LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới diễn ra như vũ bão, và xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện nay, vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước ngày càng trở nên cấp bách. Ngày nay không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển một nền kinh tế vững mạnh mà không dựa vào đẩy mạnh kinh tế đối ngoại, trong đó thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được coi là giải
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1387 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 - Những vấn đề pháp lý cơ bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp tích cực được nhiều nước quan tâm.
Những năm gần đây số nước tham gia quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng đông thêm làm cho cuộc cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn trước. Nhiều nước đã tiến hành những cải cách pháp lý theo phương hướng thông thoáng hơn nhằm vượt lên trên những nước khác.
Tuy vậy, không phải chỉ cần công bố chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài là có thể thu hút được các nhà đầu tư đến làm ăn; mà để gia tăng được đầu tư nước ngoài, biến nguồn vốn đó thay các yếu tố cần thiết cho hoạt động sản xuất - kinh doanh đem lại hiệu quả cho các nhà đầu tư như mục tiêu đề ra là cả một quá trình vừa cạnh tranh vừa hợp tác.
Thực tế quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hơn 10 năm qua đã chỉ rõ điều đó. Dòng vốn đầu tư nước ngoài chỉ đổ về nước nào mà nó có thể bảo toàn và sinh lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Như vậy muốn thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều đòi hỏi phải có môi trường đầu tư thuận lợi.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành lần đầu tiên ngày 19/12/1987. Cho đến nay đã qua nhiều lần bổ xung và sửa đổi: 30/6/1990; 23/12/1992; 12/11/1996 và gần đây nhất ngày 9/06/2000.
Dưới góc độ cạnh tranh lành mạnh, môi trường đầu tư phải có độ hấp dẫn cao hoặc phải có tính khác biệt lớn so với các nước có điều kiện tương tự để thu hút tốt hơn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc ban hành các văn bản pháp Luật đầu tư nước ngoài không thể là sản phẩm chủ quan của các nhà hoạch định chính sách vĩ mô mà phải căn cứ nhiều yếu tố như bối cảnh trong nước, quốc tế nhằm tạo ra một môi trường pháp lý thông thoáng, vừa tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, có sức cạnh tranh với các nước cũng có nhu cầu thu hút FDI, vừa bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư cũng như của đất nước theo nguyên tắc cùng có lợi.
Chính vì lẽ đó đề tài "Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 - những vấn đề pháp lý cơ bản" được chọn làm đề tài viết khoá luận tốt nghiệp chuyên ngành tư vấn pháp luật kinh tế của em
Khóa luận có kết cấu nội dung như sau:
- Lời mở đầu:
- Chương I: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển.
- Chương II: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 - những vấn đề pháp lý cơ bản.
- Chương III: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 - những quy định bổ xung và sửa đổi.
- Kết luận và kiến nghị:
Vấn đề đầu tư nước ngoài và hoàn thiện môi trường pháp lý cho nhà đầu tư nước ngoài là đề tài không quá mới mẻ nhưng vẫn hết sức thiết thực. Nội dung đề tài phong phú, song với bản thân là sinh viên đang trong giai đoạn tích luỹ kiến thức, luyện tập kỹ năng bước đầu... nên việc viết khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Song với mong muốn được bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, từng bước hoàn thiện vững vàng chuẩn bị cho quá trình công tác sau này nên em mạnh dạn chọn đề tài để viết khoá luận như trên.
Nhưng do thời gian và trình độ còn hạn chế nên khoá luận của em chưa thật đầy đủ và chính xác em rất mong được sự phê bình, giúp đỡ của các Thầy Cô giáo và độc giả giúp em ngày càng hoàn thiện hơn về đề tài này.
Chương I
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Việt Nam là một trong số ít các nước duy trì 2 hệ thống pháp luật khác nhau áp dụng cho 2 lĩnh vực thu hút vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này gây ra nhiều tranh cãi cho các nhà đầu tư, nhưng sự tồn tại song song của 2 hệ thống này hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế-xã hội ở Việt Nam.
Về bản chất đầu tư trực tiếp ngoài (FDI) là các hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh phân công trong lao động quốc tế nhằm tìm kiến lợi nhuận cao ở phạm vi toàn cầu nên nó ảnh hưởng như con dao 2 lưỡi đối với nước tiếp nhận đầu tư. Trong nhiều trường hợp mặc dù tỉ lệ FDI cao trong tổng vốn đầu tư nhưng điều đó không có nghĩa là tác dụng của nó là tích cực đối với nước tiếp nhận đầu tư, mà vấn đề cơ bản là sử dụng vốn đầu tư đó như thế nào cho mang lại hiệu quả cao nhất. Thông thường cứ 1 USD vốn đầu tư nước ngoài cần 3 đến 4 USD vốn đối ứng trong nước, nếu đạt được tỉ lệ này nước tiếp nhận đầu tư hoàn toàn khắc phục được những mặt tiêu cực do FDI mang lại như sự độc quyền của các tập đoàn kinh tế nước ngoài, sự lệ thuộc của các doanh nghiệp trong nước vào phía đối tác. Sự phân biệt nhanh chóng giàu, nghèo, sự can thiệp của các công ty đa quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh vào đường lối phát triển kinh tế của nước sở tại. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng để vốn đầu tư trong nước bằng và có thể lớn hơn vốn đầu nước ngoài và kế hoạch này nằm trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thế kỷ 21.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là cơ sở pháp lý đầu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. (Trước đó Việt Nam có ban hành điều lệ đầu tư NN tại Việt Nam vào năm 1977 với nội dung giàn buộc, chưa đầy đủ...) chỉ trong một thời gian ngắn Luật đầu tư NN năm 1987 của Việt Nam đã được sửa đổi bổ xung qua các năm 1990, 1992, 1996 theo hướng ngày càng hấp dẫn thông thoáng hơn. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và các văn bản hướng dẫn chi tiết được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao so với Luật đầu tư nước ngoài của một số nước trong khu vực. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không hạn chế lĩnh vực đầu tư, nhưng theo qui định chung của pháp luật Việt Nam. Chủ đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước Việt Nam giữ độc quyền hoặc những ngành nghề mà pháp luật Việt Nam cấm kinh doanh.
Trong kỳ họp Quốc hội khoá X Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua văn bản "Sửa đổi bổ xung Luật đầu tư NN tại Việt Nam năm 2000" với nội dung sửa đổi hoàn thiện hơn nữa, Luật đầu tư NN tại Việt Nam, đây là sự phát triển tích cực của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên con đường hoàn thiện và hoàn chỉnh hơn môi trường pháp lý dành cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.
Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sau khi giải phòng hoàn toàn đất nước năm 1975 đến năm 1977 chúng ta đã có bản điều lệ về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên để xây dựng Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987.
Kể từ đó Việt Nam bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ hoạt động sôi nổi của hợp tác đầu tư với nước ngoài. Với sự đổi mới tư duy, chúng ta đã không ngừng làm cho môi trường kinh doanh của chúng ta đi cùng chiều với bạn bè quốc tế, cạnh tranh với họ để không ngừng hoàn thiện mình. Bốn lần sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài năm 1990 - 1992- 1996 - 2000, hàng trăm văn bản dưới luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành, sửa đổi, bổi sung, là những viên gạch góp phần hoàn thiện dần hệ thống pháp luật của chúng ta. Hệ thống pháp luật đó dần cao rộng hơn, thoáng đãng hơn tiện lợi hơn cho những người thụ hưởng để rồi chính những con người đó phục vụ trở lại cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
1. Đầu tư nước ngoài - Vai trò của đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam.
1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài.
- Đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Về bản chất đầu tư quốc tế là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ xung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến quyết định đầu tư. Mặt khác việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại là điều kiện để xuất khẩu máy móc vật tư nguyên liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà. Cùng với hoạt động thương mại quốc tê, hoạt động đầu tư quốc tế phát triển mạnh mẽ đã hợp thành những hoạt động chính trong trào lưu có tính quy luật trong xu thế phát triển kinh tế toàn cầu hiện nay
+ Đầu tư nước ngoài bao gồm hai hình thức:
- Đầu tư gián tiếp nước ngoài.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Khái niệm đầu tư nước ngoài trong Luật đầu tư của Việt Nam được hiểu là đầu tư trực tiếp, tức là " Việc các tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận đề hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài" Đây là quy định thể hiện nhất quán quan điểm trung của các nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, quan điểm này được thông nhất trong khoa học pháp lý của các quốc gia trên thế giới.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn góp bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Sự khác biệt của FDI so với đầu tư gián tiếp là ở vai trò và mức độ tham gia quản lý, điều hành cơ sở kinh doanh của chủ đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp của bên đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn, nếu góp 100% vốn thì cơ sở được đầu tư do bên nước ngoài toàn quyền điều hành. Lợi nhuận thu được sau khi đã trừ thuế và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà sẽ được phân chia cho các bên tham gia tuỳ theo tỷ lệ góp vốn này các nhà đầu tư trực tiếp điều hành quá trình sản xuất kinh doanh cơ sở mà họ đã bỏ vốn đầu tư, đồng thời họ có điều kiện chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm và nguồn cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà, lại tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dich. Với bên tiếp nhận đầu tư, FDI được coi là biện pháp khai thác vốn tốt nhất kèm theo tiếp thu công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
* Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Là việc nhà đầu tư nước ngoài góp vốn kinh doanh vào doanh nghiệp nước sở tại và không tham gia quản lý điều hành cơ sở việc đầu tư đó.
Hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài có nhiều hình thức như: Tín dụng quốc tế, mua trái phiếu, ODA (vốn tài trợ phát triển chính thức)... Trong đó đáng chú ý nhất là ODA - một loại hình đầu tư từ bên ngoài có nhiều đặc thù, phần lớn do các nước công nghiệp phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp.
Các lĩnh vực được ưu tiên đầu tư là các dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho phát triển y tế giáo dục... Ngoài ra đầu tư gián tiếp nước ngoài có những ưu đãi nhất định như: Thời gian vay nợ dài, lãi suất thấp, có một phần được hỗ trợ không hoàn lại và trong mục đích của mình vốn ODA được trợ giúp trên tinh thần nhân đạo. Vì tất cả những lý do nêu trên nên ODA dù là song phương hay đa phương thường gắn với những điều kiện nhất định về chính trị. Do vậy khai thông chính trị là cơ sở để thu hút vốn ODA- đây như là điều kiện tiên quyết của ODA.
