TRƯỜNG
NG
VẤN ĐỀ
TRONG LÝ
LUẬ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
UYỄN THỊ HỒNG HẠNH
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM
TỪ 1975 ĐẾN NAY
N VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
TRƯỜNG
VẤN ĐỀ
TRONG LÝ
Chuyên ngàn
Mã số: 60 22
LUẬ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT NAM
TỪ 1975 ĐẾN NAY
h: Lý luận văn học
32
N VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
166 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1795 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Luận văn Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý học ở Việt Nam từ 1975 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
1
MỤC LỤC
trang
MỤC LỤC…………………………………………………………..…...................1
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………............3
Chương 1 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ VẤN ĐỀ CHỦ
NGHĨA HIỆN THỰC TRONG LÝ LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT
NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ................................................................. 10
1.1. Cơ sở xã hội và tư tưởng: .............................................................................. 10
1.1.1. Cơ sở xã hội: ...................................................................................................10
1.1.2. Cơ sở tư tưởng: ...............................................................................................15
1.2. Tình hình nghiên cứu: ................................................................................... 22
1.2.1. Những năm 1975 – 1985: ..............................................................................26
1.2.2. Những năm 1986- 2000: ................................................................................32
1.2.3. Những năm đầu thế kỷ XXI: .........................................................................41
Chương 2 VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG CÁC GIÁO
TRÌNH LÝ LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY . 53
2.1. Lược thuật nội dung các giáo trình bàn về chủ nghĩa hiện thực: .................. 54
2.1.1. Chủ nghĩa hiện thực theo nghiên cứu của Lê Đình Kỵ: ............................54
2.1.3. Chủ nghĩa hiện thực theo nghiên cứu của Đỗ Văn Khang:.......................74
2.2. Đánh giá việc biên soạn giáo trình lý luận văn học về vấn đề chủ nghĩa
hiện thực:....................................................................................................... 78
Chương 3 VẤN ĐỀ CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG CÁC TIỂU
LUẬN, CHUYÊN KHẢO VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC Ở VIỆT
NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ................................................................ 95
3.1. Khái niệm: ..................................................................................................... 96
3.2. Thời điểm xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực: ............................................ 100
3.2.1. Chủ nghĩa hiện thực trong văn học cổ phương Đông: .............................101
3.2.2. Sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam:..................................104
2
3.3. Văn học phản ánh hiện thực: ....................................................................... 108
3.3.1. Khái niệm hiện thực: ....................................................................................108
3.3.2. Vấn đề văn học phản ánh hiện thực:..........................................................115
3.4. Vị trí và quan hệ của chủ nghĩa hiện thực:.................................................. 131
3.4.1. Vị trí của chủ nghĩa hiện thực:....................................................................131
3.4.2. Mối quan hệ của chủ nghĩa hiện thực với các trào lưu, phương pháp
sáng tác khác:.................................................................................................136
3.5. Xu hướng vận động và phát triển của chủ nghĩa hiện thực:........................ 142
KẾT LUẬN ………………………………………………………………….….153
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 157
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sáng tác văn học có hai kiểu chính là hiện thực và lãng mạn. Bêlinxki từng đề
nghị hai kiểu sáng tác này là kiểu sáng tác tái hiện và kiểu sáng tác tái tạo. Kiểu sáng
tác tái tạo thiên về bộc lộ những yếu tố chủ quan hơn là phản ánh thế giới khách
quan, bày tỏ lý tưởng hơn là mô tả thực tại. Kiểu sáng tác tái hiện lại quan tâm trước
hết đến mảnh đất thực tại và luôn tôn trọng sự thực khách quan, mô tả cuộc sống
như nó vốn có hơn là cần có. Cả hai kiểu sáng tác ấy đều có vẻ đẹp riêng và không ít
khi cùng hiện diện trong từng tác phẩm cụ thể.
Tuy nhiên, khi đến với văn chương, con người mong muốn làm giàu cho
mình bằng một thế giới của những ước mơ, mộng tưởng, nhưng vẫn không thôi tìm
kiếm ở đó bóng dáng của thế giới hiện tồn. Hơn nữa, những ước mơ, hoài bão dù
bay cao, bay xa đến đâu, vẫn thoát thai từ mảnh đất hiện thực; những niềm vui, nỗi
buồn của thế giới tâm hồn dù phức tạp đến đâu cũng bắt nguồn và được giải thích
bằng hiện thực. Chính vì vậy, chất lượng phản ánh cuộc sống, giá trị hiện thực của
tác phẩm vẫn luôn là những vấn đề được đặc biệt quan tâm. Người ta có thể tìm thấy
điều này nhiều nhất ở chủ nghĩa hiện thực, một trào lưu, một phương pháp sáng tác
ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX, được xem là phát huy cao độ nhất kiểu sáng tác tái
hiện. Nếu xem kiểu sáng tác tái hiện là một dòng sông, giá trị hiện thực là chất phù
sa của dòng sông ấy, thì chủ nghĩa hiện thực chính là khúc sông chảy xiết và chuyên
chở nhiều phù sa nhất.
