì tất yếu tính tự phát tiểu tư sản và tư bản chủ nghĩa sẽ chiếm ưu thế. Và theo Lênin, chính giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản Nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội. "Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát nào của Nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay chủ nghĩa xã hội Nhà nước. Phải bắt những người tiểu tư sản phục tùng sự kiểm soát kiểm kê của Nhà nước vô sản nếu không họ sẽ lật đổ chính quyền, đó là điều không tránh khỏi. Xây dựng được chủ nghĩa xã hội trong điều kiện trình độ lực lượng sản xuất còn thấp chủ nghĩa tư bản Nhà nước như là một công cụ hữu hiệu nhất để chiến thắng tình trạng hỗn độn, sự khắc phục tính tập quán của sản xuất nhỏ, đập tan sự phá hoại của bọn đầu cơ gian thương muốn làm lũng đoạn nền kinh tế. Du nhập được chủ nghĩa tư bản bên ngoài chính là du nhập được trình độ kỹ thuật cao, trình độ tổ chức quản lý sản xuất một nền sản xuất lớn. Ngoài ra tư bản nước ngoài có vốn rất lớn sẽ rất cần thiết cho công cuộc xây dựng một nền sản xuất lớn khi mà lượng vốn từ bên trong rất thiếu. Vấn đề đặt ra ở đây là phải sử dụng những hình thức nào để vừa thu hút được tư bản bên ngoài vừa ngăn chặn được những ảnh hưởng xấu mà nguy hại nhất là có thể làm thay đổi bản chất của nền chuyên chính vô sản. Vấn đề này ta sẽ xem xét sau. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Vì khi nói về thực chất của chính sách kinh tế mới Lênin đã đề cập đến nhiệm vụ "đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề" mà chính sách kinh tế mới là sự sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Du nhập chủ nghĩa tư bản bên ngoài qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là du nhập được trình độ kỹ tiên tiến, học tập được cách thức tổ chức quản lý một nền sản xuất lớn hiện đại. Phải thừa nhận một thực tế là chủ nghĩa tư bản hơn hẳn chúng ta về trình độ khoa học kỹ thuật và họ đã có được nền sản xuất lớn hiện đại với trình độ quản lý rất cao. Như Lênin nói về nước Nga khi đó rằng: "Giai cấp vô sản Nga so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nước phát triển nào khác là giai cấp tiên tiến hơn về chế độ chính trị và về sức mạnh chính quyền công nông nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản Nhà nước có qui cũ, về trình độ văn hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất". Những nước tiểu nông hay những nước chưa có cơ sở vật chất, kỹ thuật cao muốn tiến lên được chủ nghĩa xã hội họ phải trải qua một thời kỳ quá độ. Mục tiêu của thời kỳ quá độ, theo cách nói hình tượng của Lênin là "đặt nền móng kinh tế cho toà nhà mới, toà nhà xã hội chủ nghĩa, để thay thế cho toà nhà phong kiến đã bị phá huỷ, và cho toà nhà tư bản đã bị phá huỷ một nửa". Nhưng để đạt mục tiêu đó phải đi bằng con đường nào. Thực tế cho thấy rằng không thể áp dụng trực tiếp tổ chức theo kiểu cộng sản chủ nghĩa là Nhà nước sản xuất và phân phối sản phẩm. Thực tế đã chứng minh nưững người cộng sản Nga đã thất bại trong chính sách "Cộng sản thời chiến" khi muốn chuyển sang chủ nghĩa xã hội ngay bằng việc thiết lập chế độ sản xuất quốc doanh và chế độ Nhà nước phân phối sản phẩm. Chính sách "Cộng sản thời chiến" chỉ có tác dụng như một biện pháp tức thời để đưa nước Nga thoát khỏi tình hình nội chiến. Vậy không muốn bị thất bại và sai lầm thì phải thông qua trao đổi hàng hoá, qua sản xuất hàng hoá tức là kinh tế thị trường. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội là trình độ xã hội hoá sản xuất cao. Kinh tế thị trường văn minh cực thịnh chính là một biểu hiện của trình độ xã hội hoá sản xuất cao. Cho nên để bước quá độ thành công thì phải tiến tới xã hội hoá trong thực tế bằng sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Nhưng có trao đổi hàng hoá tất yếu đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Tư bản sinh ra từ sản xuất hàng hoá, giai cấp vô sản không thể tìm cách để chặn đứng sự phát triển của trao đổi tư nhân hay của chủ nghĩa tư bản (Lênin nói đó là "dại dột" và "tự sát") mà phải hướng chủ nghĩa tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Vậy có thể nói