Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam

Lời nói đầu Tiềm năng tư duy lý luận, chính trị và nghệ thuật lãnh đạo tổ chức thực tiễn của Lênin trong thời kỳ chính sách kinh tế mới, vẫn luôn là cội nguồn của sự sáng tạo của những người cộng sản đang trực tiếp lãnh đạo công cuộc xã hội xã hội mới ở các giai đoạn phát triển khác nhau. ở nước ta, nhiều người đã nói tới lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước từ nhiều năm trước. Nhưng hiện nay, thực tiễn cách mạng nước ta đặt ra nhiều vấn đề, mức độ khó khăn và cụ thể, như vấn đề sử d

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lý luận của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và sự vận dụng lý luận đó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng cơ cấu nhiều thành phần kinh tế với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quy luật giá trị với vai trò tập trung dân chủ trong việc phát huy mạnh mẽ sinh chủ động, sáng tạo của cơ sở và địa phương… không có một chính sách, chủ trương nào có hiệu quả nếu không nhận thức và giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản đó. Nhận thức và vận dụng lý luận đó của Lênin sẽ góp phần quan trọng vào suy nghĩa giải quyết những vấn đề nói trên. I. lí luận của Lênin về Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. 1. Tình hình nước Nga thời kỳ nội chiến. Khi cách cách mạng tháng Mười vừa thành công thì chính quyền Xô Viết Nga phải đương đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp vũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế giới. Đứng trước nguy cơ một mất một còn, chính quyền Xô viết tìm mọi cách để tập trung nội lực nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài. Chính sách "cộng sản thời chiến" ra đời trong hoàn cảnh ấy. Đó là chính sách kinh tế của nhà nước Xô viết nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước cho nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong thời gian nội chiến và nước ngoài can thiệp bằng vũ trang, chính quyền Xô viết ngoài việc quốc hữu hoá nền công nghiệp quy mô lớn, còn nắm trong tay nền công nghiệp hạng vừa và một phần công nghiệp hạng nhỏ. Việc quản lý toàn bộ công nghiệp đều tập trung ở các cơ quan Trung ương, việc cung cấp nguyên liệu, thiết bị, vật liệu cho xí nghiệp cũng như việc phân phối sản phẩm đều được tiến hành theo phiếu nhận hàng của cơ quan quản lý Trung ương, không trả bằng tiền và cũng không thực hiện hạch toán kinh tế. Để cung cấp lương thực cho quân đội và công nhân, nhà nước thi hành chế độ trưng thu lương thực thừa. Nguồn hàng của nhà nước những năm đó cực kỳ thiếu thốn, nông thôn hầu như không nhận được hàng công nghiệp. Nhà nước phải thi hành độc quyền mua, bán lương thực, cấm tư nhân buôn bán lương thực và các thứ vật phẩm cần thiết nhất. ở thành thị vật phẩm tiêu dùng phân phối theo phiếu với điều kiện ưu tiên cung cấp cho công nhân và căn cứ vào tính chất quan trọng và nặng nhọc của công tác. Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động phổ biến đối với tất cả mọi người có năng lực lao động. Chính sách "cộng sản thời chiến" đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho cuộc nội chiến. Thắng lợi của chính sách này vào thời ấy là do dựa trên cơ sở khối liên minh quân sự và chính trị của giai cáp công nhân và nông dân trong cuộc đấu tranh chống quân bạch vệ và bọn can thiệp nước ngoài. Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội nước Nga rất bi đát. Đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện trầm trọng. - Về công nghiệp : ước tính một phần tư tài sản quốc gia mất đi, trong đó, nền công nghiệp bị tổn thất lớn nhất. Tổng sản lượng công nghiệp (triệu rúp) năm 1920 so với 1917 giảm đi hơn 4 lần, số người làm việc giảm gần 1/2. Do đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu như tất cả các ngành đều sa sút. So sản lượng năm 1920 với 1918 thì khai thác than đã giảm từ 731triệu pút xuống còn 476 pút, đúc gang giảm từ 31,5triệu xuống 7,0 triệu, sản xuất thép mac-tanh giảm từ 21,5 xuống 10 triệu, thép dát giảm từ 21,8 triệu xuống 12,2 triệu, sản xuất đường từ 20,3 triệu xuống 5,5 triệu pút. Nguyên liệu, vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913, sản xuất đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống tới 44,1%. Do đó tương quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp (từ 24,2% đến 52,3%). -Về nông nghiệp: Tình hình trong lĩnh vực này tiếp tục xấu đi. Diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng sản lượng nông nghiệp năm 1921 chỉ bằng 60% năm 1913. Với dân số lúc ấy là 137 triệu (có 20 triệu hộ nông dân cá thể) thì bình quân ngũ cốc đầu người năm 1920 là 246 kg, còn trước chiến tranh là 405 kg. -Về giao thông vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị phá cùng với 4000 chiếc cầu và các ga, kho tàng. So với trước chỉ còn 20% (không tính đến khối lượng vận chuyển của quốc phòng và nhu cầu của bản thân đường xe lửa là 12%). - Về tài chính - tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân sách 31 tỷ rúp, năm 1921 con số bội chi lên tới 21937 tỉ rúp. Mức dự trữ vàng của ngân hàng giảm sút nghiêm trọng. Nếu năm 1914 mức bảo đảm vùng cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông là 98,2% thì năm 1917 chỉ còn 6,8%. Khối lượng hàng hoá giảm mạnh đã đưa đến sự tăng vọt của giá cả. Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng hơn 21 lần so với năm 1913. Do đồng rúp mất giá nhanh, nên các địa phương đã tự tạo ra vật ngang giá khác nhau, đồng thời xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần lên. Do sản xuất và lưu thông sa sút, nên đời sống nhân dân lao động càng thêm khó khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lương thực tế của công nhân công nghiệp trước chiến tranh là 22 rúp đã giảm xuống 8,3 rúp năm 1920. Do thiếu ăn thường xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh, nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy đóng cửa, số người không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra. Tình hình đó đã làm nảy sinh những bất bình, những vụ bạo loạn trong một số quần chúng công, nông, binh. Lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga Xô viết xảy ra trường hợp đại đa số quần chúng nông dân có tâm trạng chống lại chính quyền Xô viết theo bản năng. nếu không tìm được lối thoát ra khỏi tình hình thì chính quyền Xô viết có nguy cơ bị tan vỡ. Nguyên nhân là do đâu ? Thường thì người ta hay gán cho sự tàn phá của chiến tranh và chính sách cộng sản thời chiến. Tất nhiên phải kể đến nguyên nhân tàn phá của chiến tranh. Nhưng thái độ đối với chính sách cộng sản thời chiến như vậy là không đúng. Khách quan mà xem xét thì chính sách cộng sản thời chiến thực sự đã có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền Xô viết. Là nước XHCN đầu tiên, sống trong vòng vây của CNTB, chiến tranh và nội chiến kéo dài, mọi mặt đời sống kinh tế trong nước rất khó khăn, bi đát, lúc đó chính quyền Xô viết không có khả năng nào khác hơn là phải lập tức thi hành đến mức tối đa chế độ độc quyền, trưng thu tất cả lương thực thừa, thậm chí không bồi thường. Nhưng sai lầm ở đây là kéo dài cái được coi là ưu điểm ra quá giới hạn cần thiết của nó và vì thế nó trở thành một khuyết điểm. Nguyên nhân của sự kéo dài đó do quan niệm ấu trĩ về thời kỳ quá độ lên CNXH, về CHXH - do chưa có kinh nghiệm thực tế của một nước đầu tiêu đã mở cuộc đột phá vĩ đại vào tương lai. Công lao lớn của Lênin chính là đã nhận ra sự ấu trĩ ấy và đã phát triển ngay lý luận của Mác khi cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giành được thắng lợi chỉ trong một thời gian rất ngắn. Lênin đã nhận xét sai lầm ấy là "chủ nghĩa cộng sản ở nước ta quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị". Lênin đã phân tích cụ thể rằng, khi đặt công tác xây dựng kinh tế lên hàng đầu những người cộng