Luật thuế Xuất nhập khẩu Việt Nam trước thềm WTO

Mục lục Chương I: Tổ chức WTO và các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến thuế nhập khẩu………………………………………………3 I.Khái quát về WTO và việc Việt Nam gia nhập WTO………………...3 1.Lịch sử hình thành và các hoạt động của WTO……………………….3 2. Việt Nam gia nhập WTO_ Cơ hội và thách thức……………………..5 a. Cơ hội……………………………………………………………….5 b. Thách thức………………………………………………………….6 II. Các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến thuế xuất nhập khẩu………………………………………………………………..8 1. Cam kết

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1519 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luật thuế Xuất nhập khẩu Việt Nam trước thềm WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về thuế xuất khẩu…………………………………………...8 2. Cam kết về thuế nhập khẩu ………………………………………….8 Chương II: Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu Việt Nam và thực tiễn thu thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam………………………………………………..12 I.Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam……………………...12 A. Đôi nét về quá trình hình thành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu………………………………………………………………………..12 B. Quá trình đổi mới Luật thuế xuất nhập khẩu Việt Nam…………...13 II. Thực tiễn thu thuế…………………………………………………22 1.Số liệu năm 2006………………………………………………….22 2. Số liệu năm 2007…………………………………………………23 Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng hiệu quả thu thuế………………23 Lời nói đầu Sau hơn một thập kỉ đàm phán, ngày 7/11/2006, Tổ chức thương mại thế giới WTO chính thức kết nạp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thứ 150 của Tổ chức này. Đây là một sự kiện hết sức trọng đại đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Đó là niềm vui, niềm tự hào, sự mong mỏi, chờ đợi không chỉ của các cơ quan nhà nước, các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp,… mà còn của cả những người lao động bình dị nhất - những người còn chưa biết thực sự WTO sẽ mang lại cho họ những gì. WTO sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam “bay cao bay xa” hơn, hội nhập vào nền kinh tế thế giới để từ đó với sự cố gắng, nỗ lực hết mình Việt Nam sẽ phát triển lên một tầm cao mới và khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi để phát triển nền kinh tế đất nước thì những khó khăn, thách thức đối với Việt Nam cũng không nhỏ. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp - lực lượng chính tham gia vào “sân chơi chung” của thế giới. Và yêu cầu đặt ra là, các doanh nghiệp phải làm thế nào để có thể đứng vững được trên thị trường Việt Nam, cũng như thị trường thế giới. “WTO là một thương trường, nơi người nhanh chân và hiểu luật sẽ thắng cuộc”. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại trong cuộc cạnh tranh gay gắt này thì nhất thiết phải nắm được công cụ pháp lí trong tay. Muốn gia nhập WTO thì hệ thống pháp luật Việt Nam phải đảm bảo thống nhất với các hiệp định thư WTO và Nghị định thư gia nhập của Việt Nam. Để tạo cơ sở pháp lí cho việc thực hiện có hiệu quả cam kết mà ta chấp nhận khi gia nhập, Việt Nam còn phải tiếp tục xây dựng, bổ sung, sửa đổi nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách. Cùng với sự đổi mới của hệ thống pháp luật Việt Nam, thì luật về thuế đối với các hàng hoá nhập khẩu từ các nước Thành viên vào Việt Nam và xuất khẩu từ Việt Nam sang các nước Thành viên đã bộc lộ một số hạn chế và cần được sửa đổi sao cho phù hợp với các cam kết. Như ta đã biết, thuế là nguồn lợi ích của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, khi gia nhập WTO thì vấn đề đặt ra là hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và luật về thuế xuất nhập khẩu nói riêng phải thay đổi như thế nào để vừa đảm bảo nguồn thu ngân sách, thúc đẩy cạnh tranh trong nước phát triển, lại vừa nhận được sự đồng tình của các nước Thành viên. Việc làm luật nếu vội vàng sẽ khó tránh khỏi đổ vỡ, vì thế luật về thuế xuất nhập khẩu cũng không thể “một sớm một chiều” có thể hoàn thành được. Điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng,sự nhạy bén,… của các cơ quan lập pháp. Luật thuế xnk việt nam trước thềm wto Phần nội dung Chương I: Tổ chức WTO và các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến thuế xuất nhập khẩu. I-Khái quát về WTO và việc Việt Nam gia nhập WTO 1.Lịch sử hình thành và các hoạt động của WTO Tổ chức thương mại thế giới WTO (World Trade Organization)được thành lập ngày15/4/1994 tại Marôc và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.Trụ sở chính đặt tại Geneva_Thụy Sĩ. WTO kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức tiền thân là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại(GATT), ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ II, khi trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế diễn ra sôi nổi, điển hình là ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế, thường gọi là Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF). Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho Thương mại quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về việc làm, thương mại hàng hoá, khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc của hoạt động này phát triển, 23 nước sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về Thương mại và Việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thiết lập tổ chức Thương mại quốc tế(ITO) với tư cách là cơ quan chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Hiến chương thành lập ITO nói trên đã được thoả thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm ở La Havana từ tháng 11/1947 đến ngày 23/4/1948 nhưng việc thành lập ITO đã không thực hiện được. Với kết quả đáng khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45000 ưu đãi về thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, 23 nước sáng lập đã kí kết hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào tháng 1/1948. Từ đó tới nay GATT đã tiễn hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan. Tuy nhiên, do thương mại quốc tế không ngừng phát triển nên GATT đã mở rộng diện hoạt động, đàm phán không chỉ về thuế quan, mà còn tập trung xây dựng các hiệp định hình thành và các chuẩn mực luật chơi điều tiết các hàng rào phi thuế quan, về thương maị dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải quyết tranh chấp. Do diện điều tiết mở rộng, nên GATT đã tỏ ra không thích hợp. Vì vậy, ngày 15/4/1994 tại Marakesh (Maroco) các bên đã kí kết Hiệp định thành lập WTO nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT. WTO chính thức thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. Đến nay, WTO có 150 thành viên, chiếm khoảng 90% dân số thế giới, 95%GDP và 95% giá trị thương mại toàn cầu. Các chức năng chính của WTO là: Quản lí các hiệp định về Thương mại quốc tế; Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại; Giải quyết các tranh chấp thương mại; Giám sát các chính sách thương mại; Trợ giúp về kinh tế và đào tạo cho các quốc gia đang phát triển; Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác. Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự nhất trí chung, các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Mỗi thành viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá trị ngang nhau. Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là hội nghị Bộ trưởng họp ít nhất 2 năm một lần. Dưới hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng thường họp nhiều lần trong một năm tại trụ sở chính của WTO tại Geneva. Nhiệm vụ chính của Đại hội đồng là giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên và rà soát các chính sách của WTO. Dưới Đại hội đồng là Hội đồng Thương mại hàng hoá, Hội đồng Thương mại dịch vụ và Hội đồng giám sát về các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. WTO thiết lập một khung pháp lí đối với các chính sách thương mại nhưng lại không xác định những kết quả cụ thể, nghĩa là chỉ lập ra các qui tắc trò chơi chính sách chứ không liên quan đến kết quả trò chơi. Nó bao gồm 5 nguyên tắc cơ bản và quan trọng: Không phân biệt đối xử, bao gồm 2 quy tắc: Quy chế tối huệ quốc(MFN) và Quy chế đãi ngộ quốc gia(NT) Trao đổi đặc quyền (hai bên cùng có lợi) Cam kết ràng buộc và thực hiện mang tính pháp lí Tính minh bạch Các cơ chế an toàn với 3 loại quy định: i) Các điều khoản cho phép sử dụng các biện pháp thương mại để đạt được các mục tiêu phi kinh tế; ii) Các điều khoản nhằm đảm bảo “cạnh tranh bình đẳng”; iii) Các điều khoản cho phép can thiệp thương mại vì lí do kinh tế. Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO vào 1/1995 và được công nhận là quan sát viên của tổ chức này. Tháng7/1998, Việt Nam bắt đầu tiến hành phiên đàm phán gia nhập WTO đầu tiên. Sau hơn 10 năm, Việt Nam đã trải qua 11 phiên đàm phán đa phương (trong đó có một phiên trù bị) và hàng trăm cuộc đàm phán song phương với sự tham gia của tất cả các bộ, ngành. Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào tổ chức Thương mại thế giới WTO. 2. Việt Nam gia nhập WTO_Cơ hội và thách thức. Gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO) là một bước tiến quan trọng trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam. Thực tế 20 năm đổi mới vừa qua cho thấy cứ mối lần Việt Nam mở cửa và hội nhập mạnh hơn vào thế giới và khu vực thì nền kinh tế lại đạt được những kết quả tăng trưởng ngoạn mục hơn trên mọi lĩnh vực. Việc nước ta gia nhập WTO sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến tình hình kinh tế – xã hội nói chung và cuộc sống của mỗi người dân nói riêng. Khi gia nhập vào tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu này, cơ hội mở ra cho chúng ta là rất lớn song thách thức đặt ra cũng không nhỏ. Căn cứ vào hoàn cảnh và điều kiên thực tế phải nhận thức thật rõ ràng đối với Việt Nam, cơ hội là tiềm năng, thách thức là hiện thực, nghĩa là chỉ có vượt qua được thách thức thì cơ hội mới chuyển thành hiện thực. a.Cơ hội Nhìn chung cơ hội của việc trở thành thành viên của WTO là nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ có nhiều công ty nước ngoài vào hoạt động kinh doanh trong nước hơn và việc nhập khẩu gia tăng sẽ làm cho chất lượng hàng hoá được nâng cao. Một tác động quan trọng của việc gia nhập WTO là đẩy mạnh cạnh tranh trong nước giúp hoàn thiện cơ chế thị trường; góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, tăng nhu cầu lao động nói chung. Hội nhập kinh tế toàn cầu sẽ đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phân tích những cơ hội của đất nước khi gia nhập WTO như sau: +Gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ không bị phân biệt đối xử. +Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lí theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. +Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lí hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. + Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn. +Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình, hợp tác và phát triển. b.Thách thức Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu nhất là trong điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lí nhà nước còn yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé. Những thách thức này bắt nguồn từ những năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiêm tàng của chính quá trình hội nhập. + Khi gia nhập WTO, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các nước, giữa doanh nghiệp ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường nước ta. Cạnh tranh cần diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính sách quản lí và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. +Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ơ mỗi quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá, nguy cơ phá sản của một bộ phân doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”. +Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiêm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ. +Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền. Gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội không tự nó biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn phụ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua, đẩy lùi thách thức tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội thách thức sẽ trở thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. ở đây nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là yếu tố quyết định nhất. Với thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước gia nhập WTO trước ta cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản, nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta. II- Các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến thuế xuất nhập khẩu. 1. Cam kết về thuế xuất khẩu Về thuế xuất khẩu ta chỉ cam kết sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình, không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác. 2. Cam kết về thuế nhập khẩu: 2.1. Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng) .Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17.4% xuống còn 13.4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20.9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16.8% xuống còn 12.6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm. 2.1. Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô tô-xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng Về hạn ngạch thuế quan , ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, thuốc lá và muối. Biểu 1: Diễn giải mức thuế bỡnh quõn cam kết Bình quân chung và theo ngành Thuế suất MFN hiện hành (%) Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%) Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình (%) Mức giảm so với thuế MFN hiện hành (%) Cam kết WTO của Trung Quốc Mức cắt giảm thuế chung tại Vòng Uruguay Nứơc phát triển Nứơc đang phát triển Nông sản 23,5 25,2 21,0 10,6 16,7 Giảm 40% Giảm 30% Hàng công nghiệp 16,6 16,1 12,6 23,9 9,6 Giảm 37% Giảm 24% Chung màn biểu 17,4 17,2 13,4 23,0 10,1 Biểu 2: Tổng hợp cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong đàm phỏn gia nhập WTO đối với một số nhúm hàng quan trọng Cam kết với WTO TT Ngành hàng/Mức thuế suất Thuế suất MFN Thuế suất khi gia nhập Thuế suất cuối cùng Thời gian thực hiện I Một số sản phẩm nông nghiệp - Thịt bò 20 20 14 5 năm - Thịt lợn 30 30 15 5 năm - Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm - Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm - Thịt chế biến 50 40 22 5 năm - Bánh kẹo (thuế suất bình quân) 39,3 34,4 25,3 3-5 năm Bia 80 65 35 5 năm Rượu 65 65 45-50 5-6 năm Thuốc lá điếu 100 150 135 5 năm Xì gà 100 150 100 5 năm Thức ăn gia súc 10 10 7 2 năm 2. Một số sản phẩm công nghiệp - Xăng dầu 0-10 38,7 38,7 - Sắt thép (thuế suất bình quân) 7,5 17,7 13 5-7 năm - Xi măng 40 40 32 2 năm - Phân hoá học (thuế suất bình quân) 0,7 6,5 6,4 2 năm - Giầy (thuế suất bình quân) 22,3 20,7 15,1 5 năm - Tivi 50 40 25 5 năm - Điều hoà 50 40 25 3 năm - Máy giặt 40 38 25 4 năm - Dệt may (thuế suất bình quân) 37,3 13,7 13,7 Ngay khi gia nhập (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may vơí Mĩ và EU - Giày dép 50 40 30 5 năm - Xe ôtô con   + Xe từ 2.500 cc trở lên, chaỵ xăng 90 90 52 12 năm   + Xe từ 2.500 cc trở lên, loại 2 cẩu 90 90 47 10 năm   + Dưới 2.500 cc và các loại khác 90 100 70 7 năm - xe tải   + Loại không quá 5 tấn 100 80 50 10 năm   + Loại thuế suất khác hiện hành 80% 80 100 70 7 năm   + Loại thuế suất khác hiện hành 60% 60 60 50 5 năm - Phụ tùng ôtô 20,9 24,3 20,5 3-5 năm - Xe máy   + Loại từ 800 cc trở lên 100 100 40 8 năm   + Loại khác 100 95 70 7 năm Chương II Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu Việt Nam và thực tiễn thu thuế xuất nhập khẩu ở Việt Nam. I.Pháp luật về thuế XNK Việt Nam A. Đôi nét về quá trình hình thành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Sau khi giành độc lập, đất nước ta còn rất lạc hậu, nền kinh tế cũng như cơ sở vật chất bị tàn phá nặng nề, thêm vào đó là sự bao vây cấm vận về kinh tế của các nước đế quốc. Đứng trước những khó khăn ấy Đảng ta đã đặt nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu này thì yêu cầu đặt ra là phải đổi mới các chính sách, chế độ tài chính mà trước hết là chính sách thuế. Yêu cầu này đòi hỏi công tác thuế phải được cải tiến một cách toàn diện, đồng bộ, cả về quan điểm tư tưởng chính sách và việc tổ chức thực hiện. Từ đó góp phần thiết thực vào thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm giải quyết thắng lợi nhiệm vụ đề ra trong tình hình mới vì sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thuế phải thực hiện có hiệu quả chính sách phân phối lại thu nhập quốc dân, tích cực góp phần chống lạm phát, chuẩn bị và tạo thêm tiền đề thuận lợi cho các bước phát triển tiếp theo. Cùng với sự cải tiến về hệ thống thuế thì Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch đã được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 29/12/1987 thay thế chế độ “ Thu bù chênh lệch ngoại thương” có từ trước đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Đây là thứ thuế đầu tiên của nước CH XHCN Việt Nam được ban hành bằng hình thức Luật khá hoàn chỉnh, “ nhằm tăng cường các hoạt động quản lí xuất nhập khẩu, góp phần vào tích cực vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của Nhà nước, hình thành cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lí, góp phần bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước, góp phần tạo nguồn thu cho NSNN”. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/1988. Trải qua những năm tháng lịch sử, từ sau ngày cách mạng tháng 8 thành công, hệ thống thuế và nguồn thu tài chính đã đảm bảo nguồn thu quan trọng của NSNN, phục vụ cho việc thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội và quốc phìng của đất nước. Mặt khác các chính sách thuế cũng đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp phát triển, nhất là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, góp phần xoá bỏ quan hệ bóc lột phong kiến, cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh và cá thể. Tuy nhiên, trước nhu cầu đổi mới của đất nước, hệ thống thuế cũng đã bắt đầu bộc lộ những nhược điểm. Vì vậy, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được thay thế bằng Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (Luật thúê XNK) do quốc hội khoá VIII kì họp thứ 10 thông qua ngày 26/12/1991. B. Quá trình đổi mới Luật thuế xuất nhập khẩu Việt Nam 1. Sự cần thiết sửa đổi luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Qua 13 năm thực hiện (1991 – 2004), Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được ban hành năm 1991, đã phát huy được mặt tích cực đạt được nhiều kết quả quan trọng: góp phần thúc đẩy và bảo hộ sản xuất trong nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đảm bảo nguồn thu quan trọng cho NSNN; góp phần thực hiện có kết quả đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, có lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng trước nhu cầu hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh cải cách hành chính, khuyến khích tối đa xuất khẩu, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã bộc lộ một số điểm hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Đó là: + Một số nội dung trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa phù hợp với nội dung đã cam kết trong đàm phán quốc tế, cần được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán gia nhập WTO, cụ thể như các quy định về: Giá tính thuế nhập khẩu Thuế suất và thẩm quyền ban hành biểu thuế Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử Khiếu nại và giải quyết khiếu nại Ưu đãi thuế nhập khẩu + Có những quy định trong Luật này qua thực hiện đã phát huy tác dụng tốt, tạo sự thông thoáng cho doanh nghiệp nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lí nhà nước trong chống gian lận thương mại, chống thất thu ngân sách và dễ bị lợi dụng như: Quy định về thời hạn nộp thuế; miễn thuế nhập khẩu; điều kiện xét giảm thuế nhập khẩu. + Có những quy định trong Luật này chưa phù hợp với quy định của luật Hải quan và chưa phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan như quy định về: thông báo thuế; truy thu, truy hoàn thuế; them quyền ban hành biểu thuế và thuế suất. 2. Luật sửa đổi,bổ sung năm 2005 Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được Quốc hội nước CH XHCN Việt Nam khoá XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2006. Luật này ra đời nhằm đáp ứng những mục tiêu, yêu cầu sau: _ Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế theo hướng ổn định, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử; đảm bảo phù hợp tiến trình cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế. _ Khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu, bảo hộ hợp lí, có điều kiện, có chọn lọc phù hợp với tiến trình hội nhập. _ Góp phần ổn định cho nguồn thu ngân sách nhà nước. _ Kế thừa những quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (1991) đang phát huy hiệu quả trong thực tế; sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp với điều kiện hội nhập, chưa đồng bộ với pháp luật hiện hành và chưa đề cao được vai trò quản lí của Nhà nước trong chống gian lận thương mại, chống thất thu thuế. Dưới đây là nội dung chủ yếu của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: a. Phạm vi điều chỉnh Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu, thuế nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam; hàng mua bán, trao đổi của cư dân biên giới; hàng hoá mua bán, trao đổi của cư dân biên giới và hàng hoá trao đổi, mua bán khác được coi là hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. b. Đối tượng áp dụng Tổ chức, cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu quy định tại điều 2 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. c. Những nội dung sửa đổi cơ bản của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. c.1. Những nội dung sửa đổi để đảm bảo tính minh bạch, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán gia nhập WTO. _ Bổ sung phương pháp tính thuế tuyệt đối (Điều 8) Ngoài việc tính thuế theo tỷ lệ phần trăm(%) theo quy định hiện hành, khoản 1 và khoản 2 Điều 8 của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bổ sung quy định căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế, theo hình thức thuế tuyệt đối. Theo hình thức tính thuế này thì căn cứ tính thuế là số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá; trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khảu ghi trong tờ khai hải quan nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá tại thời điểm tính thuế. Hình thức này được áp dụng đối với một số mặt hàng trong trường hợp có khả năng gian lận lớn về giá tính thuế. _ Về giá tính thuế (Điều 9): Để thực hiện cam kết quốc tế và đảm bảo tính công bằng, minh bạch về xác định giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu, khoản 2 Điều 9 của Luật quy định về giá tính thuế như sau: “ Giá tính thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp cam kết quốc tế” _ Về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá (Điều 11): Để đảm bảo phù hợp với các quy định của WTO về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế, chống bán phá giá và chống trợ cấp và phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, sửa đổi cụm từ “thuế bổ sung” thành biện pháp về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá. “ Ngoài việc chịu thuế theo khoản 2 Điều 10 của Luật này hàng hoá nhập khẩu còn phải áp dụng một trong các biện pháp về thuế sau đây: Tăng mức thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam; Thuế chống bán phá giá đôí với hàng hoá bán phá giá nhập khảu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; Thuế chống trợ cấp đối với hàng hoá trợ cấp được nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam; Thuế chống phân biệt đối xử đối với hàng hoá được nhập khẩu vào Việt Nam có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ mà ở đó có sự phân biệt về thuế nhập khẩu hoặc có biện pháp phân biệt đối xử khác theo quy định của pháp luật về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế” _ Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại ( Điều 22): Để phù hợp với quy định WTO, quyền của đối tượng nộp thuế được lựa chọn quyền khiếu nại với cơ quan hải quan hoặc toà hành chính, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại như sau: “ Trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đồng ý với quyết định của cơ quan hải quan về số tiền thuế, tiền phạt, hình thức xử phạt, thì vẫn phải nộp đủ tiền thuế, tiền phạt, chấp hành hình thức xử phạt, đồng thời có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”. c.2. Những nội dung sửa đổi nhằm khuyến khích tối đa xuất khẩu, đồng thời hạn chế những sơ hở dễ bị lợi dụng để trốn thuế, nợ thuế. _ Về thời hạn nộp thuế( Điều 15): Đối với hàng hoá nhập khẩu về cơ bản vẫn giữ như hiện hành; đối với hàng hoá xuất khẩu nâng thời hạn 15 ngày lên 30 ngày để khuyến khích xuất khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định cụ thể thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng tiêu ding; hàng hoá nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, hàng hoá kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập. Để được hưởng thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là vật tư nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hóa kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tài nhập, hàng hoá nhập khẩu, Luật còn quy định các điều kiện ràng buộc, đó là: Đối tượng nộp thuế phải có quá trình chấp hành tốt pháp luật về thuế hoặc phải có bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp. Quy định này sẽ góp phần khắc phục nợ đọng thuế, trốn thuế. _ Về miễn thuế, xét miễn thuế(Điều 16 và17): Quy định hiện hành về miễn thuế, xét miễn thuế nhập khẩu còn có sự phân biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Trong đó miễn thuế, xét đối với đầu tư trong nước là kém ưu đãi hơn so với đầu tư nước ngoài, chưa khuyến khích phát huy nội lực để đẩy mạnh sản xuất. Ngoài những quy định miễn thuế, xét miễn thuế đã có trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu việc miễn thuế nhập khẩu còn được quy định trong các Luật và các văn bản pháp quy khác và một số Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc quy định như trên đã kịp thời khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực. Nhưng lại dẫn đến chồng chéo không rõ ràng và phức tạp, khó theo dõi trong tổ chức thực hiện. Để đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong chính sách, không phân biệt đối xử theo đúng quy định của WTO, Điều 16 và 17 của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quy định miễn thuế, xét miễn thuế. Nội dung các điều này được quy định dựa trên cơ sở thống nhất gi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0120.doc
Tài liệu liên quan