hoàn toàn không quá rằng chủ nghĩa tư bản Nhà nước có vai trò tối quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước có trình độ lực lượng sản xuất còn thấp. Còn những tác dụng cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước ta đã xét. Bây giờ là vấn đề liệu có thể sử dụng thành công chủ nghĩa tư bản Nhà nước hay không? "Liệu chính quyền Nhà nước vô sản có khả năng khống chế được các ngài tư bản một cách thích đáng, để hướng chủ nghĩa tư bản đi theo đúng phương hướng mà Nhà nước đã vạch ra và tạo ra một thứ chủ nghĩa tư bản phục tùng Nhà nước và phuc vụ Nhà nước không?" Câu trả lời là có nếu đảm được những điều kiện cần thiết. Điều kiện cần là điều kiện liên quan đến việc tạo những thuận lợi hay môi trường để chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển những nước có nền chuyên chính vô sản. Chắc chắn là phải phát triển kinh tế hàng hoá như ta đã đề cập ở trên. Theo Lênin "Nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ không phải chỉ đối với một nước tiểu nông, mà nói chung đối với mọi nước khi chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở vào trình độ xã hội hoá sản xuất cao độ". Muốn xây dựng được một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải có cơ cấu sở hữu hợp lý. Đó phải là chế độ sở hữu hỗn hợp đảm bảo cho chủ nghĩa tư bản Nhà nước có thể tồn tại và phát triển. Điều kiện đủ là điều kiện chủ nghĩa tư bản Nhà nước chịu "phục tùng".Trong thời kỳ quá độ phải "dung nạp" chủ nghĩa tư bản nhưng phải hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chủ nghĩa tư bản có bản chất khác hẳn chủ nghĩa xã hội. Do đó chủ nghĩa tư bản Nhà nước như "con dao hai lưỡi". Nếu sử dụng không khéo nó sẽ cho tác dụng phản hồi. Muốn ngăn chặn được những tác động xấu khi sử dụng chủ nghĩa tư bản thì Nhà nước phải là Nhà nước chuyên chính vô sản và đồng thời Nhà nước phải nắm được các đỉnh cao kinh tế. Nhà nước phải có trong tay một thực lực kinh tế dựa trên hình thức sở hữu xã hội mà Nhà nước là đại biểu , nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo đối vưói các thành phần kinh tế khác. Có như vậy Nhà nước mới có thể hướng các thành phần kinh tế theo sự điều khiển của mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới ngăn chặn được bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Và có như vậy, chủ nghĩa tư bản Nhà nước mới là "cái không đáng sợ" theo cách nói của Lênin. ở dưới thời Lênin có một số hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được vận dụng. Mặc dù sự thành công của nó chưa đạt được những mục tiêu đặt ra nhưng những lý luận của Lênin về các hình thức này thì rất cần thiết cho việc để vận dụng trong điều kiện hiện nay. Ta hãy đi tìm hiểu những hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản Nhà nước đồng thời kết quả thực hiện thời Lênin để có những bài học bổ ích. Hình thức đầu tiên mà Lênin nêu ra là tô nhượng "Đó là một giao kèo một sự liên kết, một liên minh giữa chính quyền Nhà nước Xô Viết nghĩa là Nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản Nhà nước chống lại thế lực tự phát triển tư sản. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Họ kinh tế theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận, họ đồng ý thoả thuận với chính quyền vô sản để cốt thu được lợi nhuận bất thường, lợi nhuận tiểu ngạch hoặc để có loại nguyên liệu mà họ không thể tìm ra hoặc khó tìm bằng cách khác". Còn chính quyền Xô Viết thì được lợi gì? " Chính quyền Xô Viết tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiêu trên đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp, nó củng cố được những quan hệ kinh tế do Nhà nước điều chỉnh đối lập với những quan hệ tiêu tư sản vô chính phủ. Tô nhượng là hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà Lênin đánh giá cao nhất cũng vì lý do đó. Khi sử dụng tô nhượng, Lênin nêu ra một nhiều điều phải chú ý là: - Khi sử dụng tô nhượng đôi lúc phải biết chịu đựng những hy sinh, chấp nhận sai lầm. - Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức số trung bình của nước ngoài. - Hình thức trả lương cho công nhân được qui định tuỳ từng