Luật Thuế TNCN

mở đầu Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế TNCN cũng đóng một vai trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là nghĩa vụ của tất cả những người lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách thuế đối với thu nhập của cá nhân hiện hành của nước ta không còn phù hợp và hợp lý. Mức điều tiết về thuế của cá nhân có thu nhập từ

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1822 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luật Thuế TNCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh và cá nhân thu nhập từ tiền lương, tiền công còn chưa công bằng; hay mức điều tiết mang tính bình quân mà chưa xét đến yếu tố hoàn cảnh của người nộp thuế; hoặc việc áp dụng ngưỡng khởi điểm chịu thuế chung, không phân biệt người nộp thuế là độc thân hay có gia đình tuy phù hợp với thực tiễn của nước ta, song không đảm bảo công bằng giữa cá nhân có cùng thu nhập nhưng có hoàn cảnh gia đình khác nhau. Hơn nữa, các chính sách thuế đối với thu nhập của cá nhân còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; điều này thể hiện ở chỗ, cùng là thu nhập của cá nhân được điều chỉnh bởi các luật thuế khác nhau, trong khi đó biểu thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công chưa phù hợp, thuế suất còn cao hơn so với các nước trong khu vực... Ở Việt Nam hiện nay chưa có một mô hình thu thuế TNCN hoàn chỉnh, hiện nay thu nhập của cá nhân được điều tiết bởi rất nhiều loại hình, các sắc thuế khác nhau. Vì thiếu một sắc thuế TNCN, nên nhiều hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh phải chịu các hình thức thuế TNDN rất thiếu công bằng. Bộ phận quản lý và thu thuế TNCN còn thụ động, cách bố trí, sắp xếp để cho người lao động kê khai, quyết toán thuế còn chậm, không tạo ra được tính tự giác cho người lao động, không kiểm soát được thu nhập của các đối tượng nộp thuế. Nhất là trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội ổn định, công bằng, bền vững và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế việc có một mô hình thu thuế TNCN khả thi là hết sức cần thiết, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phân bổ nguồn lực đồng thời giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng, giữa tăng trưởng với công bằng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Chính vì vậy, việc ra đời Luật Thuế TNCN (đang được hoàn thiện) là rất cần thiết. Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam (tên hiện tại là pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao) đã được áp dụng từ năm 1991. Tuy nhiên, trong suốt 16 năm, loại thuế này vẫn chỉ chiếm tỉ lệ quanh quẩn 2% trong tổng thu ngân sách. Cũng trong 16 năm qua, ngưỡng bắt đầu chịu thuế áp dụng cho người Việt Nam đã được điều chỉnh 5 lần (chưa tính những lần Chính phủ đề xuất nhưng không được Quốc hội thông qua), ngưỡng này tăng dần từ 500 ngàn đồng/tháng (áp dụng từ năm 1991) đến 5 triệu đồng/tháng (áp dụng từ năm 2004). Đồng thời, thuế suất tối đa áp dụng cho người Việt Nam cũng giảm dần từ mức 80% xuống 72%, rồi 65%, rồi 40%, để còn lại mức 35% như trong dự thảo luật thuế hiện tại. 1. Về sự cần thiết ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân Trong những năm qua, cùng với  sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng lên rõ rệt. Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp đã có xu hướng ngày càng tăng lên, trong khi việc áp dụng thuế TNCN để thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư vẫn còn chưa thực sự hiệu quả. Trong khi đó các chuyên gia tài chính nhận định, trong những năm tới các thị trường tài chính tiền tệ, vốn, lao động, bất động sản... phát triển mạnh mẽ hơn nữa; nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất, kinh doanh và sẽ có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau. Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước sẽ kéo theo số người nước ngoài đến làm ăn sinh sống tại nước ta và số người trong nước có thu nhập từ nước ngoài cũng tăng lên nhanh chóng, do đó sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư lại ngày càng lớn.   Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế càng ngày càng sâu rộng thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển sự nghiệp, giáo dục y tế... cũng ngày một gia tăng. Bên cạnh đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo hướng nguồn thu từ tích lũy trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu NSNN. Thuế TNCN cũng sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định thu cho NSNN trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thế nhưng khả năng thu được thuế TNCN hiện nay không cao, chưa mang tính triệt để vì rất nhiều lý do như đa số thu nhập của người lao động đều trả bằng tiền mặt, hệ thống thông tin chưa phát triển, các khoản thu nhập từ thừa kế, quà tặng còn khó kiểm soát và năng lực cán bộ thuế chưa đáp ứng được sự thay đổi của nền kinh tế. Từ những yếu tố nói trên, Bộ Tài chính cho rằng cần thiết phải xây dựng và ban hành Luật thuế TNCN cho phù hợp với sự phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước.  Đa số các ý kiến nhất trí với sự cần thiết ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân với các lý do sau đây: (1) Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là cần thiết để thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính. Nghị Quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra: "Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển". Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ... Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Triển khai các nghị quyết của Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỷ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ lệ thu từ thuế trực thu”. (2) Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, tăng cường kiểm tra, kiểm soát thu nhập và điều tiết, phân phối lại thu nhập, thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, bảo đảm sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Khác với thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,...) động viên thu nhập xã hội thông qua tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân, khác với thuế thu nhập doanh nghiệp điều tiết vào thu nhập của doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân động viên một phần thu nhập của cá nhân, thể hiện nghĩa vụ cụ thể của công dân đối với đất nước. Công dân được hưởng những thành quả phát triển của đất nước: cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự,... thì đồng thời có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Thuế thu nhập cá nhân được xây dựng trên nguyên tắc "công bằng" và “khả năng nộp thuế” thể hiện: người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức nộp thuế cũng khác nhau. Thực hiện nộp thuế thu nhập cá nhân góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư. Theo số liệu thống kê thì khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao nhất so với nhóm người có thu nhập thấp nhất trong xã hội ta từ 3,7 lần trong năm 1993 đã tăng lên 13,5 lần trong năm 2004 và năm 2006 đã lên tới 14,8 lần. Chính vì vậy mà thuế thu nhập cá nhân đã được nhiều nước áp dụng từ rất sớm, ngay từ khi nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng chưa cao, điều kiện kiểm soát thu nhập còn rất hạn chế. Đến nay, đã có trên 180 nước trên thế giới áp dụng loại thuế này. (3) Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, việc động viên thu nhập của cá nhân vào ngân sách nhà nước đang được thực hiện bởi 3 văn bản pháp luật thuế: thu nhập của cá nhân kinh doanh thực hiện theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; thu nhập từ tiền lương tiền công, trúng thưởng xổ số, chuyển giao công nghệ thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Việc thực hiện chính sách thuế như nói trên trong thời gian qua là tương đối phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong quản lý và thu ngân sách. Trong những năm tới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được tiếp tục hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ (thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường vốn, chứng khoán, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học – công nghệ,...), tạo điều kiện cho các cá nhân có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau ngoài nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công (đầu tư vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư tài chính, chuyển nhượng vốn, chứng khoán,…). Đồng thời, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, không chỉ có người Việt Nam mà người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống, có thu nhập tại Việt Nam cũng ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục áp dụng 3 loại thuế như hiện hành đối với thu nhập của cá nhân là không còn phù hợp: + Chưa đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế: cùng là thu nhập của cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì nộp thuế 28% trên tổng thu nhập; nhưng thu nhập từ tiền công, tiền lương trên mức 5 triệu đồng/tháng mới nộp thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần từ 10% đến 40%; + Nghĩa vụ thuế còn phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài (người Việt Nam nộp thuế cao hơn). + Chưa có chính sách thuế điều tiết thống nhất thu nhập cá nhân trong một văn bản pháp luật như thông lệ quốc tế. Do vậy, việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là để hoàn thiện một bước hệ thống chính sách thuế của nước ta, góp phần khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững. (4) Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân nhằm góp phần ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước. Ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần nâng cao tỷ trọng thu nội địa để ổn định ngân sách nhà nước. Ở nước ta, thuế thu nhập đối với cá nhân theo quy định của pháp luật thuế hiện hành mới chiếm tỷ trọng khoảng 4,1% trong tổng số thu ngân sách. 2. Những quy định mới trong dự thảo về "khởi điểm chịu thuế" Điều 18. Khoản giảm trừ gia cảnh 1. Khoản giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ sản xuất, kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Khoản giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây: a) Phần giảm trừ đối với cá nhân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); b) Phần giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng. 2. Việc tính phần giảm trừ đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc sau: a)  Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính một lần; b) Trong gia đình có nhiều người có thu nhập chịu thuế thì việc tính giảm trừ đối với người phụ thuộc vào thu nhập chịu thuế của người nào là do gia đình lựa chọn và đăng ký với cơ quan thuế; c) Tổng số giảm trừ đối với người phụ thuộc cho một đối tượng nộp thuế không quá 10 triệu đồng/tháng. Dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân mới đã bỏ hẳn khái niệm "khởi điểm chịu thuế", thay vào đó là thuật ngữ "giảm trừ gia cảnh" cho đối tượng chịu thuế. Điều này có nghĩa, người chịu thuế sau khi chiết giảm cho cá nhân mình 4 triệu đồng mỗi tháng và 1,6 triệu đồng cho mỗi người phụ thuộc, khoản tiền dôi dư còn lại mới bắt đầu tính thuế.Các cá nhân thuộc đối tượng nộp thuế sẽ được giảm trừ cho bản thân mình 4 triệu đồng và mỗi người phụ thuộc bằng 40% phần giảm trừ đối với cá nhân (không khống chế số tiền tối đa được tính giảm trừ). Sau khi lấy tổng thu nhập trừ hết các khoản giảm trừ được phép, các cá nhân sẽ nộp thuế trên số chênh lệch còn lại theo biểu thuế lũy tiến. Luật Thuế TNCN cũng bãi bỏ hai biểu thuế lũy tiến từng phần tách biệt áp dụng cho người nước ngoài và người trong nước (hiện đang áp dụng tại Pháp lệnh Thuế TNCN đối với người có thu nhập cao, trong đó người nước ngoài được hưởng lợi theo hướng mức khởi điểm chịu thuế cao hơn người trong nước). Như vậy, kể từ năm 2009 người nước ngoài sẽ đóng thuế cùng với người dân VN. Biểu thuế lũy tiến từng phần Bậc thuế Phần thu nhập tính thuế mỗi năm (triệu đồng) Phần thu nhập tính thuế mỗi tháng (triệu đồng) Thuế suất (0%) 1 Đến 60 Đến 5 5 2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 53 25 6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 7 Trên 960 Trên 80 35 Biểu thuế toàn phần Thu nhập tính thuế Thuế suất (0%) Thu nhập từ đầu tư vốn 5 Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5 Thu nhập từ trúng thưởng 10 Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10 Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định tại khoản 1, Điều 13 Đề án Luật 20 Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy định tại khoản 2, Điều 14 của Đề án Luật 0,1 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 1, Điều 14 Luật 25 Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 2, Điều 14 của Luật 2 Ví dụ: Ông A có mức thu nhập 15 triệu đồng/tháng. Ông A có hai người con và một mẹ già phải nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Ông A sẽ được giảm trừ cho bản thân ông là 4 triệu đồng và mỗi người phụ thuộc được giảm 1,6 triệu đồng (1,6 triệu đồng x 3), tổng cộng ông được giảm trừ 8,8 triệu đồng. Số thu nhập còn lại để tính thuế của ông A là 6,2 triệu đồng (15 triệu đồng - 8,8 triệu đồng). Ông sẽ nộp thuế TNCN theo hai bậc với các mức thuế cụ thể như sau: - Thuế suất 5% tính cho phần thu nhập chịu thuế đến 5 triệu đồng (5 triệu x 5%=250.000 đồng) - Thuế suất 10% tính cho phần thu nhập còn lại là 1,2 triệu đồng (1,2 triệu đồng x 10% = 120.000 đồng) Tổng số thuế ông A sẽ nộp là 370.000 đồng/tháng Như vậy, thu nhập của một công chức là 5 triệu đồng một tháng, nếu