Nhìn chung đầu tư gián tiếp nước ngoài tuy có ưu điểm là tránh được rủi do, nhưng các chủ đầu tư lại không được tham gia quản lý điều hành hoạt động đầu tư, mặt khác lợi nhuận thu được không phải là động lực hấp dẫn đối với nước sở tại, nguồn vốn thu được từ đầu tư gián tiếp nước ngoài rất cần thiết nhưng trong thực tế không lớn.
Như vậy có thể nói rằng hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài hoàn toàn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời Việt Nam cũng không thể phát triển và tăng trưởng nền kinh tế mạnh mẽ nếu chỉ trông đợi vào nguồn vốn do hoạt động đầu tư này mang lại.
1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài (FDI) đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hầu hết các nước đang phát triển đều phải đương đầu với sự khan hiếm các yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng nền kinh tế như: vốn, công nghệ và kiến thức kinh doanh. Do vậy để đạt được sự tăng trưởng cao và ổn định nhằm đưa đất nước ra khỏi cảnh nghèo nàn thì các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng phải tìm kiếm các nguồn lực thiếu hụt đó ở các nước công nghiệp phát triển cao, thông qua việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Ở Việt Nam hiện nay nguồn vốn được bổ xung từ bên ngoài gồm FDI và ODA, trong đó FDI là chủ yếu.
Qua việc phân tích quan điểm của các nhà kinh điển về vai trò của FDI ta thấy FDI có những thế mạnh của nó. Dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ, nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư, vai trò này được cụ thể như sau:
- Đối với các nước đầu tư, việc đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả xử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ xuất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài mở rộng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị; thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và tạo thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
- Đối với các nước nhận đầu tư hiện nay có hai dòng chảy của vốn đầu tư nước ngoài. đó là dòng chảy vào các nước phát triển và dòng chảy vào các nước đang phát triển.
+ Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát... qua FDI các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty, doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản, cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách quốc gia, tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác.
+ Đối với các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở những nước này. Theo thống kế của Liên Hợp Quốc số người thất nghiệp và bán thất nghiệp của các nước đang phát triển chiếm khoảng 35% đến 38% tổng số lao động.
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục tình trạng thiếu vốn kéo dài. Như vậy mâu thuẫn giữa như cầu phát triển to lớn với nguồn lực tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá - thời kỳ mà thông thường đòi hỏi đầu tư một tỷ lệ vốn lớn hơn các giai đoạn về sau và càng lớn hơn nhiều lần khả năng tự cung ứng từ bên trong. FDI là phương thức đầu tư phù hợp với các nước đang phát triển, tránh tình trạng tích luỹ quá căng thẳng dẫn đến những méo mó về kinh tế không đáng xảy ra.
Theo sau FDI là máy móc, thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị thường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế - xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với những hoạt động marketinh được mở rộng không ngừng. Do các công ty tư bản độc quyền quốc gia đầu tư vào các nước đang phát triển mà các nước này có thể bước vào thị trường xa lạ, thậm trí có thể xem như " lãnh địa cấm kị " đối với họ trước kia.
FDI giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có khả năng hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
Tuy nhiên theo kinh nghiệm của các nước tiếp nhận đầu tư, bên cạnh những ưu điểm thì đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng có những hạn chế nhất định sau đây:
- Nếu như đầu tư vào môi trường bất ổn về kinh tế và chính trị thì nhà đầu tư nước ngoài dễ bị mất vốn.
- Nếu nước sở tại không có một kế hoạch đầu tư cụ thể và khoa học dẫn đến sự đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá sức và nạn ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng.
- Cũng như các nước đang phát triển, để phá " cái vòng luẩn quẩn" và phát triển kinh tế đòi hỏi Việt Nam phải có biện pháp thu hút vào vốn đầu tư nước ngoài, nhất là FDI.
Ngày 18/04/1977 nước ta thông qua "điều lệ đầu tư nước ngoài"
Ngày 29/12/1987, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội thông qua và được bổ xung ngày 30/06/1990, ngày 23 tháng 12 năm 1992 và ban hành lại Luật đầu tư nước ngoài ngày 12 tháng 11 năm 1996 và gần đây nhất được sửa đổi bổ xung ngày 09 tháng 06 năm 2000. Qua các lần sửa đổi bổ xung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và phù hợp với thực tế phát triển kinh tế Việt Nam và xu hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước khác trong phạm vi khu vực, cũng như phạm vi toàn cầu.
Sở dĩ Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến FDI như vậy, vì đối với Việt Nam, hình thức này có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nó có tác động ảnh huởng tích cực như:
- Giúp thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển nhanh tốc độ nền kinh tế của đất nước. Để đạt được những chỉ tiêu của chiến lược phát triển nền kinh tế xã hội trog những năm tới thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đạt ít nhất 7% và nhu cầu về vốn đầu tư phải từ 2,4 tỷ USD trở lên cho mỗi năm (tức tích luỹ hàng năm phải đạt 22% thu nhập quốc dân). Đây là con số không nhỏ đối với nền kinh tế nước ta, cho nên FDI là nguồn bổ xung quan trọng để phát triển nền kinh tế ở Việt Nam.
- FDI mang lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng những doanh nghiệp và cơ sở sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội của Việt Nam tăng lên và cho phép giải quyết được tình trang thất nghiệp của người lao động. Tính đến hết năm 1997, đã có 2317 dự án đầu tư nước ngoài đươc cấp Giấy phép. Hiện nay cả nước có 1928 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 32,1 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, tăng thu ngân sách nhà nước.
- Thông qua đầu từ nước ngoài nhất là FDI, chúng ta tiếp nhận thành tựu phát triển khoa học - kỹ thuật tiến tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta so với thế giới.
- Nhờ có FDI chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu vốn như khai thác dầu mỏ, khoáng sản...
Ngoài ra, trong quá trình tiếp nhận FDI chúng ta học được kinh nghiệm quản lý kinh doanh và cách làm thương mại trong nền kinh tế thị trường của các nước tiên tiến.
Tóm lại: FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - các văn bản pháp lý trong tiến trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Ngày 18 tháng 4 năm 1977 nước ta thông qua " điều lệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam " đây là văn bản pháp lý đầu tiên về đầu tư của Việt Nam kể từ khi miền Nam được giải phóng đất nước hoàn toàn thống nhất. Nó đã tạo tiền đề cơ bản để nhà nước ta ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là một trong những mốc pháp lý quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa nền kinh tế quốc dân, đa dạng hoá, đang phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Từ khi Luật đầu tư ra đời đến nay đã có một số lần bổ xung và sửa đổi rất kịp thời và phát huy hiệu quả trong việc thu hút vốn FDI đảm bảo sự phù hợp với hoàn cảnh quốc tế mới khi một số nước CNXH trên thế giới đổ vỡ, Việt Nam bị cắt đi những khoản viện trợ từ nước ngoài, do vậy luật đã được sửa đổi và bổ xung liên tục để hấp dẫn các nhà đầu tư, thu thút thêm nguồn vốn đầu tư bổ xung hiệu quả cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam.
Năm 1996 Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã được sửa đổi và thông qua ngày 12/11/1996 để phù hợp với bối cảnh quốc tế - Việt Nam gia nhập tổ chức ASEAN và xu thế toàn cầu hoá trên khắp thế giới.
Trong quá trình thực hiện, Chính phủ đã ban hành Nghị định, chỉ thị, các Bộ ban hành nhiều thông tư hướng dẫn nhằm cải thiện môi trường đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp như: Quy định những lĩnh vực khuyến khích đầu tư có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với những dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích, vấn đề chuyển giao công nghệ, bảo hộ quyền sử hữu công nghiệp, giảm tiền thuê đất, tăng mức ưu đãi về thuế, điều chỉnh tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm nội địa, tăng thời gian lao động xử lý linh hoạt hơn trong việc chuyển doanh nghiệp liên doanh sang hình thức doanh nghiệp có 100% có vốn nước ngoài.
Thực tế đầu tư nước ngoài có vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nó bổ xung một nguồn vốn quan trọng trong đầu tư phát triển nền kinh tế quốc gia.
Đến nay số vốn đăng ký của các nhà đầu tư nước ngoài đã trên 40 tỷ USD và được thực hiện hơn 15 tỷ USD, tạo ra hơn 10 % GDP.
Theo tính toán của các chuyên gia, thì vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 1991 - 2000 chiếm 24,11% tổng nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời khu vực này còn giải quyết việc làm cho hơn 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 40 vạn lao động gián tiếp, ngoài việc thu hút vốn thông qua đầu tư nước ngoài, chúng ta còn tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tiên tiến, công nghệ hiện đại.
Hiện nay đã có hàng ngàn công ty nước ngoài thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam.
Tuy nhiên trong vài năm gần đây đầu tư nước ngoài ở nước ta gặp khó khăn và giảm sút nhất là sau cuộc khủng khoảng kinh tế tài chính từ khu vực châu Á vào năm 1997.
Nhằm tiếp tục tạo dựng môi trường pháp lý đồng bộ, thông thoáng ổn định cho các hoạt động đầu tư, tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới, tiến tới xây dựng một khung pháp luật chung về đầu tư, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đồng thời nhằm mục đich tranh thủ nhiều hơn nguồn vốn và kỹ thuật tiên tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu, Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 7 vừa qua đã thông qua Luật sửa đổi bổ xung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Luật đã bổ xung 2 điều mới và sửa đổi 20 Điều khoản của luật hiện hành. Tiếp đó ngày 31/7/2000, Chính phủ đã có Nghị định 24/2000 NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đến năm 2000 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi và bổ xung thông qua ngày 19/6/2000. Đây là Luật đầu tư được đánh giá cao và tính cạnh tranh hấp dẫn trong khu vực, nó có nội dung quy định thông thoáng hơn đối với các nhà đầu tư, nó là công cụ pháp lý quan trọng tạo nguồn vốn FDI để đất nước ta tiến vào thế kỷ 21.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 được đánh giá là đạo luật thông thoáng, cởi mở đảm bảo cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu tư và quyền tự do kinh doanh, đồng thời đảm bảo nguyên tắc chủ quyền, tuân thủ pháp luật của Việt Nam và bình đẳng cùng có lợi. Luật vừa phù hợp với tình hình nước ta, vừa thích ứng với thông lệ quốc tế, do đó đã có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Một lần nữa, đây là sự thể hiện tính nhất quán và ổn định lâu dài trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đảng và nhà nước ta để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.