Trong tiến trình văn học, chủ nghĩa hiện thực là một trào lưu, một phương
pháp sáng tác quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy nghệ thuật của
con người. Phát huy những điểm mạnh, đồng thời khắc phục những hạn chế của các
trào lưu, phương pháp xuất hiện trước đó, chủ nghĩa hiện thực đã kết tinh được
truyền thống văn học và tinh thần thời đại. Trong giai đoạn cực thịnh của mình, chủ
nghĩa hiện thực đã đóng góp cho kho tàng văn học thế giới biết bao tác phẩm, với
4
không ít những kiệt tác, thể hiện chân thực và sâu sắc thế giới khách quan cũng như
tâm hồn con người. Cuối thế kỷ XIX, mặc dù có chiều hướng suy thoái thành chủ
nghĩa tự nhiên và bị lấn át bởi một số trào lưu văn học hiện đại khác, chủ nghĩa hiện
thực vẫn khẳng định được sức sống của mình. Sang thế kỷ XX, nhiều biến thể của
chủ nghĩa hiện thực như chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo, chủ
nghĩa hiện thực cấu trúc, chủ nghĩa hiện thực tâm lý,… đã ra đời, cho thấy đây là
một hiện tượng không ngừng vận động và phát triển.
Vì những lẽ đó, chủ nghĩa hiện thực luôn chiếm một vị trí đáng kể trong lý
luận văn học. Các nền lý luận văn học lớn trên thế giới đều dành sự quan tâm đặc
biệt cho chủ nghĩa hiện thực. Tính đến nay, chủ nghĩa hiện thực đã ra đời gần 2 thế
kỷ, nhưng vấn đề này vẫn gợi cảm hứng cho các nhà lý luận trong những công trình
nghiên cứu cũng như trong các cuộc trao đổi, tranh luận. Tình hình nghiên cứu sôi
động trên thế giới thời gian qua không cho phép các nhà nghiên cứu Việt Nam xem
đây như một cái gì đã hoàn tất, mà phải liên tục nhận thức lại vấn đề để có được một
cái nhìn sâu sắc, toàn diện và tiến bộ về chủ nghĩa hiện thực. Từ năm 1975 đến nay,
xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi quan trọng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu
lý luận nói chung và chủ nghĩa hiện thực nói riêng cũng có những dấu hiệu mới.
Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ
1975 đến nay” là một cơ hội để chúng ta nhận diện, đánh giá vấn đề lý luận không
mới này trong điều kiện, hoàn cảnh xã hội mới.
2. Lịch sử vấn đề:
Từ khi xuất hiện trong lý luận văn học Việt Nam đến nay, chủ nghĩa hiện
thực luôn là một vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu. Được
giới thiệu trong nhiều công trình dịch thuật, có mặt trong những bộ giáo trình sử
dụng chung cho cả nước, xuất hiện trên nhiều tạp chí, tờ báo quan trọng, trong các
tập tiểu luận phê bình được đánh giá cao, là tâm điểm của nhiều cuộc tranh luận văn
học, chủ nghĩa hiện thực đã và đang là một trong những vấn đề quan yếu của lý luận
văn học Việt Nam. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu chủ
nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam lại chưa được một công trình nào
5
quan tâm một cách toàn diện. Đáng kể nhất có thể kể đến là hai bài viết Một chặng
đường phát triển của việc biên soạn giáo trình lý luận văn học của Nguyễn Phúc
(trích trong Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945 – 1995) do Hữu Thỉnh chủ biên
(nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 1997) và Về việc biên soạn giáo trình lý luận bậc đại
học ở ta năm mươi năm qua của Nguyễn Ngọc Thiện (Tạp chí Nghiên cứu văn học
số 5/2006). Hai bài viết này đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn chung về công
việc biên soạn giáo trình lý luận văn học Việt Nam 50 năm qua, trong đó có chủ
nghĩa hiện thực. Song, lý luận về chủ nghĩa hiện thực trong các chuyên khảo, tiểu
luận từ trước đến nay lại chưa được tổng kết, đánh giá.
Trong tình hình nghiên cứu chung đó, đáng mừng là việc khái quát tình hình
nghiên cứu lý luận văn học từ 1975 đến nay có được quan tâm hơn. Trong cuốn Văn
học Việt Nam sau 1975, Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy (nxb. Giáo dục,
2006) do Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn đồng chủ biên, phần Những vấn đề
chung, các tác giả đã tập hợp các bài viết của những nhà nghiên cứu tên tuổi Việt
Nam như Phương Lựu, La Khắc Hòa, Nguyễn Nghĩa Trọng, Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Long,…Với những bài viết như Những vấn đề cơ
bản đang đặt ra trong các cuộc tranh luận của giới văn học hiện nay, Ba mươi năm
lý luận, phê bình, nghiên cứu văn học – thành tựu và suy ngẫm, Những trăn trở tiến
bước của lý luận văn học giai đoạn 1975 – 1985, Văn học Việt Nam trước và sau
1975 – nhìn từ yêu cầu phản ánh hiện thực, Sự phát triển của lý luận – phê bình văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và từ sau 1975 đến nay,… các nhà nghiên cứu đã
cung cấp cho chúng ta những tư liệu về tình hình xã hội sau năm 1975 cũng như vai
trò, diện mạo của lý luận văn học trong giai đoạn đó. Trong các ý kiến ấy, chúng ta
có thể nhận ra những ý kiến về vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cũng
như vị trí của chủ nghĩa hiện thực.
