Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước và vận dụng lý luận đó ở Việt Nam

Lời mở đầu Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang chuyển mình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim nam chỉ mọi hành động của mình. Hệ thống tư tưởng Mác - Lênin là nền tảng của sự phát triển tư tưởng, chúng ta đã nghiên cứu và vận dụng một cách khéo léo, một cách khoa học và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, khi đi vào thực tế, đất nước ta không phải là khong mắc phải những sai lầm, nhưng chính những sai lầ

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước và vận dụng lý luận đó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đó là những bài học quí giá nhất để chúng ta đánh giá được chính mình và tìm cách đứng dậ với khí thế mới. Từ đó càng làm sáng rõ hơn con đường toàn Đảng, toàn dân ta đang đi và sẽ tiếp tục đi là đúng đắn, là khách quan, vừa phù hợp với tình hình, điều kiện trong nước, vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Đó là con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Xét về phương diện vật chất, kinh tế, nước ta hiện nay ở một mức độ nhất định cũng như nước Nga thời kỳ NEP, chưa có đủ điều kiện để trực tiếp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trng hệ thống chính sách kinh tế mới - NEP là một trong những di sản quí báu nhất mà Người để lại cho chúng ta. Việc nghiên cứu một cách khoa học, biện chứng tư tưởng đó của Lênin có ý nghĩa thiết thực đối với chúng ta, giúp chúng ta xác định rõ phương tiện, xác định rõ con đường thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa và tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đất nước ta trong một thời kỳ dài áp dụng cơ chế tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến tình hình kinh tế khủng hoảng trầm trọng, cộng thêm vào đó là tình hình thế giới có nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam, quá trình đổi mới đất nước được đánh dấu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần ths VI - 1986 đã mở ra cho đất nước một thời kỳ mới - thời kỳ đổi mới toàn diện. Và chính tại đây tư tưởng của Lênin và chủ nghĩa tư bản Nhà nước được chính thức đi vào thực tiễn, trong xã hội tồn tại thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế có vai trò, chức năng, nhiệm vụ khác nhau trong hoạt động kinh tế, song chúng có điểm giống nhau là đều làm phong phú nền kinh tế nước ta, sự hoạt động của mỗi thành phần đều nhằm mục đích đẩy mạnh nền kinh tế nước nhà phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Khi vận dụng tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước chúng ta cần xem xét vận dụng nó vừa như là một thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, một kiểu tỏ chức kinh tế. Và trước khi vào vận dụng, chúng ta cần nghiên cứu một cách khoa học, một cách biện chứng để từ đó vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta nhằm thu được thắng lợi trong hiện tại và tương lai, khắc phục tình trạng vận dụng dập khuôn như thời kỳ trước chúng ta đã từng làm. Chương I Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. I- chính sách kinh tế mới (NEP) về sự cần thiết sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước Vào cuối 1918, cuội nội chiến và can thiệp đã làm cho nước Nga vốn đã khó khăn càng thêm khó khăn chồng chất. Để đối phó với tình hình đó, Lênin ra khẩu hiệu "Tất cả cho tiêu diệt kẻ thù và thi hành chính sách" kinh tế cộng sản thời chiến… Nội dung cơ bản của nó là Trưng thu lương thực thừa của nông dân; Nhà nước kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm, quốc hữu hoá các xí nghiệp vừa và nhỏ, cấm buôn bán trao đổi hàng hoá trên thị trường… Nhờ thực hiện chính sách, Nhà nước Xô Viết mới có đủ lương thực để cung cấp cho quân đội và nhân dân, để đảm bảo đánh thắng thù trong giặc ngoài. Nhận định, đánh giá về chính sách này, Lênin nói: "Trong điều kiện chiến tranh mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng". Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà bình. Do đó, chính sách : "Kinh tế cộng sản thời chiến" đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó, giờ đâu không cho phép dồn nó đi xa hơn nữa, vì nó đã thể hiện khuyết tật của mình, sản xuất không phát triển, đời ssống nhân dân khó khăn., khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ. Do yêu cầu đó, tại Đại hội XI của Đảng Cộng sản Bôn sêvich Nga đã chủ trương thay thế chính sách "cộng sản thời chiến" bằng chính sách "kinh tế mới - NEP" nội dung cơ bản là: Bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực bằng thuế lương thực; những xí nghiệp vừa và nhỏ trước đây bị quốc hữu hoá, nay cho tư nhân thuê hay mua lại để kinh doanh tự do; cho phép mở rộng trao đổi hàng hoá, cho thương nhân được tự do hoạt động buôn bán, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh. CNTBNN là một trong những yếu tố cấu thành của "NEP". Sau đây chúng ta sẽ bàn về lý luận của Lênin về CNTBNN: Khi chuyển sang NEP, Lênin đã thẳng thắn thừa nhận rằng: "toàn bộ quan điểm của chúng ta về CNXH đã thay đổi về căn bản". Trước đây, Đảng và Nhà nước Xô Viết đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình cách mạng mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ về kinh tế như nhiệm vụ quân sự, có thể dùng những biện pháp trực tiếp của Nhà nước về sản xuất để tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm theo kiểu cộng sản chủ nghĩa ở một số nước tiểu nông. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi đi vào thực hiện, Lênin đã thấy rằng không thể xây dựng trực tiếp CNXH ở một nước tiểu nông như nước Nga lúc đó. Người nói: "Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua CNTBNN tiến kên CNXH". Đây là một bước lùi chiến lược, đúng hơn là trở lại con đường phát triển hợp qui luật của kinh tế. Tình hình hiện tại của nước Nga đặt ra yêu cầu: phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Lênin nói: Biện pháp của nó là: thuế lương thực, phát triển sự trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, phát triển tiểu thủ công nghiệp. Theo quan điểm của Lênin thời đó: tự do trao đổi là tự do buôn bán, tức là lùi lại chủ nghĩa tư bản. Tự do buôn bán và tự do trao đổi là việc trao đổi giữa những người sở hữu nhỏ. Thứ trao đổi hàng hoá ấy không thể không dẫn đến chỗ phân hoá người sản xuất hàng hoá ra thành kẻ sở hữu tư bản và người sử hữu sức lao động, nghĩa là khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Vấn để được đặt ra là: Nhà nước Xô Viết có để cho các mầm móng tư bản phát triển do việc trao đổi mang lại hay là ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, cái gì không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa tư bản. Lênin chỉ ra rằng: "Nếu chúng ta ngăn chặn sự trao đổi, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thông qua thương mại là hết sức dại dột, Đảng nào muốn tự hại mình thì áp dụng nó. Khi chúng ta tìm cách hướng sự phát triển ấy vào con đường CNTBNN. Vấn đề này về phương diện kinh tế, đó là điều có thể thực hiện được". Sự phát triển của CNTBNN trong thời kỳ quá độ lên CNXH không có mục đích tự thân mà là phương tiện, biện pháp để tăng lực lượng sản xuất, biến các xí nghiệp của tư bản chủ nghĩa thành xã hội chủ nghĩa. Chúng ta phải học cách làm giàu, cách quản lý của các nhà tư bản, những trí thức khoa học, công nghệ tiên tiến của chủ nghĩa tư bản trong hoạt động sản xuất, buôn bán để chúng tư phát triển kinh tế. Và chỉ có như vậy, bằng con đường phát triển kinh tế chúng ta mới có thể đánh đổ được hoàn toàn chủ nghĩa tư bản xây dựng thành công CNXH - chủ nghĩa cộng sản. Về mặt chính trị, Lênin khẳng định nhiều lần rằng CNTBNN là không đáng sợ, không thay đổi được gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga Xô Viết, tất nhiên với hai điều kiện: Một là, chính quyền Nhà nước phải nằm trong tay giai cấp công nhân và Nhà nước qui định