Với những quy định pháp lý rõ ràng, những hướng dẫn cụ thể, những ưu đãi đặc biệt trong Luật sửa đổi bổ xung lần này và trong Nghị định 24/2000 NĐ-CP của Chính phủ. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng an tâm và tự tin hơn đầu tư vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển đồng bộ và toàn diện nền kinh tế Việt Nam.
3- Kết luận:
Thông qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ta có thể nhận thấy:
Nhờ có chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng cộng sản Việt Nam đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước góp phần đưa đất nước ta dần dần thoát khỏi khủng khoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ phát triển mới tiến tới công nghiệp hoá và hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong các yếu tố quan trọng tạo ra sự chuyển biến tích cực đó có phần đóng góp to lớn của việc thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kể từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1987, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng cả về số lượng dự án, số vốn đăng ký và số vốn đầu tư được thực hiện. Theo thời gian, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ xung qua các năm 1990 - 1992 - 1996 và năm 2000 theo xu hướng cụ thể, rõ ràng và hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù được ban hành trong điều kiện, bối cảnh còn đầy những khó khăn và trở ngại nhưng Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam không chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển của đất nước ta trong thời gian qua, mà còn đảm bảo trong tương lai, cũng như phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế nên được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao và hết sức quan tâm tìm hiểu nghiên cứu phục vụ cho hoạt động đầu tư của họ tại Việt Nam.
II- LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 2000 - BƯỚC TIẾN MỚI TRONG QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.
Từ khi luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 đã qua nhiều lần bổ xung và sửa đổi, đến Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 của Việt Nam được đánh giá là hoàn thiện và cởi mở với các nước trên thế giới theo xu thế toàn cầu hoá, có sức cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực nên đã được các nhà đầu tư nước ngoài hết sức quan tâm.
1. Nội dung khái quát:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 là luật đã được sửa đổi bổ xung hoàn thiện nhất từ trước tới nay nhằm thu hút có hiệu quả các nhà đầu tư nước ngoài để tiến tới một su thế chung trên toàn thế giới là toàn cầu hoá.
+ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 bao gồm 6 chương và 68 điều.
Chương I: Những quy định chung.
Chương II: Hình thức đầu tư.
Chương III: Biện pháp bảo đảm đầu tư.
Chương IV: Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Chương V: Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.
Chương VI: Điều khoản thi hành.
So với Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 của Việt Nam, đã được bổ xung thêm 2 Điều khoản mới, đồng thời sửa đổi 20 Điều khoản chia ra những quy định mới hoàn thiện hơn, tạo ra sức hấp dẫn và thu hút cao đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Luật sửa đổi bổ xung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2000.
+ Sau khi Luật sửa đổi bổ xung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực ngày 01/07/2000. Chính phủ đã ban hành Nghị định số: 24NĐ - CP/2000 Ngày 31/07/2000 quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Nghị định bao gồm 14 chương và 125 điều.
Chương I: Những quy định chung.
Chương II: Hình thức đầu tư.
Chương III: Triển khai dự án và tổ chức kinh doanh.
Chương IV: Các vấn đề về thuế - Tài chính.
Chương V: Chế độ kế toán, thống kê và bảo hiểm.
Chương VI: Quản lý ngoại hối.
Chương VII: Xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, bảo vệ môi trường.
Chương VIII: Quan hệ lao động.
Chương IX: Đất đai, xây dựng, đấu thầu, nghiệm thu, quyết toán công trình.
Chương X: Thủ tục cấp Giấy phép đầu tư.
Chương XI: Quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư nước ngoài.
Chương XII: Đảm bảo đầu tư và xử lý tranh chấp.
Chương XIII: Khen thưởng và xử lý vi phạm.
Chương XIV: Điều khoản thi hành.
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/08/2000 và thay thế Nghị định số 12 CP ngày 18/02/1997 và Nghị định số 10 NĐ-CP/1998 ngày 23/01/1998 của Chính phủ. Các quy định trước đây trái với Nghị định này đều bị bãi bỏ.
2. Các giải pháp trong tương lai nhằm hiện thực hoá sức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Luật đầu tư năm 2000.
Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 đều chỉnh các vấn đề về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Trong đó các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư được xác định rất rõ ràng, đối tượng tham gia hợp tác đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài gồm:
+ Doanh nghiệp Việt Nam.
a. Doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo luật doanh nghiệp Nhà nước
b. Hợp tác xã được ban hành theo luật HTX.
c. Doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị - xã hội.
+ Cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định.
+ Nhà đầu tư nước ngoài.
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
+ Cơ quan Nhà nước có thểm quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO và BT.
Tiếp theo việc ban hành Luật đầu tư bổ xung và sửa đổi năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 24 NĐ - CP/2000 để hướng dẫn cụ thể việc thực hiện luật đầu tu và để nhanh chóng đưa các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống.
Trong thời gian tới, nhu cầu vốn đầu tư xã hội phục vụ kế hoạch kinh tế 5 năm 2001 - 2005 là rất lớn. Thực hiện chủ trương phát huy vốn và nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài, không chạy theo số lượng mà chủ ý đến chất lượng dự án để đầu tư nước ngoài phục vụ thiết thực mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo hướng đó, Chính phủ Việt Nam tiếp tục khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp, chế biến xuất khẩu và công nghệ cao, công nghiệp cơ khí điện tử những ngành Việt Nam có thế mạnh về nguyên liệu và lao động; ưu tiên các nhà đầu tư có tiềm năng về tài chính và nắm công nghệ nguồn, các dự án công nghệ hiện đại; có chính sách ưu đãi ._.đặc biệt đối với đầu tư vào vùng sâu vùng xa.
Những dự án nằm trong danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư như dự án sản xuất, chế biến xuất khẩu từ 80% trở lên; chế biến nông sản, lâm sản (Trừ gỗ), thuỷ sản từ nguồn nguyên liệu trong nước; nuôi trồng nông lâm thuỷ sản; công nghệ kỹ thuật cao... sẽ được hưởng những ưu đãi cao nhất của Luật đầu tư nước ngoài như nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 10% và miễn giảm trong thời gian 8 năm, thuế chuyển lợi nhuận về nước 3%: được xem xét thuế nhập, tiền thuế đất...
Để thực hiện được định hướng thu hút đầu tư nước ngoài nêu trên, Chính phủ Việt Nam khẳng định quyết tâm tiếp tục xây dựng một môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh cao, đủ sức hấp dẫn dòng đầu tư nước ngoài gia tăng trở lại. Tiếp theo các chính sách trên, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ thực hiện một hệ thống các giải pháp đồng bộ với một số trọng tâm sau đây:
- Đa dạng hoá hình thức đầu tư, mở rộng lĩnh vực đầu tư để mở thêm các kênh mới thu hút đầu tư nước ngoài.
- Tiếp tục điều chỉnh giá, phí một số hàng hoá, dịch vụ tiến tới áp dụng một mặt bằng giá thống nhất đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, tiến tới xây dựng Luật đầu tư chung.
- Bổ xung chính sách ưu đãi có tính cạnh tranh so với các nước trong khu vực và thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
- Đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng cứng (đường, điện, nước, thông tin) cũng như hạ tầng mềm (Tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật công nghệ) để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh.
- Nêu cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; trong đó chú trọng đổi mới vận động xúc tiến đầu tư, nâng cao chất lượng quy hoạch ngành, cải tiến mạnh hơn nữa các thủ tục đầu tư, chấn chỉnh kỷ cương trong việc thực thi pháp luật và tập trung xử lý kịp thời các khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư.
- Chú trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị đạo đức của đội ngũ công chức nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, tăng cường đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp.
Với quan điểm đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam và lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài cũng là lợi ích của nhà nước Việt Nam, do đó trong 10 năm qua Việt Nam đã thu được những thành tựu đáng kể trong hoạt động đầu tư nước ngoài, hy vọng môi trường đầu tư tại Việt Nam sẽ được sưởi ấm, Việt Nam sẽ là điểm đến nhiều hơn của các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Chương II
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
NĂM 2000 - NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
Bước vào thế kỷ 21, các nước trên thế giới, đặc biệt là nước đang phát triển ngày càng nhận thức được, ý nghĩa sống còn của việc thu hút đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đều coi thu hút đầu tư nước ngoài là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước mình. Những khuyến khích ưu đãi đầu tư là nhằm tạo điều kiện thuận lợi và kích thích các nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả. Chính vì vậy vấn đề này ngày càng được các quốc gia chú trọng và coi đây là giải pháp rất quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, xu hướng gia tăng ký kết các Hiệp định về khuyến khích và bảo đảm đầu tư song phương và đa phương, xu hướng tự do hóa và giành thêm nhiều ưu đãi cho đầu tư nước ngoài trong Luật đầu tư nước ngoài của các nước ngày càng phát triển, hoàn thiện. Thực tế này cho thấy nhu cầu và sự cấp thiết hình thành một cơ chế pháp lý quốc tế của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đứng trước bối cảnh đó, để thu hút được đầu tư nước ngoài và đảm bảo lợi ích quốc gia, đòi hỏi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư. Đây là vấn đề trọng tâm đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư đối với nước ta. Vì vậy, việc rà soát hệ thống hóa những nội dung, quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài, loại bỏ những quy định không còn phù hợp, chồng chéo mâu thuẫn nhau để xây dựng một hệ thống quy phạm pháp luật chặt chẽ có hiệu lực thực thi cao là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó phải đồng bộ hóa các chính sách liên quan có tác dụng hỗ trợ như: thuế, tín dụng, thương mại, hành chính. Chúng ta phải đẩy mạnh việc nghiên cứu, bổ xung hệ thống văn bản pháp luật về đầu tư, phù hợp với xu thế chung của luật quốc tế, đặc biệt là các quy định liên quan trực tiếp đến nội dung của Luật đầu tư nước ngoài. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài không chỉ bao gồm thực hiện các biện pháp nói trên mà còn đòi hỏi phải gỡ bỏ sự kiểm soát cứng nhắc của Nhà nước, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của các bên tham gia đầu tư một cách hợp lý, phù hợp với xu thế hiện nay. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài phải tiến hành trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi giữa các bên. Những nước nào không cải thiện được môi trường đầu tư thì nước đó chắc chắn sẽ thu hút được ít vốn đầu tư nước ngoài và gặp khó khăn trong việc tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội. Yếu tố quyết định thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là khung pháp lý, các biện pháp hỗ trợ kinh doanh và các yếu tố kinh tế khác. Nhìn chung ba yếu tố chính tác động đến quyết định đầu tư là: chính sách của nước tiếp nhận đầu tư, các biện pháp tích cực mà nước đó thực hiện để ưu đãi và khuyến khích đầu tư nước ngoài và những đặc tính của nền kinh tế nước đó.