Sau thời kỳ đổi mới, tính từ Đại hội Đảng lần thứ VI tháng 12 năm 1986,
việc đánh giá tình hình nghiên cứu lý luận nói chung và chủ nghĩa hiện thực nói
riêng được quan tâm nhiều hơn. Với cuốn Trao đổi ý kiến - Mấy vấn đề lý luận văn
nghệ trong sự nghiệp đổi mới (Nxb. Sự thật, 1991), Hà Minh Đức đã tập hợp các
6
bài viết về văn nghệ trong quá trình đổi mới. Những bài viết như Đổi mới và quy
luật của Phan Cự Đệ, Văn học trên con đường đổi mới của Nguyễn Văn Hạnh, Đôi
nét về một tư duy văn học đang hình thành của Nguyên Ngọc, Góp một cách nhìn
tình hình văn nghệ hiện nay của Ngô Thảo, Đôi điều về sách văn học hôm nay của
Vũ Tú Nam,…đã bước đầu đánh giá về những ưu, nhược của văn nghệ ta trên con
đường đổi mới. Tương tự như vậy, những bài viết như Lý luận trước yêu cầu đổi
mới và phát triển của Phan Trọng Thưởng (Tạp chí Nghiên cứu văn học số
12/2004), Mấy ghi nhận về thành tựu của lý luận văn học trong thời kỳ đổi mới của
Nguyễn Duy Bắc (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/2005) cũng không ngoài nội
dung đó. Có điều, những bài viết này chủ yếu nhận định về tình hình nghiên cứu
chung hơn là tình hình nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực. Chỉ với những bài
viết như Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới lý luận văn học của
Phạm Vĩnh Cư (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12/2004), Suy nghĩ về một vài
hướng tìm tòi đổi mới trong văn học của Hà Minh Đức, (Tạp chí Nghiên cứu văn
học số 4/2006), những suy nghĩ về tình hình nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực mới
được đề cập. Đặc biệt, trong công trình Về một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản
đang được tranh luận qua công cuộc đổi mới (1987 – 1992), vấn đề được trình bày
tập trung hơn. Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Lê Bá Hán làm chủ
nhiệm, hoàn thành năm 1993. Công trình này đã dành chương 1 để bàn về vấn đề
văn học phản ánh hiện thực. Các tác giả Trần Đình Sử và Lê Hồng Vân sau khi lược
thuật các ý kiến khác nhau, đã đưa ra nhận định của mình về vấn đề này. Tuy nhiên,
công trình này cũng chỉ tập trung vào tình hình nghiên cứu vấn đề văn học phản ánh
hiện thực chứ không phải toàn bộ tình hình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực.
Như vậy, có thể nói, nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn
học ở Việt Nam từ 1975 đến nay là một công việc chưa được đầu tư thực hiện một
cách hệ thống, toàn diện. Bức tranh toàn cảnh về vấn đề này đang chờ đợi được
phác vẽ nên. Bức tranh ấy sẽ giúp chúng ta thấy được mình đang ở đâu để có hướng
đi đúng đắn trong hành trình phía trước.
7
3. Mục đích nghiên cứu:
Là một vấn đề có thâm niên trong lý luận văn học thế giới, nhưng chủ nghĩa
hiện thực mới có mặt trong lý luận văn học Việt Nam khoảng 50 năm trở lại đây.