khuôn khổ cho sự phát triển của CNTBNN. Hai là, Nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Ngươaì cũng chỉ ra rằng: CNTBNN là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp chứ không phải là hoà bình giai cấp. Và CNTBNN mà Lênin nêu là một thứ chủ nghĩa tư bản đặc biệt. Nó khác hẳn các quan niệm thông thường về CNTBNN, vì ở đây Nhà nước nắm trong tay giai cấp vô sản và đỉnh cao của nền kinh tế thì nắm trong tay Nhà nước xã hội cg. Lênin khẳng định: "Sự khác biệt chính là ở chỗ Nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô sản". II- Vai trò của chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Lý luận của Lênin về CNTBNN còn đề cập đến vai trò của CNTBNN trong thời kỳ quá đoọ. Người đã lấy tình hình thực tiễn của Nhà nước Xô Viết lúc bấy giờ để khẳng định vai trò của CNTBNN, để giải thích, để chứng minh cho sự cần thiết của việc áp dụng CNTBNN vào điều kiện đất nước. Khái quát lại vai trò của CNTBNN được Lênin để cập ở mấy điểm sau: 1. Bản thân CNTBNN chính là sự kết hợp, liên hợp, phối hợp Nhà nước Xô Viết, nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản "một khối chủ nghĩa tư bản bên trên". Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do Nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp, nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất và cải theịen đời sống nhân dân. 2. Chủ nghĩa tư bản là công cụ để đấu tranh chống tính tự phát tư bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu tư sản, chống tệ đầu cơ, được coi là kẻ thù của CNXH ở nước tiểu nông tiến lên CNXH - CNTBNN còn là công cụ để chống lại các biện pháp kinh tế của chính quyền khi mà biện pháp kinh tế đó đã lỗi thời, để chống tệ quan liêu, sự lệch lạc hiểu biết trong tư tưởng. 3. Theo Lênin vai trò to lớn nhất của CNTBNN đó là: thông qua chủ nghĩa tư bả, giai cấp công nhân có thể học tập được cách tổ chức và quản lý một nền sản xuất lớn, học cách làm giàu của các nhà tư bản để từ đó phát triển nền kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế đất nước. Và chỉ có thể bằng con đường phát triển kinh tế, CNXH mới csó thể tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Ngoài ra, vai trò của CNTBNN còn thể hiện: phát triển cơ cấu kinh tế trong nước hợp lý, tiếp thu và vận dụng tốt khoa học - kỹ thuật, tổ chức và quản lý của nền sản xuất lớn, làm cho trình độ công nhân tăng lên, khôi phục giai cấp vô sản theo đúng nghĩa của nó. III- Các hình thức của CNTBNN. 1. Tô nhượng: Lênin quan niệm: "Tô nhượng là một hình thức giao kèo, một sự liên kết, mọt liên minh giữa chính quyền Nhà nước Xô Viết - Nhà nước vô sản - Với CNTBNN, chống lại thế lực tự phát triển tư hữu. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. họ kinh doanh theo phương thức tư bản để lấy lợi nhuận". Đó là hình thức Nhà nước chuyên chính vô sản và Nhà nước tư bản nước ngoài cùng ký hợp đồng qui định thời hạn tô nhượng qui mô, xí nghiệp, khối lượng đầu tư, sản lượng doanh lợi của hai bên, điều kiện Nhà nước trưng mua trước thời hạn…. Vấn đề đặt ra là: Nhà nước chuyên chính vô sản phải suy nghĩ tính toán tránh chủ quan, duy ý chí, phải cân nhắc mọi điều trước khi lập các hợp đồng tô nhượng và sau đó phải theo dõi việc chấp hành nó. 2. Các hợp tác xã tư bản: Đây cũng là một hình thức của CNTBNN: chế độ hợp tác xã dựa trên cơ sở tiêu công nghiệp, trên nền sản xuất thủ công. Với loại hình này, Nhà nước thự hiện việc kiểm kê, theo dõi tình hình sản xuất, phân phối sản phẩm. Lênin nhận định: "Chính sách hợp tác xã một khi thành công, sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp". 