sản Nga đã chỉ đứng trên một góc độ mà nhìn, nghĩa là dịch chuyển thẳng lên CHXH không qua cái thời kỳ mở đầu mà Lênin gọi là "để làm cho nền kinh tế cũ thích ứng với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa". Với quan niệm đó những người cộng sản tưởng rằng, sau khi thiết lập chế độ sản xuất quốc doanh và chế độ kinh tế mới, khác với chế độ trước. Và cho rằng hai chế độ sản xuất, phân phối tư doanh sẽ đấu tranh với nhau trong những điều kiện khiến chính quyền Xô viết có thể thiết lập được chế độ sản xuất và phân phối quốc doanh bằng cách lấn dần từng bước chế độ đối địch. Điều đặc biệt cần lưu ý là trong phát triển kinh tế "chúng ta tuyệt nhiên không nêu ra vấn đề: nền kinh tế sẽ có quan hệ như thế nào với thị trường với mậu dịch". Nhưng đến mùa xuân năm 1921 mới thấy rõ sự thất bại trong ý định ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa. Cũng từ mùa xuân đó, tình hình chính trị đã cho thấy, trong một số vấn đề kinh tế, cần phải rút lui về những vị trí của chủ nghĩa tư bản nhà nước, cần phải chuyển từ "xung phong" sang "bao vây". Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng chính sách "kinh tế mới". Trong sự chuyển đổi này đã xuất hiện ít nhiều tâm trang chán nản và làm nhụt chí đấu tranh. Nhưng Lênin đã khẳng định, sẽ không bao giờ học được cách giải quyết những nhiệm vụ của mình bằng những phương pháp mới, nếu như kinh nghiệm ngày hôm qua đãkhông mở mắt cho chúng ta thấy những sai lầm của những phương pháp cũ. Sau cuộc thí nghiệm trực tiếp xã hội chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện khó khăn chưa từng thấy trong điều kiện nội chiến trong điều kiện giai cấp tư sản buộc nước Nga Xô viết phải tiến hành cuộc đấu tranh ác liệt, thì đến mùa xuân năm 1921, những người cộng sản Nga đã nhận thấy rõ là chưa nên xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội, mà trong nhiều lĩnh vực kinh tế cần phải lùi về chủ nghĩa tư bản nhà nước, từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài, không thích thú, khó khăn và gian khổ. Sai lầm của quan niệm và phương pháp cũ đã dẫn đến chính sách kinh tế lâm vào tình trạng ở phía thượng tầng của nó, bị tách rời khỏi cơ sở và không dẫn đến việc phát triển lực lượng sản xuất, điều mà cương lĩnh Đảng lúc đó coi là nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất. Trong báo cáo tại đại hội IV quốc tế cộng sản, Lênin đã nói những nguyên nhân của sự khờ dại ấy là: nước Nga lạc hậu, trình độ học thức còn thấp kém, không được ai ở bên ngoài giúp đỡ. 2. Tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong hệ thống chính sách kinh tế mới - NEP. Như đã nói theo Lênin, chính sách cộng sản thời chiến chỉ là một biện pháp tạm thời, nó không phải và không thể là một chính sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Vì vậy, vào mùa xuân năm 1921, Lênin đã đề ra chính sách kinh tế mới (NEP). Thực chất của NEP là tăng cường cơ sở kinh tế của liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và nông dân, liên minh này là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô sản, là cơ sở của chính quyền Xô viết, là điều kiện quan trọng nhất để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. NEP kiến lập mối quan hệ đúng đắn giữa công nghiệp xã hội chủ nghĩa với kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân thông qua việc sử dụng rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ dưới sự kiểm soát của nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất ; đồng thời NEP cho phép phát triển và hướng kinh tế tư bản vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước khi những đỉnh cao của nền kinh tế vẫn năm trong tay nhà nước để phát triển công nghiệp lớn. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những yếu tố chủ yếu cấu thành NEP. Có thể nêu lên những tư tưởng chủ yếu của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong hệ thống NEP như sau: 1. Khi chuyển sang NEP, Lênin đã thẳng thắn thừa nhận rằng "toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về cơ bản". Trước đây, Đảng và nhà nước Xô viết đã tính là có thể dựa vào nhiệt tình cách mạng mà trực tiếp thực hiện những nhiệm vụ kinh tế như những nhiệm vụ về quân sự; có thể dùng những biện pháp trực tiếp của nhà nước vô sản để tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm theo kiẻm cộng sản chủ nghĩa ở mỗi nước tiểu nông. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi đi vào thực hiện, Lênin đã thấy rằng không thể xây dựng trực tiếp chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông như nước Nga lúc đó. Người nói: "Trong một nước tiểu nông, trước hết cácđồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội". Đây là một bước lùi chiến lược đúng hơn là trở lại con đường phát triển hợp quy luật của kinh tế. 2. Lênin cho rằng đối với giai cấp vô sản thực hiện quyền chuyên chính của mình ở một nước tiểu nông, thì chính sách đúng đắn phải là lấy sản phẩm công nghiệp để trao đổi với sản phẩm nông nghiệp của nông dân. Vì vậy, cần phải thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa áp dụng trước đây bằng chế độ thuế lương thực. Chỉ có chính sách như vậy mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản, mới có thể củng cố được cơ sở của chủ nghĩa xã hội ở Nga lúc ấp. Với chế độ thuế lương thực thay cho chế độ trưng thu lương thực thừa, phần lương thực còn lại sau khi nộp thuế sẽ thuộc về người nông dân và người nông dân có thể tự do trao đổi nó trên thị trường. Mà tự do trao đổi, "tự do buôn bán có nghĩa là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản". Nhưng "đối với chúng ta chủ nghĩa tư bản ấy không đáng sợ". Làm như thế chúng ta sẽ cải thiện được nền kinh tế nông dân mà chúng ta rất cần cải thiện. 3. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không có mục đích tư nhân, mà là phương tiện, con đường, để tăng lực lượng sản xuất, là biện pháp biến các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thành xí nghiệp xã hội chủ nghĩa Lênin nói: "thường chúng ta vẫn còn lặp lại cái lý luận cho rằng chủ nghĩa tư bản là là xấu, chủ nghĩa xã hội là tốt. Nhưng cái lý luận ấy là sai, vì nó không đếm xỉa tới toàn thể các kết cấy kinh tế xã hội có, mà chỉ nhìn thấy có hai kết cấu trong số đó thôi." Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội nhưng lại tốt với nền tiểu sản xuất, chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều sơ với nền kinh tế hiện nay của nước ta. Vì chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp tiều tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta "phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên". Và điều kiện đó "sẽ đưa chúng ta đến chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhát". 4. Khi chuyển sang NEP, nhà nước Xô viết đã sử dụng những biện pháp, phương pháp hoạt động của chủ nghĩa tư bản nhà nước và đã thực hiện việc "điều tiết trao đổi hàng hoá". Nhưng việc trao đổi sản phẩm công nghiệp lấy sản phẩm nông nghiệp hồi ấy ít nhiều vẫn theo phương thức cũ, nên đã bị thất bại. Thất bại ở chỗ: trao đổi sản phẩm đã biến thành mua bán sản phẩm. Như vậy, theo Lênin "rút lui" là chưa đủ. Cần chuyển từ chủ nghĩa tư bản nhà nước sang thiết lập chế độ nhà nước điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền tệ. Người viết "…chúng ta ở vào tình thế còn phải rút lui thêm một chút nữa, không những lui về chủ nghĩa tư bản nhà nước mà còn lui về chế độ nhà nước điều tiết thương nghiệp và lưu thông tiền tệ" và khẳng định đó "là con đường duy nhất có thể đi theo được đối với chúng ta". 