sống độc thân không phải phụng dưỡng mẹ già thì sau khi trừ đi 4 triệu đồng cho bản thân. Thu nhập còn lại mà người này phải nộp thuế thu nhập là 1 triệu đồng với thuế suất 5%. Tương tự cũng với thu nhập 5 triệu đồng nếu người nộp thuế phụng dưỡng mẹ già thì sau khi chiết trừ 4 triệu đồng và trừ tiếp 1,6 triệu đồng cho người phụ thuộc là mẹ già, người này không phải nộp thuế. Dù vẫn có nhiều ý kiến khác nhau đối với một số nội dung, song Luật thuế thu nhập cá nhân cũng đã được Quốc hội biểu quyết thông qua sáng 20-11 với hơn 79% số phiếu tán thành. Theo đó, thời điểm luật có hiệu lực sẽ là ngày 1-1-2009. Mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế được ấn định là 4 triệu đồng/tháng và mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng. Luật cũng qui định số người phụ thuộc được giảm trừ gồm các trường hợp đương nhiên được giảm trừ (con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động) và các trường hợp được giảm trừ kèm theo điều kiện như không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức qui định của Chính phủ. Việc xác định người phụ thuộc chủ yếu dựa trên các giấy tờ, hồ sơ đã có của người phụ thuộc như giấy khai sinh, giấy đăng ký kết hôn, giấy xác nhận về tình trạng sức khỏe, khả năng lao động. Người phụ thuộc bao gồm: con chưa thành niên, con bị tàn tật, không có khả năng lao động, vợ (chồng) không có khả năng lao động, bố (mẹ) đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động, những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng...Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế, bao gồm: đóng góp vào các tổ chức, cơ sở nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa, các quĩ từ thiện, quĩ nhân đạo, quĩ khuyến học... Các tổ chức này phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận. Nhiều ý kiến đại biểu cho rằng nên chọn mức 5 triệu đồng giảm trừ cho người nộp thuế và 2 triệu đồng cho mỗi cá nhân phụ thuộc. Tuy nhiên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nếu chọn mức này sẽ tạo ra khoảng cách chênh lệch cao so với thu nhập bình quân đầu người tại thời điểm đầu năm 2009 (dự kiến 1,5 triệu đồng một tháng) sẽ làm giảm ý nghĩa, bản chất của thuế thu nhập cá nhân, đồng thời dẫn đến số thu ngân sách bị giảm so với hiện hành. Về biểu thuế lũy tiến từng phần, có một số đại biểu Quốc hội đề nghị giảm thuế suất cao nhất từ mức 35% xuống còn 30%. Tuy nhiên sau khi cân nhắc, ban soạn thảo vẫn đề nghị giữ nguyên quy định trong dự thảo là mức thuế cao nhất là 35%. Cũng về mức thuế suất, một tiếp thu quan trọng của ban soạn thảo là thuế suất đối với thu nhập của cá nhân từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán được hạ từ mức 25% xuống còn 20%. 3. ĐÁNH GIÁ, NHẬN ĐỊNH CHUNG : (1) Về mức giảm trừ đối với người nộp thuế, có các loại ý kiến sau đây: + Thứ nhất, đồng ý với phương án của dự thảo Luật đưa ra lấy ý kiến nhân là 4 triệu đồng/tháng. + Thứ hai, đề nghị hạ mức giảm trừ gia cảnh xuống thấp hơn, khoảng 2-3 triệu đồng/tháng để phù hợp với mức thu nhập bình quân chung và đảm bảo nguyên tắc hiến định công dân có nghĩa vụ nộp thuế, tạo điều kiện cho nhiều người được đóng góp xây dựng đất nước. + Thứ ba, đề nghị không qui định mức giảm trừ bằng số tiền tuyệt đối, mà quy định theo tỷ lệ phần trăm hoặc số lần trên mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định từng thời kỳ hoặc có tính đến yếu tố trượt giá. + Thứ tư, một số ý kiến đề nghị không áp dụng mức giảm trừ gia cảnh mà thu thuế từ đồng thu nhập đầu tiên nhưng với mức thuế suất 0%, hoặc mức thuế suất thấp (1% hoặc 2%). + Cá biệt cũng có ý kiến đề nghị nâng mức giảm trừ gia cảnh lên rất cao (đến 15 triệu đồng/tháng) để đảm bảo mức sống sung túc, thậm chí đủ cho con đi học nước ngoài. Về những ý kiến nêu trên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy: nếu không giảm trừ gia cảnh, thực hiện tính thuế từ đồng đầu tiên và áp dụng mức thuế suất thấp (0%; 1- 3%...) thì đối tượng có thu nhập từ sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, công thương nghiệp đều phải thực hiện tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế; như vậy, Nhà nước có thể quản lý, kiểm soát được thu nhập của đại bộ phận dân cư nhưng trong giai đoạn hiện nay và thời gian đầu thực hiện Luật thuế này, khi chúng ta chưa hội đủ các điều kiện quản lý, nếu thực hiện ngay thì có thể tạo nên sự không đồng thuận về mặt xã hội, đồng thời tính khả thi và hiệu quả không cao. Do đó, qua thảo luận, trao đổi kỹ các ý kiến nêu trên, ý kiến chung của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với