3. Hình thức đại lý uỷ thác: Theo Lênin đây là hình thức Nhà nước lôi kéo nhà tư bản với tư cách một nhà buôn trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của Nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuất nhỏ. 4. Hình thức tứ tư: Nhà nước cho một số nhà kinh doanh tư bản thuê một số xí nghiệp hoặc vùng mỏ, hoặc khu rừng, khu đất… ở đây hợp đồng cho thuê giống như hợp đồng tô nhượng. Đây là hình thức Nhà nước Xô Viét nhằm kích thích sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế, nhằm tăng lượng sản phẩm trong nước. Ngoài ra còn một số hình thức khác như: cho nông dân, thương nhân nhỏ thuê hầm mỏ, nhà cửa, hoặc lập các công ty hợp doanh… IV- Kết quả thực hiện CNTBNN. Lý luận về CNTBNN của Lênin đã đi vào thực tiễn và đã thu được những thành quả tốt đẹp: CNTBNN đã có những tác dụng tích cực nhất định góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đang bị suy sụp sau chiến tranh. Nhờ tô nhượng với nước ngoài, nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển, nhiều kinh nghiệm tiên tiến với trang thiết bị hiện đại của nền sản xuất lớn đã đi vào sản xuất mang lại hiêụ quả cao. Thông qua hoạt động của các xí nghiệp cho thuê hay các xí nghiệp liên hợp đã góp phần giúp Nhà nước Xô Viết duy trì hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tăng thêm việc làm cho người lao động. Với việc áp dụng CNTBNN, và những thành quả mà nó đem lại, đã góp phần vào việc ổn định tình hình chính trị. Thực tiễn đã bác bỏ những kẻ thù của Nhà nước Xô viết và những bọn hoài nghi khác coi chính sách kinh tế mới - trong đó có vấn đề CNTBNN - như một chính sách quay về chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu ban đầu đặt ra của Lênin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp. Chương II Sự vận dụng lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở Việt Nam I- Sự cần thiết và khả năng sử dụng kinh tế Nhà nước ở Việt Nam. Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng: Đảng và Nhà nước ta đã và đang áp dụng những tư tưởng, lý luận của Lênin về CNTBNN. Sự cần thiết của việc áp dụng CNTBNN vào tình hình nước ta là rất cần thiết, nó được thể hiện ở một vài khía cạnh lớn sau: - Sau khi trải qua một thời kỳ đầu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế của nước ta gặp nhiều khó khăn: sản xuất chậm chạp, dường như không phát triển, hàng hoá khan hiếm, nhiều xí nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả: lỗ thật, lãi giả, tệ nạn cửa quyền phát triển, đời sống nhân dân đứng trước khó khăn, đội ngũ công nhân kỹ thật thì kém năng động… Đứng trước tình hình đó, từ Đại hội VI, Nhà nước ta đã chủ trương chuyển đổi cơ chế thích ứng với thời kỳ mới, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước; nó đã mở ra cho đất nước ta một thời kỳ mới. Xét về phương diện vật chất, kinh tế, nước ta hiện nay ở mức độ nhất định chưa có đủ điều kiện để trực tiếp xây dựng CNXH. Vì vậy chúng ta phải suy nghĩa thấu đáo quá trình đi lên CNXH thông qua chủ nghĩa tư bản như Lênin từng vạch ra. - Sự cần thiết thể hiện rõ ở thực tiễn tình hình kinh tế nước ta, các xí nghiệp quốc doanh phần lớn làm ăn kém hiệu quả, kinh tế tư nhân có thể phát triển mạnh, hiện nay cung cấp khoảng 2/3 tổng sản phẩm trong nước. Do đó, chúng ta cần hướng kinh tế này vào con đường CNTBNN. Chúng ta cần sử dụng CNTBNN như một phương tiện để thực hiện sự định hướng xã hội chủ nghĩa, với đường lối đổi mới và chủ trương chiến lược phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đại hội VI và VII đã đề ra. Khả năng áp dụng CNTBNN đối với nước ta là rất lớn. + Sự phát triển kinh tế nói chung và việc thực hành đường lối CNTBNN nói rêng ở nước ra đặt trong cục diện chung của thế giới có nhiều thuận lợi. + Cuộc cách mạng của khoa học công nghệ ở cuối thế kỷ XX đã tác động vào nước ta, nếu được áp dụng một cách khoa học và sự học hỏi cách quản lý tổ chức của các nhà tư bản thì nó sẽ đẩy lực lượng sản xuất, quản lý sản xuất của nước ta phát triển tiến theo và tiến kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Đát nước ta có hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ giữa nước ta với các nước lâu nay là thù địch, thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trong đó có sự "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài, từ các nước tư bản phát triển nhất. Ngoài ra, đất nước còn nhiều khả năng khác như: tiềm năng về khoáng sản, thiên nhiên, mở, nguồn lao động dồi dào, có cơ chế quản lý của Nhà nước đối với chính sách kinh tế đối ngoại được nước ngoài đánh giá là "rộng mở" và tức thời. Tất cả các vấn đề nêu trên khẳng định sự cần thiết và khả năng sử dụng CNTBNN ở Việt Nam. II- Những hình thức cụ thể của kinh tế tư bản Nhà nước đang được vận dụng ở Việt Nam. 1. Hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với chủ sở hữu ngoài quốc doanh ở trong nước hoặc nước ngoài. Về thực chất, đây là hình thức Tô nhượng mà Lênin đã vạch ra. Hình thức này hiện nay ở nước ta đang phát triển mạnh mẽ và đi vào thực tiễn đã thu được những thành công lớn. Nhà nước ta chủ động thu hút các hình thức liên doanh cả liên doanh trong nước và liên doanh nước ngoaì. Liên doanh trong nước nhằm mục đích thu hút nguồn vốn trong nước, đảy mạnh nỗ lực, hướng sự phát triển của tư bản tư nhân trong nước vào tư bản Nhà nước để từ đó Nhà nước làm chủ trong quản lý và trong hướng sự phát triển. Liên doanh với nước ngoài để thu hút nguồn vốn, nguồn đầu tư nước ngoài, tạo sự hợp tác để phát triển kinh tế trong nước, du nhập khoa học, kỹ thuật, công nghệ từ bên ngoài vào trong nước, nâng cao tay nghề, nâng cao kỹ thuật cho công nhân và nâng cao công nghệ, máy móc dây chuyên kỹ thuật cho các xí nghiệp, nhà máy trong nước. Hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với các chủ sở hữu trong nước hay nước ngoaoì đều nhằm mục đích chung: thu hút nguồn vốn, đẩy mạnh sản xuất trong nước phát triển, nâng cao cơ sở hạ tầng, tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm giải quyết vấn đề thất nghiệp, tiếp cận khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại... từ đó đưa đất nước phát triển, rút ngắn khoảng cách, giàu nghèo, khoảng cách tiên tiến hiện đại giữa nước ta với các nước đã phát triển. Việc phát triển hình thức này đáp ứng được hai yêu cầu lớn của tình hình đất nước hiện nay. Một là, phát triển lực lượng sản xuất, hai là giải quyết được những vấn đề về kiến trúc thượng tầng đặc biệt là các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất. Hình thức liên doanh liên kết được nước ta áp dụng từ thời kỳ đổi mới. Trước kia, chúng ta cô lập nền kinh tế trong nước hoặc nếu không thì cũng chỉ hợp tác quan hệ với các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Nhưng hiện nay vấn đề về quan hệ hợp tác đã khác trước, chúng ta đã hợp tác với nhiều dân tộc, nhiều tổ chức kinh tế khác nhau, thực hiện nguyên tắc "tôn trọng, bình đẳng, không xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của nhau". Do vậy, hình thức liên doanh, liên kết giữa Nhà nước và các chủ sở hữu nước ngoài được mở rộng và tạo điều kiện phát triển. Vấn đề được đặt ra là: hình thức liên doanh, liên kết là quyết định đúng và cần mở rộng phát triển nhưng áp dụng nó như thế nào cho có hiệu quả lại là một vấn đề lớn. Chúng ta cần liên doanh, liên kết với bạn hàng nào và vai trò quản lý của Nhà nước ra sao là hết sức quan trọng. Về bạn hàng và quan hệ bạn hàng: Một mặt chúng ta đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nhiều quốc gia nhiều tổ chức kinh tế khác nhau để từ đó tạo ra thị trường bạn hàng rộng lớn; một mặt chúng ta cần lựa chọn tinh lọc bạn hàng, phát triển mạnh liên doanh, liên kết với các bạn hàng đã có mối quan hệ từ trước đã có tín nhiệm, thăm dò và thâm nhập vào các bạn hàng mới tạo mối quan hệ uy tín từ cả hai bên. Trong liên doanh, liên kết chúng ta cần đảm bảo có lợi cho bạn và ta không thiệt về ta, tạo cơ hội cho bạn liên doanh dài hạn, tạo uy tín trong làm ăn từ đó có uy tín trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Về vấn đề quản lý của Nhà nước, chúng ta cần tăng cường công tác quản lý, tăng cường vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước. Việc quản lý nhằm mục đích quá trình liên doanh, liên kết được tiến hành tốt đẹp và đi vào