Vì vậy để thu hút được đầu tư nước ngoài chúng ta phải xây dựng được một Bộ luật thống nhất cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hiện nay Việt Nam là một trong số ít nước đang tồn tại cùng một lúc hai Luật đầu tư, điều này không những không phù hợp với xu thế chung của thế giới mà còn gây nên sự bất bình đẳng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó Việt Nam cần phải tăng cường ký kết Hiệp định về đảm bảo khuyến khích song phương và đa phương trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Xuất phát từ những yêu cầu bức thiết đó, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 đã được sửa đổi và bổ xung để phù hợp với hoàn cảnh mới, xu thế mới, khắc phục những hạn chế bất cập hiện thời, hướng các hoạt động đầu tư nước ngoài phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, củng cố địa vị của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các vấn đề pháp lý cơ bản được điều chỉnh trong Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 sẽ được nghiên cứu, phân tích theo một nội dung cụ thể sau đây:
I- PHẠM VI ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ:
Để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và tuân thủ pháp luật Việt Nam bình đẳng và các bên cùng có lợi.
1- Phạm vi và đối tượng điều chỉnh:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987. Từ khi có luật này đến nay đã có một số lần bổ xung và sửa đổi năm 1990 - 1992 - 1996 và gần đây nhất đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, phạm vi và đối tượng điều chỉnh là các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Các hoạt động đầu tư nước ngoài theo hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (viết tắt theo tiếng Anh là BOT). Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO). Hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT): đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Đối tượng tham gia hợp tác đầu tư theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài là:
+ Doanh nghiệp Việt Nam bao gồm
- Doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo Luật doanh nghiệp
- Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã
- Doanh nghiệp thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
- Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân được thành lập theo luật doanh nghiệp.
+ Cơ sở khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học đáp ứng các điều kiện do Chính phủ quy định.
+ Nhà đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp có vốn nước ngoài
+ Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT
"Các đối tượng tham gia hợp tác đầu tư quy định tại điều 24 NĐ-CP-2000 phải tuân thủ quy định của Luật đầu tư nước ngoài, quy định của Nghị định này và các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam".
Hiện nay tình hình đầu tư tại Việt Nam diễn biến khá phức tạp, các thủ tục cấp và xin Giấy phép còn rườm rà chưa thông thoáng, vì vậy đã gây nên sự chậm chạp của các bên đầu tư vào Việt Nam.
Mặt khác để thu hút được hoạt động đầu tư, tạo sức hấp dẫn, Luật đầu tư đã liên tục sửa đổi bảo đảm phù hợp với tình hình mới.
Trong trường hợp cụ thể nào đó về hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà pháp luật Việt Nam chưa có quy định thì các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng luật của nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Hồ sơ dự án đầu tư và các văn bản chính thức gửi các cơ quan Nhà nước Việt Nam được làm bằng tiếng Việt Nam hoặc tiếng nước ngoài thông dụng.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không điều chỉnh các hoạt động tín dụng quốc tế, hoạt động thương mại và các hình thức đầu tư gián tiếp khác (như cho vay vốn phát triển chính thức ODA...) đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là các hoạt động đầu tư trực tiếp được thực hiện thông qua các hình thức, phương thức đầu tư nhất định.
2- Các biện pháp đảm bảo đầu tư:
Đối với các nước đang phát triển, vấn đề thu hút vốn nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng và được nhiều nước rất quan tâm.
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Các biện pháp bảo đảm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, trong Nghị định 24/2000 NĐ-CP của Chính phủ ngày 31/7/2000 đây là những biện pháp đảm bảo đầu tư nước ngoài của Việt Nam (đảm bảo đầu tư đơn phương) còn biện pháp đảm bảo đầu tư được ghi nhận trong các Hiệp định đầu tư mà Việt Nam ký kết với các nước được gọi là biện pháp đảm bảo đầu tư song phương.
2.1- Đảm bảo đối xử bình đẳng, công bằng với các nhà đầu tư:
Đảm bảo đối xử bình đẳng và công bằng là biện pháp có lợi và quan trọng của Nhà nước Việt Nam trong chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thể hiện thiện chí mong muốn hợp tác đầu tư của Nhà nước Việt Nam với tất cả đối tác trên thế giới. Tạo ra một môi trường đầu tư bình đẳng mà ở đó tất cả các nhà đầu tư nước ngoài đều có thể phát huy hết khả năng sản xuất kinh doanh của mình và không có việc đối xử bất bình đẳng nào.
Điều 20 Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 có quy định:
1. "Chính phủ Việt Nam bảo đảm đối đãi công bằng và thỏa đáng đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác, thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó.
2. "Việc ký các thỏa thuận hoặc áp dụng các biện pháp đảm bảo, bảo lãnh về đầu tư chỉ được áp dụng đối với các dự án đặc biệt quan trọng đầu tư theo chương trình của Chính phủ thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dự án đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT và một số dự án đặc biệt quan trọng khác".
Đối xử công bằng được hiểu là nước tiếp nhận đầu tư không có phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài. Cơ sở của sự đảm bảo này xuất phát từ nguyên tắc của luật pháp quốc tế, không phân biệt đối xử trong quan hệ đối với các chủ đầu tư khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Điều này có nghĩa là trong điều kiện hoàn cảnh như nhau thì các nhà đầu tư thuộc các nước bất kể chế độ chính trị, tôn giáo, màu da... đều được hưởng sự đối xử như nhau mà không có sự phân biệt, trừ các trường hợp Chính phủ Việt Nam ký với Chính phủ các nước Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư thì sự đối xử với các nhà đầu tư của các nước kí kết này tuân theo quy định cuả Hiệp định đã kí kết.
Ngoài các chính sách đảm bảo đối xử bình đẳng, công bằng với mọi nhà đầu tư được ghi nhận trong Luật đầu tư năm 2000, Chính phủ Việt Nam còn kí kết các Hiệp định bảo hộ đầu tư với nhiều nước trên thế giới. Điển hình là với nước Cộng hòa Italia.
Các quy định cụ thể trong các Hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư thêm một lần nữa khẳng định chính sách pháp luật đảm bảo đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và khẳng định môi trường đầu tư ổn định và công bằng mà Nhà nước Việt Nam giành cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Đảm bảo đối xử thỏa đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi họ đầu tư vào Việt Nam được hiểu là việc áp dụng tất cả các quy định có tính ưu đãi để hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đạt được lợi nhuận hợp lý thỏa đáng. Khía cạnh này thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau mà Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 quy định như sau:
Không hạn chế tối đa về phần vốn góp của phía nước ngoài, thuế lợi tức, thuế lợi nhuận được quy định ở các mức cụ thể ưu đãi hơn cả các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các dự án vào vùng xa, những lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích đầu tư, các dự án đầu tư theo hình thức BOT, BTO, BT đảm bảo về mặt thời hạn hợp lý để nhà đầu tư kinh doanh công trình thu hồi vốn và có lợi nhuận.
Cụ thể với những quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 không chỉ phù hợp với tình hình trong nước mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong các Hiệp định khuyến khích bảo hộ đầu tư kí giữa Việt Nam và các nước đều có quy định về vấn đề này. Nó được coi như là cản trở về luật pháp và trái với nguyên tắc đổi xử công bằng và thỏa đáng là: những hạn chế trong việc mua bán và vận chuyển nguyên liệu chính, phụ, năng lượng, nguyên liệu cũng như tư liệu sản xuất và kinh doanh khác, hạn chế trong việc mua bán và vận chuyển các sản phẩm cũng như các biện pháp khác có hậu quả tương tự.
Khi đề cập đến các biện pháp đối xử công bằng, bình đẳng không thể không nói đến vấn đề đảm bảo kinh doanh có hiệu quả mà Nhà nước Việt Nam đã giành cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc đảm bảo này được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 đảm bảo kinh doanh có hiệu quả bao gồm:
Thứ nhất: Bảo đảm về thời hạn đầu tư. Trước kia Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định thời hạn kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tối đa là 20 năm, đồng thời quy định trong những trường hợp cần thiết thời hạn có thể dài hơn (Điều 15 Luật đầu tư năm 1987). Tuy nhiên trong thực tế với thời hạn như trên không thể nào thích hợp đối với các dự án xây dựng công trình hạ tầng cơ sở, hoặc có dự án trồng rừng buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải lựa chọn dự án vừa và nhỏ, thời hạn thu hồi vốn nhanh, cho nên không thu hút được nhiều vốn, vừa không phát triển được cơ sở hạ tầng của Việt Nam.
Chính vì vậy Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 đã quy định thời hạn hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể tới 50 năm, trong trường hợp đặc biệt không quá 70 năm. Ngoài ra các dự án theo hình thức BOT, BTO, BT cũng có thời hạn tương ứng để các nhà đầu tư có thể thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý.
Thứ hai: Đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài được chọn đối tác thuộc các thành phần kinh tế Việt Nam để hợp tác đầu tư.
Điều 3 Nghị định 10/CP (23/1/1998) quy định: Nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn dự án đầu tư, hình thức đầu tư, địa bàn đầu tư, tỉ lệ góp vốn pháp định, thị trường tiêu thụ sản phẩm (trừ lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện)
Việc cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam trong thời gian qua đã chứng tỏ nỗ lực và thiện chí của Nhà nước Việt Nam là luôn luôn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ ba: Đảm bảo tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp liên doanh có toàn quyền quyết định chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh thông qua cơ quan lãnh đạo là hội đồng quản trị. Mỗi bên chỉ định Người của mình tham gia hội đồng quản trị, chủ tịch Hội đồng quản trị do các bên thỏa thuận chỉ ra.