Trong thời gian này, cái nhìn về chủ nghĩa hiện thực không hề đứng yên, mà luôn có
sự vận động, thay đổi, đặc biệt là từ năm 1975 đến nay. Nghiên cứu “Vấn đề chủ
nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay”, người viết
luận văn này muốn tìm hiểu xem giới nghiên cứu Việt Nam đã tiếp nhận và nghiên
cứu như thế nào về chủ nghĩa hiện thực, trước là để nắm bắt vấn đề chủ nghĩa hiện
thực trong giai đoạn mới, sau là để đánh giá những đóng góp cũng như những hạn
chế của giới nghiên cứu Việt Nam trong thời gian qua trong việc nghiên cứu một
vấn đề lý luận nói riêng và xây dựng, phát triển lý luận văn học nói chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này, người viết chỉ quan tâm đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực
trong lý luận văn học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Các trào lưu, trường
phái, phương pháp sáng tác khác nếu được nhắc đến chỉ đóng vai trò là một yếu tố
tương tác, soi chiếu để làm rõ thêm vấn đề. Người viết cũng không đi sâu nghiên
cứu chủ nghĩa hiện thực thể hiện ở những tác giả và tác phẩm cụ thể mà chủ yếu
khai thác những quan niệm, những bàn luận về chủ nghĩa hiện thực. Để thực hiện
công việc đó, người viết sẽ tiến hành các thao tác nghiên cứu trên cơ sở dữ liệu là
các bộ giáo trình, các tập tiểu luận, phê bình, chuyên khảo của các tác giả Việt Nam
có liên quan đến vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn từ 1975 đến nay. Bên
cạnh đó, người viết cũng sử dụng những công trình dịch thuật từ lý luận văn học
nước ngoài được giới thiệu ở Việt Nam từ 1975 đến nay, với tư cách là kết quả của
việc tiếp nhận và giới thiệu chủ nghĩa hiện thực của các nhà nghiên cứu Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện luận văn này, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp lịch sử: tìm hiểu bối cảnh xã hội Việt Nam sau năm 1975 để
thấy được sự tác động của hoàn cảnh lịch sử đối với các nhà nghiên cứu, trên cơ sở
đó, tìm hiểu tình hình nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở
8
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử từ 1975 đến nay, nhằm làm rõ sự vận động và phát
triển của chủ nghĩa hiện thực.
Phương pháp hệ thống: hệ thống hóa các quan điểm, ý kiến khác nhau về
chủ nghĩa hiện thực thành những hướng nghiên cứu, những vấn đề nhất định để tiện
theo dõi và đánh giá.
Phương pháp so sánh: so sánh chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn,
chủ nghĩa tự nhiên,…, để có cái nhìn khách quan và đúng đắn về chủ nghĩa hiện
thực; so sánh các giáo trình lý luận văn học về chủ nghĩa hiện thực với nhau để tìm
điểm giống và khác nhau của các nhà lý luận khi nghiên cứu vấn đề này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu “Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận
văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay” giúp chúng ta có cái nhìn lịch sử đối với một
vấn đề lý luận văn học, nhìn thấy sự vận động của một lý thuyết đã được viết nên
cách đây gần hai thế kỷ. Sự vận động ấy xuất phát từ thực tế nghiên cứu và đặc biệt
là thực tế sáng tác văn học. Vì vậy, công việc này cũng thể hiện được mối quan hệ
gắn bó giữa lý luận với thực tiễn, nhìn thấy tính thực tiễn và tiến bộ của lý luận. Hơn
nữa, thực hiện đề tài này chính là đã quán triệt tinh thần của nguyên lý tính hệ thống.
Lý luận văn học Việt Nam từ 1975 đến nay là một bộ phận của lý luận văn học Việt
Nam, lý luận văn học ở Việt Nam là một bộ phận của lý luận văn học thế giới. Tìm
hiểu cái bộ phận chính là góp phần tìm hiểu cái toàn thể. Hiểu biết chủ nghĩa hiện
thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay cũng là con đường dẫn đến
hiểu biết chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học thế giới.
Ý nghĩa thực tiễn: Nền lý luận văn học Việt Nam còn khá non trẻ so với lý
luận văn học thế giới. Thời gian từ 1975 đến nay đã cho thấy sự nỗ lực vươn lên của
lý luận văn học Việt Nam để bắt kịp với sự tiến bộ chung. Kịp thời ghi nhận những
thành tựu cũng như những hạn chế của sự nỗ lực đó sẽ giúp cho lý luận văn học Việt
Nam rút ngắn khoảng cách với các nền lý luận văn học tiên tiến. Trong lý luận văn
học Việt Nam, chủ nghĩa hiện thực là một vấn đề có tính chất quan trọng hàng đầu.
Những ý kiến, đánh giá mới đây về chủ nghĩa hiện thực cần được xem xét kỹ lưỡng
9
để nắm bắt được quan niệm của giới nghiên cứu trong giai đoạn mới về vấn đề này.
Thực tiễn sáng tác hiện nay ngày càng phong phú và phức tạp, kết quả đánh giá quá
trình đổi mới lý luận thời gian qua của luận văn sẽ giúp cho việc tiếp nhận tác phẩm
văn học dễ dàng và hiệu quả hơn.