5. Lênin đã nêu lên những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Người đặc biệt chú ý tới tô nhượng, vì tô nhượng tăng cường nền sản xuất hiện đại mà không có nó thì về phương diện kinh tế, bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội là không thể thực hiện được. Tô nhượng còn củng cố những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh, đối lập với những quan hệ tư sản vô chính phủ. Hợp tác xã trong điều kiện cụ thể ở nước Nga lúc đó, theo Lênin, cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhưng có hình thù ít rõ rệt hơn. Việc chuyển từ chế độ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là chuyển từ tiểu sản xuất lên đại sản xuất, nghĩa là một bước quá độ phức tạp hơn so với chuyển từ chế độ tô nhượng lên chủ nghĩa xã hội. ý nghĩa của chế độ hợp tác là ở chỗ không phải xoá bỏ người sản xuất nhỏ với lợi ích tư nhân của họ mà là đặt lợi ích đó dưới sự điều tiết của nhà nước và phục tùng lợi ích chung. 6. Về mặt chính trị, Lênin khẳng định nhiều lần rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là không đáng sợ, không thay đổi được gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga Xô viết, tất nhiên với hai điều kiện: một là, chính quyền nhà nước phải nắm trong tay giai cấp công nhân và nhà nước quy định khuôn khổ cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước; hai là, nhà nước phải nắm các đỉnh cao kinh tế để điều tiết nền kinh tế. Người nói: chủ nghĩa tư bản nhà nước không đáng sợ vì "chủ nghĩa tư bản ấy sẽ chịu sự kiểm soát, sự giám sát của nhà nước. Nếu nhà nước công nhận nắm lấy công xưởng, nhà máy và đường sắt thì chúng ta không sợ gì chủ nghĩa tư bản ấy". "chính sách kinh tế mới không thay đổi cáo gì có tính chất căn bản trong chế độ xã hội của nước Nga xô viết và cũng không thể thay đổi được điều gì chừng nào mà chính quyền còn ở trong tay công nhân…"). Như vậy, vấn đề là ở chỗ nhà nước xã hội chủ nghĩa phải kiểm soát, ngăn chặn bất cứ chủ nghĩa tư bản nào vượt ra khỏi khuôn khổ chủ nghĩa tư bản nhà nước và phải làm cho nó phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Lênin cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình thức mới của đấu tranh giai cấp, chứ không phải là hoà bình giai cấp. Cho dù sự điều tiết của nhà nước (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức…) có thành công đi nữa, thì sự đối lập về lợi ích giai cấp của lao động và của tư bản nhất định vẫn tồn tại. Vì vậy, nhà nước phải bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. 7. Chủ nghĩa tư bản nhà nước mà Lênin nêu, là một thứ chủ nghĩa tư bản đặc biệt. Nó khác với khái niệm thông thường về chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì ở đây nhà nước nắm trong tay giai cấp vô sản và những đỉnh cao của nền kinh tế thì nắm trong tay nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lênin viết :"Chủ nghĩa tư bản nhà nước của chúng tôi khác về căn bản so với chủ nghĩa tư bản nhà nước ở những nước có chính phủ tư sản, sự khác biệt chính là ở chỗ nhà nước của chúng tôi không phải đại diện cho giai cấp tư sản mà đại diện cho giai cấp vô sản". Người còn nhắc nhở: "… nếu chính quyền xô viết đem tô nhượng phần lớn tài sản của mình thì như vậy hoàn toàn khờ dại; như vậy không phải là tô nhượng nữa mà là quay trở lại chủ nghĩa tư bản.". Từ những điều vừa trình bày về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong hệ thống chính sách kinh tế mới, chúng ta có thể thấy: chủ nghĩa tứ bản nhà nước không chỉ là một thành phần kinh tế trong kết cấu của nhà nước vô sản, là con đường để thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong một nứơc tiểu sản xuất chiếm ưu thế. 3. Vai trò của CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH Từ sự phân tích điều kiện thực tế của nước Nga xô viết, Lênin đã đi đến kết luận: thứ chủ nghĩa tư bản ấy là "có lợi và cần thiết", là "điều đáng mong đợi". Lênin đã luận cứ như thế nào về cái "có lợi" này?. Trước hết, theo Lênin, cần phải nhận thức rõ, thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ có lợi cho ai? ở đây cần nhìn thẳng vào vấn đề: chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là chính sách "độc thoại", "cửa quyền". Bản thân chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là "sự kết hợp, liên hợp, phối hợp nhà nước xô viết, nền chuyên chính vô sản với CNTB" là "một khối với CHTB ở bên trên". Và đương nhiên sẽ không có chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu không có những điều kiện cho họ, điều kiện ấy theo Lênin, chính là những "cống vật". Trong điều kiện trên thế giới chỉ có một chính quyền Xô viết, xung quanh là cả một hệ thống các nước tư bản, muốn tồn tại, chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy. "Hoặc là chiến thắng toàn bộ giai cấp tư sản ngay lập tức, hoặc phải nộp cống vật". Khi thực hiện tô nhượng, một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, rõ ràng là nhà tư bản được lợi nhuận không phải thông thường mà "bất thường", "siêu ngạch" hoặc có được loại nguyên liệu mà họ không tìm hoặc khó tìm được bằng cách khác. Điều này rất có ý nghĩa thực tiễn và đặc biệt có ý nghĩa đối với nước ta hiện nay khi thực hành chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhà nước tư bản được "lập lại", được "du nhập" "không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô viết, mà vì lợi ích của bản thân họ". Chính Lênin còn dự kiến cả khả năng sự phân chia lợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức "trả giá" cho sự lạc hậu, cho sự kém cỏi của mình. Nhưng không có cách nào khác, mà điều cần phải học. Phải học cách phân chia lợi ích cho quy luật ngự trị trong kinh tế, đó là sự phân chia theo sức mạnh kinh tế kỹ thuật. Phải trả giá, phải có một vài hy sinh" nhưng cái giá ấy là bao nhiêu? Một thiên tài như Lênin, về vấn đề này cũng chỉ có thể trả lời "mức độ là bao nhiêu, kinh nghiệm và thực tiễn sẽ chứng tỏ". Vấn đề là không cần che giấu sự thật: phải nộp cống vật. Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập chủ nghĩa tư bản sẽ mang lại lợi ích cơ bản và lâu dài. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy mạnh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ việc tăng lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi khủng hoảng, thoát ra ttình cảnh giảm sút "tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền xô viết, khắc phục tình trạng trộm cắp của công nặng nền và nạn đầu cơ nhỏ lan tràn (nạn này nguy hiểm nhất)…". Nói về tầm quan trọng của vấn đề này, Lênin đã chỉ ra rằng chính quyền vô sản có giúp đỡ cho sự phát triển đó được không, hay là bọn tư sản dễ chinh phục được tầng lớp tiểu nông, đó là điều sẽ quyết định kết cục cuộc đấu tranh giữa tư bản và vô sản. Đó là kinh nghiệm của mấy mươi cuộc cách mạng trước đây. Bằng sự "du nhập" chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất, tăng lên ngay hoặc trong mộ thời gian ngắn. ở trong nước có xí nghiệp, hàm mỏ, khu rừng, nhưng do thiếu máy móc, lương thực, phương tiện vận tải, cho nên không thể khai thác được. Vì thế mà thành tiểu tư hữu tăng lên về mọi mặt, kinh tế nông dân ở vùng xung quanh bị xuy yếu, các lực lượng sản xuất nông nghiệp bị lung lay. Nếu " du nhập" được chủ nghĩa tư bản thì sẽ có thể cải thiện được nhanh chóng tình trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân, nền đại công nghiệp Xô viết sẽ được khôi phục. Đó là cái lợi cơ bản, cấp thiết nhất của giai cấp vô sản khi mới giành được chính quyền. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tư bản và tư bản chủ nghĩa. Vì công nghiệp lớn chứa khôi phục, các cơ sở kinh tế nhỏ không nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ của công nghiệp lớn, chúng không bị sức hút nào cả, nên kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập trong chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện ấy, chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, bởi vì chủ nghĩa tư bản là xu hướng và là kết quả phát triển. Tự phát của nền sản xuất nhỏ: Với ý nghĩa ấy "tư bản làm cho sản xuất nhỏ liên hợp lại, tư bản sinh ra nền sản xuất nhỏ". Xét về trình độ phát triển thì chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao hơn rất nhiều so với nền kinh tế tiểu nông. Nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì chính quyền xô viết sẽ tăng cường được nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ khí hoá đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu được của đại công nghiệp , củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều chỉnh, đối lập với những quan hệ kinh tế tiểu tư sản vô chínhphủ. Chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì lẽ ấy, trơ thành cụ để đấu tranh chống tính tự phá tư bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu tư sản, chống tệ đầu cơ, được coi là kẻ thù chính của chủ nghĩa xã hội, ở nước tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã bác bỏ luận điểm cho rằng cuộc đấu tranh diễn ra chủ yếu là giữa chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin chính giai cấp tiểu tư sản cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Nó chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và kiểm soát nào của nhà nước, dù là chủ nghĩa tư bản nhà nước hay chủ nghĩa xã hội. Không hiểu được vấn đề này thì sẽ gây ra nhiều sai lầm về kinh tế. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo, những tập quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp ấy là cái quan trọng hơn hết. Bởi vì việc để tình trạng vô chính phủ của những kẻ đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong (bọn Napôlêông và Ca-Vai-Nhắc đã lật đổ cách mạng hồi trước cũng chính do chúng phát triển trên cơ sở tiểu tư hữu ấy). Cũng vì thế mà chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường chắc chắn nhất. Nếu khôi phục được tình trạng này thì "tất cả những con chủ bài đều nằm trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố". Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn là công cụ để khắc phục được "kẻ thù chính trong "nội bộ" đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế" của chính quyền Xô viết. Đó là bọn đầu cơ, bọn gian thương, bọn phá hoại độc quyền của nhà nước.Lênin nói rằng không thể giải quyết vấn đề này bằng biện pháp xử bắn hoặc "những lời tuyên bố sấm sét", bởi vì cơ sở kinh tế của tệ đầu cơ là tầng lớp những kẻ tiểu tư hữu và chủ nghĩa tư bản tư nhân, có đại diện của mình trong mỗi người tiểu tư sản. Chủ nghĩa nhà nước còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa. Khi nói tới thực chất của chính sách kinh tế mới, Lênin đã đề cập tới nhiệm vụ "đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề mề". Vì sao và thông qua chính sách kinh tế gì mà có thể thực hiện được nhiệm vụ này? Lênin phân tích về nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan liêu ở nước Nga: ấy là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân tán của những người sản xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng dốt nát của họ, tình trạng không có đường sá, nạn mù chữ, tình trạng khong có sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp, tình trạng thiếu sự liên hệ và tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp. Thông qua chủ nghĩa tư bản nhà nước mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lý một nền sản xuất lớn, tổ chức một nền sản xuất lớn. Khi ấy, giai cấp vô sản Nga, so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nước phát triển nào khác là giai cáp tiên tiến hơn về chế độ chính trị của nước mình và về sức mạnh của chính quyền công nông, nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản nhà nước có quy củ, về trình độ văn hoá, về mức độ chuẩn bị cho việc "thực hiện" chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Lênin phê phán luận điểm cho rằng, vì không có sự tương xứng đó cho nên không cướp chính quyền. Lênin coi đó là luận điểm của hạng "người trong vỏ ốc" không biết rằng sẽ không bao giờ có, không thể có sự tương xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng như của xã hội, mà chỉ có trải qua hàng loạt lần làm thử.. thì