Với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, chủ đầu tư tự mình quản lý điều hành doanh nghiệp. Nhà nước Việt Nam không can thiệp và áp đặt bất cứ vấn đề gì liên quan tới quá trình sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới quyền tự chủ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc nhà đầu tư Việt Nam quy định các biện pháp đảm bảo đối xử công bằng và thỏa đáng trong Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 đã tạo nên môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các nhà đầu tư tăng cường bỏ vốn kinh doanh sản xuất, kích thích được sự canh tranh lành mạnh. Đảm bảo cho họ không có sự phân biệt đối xử, mọi nhà đầu tư đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ.
Nhà nước Việt Nam không ưu đãi riêng một đối tác đầu tư và cũng không hạn chế riêng một nhà đầu tư nước ngoài nào kinh doanh sản xuất tại Việt Nam. Mọi nhà đầu tư đều có thể đầu tư vào các lĩnh vực mang lại lợi nhuận và không trái với pháp luật Việt Nam. Nhà nước đảm bảo về mặt pháp lý và quản lý về mặt vĩ mô của nhà đầu tư nước ngoài, chứ không can thiệp sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh.
2.2- Các biện pháp đảm bảo quyền sở hữu tài sản và quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài
Khi tiến hành đầu tư vào các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn lo lắng về sự không ổn định của nền kinh tế kéo theo một loạt các biến động khác về chính trị, chính sách kinh tế đối ngoại của các nước này và tất cả các vấn đề đó đều ảnh hưởng trực tiếp đến vốn và tài sản của họ.
Pháp luật về đầu tư của Việt Nam đã quy định các biện pháp đảm bảo cơ bản đối với quyền sở hữu tài sản và quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài: Ngay tại điều 1 Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 quy định:" Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài; tạo điều kiện thuận lợi và quy định thủ tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam"
Quyền sở hữu tài sản là một quyền cơ bản và quan trọng nhất của người công dân, đã được Bộ luật dân sự năm 1995 nước ta ghi nhận và bảo hộ - không ai có quyền xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác. Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 quy định bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài tạo ra cơ sở pháp lý ổn định để họ an tâm tin tưởng vào chính sách pháp luật của Việt Nam. Mọi tài sản, vốn đầu tư lợi ích hợp pháp khác của các nhà đầu tư nước ngoài đều thuộc quyền quản lý và sử dụng riêng của họ. Nhà nước Việt Nam có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ, tránh mọi sự xâm hại tới quyền sở hữu của họ.
Phần 1 điều 21 Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 quy định:"Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam". Cụ thể là Nhà nước Việt Nam bảo hộ bí mật thương mại, thương hiệu, biểu hiện cho các sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các phát minh sáng chế, các bí quyết kinh doanh đều thuộc quyền sử dụng của các doanh nghiệp đã được cấp bằng bảo hộ, tránh sự lợi dụng khai thác của các doanh nghiệp, tập đoàn khác làm ảnh hưởng tới uy tín khả năng kinh doanh và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Mọi sự xâm hại quyền sở hữu công nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài đều bị pháp luật Việt Nam trừng trị thích đáng như bắt bồi thường thiệt hại, xin lỗi, cải chính công khai. Nếu nghiêm trọng có thể bị truy tố trước pháp luật.
Phần 1 điều 21 Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 quy định:"Quá trình đầu tư vào Việt Nam vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc bị tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa".
Trong quá trình các nhà đầu tư mang vốn vào xây dựng các dự án sản xuất kinh doanh thì họ lo lắng nhất là vốn và tài sản có được Nhà nước sở tại bảo hộ hay không và bảo hộ như thế nào? Với quy định trên trong Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 đã giúp họ hóa giải được nỗi lo lắng đảm bảo cho họ vững tin đầu tư vốn sản xuất kinh doanh.
Quốc hữu hóa được hiểu là phương thức cải tạo, chế độ tư hữu thành sở hữu Nhà nước là một việc mang tính chất chính trị pháp lý. Việc đó có ý nghĩa xã hội hóa sản xuất về mặt pháp lý cho phù hợp với ý muốn của quốc gia quốc hữu hóa. Nhưng nó làm thiệt hại đến lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài.
Quy định không quốc hữu hóa đối với vốn và các lợi ích hợp pháp khác của các nhà đầu tư nước ngoài được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chính là tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài phát triển tối đa năng lực của mình, mạnh dạn đầu tư vốn sản xuất kinh doanh. Có thể nói biện pháp đảm bảo đối với quyền sở hữu tài sản và quyền sở hữu công nghiệp của các nhà đầu tư nước ngoài đã được pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng.
Nhà nước chỉ tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm pháp luật Việt Nam, xung vào công quỹ Nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến hành vi vi phạm pháp luật ở Việt Nam.
Ví dụ:"Lợi dụng đầu tư sản xuất kinh doanh để hoạt động gián điệp, tẩy rửa tiền, buôn bán hàng phi pháp. Pháp luật Việt Nam đảm bảo không tịch thu vốn và tài sản hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng mọi hoạt động sản xuất kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm theo pháp luật.
Như vậy các biện pháp đảm bảo đối với quyền sở hữu tài sản và quyền sở hữu công nghiệp được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản có liên quan về cơ bản đã phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế và tình hình hoạt động đầu tư trong nước. Nhìn chung các nhà đầu tư nước ngoài có những động cơ không giống nhau khi đầu tư vào những địa bàn khác nhau, mặc dù họ phàn nàn về hệ thống thị trường Việt Nam (thị trường vốn, lao động, cơ sở hạ tầng...) chưa hoàn chỉnh nhưng trước khi vào Việt Nam họ đã có những đánh giá nhất định, tìm hiểu kĩ thị trường, cân nhắc lợi hại... làm cách nào để thu được lợi nhuận nhiều nhất.
Về cơ bản họ có những nhận xét tích cực khi nghiên cứu các biện pháp bảo đảm đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2.3- Biện pháp bảo đảm trong trường hợp thay đổi pháp luật gây thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài.
Một vấn đề thường xảy ra trong quá trình quản lý Nhà nước là việc thay đổi chính sách và pháp luật khi có điều kiện mới xuất hiện. Có trường hợp có lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cũng có trường hợp gây thiệt hại cho họ. Chính vì vậy, Nhà nước có quy định đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài không bị thiệt hại trong trường hợp có thay đổi pháp luật. Khoản 1 điều 21a Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 có quy định:"Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tiếp tục được hưởng các ưu đãi được quy định trong Giấy phép đầu tư của luật này hoặc được Nhà nước giải quyết thỏa đáng theo các biện pháp sau:
a) Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án:
b) Miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật
c) Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
d) Được xem xét bồi thường thỏa đáng trong một số trường hợp cần thiết"
Trong nền kinh tế thị trường còn non trẻ của Việt Nam, những biến động thay đổi là không thể tránh khỏi. Chính vì vậy đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là việc làm cần thiết nhằm tạo ra sự an tâm, tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài đối với chính sách pháp luật Việt Nam. Biện pháp này đã thể hiện được tính đúng đắn khi áp dụng trong thực tiễn và được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá rất cao. Nó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Quan điểm này được cụ thể hóa tại Khoản 1 Điều 121 Nghị định 24/2000 NĐ-CP của Chính phủ.
Như vậy việc hoàn thiện hệ thống pháp Luật đầu tư nước ngoài không nằm ngoài chính sách thu hút FDI lâu dài của Việt Nam, tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài, đây không phải là những hứa hẹn suông của Chính phủ nước sở tại mà còn bằng những quy định cụ thể có hiệu lực thực thi cao. Trong nền kinh tế thị trường, luôn có sự vận động và thay đổi xảy ra mà các nhà làm luật không thể lường trước được, nên các quy định trên đã tạo ra sự yên tâm tin tưởng cho các nhà đầu tư khi Nhà nước trước yêu cầu phải thay đổi bổ xung, đề ra các chính sách pháp luật mới cũng không gây thiệt hại tới các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, đảm bảo cho các nhà đầu tư là một biện pháp nhằm thu hút FDI ngày càng nhiều vào Việt Nam góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển.
Qua đó ta thấy Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 là rất thông thoáng, có tính canh tranh cao so với Luật đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực, đồng thời những quyền lợi của các nhà đầu tư được Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm và bảo hộ chặt chẽ.
2.4- Biện pháp đảm bảo liên quan tới chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thanh toán khác ra nước ngoài.
Bản chất của FDI và các hoạt động đầu tư quốc tế là tìm kiếm lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu. Khi đã thu được lợi nhuận, đương nhiên các chủ đầu tư có toàn quyền sử dụng khoản lợi nhuận đó theo các hướng khác nhau. Hoặc là chuyển lợi nhuận về nước hoặc là tái đầu tư để đạt lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên hoạt động chu chuyển này không được tiến hành tuỳ tiện mà vẫn chịu sự quản lý của Nhà nước sở tại thông qua các quy định của Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản khác có liên quan điều chỉnh lĩnh vực này.
Nói chung Nhà nước Việt Nam rất cởi mở trong việc quy định cho phép các chủ đầu tư chuyển ra nước ngoài các khoản thu nhập hợp pháp của họ. Cụ thể như sau:
Điều 22 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 quy định: Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được chuyển ra nước ngoài:
1- Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh
2- Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật dịch vụ.
3- Tiền gốc và lãi của các khoản vay nước ngoài trong quá trình hoạt động
4- Vốn đầu tư
5- Các khoản tiền và tài sản khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình.
Việc quy định các biện pháp đảm bảo trên thể hiện sự quan tâm ưu đãi của Nhà nước Việt Nam tới lợi nhuận và tài sản của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Giúp cho các nhà đầu tư sử dụng vốn, lợi nhuận của mình một cách có hiệu quả nhất. Các biện pháp bảo đảm này còn giúp cho các nhà đầu tư nước ngoài dịch chuyển vốn nhanh, đáp ứng nhu cầu cần thiết tránh được rủi ro trong kinh doanh.
Điều 23 Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 còn quy định:
"Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc làm việc cho các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, sau khi nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật được chuyển ra nước ngoài khoản thu nhập hợp pháp của mình".
Như vậy bên cạnh những biện pháp bảo đảm về quyền sở hữu tài sản và quyền sở hữu công nghiệp thì biện pháp bảo đảm đối với việc chuyển vốn, lãi và các khoản thu nhập hợp pháp khác về nước, thực sự đã loại bỏ được những tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư nước ngoài về môi trường pháp lý đang phát triển như ở Việt Nam.
II- CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Hiện nay hầu hết chính sách thu hút trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới đều phải dựa trên hai yếu tố đó là tình hình kinh tế trong nước và luật pháp đầu tư phải phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Bước vào thập kỷ 90, nhờ thực hiện chính sách đổi mới do Đại hội Đảng VII đề ra, nên tình hình nước ta có một số chuyển biến tích cực. Kết quả đã tạo ra động lực mới trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, giải quyết căn bản vấn đề lương thực và từng bước đẩy lùi lực lượng lạm phát. Đây là thuận lợi có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế đối ngoại, đồng thời nhờ thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, nước ta từng bước phá thế bị động,bao vây cấm vận, vượt qua nhiều khó khăn và thách thức để mở rộng các quan hệ hợp tác với bên ngoài. Cho đến nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao với trên 160 quốc gia, trong đó có tất cả các cường quốc và trung tâm kinh tế lớn trên thế giới, kể cả 5 nước thường trực hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Thời gian qua nước ta cũng đã tích cực tham gia quá trình hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế thông qua việc ra nhập ASEAN, ký Hiệp định hợp tác chung với liên minh Châu Âu (EU), là quan sát viên tổ chức thương mại quốc tế (WTO), tham gia các cuộc họp cấp cao Á - Âu (ASEM) và tham gia các diễn đàn quốc tế về hợp tác tiểu vùng, khu vực và toàn cầu. Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN Việt Nam đã chính thức gia nhập khu vực Mậu dịch tự do (AFTA) sự kiện này tạo cho Việt Nam một thị trường rộng lớn, tạo ra những khả năng tăng cường hợp tác thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn, góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế và cải thiện môi trường kinh doanh của đất nước.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 được ban hành trong bối cảnh toàn cầu hóa, đã giành những quy định rất ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình đầu tư vào Việt Nam. Điều 1 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 có quy định:" Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và tuân thủ pháp luật của Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi..." các hình thức đầu tư được đánh giá là đa dạng và đều là những hình thức phổ biến. Trên th._.o quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, lĩnh vực, tính chất, quy mô của dự án đầu tư, quyết định việc phân cấp Giấy phép đầu tư cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quy định việc cấp Giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất.
Điều 59 được sửa đổi là:
Các bên hoặc một trong các bên hoặc nhà đầu tư nước ngoài gửi cho cơ quan cấp Giấy phép đầu tư hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư theo quy định của Chính phủ.
Điều 60 được sửa đổi là:
Cơ quan cấp Giấy phép đầu tư xem xét đơn và thông báo quyết định cho nhà đầu tư trong thời hạn 45 ngày đối với các dự án thuộc diện thẩm định cấp Giấy phép đầu tư, 30 ngày đối với các dự án thuộc diện đăng ký cấp Giấy phép đầu tư kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Quyết định chấp thuận được thông báo dưới hình thức Giấy phép đầu tư.
Giấy phép đầu tư đồng thời là Giấy phép chứng nhận đăng ký kinh doanh".
Điều 63 được sửa đổi như sau:
Doanh nghiệp, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh, có đóng góp lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, tổ chức, cá nhân, cán bộ công chức, cơ quan Nhà nước vi phạm các quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy địnhcủa pháp luật.
Điều 64 được sửa đổi như sau:
1. Việc thanh tra hoạt động của doanh nghiệp phải được thực hiện đúng chức năng, đúng thẩm quyền và tuân thủ quy định của pháp luật.
2. Việc thanh tra tài chính không được quá 1lần trong 1 năm đối với một doanh nghiệp.
Việc thanh tra bất thường chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng doanh nghiệp vi phạm pháp luật.
Khi tiến hành thanh tra phải có quyết định của người có thẩm quyền, khi kết thúc thanh tra phải có biên bản kết luận thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra chịu trách nhiệm về nội dung biên bản và kết luận thanh tra.
Người ra quyết định thanh tra không đúng pháp luật hoặc người lợi dụng việc thanh tra để vụ lợi, sách nhiễu, gây phiền hà cho hoạt động của doanh nghiệp thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
3. Nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tổ chức, cá nhân được quyền khiếu nại, khởi kiện đối với các quyết định và hành vi trái pháp luật gây khó khăn phiền hà của cán bộ công chức, cơ quan Nhà nước. Việc khiếu nại, khởi kiện và việc giải quyết khiếu nại phải được thực hiện theo quy định của pháp luật".
Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam căn cứ vào những quyết định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000, có thể kí thỏa thuận với nhà đầu tư nước ngoài hoặc đưa ra các biện pháp đảm bảo bảo lãnh về đầu tư.
Các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này và các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng, việc áp dụng luật của nước ngoài nếu việc áp dụng luật của nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
3- Đánh giá chung:
Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ lúc ra đời cho đến nay đã gần 14 năm, với các quy định thông thoáng, hấp dẫn về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, đảm bảo được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo vệ được chủ quyền và lợi ích của Nhà nước và các tổ chức kinh tế Việt Nam, phù hợp với thực tế đất nước nên đã đáp ứng được nhu cầu mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài những điều kiện ưu đãi đảm bảo vốn đầu tư của họ, đồng thời hấp dẫn họ bằng việc đưa ra Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 với các quy định mới và quy định được sửa đổi phù hợp.
Từ khi Luật đầu tư năm 2000 được áp dụng nó càng chứng tỏ những ưu điểm hơn hẳn so với Luật đầu tư năm 1996 luật đã được bổ xung 2 Điều và sửa đổi 20 Điều để phù hợp với hoàn cảnh mới của đất nước khi chúng ta vừa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á.
Đầu tư nước ngoài năm 2000 bước đầu đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trưởng trở lại. Tổng vốn đăng ký, kể cả cấp mới và bổ xung trong năm 2000 đạt 2,398 tỉ USD, so với năm 1999 tăng 9%, trong đó:
- Cấp mới: trên địa bàn cả nước có 344 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp Giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng kí đạt 1,973 tỉ USD so với năm 1999, vốn đăng kí cấp mới tăng 26%, số dự án tăng 11%.
- Tăng vốn:Có 153 dự án điều chỉnh tăng vốn, với tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt 425,6 triệu USD. So với năm 1999, số dự án xin tăng vốn bằng 94% và số vốn tăng thêm bằng 68%.
Sự phục hồi bước đầu của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2000 là một dấu hiệu đáng khích lệ trong bối cảnh đầu tư quốc tế vào nước ASEAN suy giảm và trong điều kiện môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn những hạn chế.
Có thể nói kết quả này là do tác động tích cực của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sau khi đã được sửa đổi và bổ xung kịp thời trong tình hình bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi, đã có những giải pháp cải thiện môi trường pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
II- NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI - NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài được nhiều quốc gia coi là chính sách quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế. Đối với Việt Nam điều đó càng quan trọng và cấp thiết hơn khi nguồn vốn này sẽ thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được ban hành lần đầu tiên vào ngày 29/12/1987 và đã được sửa đổi bổ xung nhiều lần 1990 - 1992 - 1996 và gần đây nhất là năm 2000. Làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể so với những năm đầu ban hành Luật đầu tư. Dưới góc độ cạnh tranh lành mạnh, môi trường đầu tư phải có tính hấp dẫn cao, hoặc phải có tính khác biệt tích cực so với các nước có điều kiện tương tự để thu hút tốt hơn các nhà đầu tư nước ngoài. Từ góc độ nghiên cứu đó, cần phải có các phương án cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư trong hiện tại và tương lai. Trên thị trường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực châu Á hiện nay những đối thủ cạnh tranh trực tiếp chủ yếu với Việt Nam là Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN, do đó chúng ta cần phải nâng cao hiệu quả của Luật đầu tư nước ngoài, cần phải cải thiện môi trường chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường pháp lý để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
1. Môi trường chính trị - xã hội và kinh tế.
1.1- Môi trường chính trị - xã hội:
Từ nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của môi trường chính trị - xã hội trong việc phát triển kinh tế-xã hội nói chung và thu hút FDI vào trong nước nói riêng. Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, coi đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Xét cả về lịch sử và thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho thấy: Chính sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công trong hơn 70 qua không tránh khỏi có lúc Đảng mắc sai lầm, khuyết điểm, song rõ ràng là ở đâu, khi nào buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng thì khi đó sẽ dẫn đến khó khăn thất bại. Trong điều kiện hiện nay, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng làm tiền đề cho việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trên các lĩnh vực từ quản lý kinh tế đến quản lý xã hội. Kiên định con đường đã lựa chọn, Việt Nam xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh đi lên CNXH là phù hợp với xu thế của thời đại, là ước mơ ngàn đời của dân tộc.
Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước của dân, do dân, vì dân mới thực sự đưa lại ổn định chính trị xã hội, hạn chế đi đến xóa bỏ xung đột xã hội; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia dân tộc.
Trong khi tình hình chính trị trong nước ổn định vững chắc thì tình hình xã hội vẫn còn nhiều tiêu cực và yếu kém. Hiện tại và tương lai cần quan tâm giải quyết tình trạng tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội nghiêm trọng khác. Vấn đề thiếu việc làm gay gắt, phân hoá giàu nghèo tăng nhanh, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội yếu kém cũng đang là yếu tố tiềm ẩn cho sự mất ổn định, làm giảm thành quả của sự nghiệp đổi mới nếu không được xử lý tốt. Những giải pháp cơ bản là: Nhất quán chính sách đối với đầu tư nước ngoài. Cần tiếp tục thực hiện tốt phương thức mà Đảng cộng sản đã đề ra ngay từ Đại hội VI " Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố Luật đầu tư cần có những chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt Kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh".