7. Cấu trúc của luận văn:
Luận văn gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Các chương:
Chương 1: Tình hình nghiên cứu chung về vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong
lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
Chương 2: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong các giáo trình lý luận văn học
Việt Nam từ 1975 đến nay
Chương 3: Vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong các tiểu luận, chuyên khảo về lý
luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay
Phần kết luận
10
Chương 1
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ VẤN ĐỀ
CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG LÝ LUẬN VĂN HỌC
Ở VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY
1.1. Cơ sở xã hội và tư tưởng:
1.1.1. Cơ sở xã hội:
Từ xưa đến nay, như đã thành một quy luật, hễ lịch sử có sự thay đổi thì
trong văn học nhất định cũng có những đổi thay. Chứng kiến sức ảnh hưởng lớn
lao của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại đối với văn học dân tộc chưa lâu, nay,
chúng ta lại chứng kiến thêm một lần nữa sự rúng động ấy trong văn học sau Đại
thắng mùa xuân năm 1975. Hãy bắt đầu sự thay đổi ấy từ chính thời cuộc. Trong
cuốn “Một số vấn đề đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở
trường THPT”, tình hình xã hội ấy đã được nhận định như sau: “Cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi, đất nước mở sang trang sử mới. Từ sau năm
1975, đất nước từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, cuộc sống hiện ra với tất
cả mặt phức tạp vốn có của nó. Đây là thời kỳ giao thoa giữa cái mới và cái cũ.
Cái cũ vẫn còn tồn tại, cái mới cũng chỉ vừa manh nha. Cả hai yếu tố thuận và
nghịch của đời sống kinh tế - xã hội đều tác động đến văn học. Những khó khăn
và khủng hoảng kinh tế - xã hội cuối những năm 70 đầu những năm 80, tính
chất phức tạp và sự chi phối của kinh tế thị trường đẩy tới sự phân cực giữa
trắng đen, thiện ác, tốt xấu” [100, tr.5]. Có thể nói, đó mới chỉ là một nhận định
khái quát về tình hình xã hội sau khi hòa bình lặp lại. Thực tế phức tạp hơn
nhiều. Vừa ngất ngây trong men chiến thắng bước ra, nhân dân ta đã phải đối
mặt ngay với bao khó khăn thử thách trước mắt. Đất nước bị chiến tranh tàn phá
11
nặng nề, những tàn dư của chế độ cũ chưa thể xóa sạch trong một ngày một
buổi, nhiều thế lực phản động không ngừng chống phá, chỗ dựa vững chãi cho
đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đã không còn sau sự sụp đổ của
Liên Xô, nền kinh tế bị kiệt quệ và đứng trước nguy cơ khủng hoảng trầm trọng,
nhiều chủ trương, chính sách sai lầm làm giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà
nước,… Là chủ thể của một môi trường phức tạp như vậy, con người chắc hẳn
sẽ có sự phân hóa, đặc biệt là sự phân hóa từ bên trong mỗi cá nhân. Nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã nhận định khái quát về lịch sử của tâm hồn con người
trong giai đoạn này như sau: “Thời kỳ này diễn ra một cuộc đối chứng giữa
nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng
và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người”.
Tuy nhiên, cuộc sống xã hội bên ngoài và cuộc sống âm thầm bên trong
mỗi con người càng phức tạp bao nhiêu thì lại càng có lợi cho văn học bấy
nhiêu, bởi việc mở rộng đề tài bao giờ cũng đem lại sự phong phú, đa dạng về
phong cách. Say sưa với mảnh đất màu mỡ, trong Gặp gỡ cuối năm, nhà văn
Nguyễn Khải đã thổ lộ: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề
bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy dẫy những biến động,
những bất ngờ, mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ”.
Một khi những người cầm bút đã bắt được mạch nguồn cảm hứng thì văn học
nhất định hứa hẹn một vụ mùa bội thu. Nhờ đó, nền văn học của nước nhà có
thêm một sức sống mới. Là người đi trước dẫn đường, đồng thời lại là người đi
sau để đúc rút kinh nghiệm, lý luận văn học do đó cũng sẽ có sự vận mình.
Giành được độc lập, nhân dân ta bắt tay ngay vào củng cố nền hòa bình
vững chắc và kiến thiết đất nước. Bên cạnh việc phát huy nội lực, tranh thủ sức
mạnh bên ngoài là một chủ trương mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước
ta. Do vậy, các mối quan hệ với thế giới bên ngoài ngày càng được mở rộng.