hợp đồng. - Điều kiện về thuê mướn, về sinh hoạt vật chất, về trả lương cho các công nhân lành nghề và nhân viên người nước ngoài được qui định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng với những loại công nhân viên nói trên. - Phải tôn trọng pháp luật của nước Nga. - Phải nghiêm chỉnh tuân theo những qui tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và của nước ngoài. Hình thức thứ hai được áp dụng thời Lênin là hợp tác xã. Thoạt đầu Lênin quan niệm hợp tác xã là một hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Sau đó trong một tác phẩm người lại viết "cần phải viện đến một cái gần giống như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Tôi muốn nói đến chế độ hợp tác xã" tiếp theo ngay sau đó Lênin lại nói "thường thường trong hoàn cảnh nước ta chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội". Trong các ý kiến của Lênin thì hợp tác xã dần càng khác nhau. Điều này là do những thời điểm lịch sử khác nhau. Ban đầu Lênin coi hợp tác xã là một "hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước nhưng ít đơn gian hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thế trong thực tế nó đặt chính quyền Xô Viết trước những khó khăn lớn hơn". Sau này từ thực tiễn nước Nga Lênin đã phân biệt hai chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chế độ hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ Xô Viết được coi là một hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chế độ hợp tác xã theo kiểu thứ nhất là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống, đây là một bước chuyển từ hình thái đại sản xuất này sang hình thái đại sản xuất khác. Trong một nước tư bản chủ nghĩa hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Còn trong điều kiện kinh tế mới tức chính quyền Xô Viết hình thành kiểu xí nghiệp hợp tác xã, đây là sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân (xây dựng trên đất đai thuộc về xã hội) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống. Còn một con đường khác là con đường của chủ nghĩa tư bản hợp tác xã. Đây là tổ chức bao gồm hàng ngàn thậm chí hàng triệu tiểu nghiệp chủ, nó là nước chuyển tư nền tiểu sản xuất sang đại sản xuất. Lênin quan niệm về sau là con đường theo chế độ này hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội. Hình thức thứ ba là hình thức đại lý uỷ thác. "Nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. Hình thức thứ tư là Nhà nước cho tư bản thuê những xí nghiệp, vùng mỏ, vùng đất... hình thức này phân biệt với tô nhượng ở chỗ đối tượng thuê là tư bản trong nước. Hình thức thứ năm là cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ . Đây cũng là kiểu cho thuê nhượng đối tượng thuê - theo cách nói của Lênin là các tiểu tư bản. Hình thức thứ sáu là Công ty hợp doanh. Hình thức này tồn tại trong lĩnh vực thương nghiệp, nó được thành lập theo thể thức chính quyền Xô Viết tư bản trong và ngoài nước cùng góp vốn. Trên đây là một số hình thức của chủ nghĩa tư bản Nhà nước được thực hiện dưới thời của Lênin. Sự thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở thời Lênin đã mang lại những kết quả to lớn cả về mặt thực tiễn cũng như mặt lý luận. Sau khoảng hơn một năm thực hành đến tháng 11/1922, Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung và chủ nghĩa tư bản Nhà nước nói riêng như sau: Về hình thức giai cấp nông dân, từ hình thức đói kém và một số nông dân bất mãn với chế độ cộng sản thời chiến thì đến lúc này nông dân đã thoát khỏi nạn đói và còn nộp thuế lương thực hàng trăm triệu put. Đời sống công nhân được cải thiện, công nhân không còn bất bình nữa. Công nghiệp nhẹ được phát triển, công nghiệp năng gặp phải nhiều khó khăn khi áp dụng hình thức tô nhượng do các nước đế quốc giàu có vẫn muốn bóp chết nước xã hội chủ nghĩa non trẻ nên không có những khoản vay lớn được. Tuy nhiên nhờ có chính sách kinh tế mới mà đã thu được một số vốn lớn hơn 20 triệu put vàng để cứu vãn công nghiệp nặng. Qua các tài liệu tự đánh giá về chính sách chủ nghĩa tư bản Nhà nước cho đến năm 1924, nhìn chung là mang lại những đóng góp tích cực, làm sống động nền kinh tế nước Nga Xô Viết. Hình thức tô nhượng với nước ngoài đã đem lại nhiều kết quả cao. Nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển, kỹ thuật, thiết bị hiện đại được đưa vào sản xuất cùng kinh nghiệm quản lý tiên tiến đã mang lại hiệu quả sản xuất cao. Nguồn ngoại tệ đất nước được tăng thêm, ngoại thương với các nước Phương Tây được phát triển .Thông qua hoạt động của các Công ty hợp doanh mà những người cộng sản Nga đã thực sự học được cách buôn bán. Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê, các xí nghiệp hồn hợp đã giúp nước Nga Xô Viết duy trì được hoạt động bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, việc làm cho người lao động. Hình thức đại lý và các hợp tác xã tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh vực sản xuất, tín dụng và tiêu thụ đã góp phần hỗ trợ thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ, làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ, qua đó cải biến những người tiểu nông, nối liền quan hệ công -nông nghiệp, thành thị-nông thôn. So với mục tiêu đã đặt ra thì những kết quả thực hành chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới thời Lênin vẫn còn thấp. Ví như trong những năm 1923-1924 (năm cuối cùng của Lênin) tỷ trọng của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước chỉ chiếm 1% tổng sản phẩm cả nước. Năm 1923, các xí nghiệp tô nhượng mới chỉ sản xuất được khối lượng sản phẩm trị giá 35,1triệu rúp. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng quan trọng nhất là chủ nghĩa đế quốc vẫn tìm mọi cách bóp chế Nhà nước Xô Viết nền đầu tư hợp tác không đạt kết quả như mong muốn. Tuy nhiên kết quả quan trọng nhất đó là chủ nghĩa tư bản thực sự đã trở thành một phần đặc trưng của chính sách "kinh tế mới" và nhờ có chính sách "kinh tế mới" mà chính quyền Xô Viết vẫn giữ được vị trí vững chắc trong nông nghiệp và công nghiệp và có khả năng để tiếp tục đưa nền kinh tế nước Nga tiến lên. Ta đã nghiên cứu những lý luận cơ bản của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Lý luận của Người là di sản quí báu mà Người để lại cho chúng ta, nhiệm vụ của nước ta là phải vận dụng, phát triển lý luận đó vào thực tiễn nước nhà như thế nào? Bây giờ chúng ta xem xét sự vận dụng chủ nghĩa tư Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. II- Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào Việt Nam. Những lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những nước đi lên chủ nghĩa xã hội muốn bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản. Nhưng lý luận của Người cần được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Không thể đưa nguyên xi vào mô hình chủ nghĩa tư bản Nhà nước đã được áp dụng ở Liên Xô vào áp dụng ở một môi trường, ở một quốc gia khác được. Thực tế đã chứng minh khi các nước Đông Âu xây dựng chủ nghĩa xã hội đã sao chép mô hình của Liên Xô và kết quả là khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sụp đổ thì kéo theo sự sụp đổ ở các nước này và hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới không còn. Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước phải được lấy làm cơ sở để từ đó mỗi nước có sự ứng biến linh hoạt khi áp dụng. Luân điểm quan trọng nhất làm cơ sở xuất phát để nghiên cứu đó là: Việc chuyển sang chủ nghĩa xã hội cần thiết phải có một loạt nhữg bước quá độ như chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Điều này ta đã xem xét ở phần trước. Thực tiễn của công cuộc đổi mới được tiến hành ở Việt Nam trong những năm qua đã chứng minh rằng trong bối cảnh quốc tế hiện thời, Việt Nam không có điều kiện để bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản để quá độ trực tiến lên chủ nghĩa xã hội mà chỉ có khả năng rút ngắn giai đoạn phát triển đó, phương pháp rút ngắn là phải sử dụng chủ nghĩa tư bản. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương trong quá trình đổi mới là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường cho phép tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, chủ trư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34993.doc
Tài liệu liên quan