Việt Nam mặc dù "đi sau" trong hoạt động thu hút FDI, nhưng hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động FDI cũng đang ngày càng được hoàn thiện. Với việc ban hành Luật đầu tư năm 1987 và đã qua các lần sửa đổi 1990 - 1002 - 1996 và gần đây nhất là năm 2000 cùng với hơn 100 văn bản dưới luật, liên quan trực tiếp đến hoạt động FDI, tại Việt Nam thì đây là điều kiện thuận lợi đầu tiên. Tuy nhiên trong điều kiện môi trường đầu tư trong khu vực luôn thay đổi, các nước trong khu vực thường xuyên cải thiện môi trường pháp lý tăng tính hấp dẫn đầu tư thì Việt Nam cần phải có đối sách hợp lý. Đó là: "Cần mạnh dạn hơn nữa trong việc tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam theo xu hướng tăng thêm ưu đãi về tài chính cho nhà đầu tư đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ những điều kiện liên quan đến sự phát triển bền vững (như yếu tố xã hội - môi trường). Để cải thiện môi trường pháp lý đòi hỏi một mặt phải tạo điều kiện thông thoáng về pháp lý cho hoạt động đầu tư cả theo nghĩa là ban hành quy chế mới, cả theo nghĩa là dỡ bỏ những quy chế không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Giải pháp trên không chỉ đòi hỏi có sự bổ xung thêm những văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư mà trên hết là tăng cường pháp chế để đảm bảo cho pháp luật vận hành có hiệu quả, vừa bảo vệ lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, vừa bảo vệ lợi ích của Nhà nước và người lao động theo đúng tinh thần mọi người đều bình đẳng trước pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết quốc gia.
1.2- Môi trường kinh tế:
Nếu như môi trường chính trị - xã hội ngày càng hoàn thiện được coi là điều kiện cần, là nhân tố tiên quyết cho việc hấp dẫn và thu hút FDI vào trong nước thì môi trường kinh tế tạo điều kiện cho kinh doanh thuận lợi được coi là điều kiện đủ đảm bảo cho hoạt động FDI có hiệu quả. Hoạt động FDI có hiệu quả sẽ kích thích việc thu hút tiếp các dự án FDI cũng như khởi thông dòng chảy của các nguồn vốn khác cho quá trình tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Để tạo môi trường kinh tế cần áp dụng các giải pháp như- xây dựng chiến lược kinh tế hướng ngoại đúng đắn; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội để thu hút FDI, lựa chọn đối tác nước ngoài và xây dựng đối tác trong nước để chủ động tiếp nhận đầu tư và từng bước đầu tư ra bên ngoài; sử dụng linh hoạt các công cụ đòn bẩy kinh tế.
Trong suốt những năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã thưc hiện chiến lược kinh tế mở, phát triển một nền kinh tế thị trường rộng khắp cả nước và vươn ra thị trường thế giới. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại thương với hơn 100 nước và khu vực trên thế giới; tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu; thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại và tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược kinh tế "mở" không chỉ biểu hiện trong quan hệ với bên ngoài mà cả trong nội bộ nền kinh tế, khuyến khích tự do lưu thông hàng hóa theo đúng quy luật cung cầu, quy luật giá trị phù hợp với sự phát triển và hoàn thiện hệ thống thị trường đồng bộ. Những gì làm được trong thời gian qua còn xa mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi thực tế trong quá trình vận hành, xây dựng chiến lược kinh tế mở. Trong thời gian tới cần hướng tới những vấn đề sau:
Một là: Kiên trì theo đuổi chính sách công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, chấp nhận cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế; từng bước tham gia đầy đủ vào quá trình phân công lao động quốc tế với những bước đi thích hợp.
Hai là: Thúc đẩy nhanh quá trình hình thành hệ thống thị trường đồng bộ, bao gồm thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường sức lao động... gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế mà trước hết là thị trường khu vực ASEAN.
Ba là: Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực đảm bảo ổn định cho hợp tác đầu tư và phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Cũng như các nước ASEAN khác chiến lược kinh tế cần ưu tiên quan hệ với các nước lớn ở khu vực và trên thế giới, các nước vốn là thị trường truyền thống và trong nội bộ ASEAN.
Tóm lại; Để tạo môi trường kinh tế thuận lợi cho thu hút FDI phải có chiến lược kinh tế hướng ngoại đúng đắn, phát triển kinh tế thị trường, từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, lựa chọn đối tác nước ngoài và tạo lập đối tác trong nước phù hợp với yêu cầu, đây sẽ là những điều kiện để thực hiện thành công chính sách thu hút FDI vào trong nước.
Mặc dù quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam còn mất cân đối lớn, xuất khẩu hàng hoá, vốn, dịch vụ... ra nước ngoài còn thấp hơn nhiều so với nhập khẩu hàng hóa kỹ thuật, vốn, dịch vụ các loại vào trong nước; song sẽ là khiếm khuyết nếu không thúc đẩy nhanh quá trình hạn chế sự mất cân đối này. Thực tế các nước đã cho thấy một quốc gia càng có khả năng xuất khẩu lớn, đầu tư ra bên ngoài lớn càng có khả năng nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn vào trong nước, tạo ra khả năng tiềm tàng để tham gia vào hợp tác khu vực một cách có hiệu quả hơn. Muốn vậy cần phải nhanh chóng xác lập, hoàn thiện cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ với các nước lớn trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước như một động lực nội tại cho phát triển kinh tế đối ngoại.
2- Môi trường pháp lý:
Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư đã và đang hình thành, nhưng điều khó khăn nhất là khoảng cách khá lớn giữa pháp luật và thực thi pháp luật.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tháng 12/1987 đã được sửa đổi và bổ xung vào các năm 1990 - 1992 - 1996 và năm 2000. Cùng với nó là hàng trăm văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài đã góp phần hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động này đi đúng mục tiêu định hướng của Chính phủ Việt Nam. Nhìn chung về ưu điểm của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài ở Việt Nam kể cả văn bản pháp luật cao nhất (Hiến pháp) đều có những Điều khoản đảm bảo không quốc hữu hóa tịch thu, xung công quỹ... nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư. Mặt khác những quy định này cũng nhằm từng bước bảo đảm sự công bằng giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. Tuy nhiên các quy định pháp lý này được thể hiện ở quá nhiều văn bản và bị thay đổi khá nhanh chóng gây nhiều khó khăn cho việc tìm hiểu chính sách để đi tới đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Có những văn bản, những Điều khoản mâu thuẫn với nhau, có những quy định mà các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng không phù hợp như trường hợp nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bị chịu 2 lần thuế (khi nộp thuế lợi nhuận và khi nộp thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài). Sự yếu kém của hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài của Việt Nam không chỉ ở chỗ thiếu luật mà chủ yếu là ở chỗ có khoảng cách khá lớn giữa các văn bản pháp luật với việc thực thi pháp luật nguyên nhân cơ bản nhất là do trình độ hiểu biết về pháp luật của chúng ta còn hạn chế, thậm chí ngay cả những người có trách nhiệm giải quyết những công việc về pháp lý có khi cũng chưa am hiểu kĩ lưỡng. Chính sự không rõ ràng trong một số văn bản pháp luật và sự yếu kém của cán bộ vừa làm chậm trễ công việc, vừa làm mảnh đất tốt cho các tệ nạn tiêu cực phát triển, làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư, đồng thời không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu để bảo vệ lợi ích các bên khi có sự vi phạm hợp đồng xảy ra.
Về hình thức đầu tư và đối tác đầu tư: Nhiều người nước ngoài cho biết Việt Nam có nhiều tiến bộ hơn các nước trong khu vực (khi so sánh với MIANMAR, Lào, CămPuchia) vì có nhiều hình thức đầu tư, song nếu lựa chọn hình thức 100% vốn nước ngoài thì các nhà đầu tư nước ngoài ít được ưu đãi về đất đai cụ thể là giá đất cho thuê ở trong các khu chế xuất, khu công nghiệp khá cao (chưa nói đến chất lượng kết cấu hạ tầng phụ trợ cho xây dựng và hoạt động của xí nghiệp ở đó chưa đảm bảo). Cả về lý luận và thực tiễn hoạt động đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN thời gian qua đều chỉ rõ: Việc lựa chọn hình thức đầu tư không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan, theo đó vấn đề đặt ra không phải là hình thức mà là mục tiêu cụ thể phải đạt được. Trong số đối tác trong nước tham gia liên doanh, các doanh nghiệp Nhà nước có lợi thế hơn hẳn do được dùng đất để góp vốn nên trở thành những đối tác chủ yếu (trong khi có rất ít doanh nghiệp ngoài quốc doanh trở thành đối tác trong các dự án liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài). Mặt khác, do yếu kém chủ quan khiến đối tác Việt Nam không làm tròn nhiệm vụ trở thành đối tác bình đẳng với nước ngoài dẫn đến nhiều thua thiệt cho phía Việt Nam và theo đó làm xấu đi môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam nếu không có sự chấn chỉnh kịp thời.
Môi trường kinh doanh không hoàn thiện:
Thể hiện ở sự vận hành trong chính sách hướng ngoại chưa nhất quán đi liền với chính sách bảo hộ hàng nội địa chưa hiệu quả, dẫn đến vừa không khuyến khích sản xuất trong nước, vừa không nâng cao tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm của xí nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc xây dựng một thị trường đồng bộ bao gồm thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tài chính- tiền tệ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học công nghệ còn chậm. Sự hoạt động kém hiệu quả của thị trường cũng là yếu tố ngăn cản quá trình thu hút FDI. Mặt khác hệ thống đòn bẩy kinh tế chưa nhanh nhạy, vừa ít có tác động thu hút FDI, vừa khó điều chỉnh hoạt động đầu tư và cơ cấu đầu tư thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế; chẳng hạn như chính sách ưu đãi về miễn giảm thuế và tiền thuê đất chưa đủ mạnh để thu hút đầu tư vào miền núi, vào vùng nông thôn, khiến các dự án còn tập trung chủ yếu vào các đô thị lớn.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Khi bước vào thế kỷ 21, các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển ngày càng nhận thức được ý nghĩa sống còn của việc thu hút đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đều coi thu hút đầu tư nước ngoài là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước mình. Đứng trước bối cảnh đó để thu hút được đầu tư nước ngoài và đảm bảo lợi ích quốc gia mình đòi hỏi Việt Nam phải có chính sách đúng đắn, tạo môi trường pháp lý thuận lợi và hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ lúc ra đời cho đến nay đã hơn mười năm, với các quy định thông thoáng hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, lại đảm bảo được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bảo vệ được chủ quyền và lợi ích của Nhà nước và các tổ chức kinh tế Việt Nam phù hợp với thực tế đất nước nên đã đáp ứng được nhu cầu mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài những điều kiện ưu đãi đảm bảo vốn đầu tư của họ đồng thời hấp dẫn họ bằng việc đưa ra các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài tại nước ta.
Trong suốt những năm từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 cho đến 1996, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đều tăng nhanh đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.