Việc đẩy mạnh hội nhập với thế giới ở nhiều lĩnh vực đã tạo điều kiện cho sự
đổi mới văn học. Trong Góp một cách nhìn tình hình văn nghệ hiện nay, Ngô
Thảo viết: “Đất nước giải phóng đã cho chúng ta thời cơ được giao lưu, tiếp
12
xúc một cách rộng rãi với văn hóa văn nghệ thế giới. [29, tr.135]. Trong xu thế
hội nhập, giao lưu văn hóa nói chung, văn học nói riêng, lý luận văn học cũng có
cơ hội đổi mới. Trong Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận
văn học Việt Nam, Lộc Phương Thủy đã nhận định: “Cùng những thay đổi có
tính chất cách mạng ở Việt Nam vào thời kỳ Đổi mới và tiếp theo là sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước Đông Âu, một lần nữa đời sống học thuật nước nhà
bước vào một giai đoạn mới: cởi mở hơn, tầm nhìn được mở rộng hơn. Trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, ngoài các bài giới thiệu hoặc dịch trên các báo
và tạp chí chuyên ngành như Văn nghệ, Nhà văn, Tạp chí Văn học, Tạp chí
Thông tin KHXH (Viện thông tin KHXH), đặc biệt trên Văn học nước ngoài, bạn
đọc còn có dịp tiếp xúc với nhiều kênh thông tin khác nhau về các trường phái,
trào lưu lý luận văn học nước ngoài” [85, tr.13]. Sách lý luận văn học nhờ đó
cũng tăng về số lượng: “Chỉ trong vài năm đầu thế kỷ XXI, số sách nghiên cứu
các thành tựu lý luận văn học nước ngoài tăng mạnh” [85, tr.14]. Không phải
đợi lâu, hiệu quả của việc đẩy mạnh giao lưu, trao đổi học thuật đã được thể hiện
khá rõ. Theo Lộc Phương Thủy, “trong chục năm cuối thế kỷ XX và vài năm đầu
thế kỷ XXI, đã có một sự chuyển mình đáng khích lệ trong lý luận văn học ở Việt
Nam mà một trong những nguyên nhân có đóng góp tích cực là việc giới thiệu
các thành quả lý luận văn học nước ngoài” [85, tr.15].
Từ chỗ đói thông tin, nay độc giả Việt Nam lại được tiếp nhận thông tin
từ nhiều nguồn khác nhau thì việc xử lý thông tin chắc chắn sẽ có phần bối rối.
Trong bài “Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý luận văn học
Việt Nam”, Lộc Phương Thủy đã đánh giá: “Trong thực tế, xác định “tinh hoa”
cụ thể là gì thật không phải dễ. Trước đây, trong mấy thập kỷ lý luận văn học
của Việt Nam chịu sự tác động duy nhất và trực tiếp của Liên Xô thì “tinh hoa”
là gì đương nhiên là quá rõ ràng. Nhưng tình hình hiện nay, hiểu những gì được
gọi là “tinh hoa” thật khó khăn. Bởi, hiện nay, việc giới thiệu tư tưởng học thuật
nước ngoài tuy đã có khởi sắc, đã có những gợi ý phần nào cho lý luận phê bình
nước nhà, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu” [85, tr.17]. Như vậy, hiệu
13
quả cũng mới chỉ là bước đầu. Việc giao lưu có thực sự đạt hiệu quả như mong
đợi hay không còn tùy thuộc vào bản lĩnh của các nhà lý luận Việt Nam. Phải
làm sao giới thiệu cho công chúng những nguồn thông tin phong phú, đồng thời,
phải định hướng tốt cho người đọc, giúp họ biết gạn đục khơi trong giữa biển
kiến thức mà cái đúng và cái sai, cái nhất thời và cái muôn đời, cái tinh hoa và
giấy loại luôn cùng tồn tại.
Nếu như quá trình giao lưu, hội nhập với thế giới đem lại nhiều cơ hội và
thách thức cho văn học nói chung và lý luận văn học nói riêng thì sự phát triển
của khoa học kỹ thuật cũng là một tiền đề tốt, đồng thời cũng là một thách thức
đối với quá trình sáng tạo, nghiên cứu và phổ biến văn học. Thật vậy, nhờ vào
công nghệ in ấn tiên tiến, việc xuất bản sách trở nên nhanh chóng hơn, nhờ các
phương tiện truyền thông và giao thông hiện đại, văn học đến với người đọc
mau lẹ hơn. Trong bài Văn học trở thành hàng hóa và văn học trong cơ chế thị
trường, Phong Lê đã nhận định: “tác động của khoa học kỹ thuật ở đây là đã
giúp cho sự phổ cập rộng hơn và giao lưu nhanh hơn của văn học. Trên khía
cạnh này mà xét thì văn học không bị chèn lấn mà còn có thêm phương tiện để
chuyên chở và phát huy tác dụng” [50, tr.464]. Thế nhưng, không chỉ là một
phương tiện hỗ trợ cho văn học, khoa học kỹ thuật còn là một thử thách của văn
học. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã tạo thêm nhiều hình thức giải trí,
nhiều cách thức khai thác thông tin cho con người, thu hút sự quan tâm của công
chúng. Văn học một mặt vẫn tiếp tục phát triển dựa trên sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, mặt khác, vẫn không ngừng chạy đua để không đánh mất vị trí đặc
biệt của mình. Trước tình hình đó, lý luận văn học cũng phải luôn đổi mới để
theo kịp sự phát triển của xã hội nói chung và văn học nói riêng. Đặc biệt, trong
xu thế đa ngành hóa hiện nay, người làm công tác lý luận cần phải hiểu biết một
số lĩnh vực khoa học khác như lý thuyết thông tin, ký hiệu học,… và vận dụng
phối hợp để khai thác tối đa các giá trị của văn học.