thực hiện được đảm bảo đúng theo hợp đồng tạo điều kiện cho "bạn hàng" làm ăn thuận tiện đồng thời không thiệt về ta, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Chúng ta cần phải tiếp tục nâng cao tính pháp lý, tính khoa học, tính chặt chẽ trong các hợp đồng liên doanh liên kết chống mọi hình thức tạo kẽ hở trong các hợp đồng để: "Bạn hàng lợi dụng". Trong công tác quản lý, chúng ta cũng cần khắc phục tình trạng biến công nhân của ta phải làm việc, sinh hoạt giống như ở dưới chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bị bóc lột, tức là bị đàn áp. Thực tiễn, trong nhiều năm vừa qua, tình hình liên doanh liên kết của Nhà nước với các chủ sở hữu nước ngoài có nhiều bất cập. Đó là khi liên doanh liên kết các đối tác khi mới vào thì hết sức thuận lợi do vậy họ nhảy vào thị trường đầu tư nước ta là rất lớn. Nhưng khi đã tham gia, tức là lúc đã bắt đầu đi vào tiến hành sản xuất, bắt đầu hoạt động kinh doanh thì các đối tác phải mất quá nhiều thời gian và tiền của vào các khâu xin giấy tờ, xin chứng nhận, các khâu về hành chính.... Nguyên nhân chính của vấn đề này là do bộ máy Nhà nước của ta quá cồng kềnh, hệ thống giấy phép, văn bản quá lớn, quan hệ chồng chất lên nhau, đội ngũ quản lý thấp kém về năng lực hễ thấy một chút bất lợi nhỏ nào cho ta lập tức ban hành một số quyết định, một số văn bản nhằm thu hẹp phạm vi hoạt động của đối tác. Do vậy, có thời kỳ lúc đầu các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết là rất lớn, sau một thời gian hoạt động, quá nửa đối tác rút vốn ngưng hoạt động gây ra mất uy tín trong quan hệ hợp tác và đầu tư vào Việt Nam. Song, về vấnđề thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện cho các đối tác ngoài nước vào Việt Nam hoạt động của ta cũng được các nhà nghiên cứu thế giới đánh giá là có cơ chế "thoáng" và rất tích cực. 2. Công ty cổ phần với tư cách là hình thức kinh tế tư bản Nhà nước và cổ phần hoá xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản Nhà nước. Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần, sự hình thành và phát triển của các công ty cổ phần được xem là một tất yếu kinh tế. Sự tồn tại của nó không chỉ là kết quả của quá trình tích tụ vốn mà còn là nhu cầu khách quan của việc củng cố tính hiệu quả của nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, của thành phần kinh tế quốc doanh nói riêng. Thực chất cổ phần hoá các xí nghiệp hiện nay là chuyển từ sở hữu Nhà nước thành sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, tức là làm gọn nhẹ và tối ưu thành phần kinh tế quốc doanh, tăng thành phần kinh tế cá thể tư nhân. Đó là giải pháp nhăm thoát khỏi tình trạng làm ăn thua lỗ thâm niên của các xí nghiệp quốc doanh, là giải pháp tăng độ năng động của nền kinh tế. Đó là hình thức góp phần tích cực vào việc khắc phục tình trạng phổ biến và nghiêm trọng hiện nay đó là sự thất thoát tài sản, lãng phí nguồn vốn dưới nhiều hình thức, đó là tình trạng thất nghiệp, tình trạng biên chế Nhà nước cồng kềnh. Hiện nay, quá trình thành lập các công ty cổ phần với tư cách là thành phần kinh tế tư bản Nhà nước và quá trình cổ phần hoá xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản, Nhà nước đang diễn ra sôi nổi và rộng khắp. Theo thống kê tính đến hết năm 2000 có tới 525 xí nghiệp đã cổ phần hoá, trong đó tính riêng năm 2000 có 155 xí nghiệp cổ phần hoá. Nhìn chung, các xí nghiệp đã cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả, có tính năng động của các nhà quản lý, các nhà kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Tại các công ty cổ phần vấn đề vốn và vấn đề hoạt động kinh doanh nhìn chung được khắc phục, chúng không trở thành vấn đề lớn cần giải quyết như ở các xí nghiệp quốc doanh trước đây. Quá trình cổ phần hoá các xí nghiệp quốc doanh đã được khởi xướng và thực hiện từ đầu những năm của thập kỷ 90, nhưng phải chờ đến 3 năm trở lại đây quá trình đó mới phát triển mạnh mẽ và thu được thành công. Trong loại