Từ những năm 1997 - 1999, dòng vốn FDI bị chững lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á; đến nay có xu hướng tăng trở lại, đó là tín hiệu đáng mừng vì chúng ta đã có một môi trường pháp lý hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tuy vậy việc tạo ra môi trường pháp lý để hấp dẫn đầu tư phải là một quá trình từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, từ hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Việc bổ xung hoàn thiện hơn nữa môi trường pháp lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là hết sức cần thiết và cần phải thực hiện ngay. Chính vì vậy trong cuộc họp Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 7 ngày 9/6/2000 các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi bổ xung với những nội dung rất quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế và hoàn thiện hơn Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Từ thực tế thu hút FDI vào Việt Nam trong những năm qua, qua nghiên cứu Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, em thấy cần đưa ra những kiến nghị sau:
Thứ nhất: Để tăng thêm khả năng huy động vốn trong nước, nước ngoài cho khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhà nước cần có chính sách cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mua bán cổ phiếu như đối với các doanh nghiệp trong nước hiện nay khi có đủ các điều kiện.
Thứ hai: Một trong những mục đích chính của việc mở cửa nền kinh tế, khuyến khích việc đầu tư nước ngoài là thu hút công nghệ hiện đại từ các nước tiên tiến để nâng cấp và phát triển nền sản xuất trong nước. Do vậy, chuyển giao công nghệ là một trong những nội dung quan trọng trong các dự án đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư trực tiếp dưới các hình thức liên doanh hoặc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Để thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ, làm cho hoạt động này góp phần xứng đáng vào quá trình đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, đẩy mạnh áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và phát triển hoạt động ứng dụng công nghệ cao - một định hướng chiến lược trong phát triển chiến lược kinh tế - thì theo em trước mắt phải giải quyết một số vướng mắc sau:
- Nhanh chóng sửa đổi, bổ xung những quy định còn chưa hợp lý trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về chuyển giao công nghệ.
- Hoàn thiện quy định về thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ và thực hiện nghiêm túc việc phát hiện và xử lý vi phạm về chuyển giao công nghệ.
- Đẩy nhanh, rút ngắn thời gian thẩm định đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ. Thẩm định viên và các cơ quan có thẩm quyền trong việc đăng ký, phê duyệt phải đặt niềm tin vào doanh nghiệp tháo gỡ mọi rào cản để doanh nghiệp không e ngại việc đầu tư.
- Cần có những quy định ưu đãi hơn nữa về thuế đối với các hoạt động chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ thuộc trình độ tiên tiến của thế giới.
Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa những cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động chuyển giao công nghệ với những nhà tư vấn, giúp họ phát huy được vai trò tích cực của mình trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về chuyển giao công nghệ.
PHỤ LỤC 2
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
(Từ 02/01/2000 đến 20/12/2000)
---------
+ Vốn tính tại thời điểm cấp Giấy phép ban đầu
+ Không tính đến các dự án đầu tư ra nước ngoài.
+ Các tỉnh và KCN lấy theo số liệu đã nhận được
+ Đơn vị tính: 1000 USD
I- Theo nước và vùng lãnh thổ:
STT
TÊN NƯỚC
VÀ VÙNG LÃNH THỔ
SỐ DỰ ÁN
TỔNG VỐN ĐT
VỐN
PĐ
VIỆT NAM GÓP
NƯỚC NGOÀI GÓP
1
Anh
5
586 660
583225
0
225
2
Ấn độ
1
507 000
507000
0
0
3
Đài Loan
116
244 259
108989
990
97099
4
British VirginIslands
19
111 949
45637
500
43137
5
Nhật bản
24
77 894
37458
6265
29943
6
Hàn Quốc
30
61 463
42396
1076
13277
7
Úc
5
54 900
29740
0
29740
8
Liên Bang Nga
3
53 509
4500
429
4580
9
Pháp
8
38 260
8444
115
2828
10
Mỹ
12
26 446
17095
638
16008
11
Canyma Islands
2
18 100
18000
0
0
12
Singapoe
12
16 805
10313
828
8485
13
Trung Quốc
13
15 376
12034
1582
10432
14
Thái Lan
7
15 340
8914
2874
5616
15
Hồng Kông
10
14 524
4974
119
4705
16
Hà Lan
3
10 550
3195
0
3195
17
Bermuda
1
10 000
5000
0
5000
18
CH Mauritius
1
9 000
5100
0
5100
19
Áo
1
8 000
8000
0
8000
20
Malaixia
10
5 369
2910
179
2732
21
Bỉ
2
5 295
2620
51
2569
22
Canada
4
3 562
1824
648
1176
23
Đức
3
2 997
2259
1340
919
24
Israel
1
2 200
2200
0
2200
25
Bahamas
1
1 000
500
150
350
26
Italia
2
771
603
173
430
27
CH séc
1
400
180
54
126
28
Đan Mạch
2
400
250
95
155
29
Thụy Sĩ
2
350
150
0
150
30
Hungari
1
200
200
100
100
31
Thụy Điển
1
147
147
0
147
Tổng số
303
1 902 726
1473854
18203
298442
II- Theo địa phương
STT
ĐỊA PHƯƠNG
SỐ DỰ ÁN
TỔNG VỐN ĐT
VỐN
PĐ
VIỆT NAM GÓP
NƯỚC NGOÀI GÓP
1
Bình Dương
88
291672
114851
2297
110954
2
TP Hồ Chí Minh
101
180125
80241
2256
63791
3
Đồng Nai
25
95710
41883
1645
27313
4
Bà Rịa Vũng Tàu
3
31545
20545
450
20095
5
Hà Nội
34
30576
14269
1504
12765
6
Khánh Hòa
4
24550
13632
4081
9551
7
Quảng Nam
3
10016
7056
0
7056
8
Thanh Hóa
3
6860
3750
1378
2372
9
Tây Ninh
3
6325
5418
1500
3918
10
Vĩnh Phúc
4
5150
3056
0
3056
11
Bình Phước
1
5000
3300
0
3300
12
Hưng yên
1
5000
1600
0
1600
13
Nghệ An
1
4512
3962
1387
2575
14
Lào Cai
3
3300
2300
0
2300
15
Cần Thơ
1
2700
1120
0
1120
16
Hải Phòng
2
2500
2200
480
720
17
Thái Bình
2
2400
1200
336
864
18
Lâm Đồng
3
1603
1503
233
1270
19
Quảng Ninh
3
1509
800
429
880
20
Long An
1
1500
1000
0
1000
21
Đà Nẵng
2
1500
765
0
765
22
Yên Bái
1
1211
848
0
848
23
Kiên Giang
1
1068
1068
0
4068
24
Bình Thuận
1
714
357
179
179
25
Lạng Sơn
1
650
650
0
650
26
Hòa Bình
1
500
150
0
150
27
Thái Nguyên
1
200
100
50
50
28
Nam Định
1
32
32
0
32
Tổng cộng
295
718426
327654
18203
280242
Lời cảm ơn !
Em đã hoàn thành khóa luận này với sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy cô giáo trong ngành, bố mẹ và bạn bè. Đặc biệt em nhận được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Đỗ Mạnh Hồng - giáo viên hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Đỗ Mạnh Hồng và các thầy cô giáo trong ngành !
MỤC LỤC
***
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƯƠNG I: LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
3
I- Quá trình hình thành và phát triển của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
4
1. Đầu tư nước ngoài - vai trò của đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam
5
1.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
5
1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với nền kinh tế Việt Nam
7
2. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - các văn bản pháp lý trong tiến trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài
11
3. Kết luận
14
II- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 2000 - bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
15
1. Nội dung khái quát
15
2. Các giải pháp trong tương lai nhằm hiện thực hoá sức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Luật đầu tư nước ngoài năm 2000
16
CHƯƠNG II: LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 2000 - NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
20
I- Phạm vi đối tượng điều chỉnh và các biện pháp đảm bảo đầu tư
22
1. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh
22
2. Các biện pháp đảm bảo đầu tư
23
2.1. Đảm bảo đối xử công bằng với mọi nhà đầu tư
24
2.2. Các biện pháp đảm bảo quyền sở hữu tài sản và quyền sở hữu công nghiệp cho các nhà đầu tư nước ngoài
27
2.3. Biện pháp bảo đảm trong trường hợp thay đổi pháp luật gây thiệt hại cho đầu tư nước ngoài
30
2.4.Biện pháp bảo đảm liên quan tới chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thanh toán khác ra nước ngoài
32
II- Các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
33
1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
34
2. Doanh nghiệp liên doanh
35
3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
37
4. Hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT
38
III- Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
39
1. Bên nước ngoài trong hợp đồng hợp tác kinh doanh
40
2. Doanh nghiệp liên doanh
41
3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
42
IV- Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
43
1. Nội dung quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài
43
2. Các cấp quản lý đầu tư nước ngoài
45
V- Giải quyết tranh chấp trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
48
1. Phạm vi các tranh chấp phát sinh trong đầu tư nước ngoài
48
2. Thẩm quyền giải quyết và luật được áp dụng
49
CHƯƠNG III: LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NĂM 2000-NHỮNG QUY ĐỊNH BỔ XUNG VÀ SỬA ĐỔI
52
I- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
52
1. Nội dung quy định bổ xung
53
2. Các quy định sửa đổi Luật đầu tư năm 1996
54
2.1. Những quy định chung
55
2.2. Hình thức đầu tư
55
2.3. Biện pháp đảm bảo đầu tư
55
2.4. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
56
2.5. Quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài
60
3. Đánh giá chung
62
II- Nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài - những vấn đề cần quan tâm
64
1. Môi trường chính trị, xã hội và kinh tế
64
1.1. Môi trường chính trị xã hội
64
1.2. Môi trường kinh tế
66
2. Môi trường pháp lý
68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
***
1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
2. Giáo trình luật kinh tế - Trường Đại học Luật 1998
3. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987
4. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1990
5. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992
6. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
7. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000
8. Nghị định 24/2000 NĐ-CP
9. Các văn bản hướng dẫn thi hành luật khuyến khích đầu tư trong nước - NXB chính trị Quốc gia - 2000
10. Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam - NXB chính trị Quốc gia - 2000
11. Công báo 2000 - 2001
12. Thời báo kinh tế Việt Nam 2000 - 2001
13. Tạp chí kinh tế và dự báo. Số 8 - 9 - 10/2000
14. Thông tin câu lạc bộ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Số 16 tháng 12/2000.
15. Luận án: Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN và vận dụng vào Việt Nam - Nguyễn Huy Thám - 1999.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0027.doc