Một vấn đề nữa đặt ra là nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang tiến
hành đã biến sách thành một hàng hóa, gây tác động không nhỏ đến việc viết và
14
xuất bản sách. Nhận định về tình hình này, Phong Lê nói: “Chuyển mọi nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người ra thị trường, đưa công chúng lên vị trí số
một trong chọn lựa, văn học phải chịu sự thử thách ghê gớm, và cái phản ứng,
cái động thái đầu tiên cho sự tồn tại là phải “chiếm” thị trường, hoặc chiều
theo thị trường” [50, tr.450]. Tình hình ấy không chỉ diễn ra với người sáng tác
mà còn tác động rõ rệt đến các nhà lý luận. Thời gian qua, chúng ta nhận thấy
sách lý luận văn học liên tục được ra đời, song, số lượng sách mới không nhiều,
chủ yếu là những tập hợp các bài viết đã qua hoặc những cuốn sách đã được
công bố nay có thay đổi, bổ sung thêm. Tất nhiên, việc xuất bản một cuốn sách
còn có nhiều lý do và mục đích khác, nhưng lợi nhuận là một lý do không dễ bỏ
qua, cho nên nhiều lúc, số lượng đã trở thành mục tiêu thay vì chất lượng. Điều
này khiến cho thị trường sách sôi động hơn tình hình nghiên cứu thực tế. Do tác
động của cơ chế thị trường, những bài viết ngắn thể hiện những cảm nghĩ,
những nhận xét ban đầu vẫn nhiều hơn những tiểu luận, những công trình nghiên
cứu dài hơi có uy tín, những bài dịch thuật mang tính giới thiệu vẫn nhiều hơn
những công trình dịch thuật có nghiên cứu sâu và đánh giá. Tình hình này cũng
một phần do sự yếu kém trong khâu quản lý. Trong Góp một cách nhìn tình hình
văn nghệ hiện nay, Ngô Thảo cho rằng: “Đất nước giải phóng đã cho chúng ta
thời cơ được giao lưu, tiếp xúc một cách rộng rãi với văn hóa văn nghệ thế giới.
Đó là mặt tích cực của tình hình. Nhưng do thiếu công tác tổ chức khoa học, các
cơ quan xuất bản lại thả nổi trong thương trường” [29, tr.135]. Cho nên, một
khi chấp nhận coi sách là một hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, các nhà
quản lý phải có những chính sách hợp lý để kiểm soát thị trường sách, đồng thời
có những chính sách hỗ trợ thích đáng đối với những người viết sách cũng như
xây dựng một hệ thống kiểm định khách quan và chặt chẽ đối với loại hàng hóa
nhạy cảm này.
Tóm lại, xã hội Việt Nam sau 1975 là một xã hội của nhiều vận hội và
thử thách. Văn học nói chung và lý luận văn học nói riêng giờ đây cũng chịu sự
chi phối của quy luật mới – quy luật đời thường với những thuận lợi và khó
15
khăn riêng, song phần thuận lợi vẫn là đáng kể hơn. Đất nước độc lập, nhân dân
được tự do, đội ngũ các nhà lý luận có điều kiện chuyên tâm vào công việc
nghiên cứu của mình. Môi trường giao lưu văn hóa cởi mở là cơ hội lý tưởng để
các nhà lý luận Việt Nam được tiếp xúc với hệ thống các quan điểm hiện đại
trên thế giới, đưa nền lý luận Việt Nam bắt nhịp với sự phát triển chung của nền
lý luận hiện đại thế giới. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật sẽ là nhịp cầu đưa
các nhà lý luận của Việt Nam và thế giới đến gần nhau hơn, đến gần độc giả
hơn, đồng thời cũng cung cấp cho họ những phương tiện mới để khám phá giá
trị cũng như nắm bắt các quy luật của văn chương tốt hơn. Nền kinh tế thị
trường sẽ là một cuộc cạnh tranh tự do, bình đẳng. Đó sẽ là sàn đấu mà chỉ
những ai có đủ bản lĩnh mới trụ lại được. Với những thuận lợi ấy, chúng ta đã có
đủ lạc quan để vượt qua những khó khăn và thử thách. Đây chính là vận hội mới
cho sự đổi mới đi lên của lý luận văn học Việt Nam, một nền lý luận tính tới thời
điểm này đã lạc hậu so với thế giới. Hòa chung không khí đổi mới đó, việc
nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực, một vấn đề vẫn còn nhiều tranh cãi trong lý
luận văn học, tất sẽ có nhiều điều đáng quan tâm.