loại ý kiến thứ nhất: chọn mức giảm trừ 4 triệu đồng/tháng (theo đó, mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng). Phương án này, được dựa trên những căn cứ về lộ trình cải cách tiền lương, tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập của dân cư dự kiến đến năm 2009. Cụ thể như sau: + Với mức lương tối thiểu hiện hành 450.000 đồng do Nhà nước quy định, giả thiết mỗi năm Nhà nước tăng thêm khoảng 20%, thì đến năm 2009 mức lương tối thiểu khoảng 650.000đ/tháng. Như vậy, với một người có trình độ đại học sau 8 đến 10 năm làm việc ở vào thời điểm đó mới có mức lương tháng khoảng 2 triệu đồng (hệ số lương trung bình theo thang bảng lương hiện hành là 2,34 lần so với lương tối thiểu và mức tiền lương trung bình là 1,25 triệu đồng/tháng). + Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người kế hoạch năm 2007 của nước ta khoảng 820 USD và mục tiêu đến năm 2009-2010 đạt khoảng 1.100 USD/năm (thực hiện có khả năng đạt cao hơn), tương ứng khoảng 1,5 triệu đồng/tháng. Mức giảm trừ 4 triệu đồng/tháng là gấp trên 2,5 lần mức GDP bình quân đầu người vào năm 2009, nếu tính thêm cả giảm trừ cho người phụ thuộc thì còn cao hơn. Tham khảo số liệu về tỷ lệ so sánh giữa mức giảm trừ gia cảnh với mức GDP/đầu người của các nước cho thấy tỷ lệ của Việt Nam là cao nhất + Theo số liệu của Tổng cục Thống kê công bố về thu nhập dân cư bình quân đầu người trong cả nước năm 2004 phân theo 10 nhóm thu nhập thì mức thu nhập bình quân của nhóm cao nhất đạt khoảng 1,5 triệu đồng/tháng. Nếu tính thêm cả yếu tố trượt giá và tăng trưởng kinh tế thì vào thời điểm năm 2009 thu nhập bình quân của nhóm cao nhất này cũng chỉ khoảng 2,7 – 2,8 triệu đồng/tháng. - Có ý kiến đề nghị qui định mức giảm trừ gia cảnh có tính đến yếu tố trượt giá, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin giải trình như sau: Về nguyên tắc mọi cá nhân có thu nhập đều có nghĩa vụ đóng góp thuế cho nhà nước. Tuy nhiên, trước mắt để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán và khả năng nộp thuế của người dân, Luật thuế thu nhập cá nhân qui định giảm trừ một khoản thu nhập cho cá nhân trước khi tính thuế mà không áp dụng thu thuế ngay từ đồng thu nhập đầu tiên. Việc xác định mức giảm trừ cá nhân 4 triệu đồng/tháng là đã tính đến các yếu tố phát triển kinh tế xã hội, chính sách tiền lương, giá cả đến năm 2009 và mức này sẽ được giữ ổn định trong một thời gian. Vì vậy trong thời gian đầu khi Luật có hiệu lực những người có thu nhập thấp và thu nhập trung bình trong xã hội sẽ không thuộc diện nộp thuế. Sau này cùng với sự tăng trưởng kinh tế, thu nhập của người dân sẽ tăng dần, khi đó 4 triệu đồng sẽ trở thành mức thu nhập phổ biến và nhiều người có thu nhập trung bình trong xã hội có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ đóng góp thuế thu nhập cá nhân cho nhà nước và những người có thu nhập thấp vẫn không nộp thuế. Tính cụ thể thì sau khi giảm trừ gia cảnh, số thuế phải nộp chỉ chiếm phần rất nhỏ, ví dụ cá nhân có thu nhập 5 triệu đồng/ tháng mà độc thân thì chỉ nộp thuế 50 nghìn đồng, nếu có từ một người phụ thuộc trở lên thì không phải nộp thuế. Hiện cả nước có khoảng 300.000 người nằm trong diện chịu thuế thu nhập theo Pháp lệnh thuế thu nhập cao, với tổng số thu trên 6.000 tỷ đồng một năm. Dự kiến khi đề án Luật có hiệu lực tại thời điểm 1/1/2009 sẽ có khoảng 2,3 triệu người nằm trong diện nộp thuế với khoản thu ước đạt 13.000 tỷ đồng. Kết luận Ban hành luật mới về thuế thu nhập cá nhân còn có tác dụng sửa lại những điều chưa hợp lý, chưa nhất quán với tính cách là thuế đánh vào thu nhập cá nhân tồn tại trong những quy định trước đây. Đồng thời đưa sắc thuế mới lên tầm bao quát và nhất quán trong việc đánh thuế vào các loại thu nhập cá nhân trong điều kiện nước ta hiện nay, tạo ra mặt bằng mới, thực hiện công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng có thu nhập cá nhân ở mức độ và loại thu nhập chịu thuế. Điều này sẽ góp phần tăng cường công tác kiểm soát, phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Hơn nữa, số người dân có thu nhập cao ngày càng tăng lên, nhất là số người nước ngoài đầu tư và kinh doanh vào Việt Nam ngày càng nhiều, cần phải đánh thuế thu nhập cá nhân để tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. mở đầu 1 1. Về sự cần thiết ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân 2 2. Những quy định mới trong dự thảo về "khởi điểm chịu thuế" 6 3. ĐÁNH GIÁ, NHẬN ĐỊNH CHUNG : 10 Kết luận 14 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0128.doc