mới có thể xây dựng nên chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh… Chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu thực hiện được, sẽ giúp cho chính quyền Xô viết khắc phục dần được tình trạng lạc hậu ấy. Cũng qua đây mà học tập được cách quản lý của "những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm" trong những xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm cho hàng chục triệu người. Chủ nghĩa tư bản thông qua sự "du nhập" của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại ; qua đó mà hy vọng có được trình độ trang thiết bị cao của chủ nghĩa tư bản. Nếu không lợi dụng kỹ thuật đó thì không xây dựng tốt được cơ sở cho nền đại sản xuất của chính quyền Xô viết. Chủ nghĩa tư bản nhà nước mang lại cái lợi là, thông qua sự phát triển nó mà phục hồi được giai cấp công nhân. Nếu chủ nghĩa tư bản được lợi thế, thì sản xuất cm cũng sẽ tăng lên về giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn nhanh lên. Nếu chủ nghĩa tư bản được khôi phục lại thì cũng có nghĩa là sẽ khôi phục lại giai cấp vô sản tạo ra một giai cấp vô sản công nghiệp, nghĩa là đã bị đẩy ra ngoài con đường tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn tại với tư cách là giai cấp vố sản nữa. Đôi khi về hình thức nó đã được coi là giai cấp vô sản, nhưng nó không có gốc về kinh tế. Chính là với ý nghĩa của việc thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước như vậy mà Lênin nói rằng đó là "điều có lợi và cần thiết", 'đáng mong đợi" trong điều kiện của chính quyền Xô viết. 4.Các hình thức của CNTB nhà nước và điều kiện cần có để sử dụng CNTB nhà nước. Lênin chẳng những là người mác xít đầu tiên nêu ra luận điểm về việc bổ sung chủ nghĩa tư bản làm phương tiện để tăng lực lượng sản xuất, mà còn chỉ đạo việc thực hiện chủ trương này trong thực tiễn. Và đó mới là điều quan trọng nhất. Khi giải thích vì sao dùng danh từ chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lênin nói 'điều mà tôi luôn luôn quan tâm tới, là mục đích thực tiễn…". Theo Lênin, mục đích thực tiễn ấy là tìm ra những hình thức cụ thể để thực hiện. Cần lưu ý rằng, đối với Lênin, mặc dù thời gian sống quá ngắn ngủi song tư tưởng về sự phong phú, đa dạng của những hình thức là tư tưởng của người mà ta cần quán triệt. Lênin không trói buộc chủ nghĩa tư bản nhà nước chỉ vào một số hình thức đã tồn tại. Tư tưởng của Lênin chính là: '…ở chỗ nào có những thành phần tự do buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói chung, thì ở đó có chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình độ này hay trình độ khác.". ở thời Lênin đã có những hình thức cụ thể như: 1. Tô nhượng. Trong cuốn bàn về thuế lương thực, Lênin quan niệm tô nhượng là giao kèo, một sự liên kết, liên minh giữa chính quyền nhà nước Xô viết, nghĩa là nhà nước vô sản với chủ nghĩa tư bản nhà nước, chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu. Người nhận tô nhượng là nhà tư bản. Tô nhượng là chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản. Theo hợp đồng ấy, nhà tư bản được sử dụng một vài thứ: nguyên liệu, hầm mỏ, xí nghiệp, quặng hay thậm chí một công xưởng riêng biệt. Chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ (trong thực tế không phải chỉ cso như vậy. Trong bức thư ngày 5-12-1921, Lênin còn nói đến việc tô nhượng quay phim,và mua phim ở nước Nga và kinh doanh những phim ấy ở ý). Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa, và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nước xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi. Nhà tư bản kinh doanh theo phương thức tư bản cốt để thu được lợi nhuận bất thường, siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu mà họ không tìm được hoặc khó tìm được bằng cách khác. Chính quyền Xô viết cũng có lợi: lực lượng sản xuất phát triển, số lượng sản phẩm tăng lên. Hình._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28885.doc