hình này Nhà nước tham gia ở mức quản lý vĩ mô, còn về căn bản hoạt động như thế nào, nguồn vốn lấy ở đâu, tiêu thụ sản phẩm ra sao... nằm trong tay hay nói cách khác thuộc về công ty cổ phần, công ty có quyền đó mà chịu trách nhiệm với các cổ đông và chịu sự quản lý của Nhà nước. Ngoài ra, nước ta còn vận dụng một số hình thức khác của chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Đó là: Thành lập các khu chế xuất cho tư bản trong nước và nước ngoài, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân các hình thức hợp tác xã kiểu mới .... - Về việc hình thành các khu chế xuất: Trươc hết đó là hình thành các khu công nghiệp lớn rải khắp nước, tạo các vành đai công nghiệp lớn hiện đại gần các thành phố lớn. Tại Hà Nội hình thành và đã đi vào hoạt động các khu: Khu Công nghiệp Sài Đồng A, KCN Sài Đồng B, KCN Đại Từ, KCN Văn Điển, Thanh Trì, Thanh Xuân... Tại thành phố Hồ Chí Minh có các khu công nghiệp vành đai như: Biên Hoà, Vũng Tàu, Đồng Nai.... Từ đó hình thành nền tảng cho sự xuất hiện các khu chế xuất. Về việc cho nông dân, cho các nhà tư bản trong và ngoài nước thuê các cơ sở kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân: Đây là hình thức chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu cá nhân, tư nhân tiểu chủ; tạo cho tư nhân hoạt động kinh doanh đồng thời giảm các khâu quản lý chồng chất, giảm những công vịêc cho hình thức quốc doanh. Từ đó tạo sự năng động trong hoạt động trong nền kinh tế. Các xí nghiệp quốc daonh từ trước đến nay hoạt động luôn thua lỗ, nếu cổ phần hoá không khả thi thì tiến hành cho tư nhân thuê và Nhà nước quản lý ở tầng vĩ mô soa cho các xí nghiệp đó hoạt động có hiệu quả không vi phạm pháp luật nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước góp phần tích cực vào việc tăng sản phẩm xã hội, giải quyết nạn thất nghiệp. Về việc hình thành các hợp tác xã kiểu mới: Mô hình hợp tác xã trước đây trong giai đoạn nước ta còn áp dụng cơ chế bao cấp đến nay không conf hoạt động có hiệu quả, phần lớn giải thể, tan rã hoặc tồn tại nhỏ bé kém năng động. Hiện nay, đất nước đang hoạt động theo cơ chế thị trường, một số HTX đã nhanh chóng vận hành đúng luật kinh tế do vậy đã từng bước khôi phục. Mô hình HTX mới được hình thành mô hình nay nói là mới là chưa đúng vì nó hoạt động về cơ bản tuân theo những nguyên tắc mà Lênin đã chỉ ra đó là: Tự nguyện, dân chủ, phân phối theo lao động. Nhìn nhận về hình thức HTX hiện nay, Nhà nước đã chỉ ra sự hoạt động, sự hình thành các HTX là quan trọng là cần thiết vì chính nó là nền tảng của nền kinh tế thấp, để từ đó xây dựng nền kinh tế bậc cao hơn. Nhà nước ta khuyến khích loại hình hợp tác bằng nhiều hình thức như trực tiếp quản lý, hỗ trợ về nguồn vốn, hỗ trợ về đào tạo cán bộ, về khâu tiêu thụ sản phẩm, về tính chất pháp nhân, việc Nhà nước bảo vệ bằng hiến pháp và pháp luật. III- Phương hướng và những điều kiện để vận dụng thành công kinh tế tư bản Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 1. Phương hướng Phương hướng vận dụng kinh tế tư bản Nhà nước ở Việt Nam được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và được duy trì, sửa đổi, cải tiến trong văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nội dung cơ bản như sau: Một là, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Hai là, chủ động đổi mới phát triển và nâng cao kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác từ đó đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Ba là, phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần kinh tế khẳng định vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, vai trò chiến lược của thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, vai trò cơ sở, nền tảng của thành phần kinh tế tập thể. Bốn là, đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư hợp tác của nước ngoài, phát triển các hình thức liên doanh, liên kết. Phát huy nội lực, tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế đặc biệt là kinh tế tư bản Nhà nước. 2. Điều kiện: - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, đất nước ta đã trải qua 15 năm đổi mới và thu được những thành công bước đầu rực rỡ. - Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta có nền chính trị ổn định từ đó thúc đẩy các hình thức của kinh tế tư bản Nhà nước hoạt động phong phú, đa dạng và hoạt động có hiệu quả. - Nhà nước tiếp tục xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước. Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo. - Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý. Đây là điều kiện cần để phát triển các hình thức liên doanh liên kết giữa Nhà nước với các chủ sở hữu tư bản trong nước hay nước ngoài. Kết luận Chủ nghĩa tư bản Nhà nước mà Lênin nên, là một thứ chủ nghĩa tư bản đặc biệt. Nó khác hẳn với khái niệm thông thường về chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Vì ở đây, Nhà nước nằm trong giai cấp vô sản và những đỉnh cao của nền kinh tế thị trường trong tay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lênin viết: "Chủ nghĩa tư bản Nhà nước của chúng tôi khác hẳn về căn bản so với chủ nghĩa tư bản Nhà nước ở những nước có Chính phủ tư sản, sự khác biệt chính ở chỗ Nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô sản". Chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong xã hội chủ nghĩa là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp chứ không phải là hoà bình giai cấp. Và chỉ có đấu tranh giai cấp thì giai cấp vô sản mới có thể hoàn thiện được mình và đi tới làm chủ xã hội. áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào một nước tiểu nông đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội không có một mục đích nào khác ngoài mục đích phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trưởng thành giai cấp vô sản, phát triển khoa học công nghệ... tức là tạo tiền đề về cơ sở vật chất để đưa đất nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Sau quá trình nghiên cứu một cách khoa học, biện chứng về chủ nghĩa tư bản Nhà nước trong chính sách kinh tế mới của Lênin, chúng ta nhận được trước hết là về tầm nhìn chính trị, nâng cao cho bản thân về tư tưởng cộng sản. Từ đó, chúng ta mới có thể đánh giá được những quyết định của Đảng, của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn, là khoa học, vừa phù hợp với lý luận vừa phù hợp với thực tiễn. Sau 15 năm đổi mới, đất nước ta đủ sang một trang mới, chúng ta đã thu được những thành công lớn. Tư tưởng thành công đó, chúng ta không thể không nói đến những vai trò và thành công từ việc áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước. Chúng ta đã thấy được vai trò, thấy được những mặt tích cực, thấy được tính khách quan cần và phải áp dụng chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào giai đoạn mà khi chúng ta chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Và chúng ta cũng khẳng định rằng, chủ nghĩa tư bản Nhà nước là không đáng sợ, thành phần tư bản Nhà nước là một trong những thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích phát triển được Nhà nước bảo vệ. Sự phát triển của nó cùng với các thành phần kinh tế khác trong xã hội là nhằm mục đích đưa nước ta từ một nước lạc hậu trở thành một nước tiên tiến có nền công nông nghiệp phát triển. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - NXB Chính trị Quốc gia hiện nay 1996 trang 91-96 2. Hội đồng Trung ương: Một số vấn đề và chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay- NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 1996 3. Giáo trình: Lịch sử kinh tế quốc dân - NXB Thống kê - 1998 4. Thời báo kinh tế 2000 - 2001 5. VL. Lênin - Bàn về thuế lương thực, toàn tập - NXB Tiến bộ Maxitcơva 1984, tập 43, trang 244-296 6. VL-Lênin Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị: Toàn tập - NXB Tiến bộ, Maxitcơva, 1984._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35075.doc
Tài liệu liên quan