1.1.2. Cơ sở tư tưởng:
Nhìn lại cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khó tưởng tượng được
rằng cuộc kháng chiến ấy sẽ ra sao nếu không có văn học chống Mỹ, cuộc chiến
ấy kết thúc khi nào nếu trên mặt trận văn hóa tư tưởng vắng mặt những nhà văn
yêu nước. Có thể nói, văn học chống Mỹ đã thực sự trở thành một liều thuốc
tinh thần hiệu nghiệm mang lại sức mạnh thần kỳ cho nhân dân ta, giúp chúng ta
có thêm sức mạnh và niềm tin để chiến đấu và chiến thắng. Song, có thể nhận
thấy bước vào cuộc sống mới, con người nảy sinh những nhu cầu mới. Đến với
văn chương, họ vẫn muốn nhìn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, song lại
thiết tha hơn tìm hiểu những trang đời đã qua và trang đời đang mở. Họ muốn ca
ngợi những chiến công nhưng lại cũng muốn xoa ._.dịu những vết thương còn rỉ
máu. Họ muốn tôn vinh những anh hùng nhưng nóng lòng hơn là phê phán
16
những sự phản bội, thoái hóa, biến chất hay những nhu nhược, hèn nhát của con
người. Họ muốn hòa vào niềm vui chung, đóng góp cho cộng đồng, nhưng hơn
lúc nào hết họ muốn nhìn lại góc riêng của mình để để lắng nghe một tiếng lòng.
Những thay đổi ấy là hoàn toàn tự nhiên bởi nó sẽ đưa con người trở về với bản
chất vốn có của mình, bản chất của những con người đời thường. Sự thay đổi ấy
tất sẽ đòi hỏi một sự đổi mới tư duy trong văn học.
Trên thực tế, tư duy văn học cũ ngày càng tỏ ra không phù hợp với thời
kỳ mới, lối viết cũ đã không còn đáp ứng được nhu cầu phản ánh hiện thực đa
dạng, đa chiều của cuộc sống sau chiến tranh, nếu không muốn nói là trong
nhiều trường hợp, đã trói buộc người cầm bút và tạo nên những tác phẩm kém
giá trị. Yêu cầu đổi mới văn học ngày càng trở nên bức thiết, từ quan niệm nghệ
thuật, quan niệm về hiện thực, quan niệm về con người, đến các thủ pháp nghệ
thuật. Yêu cầu này chỉ được thỏa mãn khi Đảng ta chủ trương công cuộc đổi
mới toàn diện.
Nếu như đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế là quyết định, có ý nghĩa
sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của chế độ, của đất nước thì đổi mới
trong văn hóa văn nghệ đã thực sự cởi trói cho người cầm bút, mang lại một sinh
khí mới cho nền văn nghệ đang mất dần sức sống. Nghị quyết của Đại hội VI
nêu rõ: “Chính sách xã hội nhằm phát huy mọi khả năng của con người và lấy
việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất”. Đây chính là sự thể hiện nhận
thức mới về chủ nghĩa nhân đạo: con người không phải là phương tiện của các
mục đích xã hội mà là nhân tố thúc đẩy mọi hoạt động xã hội và mọi hoạt động
xã hội đều phải hướng tới mục tiêu phục vụ con người. Trên cơ sở đó, cách nhìn
nhận, thẩm định các giá trị văn học nặng về ý thức hệ dần được điều chỉnh bằng
bằng cái nhìn toàn diện và sâu sắc từ trong bản chất của nghệ thuật. Những ràng
buộc khắt khe của tính tư tưởng có phần thô sơ, máy móc đối với tác phẩm được
gạt bỏ. Cách cư xử, can thiệp thô bạo làm ảnh hưởng tới số phận nhà văn và tác
phẩm vì không am hiểu hoặc do cực đoan, bất công,… dần dần được khắc phục.
Với sự thay đổi đó, chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước được thể hiện
17
qua Đại hội VI thực sự là một thắng lợi to lớn. Mức độ thành công của sự đổi
mới có thể đo bằng thái độ của giới văn nghệ đối với Đại hội VI: “Đại hội VI
của Đảng là một cái mốc, một sự kiện lớn trong đời sống của dân tộc. Và nghị
quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa – văn nghệ quả là một sự “cởi trói” đúng
theo một nghĩa nào đó, cho dân tộc, trong đó giới văn hóa văn nghệ cảm nhận
rõ và thấm thía cái phần được hưởng của mình [29, tr.98]. Trong Một số vấn đề
đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy ngữ văn ở trường THPT, thành tựu
này cũng được ca ngợi: “Đại hội VI thật sự mang lại không khí dân chủ, với tinh
thần “nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, tạo điều kiện
cho sự chuyển hướng văn học. Đây là giai đoạn văn học chuyển mình. Một mặt,
văn học vẫn bảo tồn những tinh hoa, truyền thống, mặt khác thể hiện sự trăn
trở, thể nghiệm để đáp ứng yêu cầu mới sau chiến tranh và để khẳng định mình
trong xu thế hội nhập với văn học thế giới” [100, tr.6]. Phấn khởi trước tình
hình đó, phong trào sáng tác rộ lên trông thấy, như một sự hưởng ứng nhiệt tình
trước một chính sách đúng đắn. Có thể nói, chủ trương đổi mới của Đảng đã
thực sự trở thành thành “cú hích” kích thích hoạt động sáng tác, là “cánh tay
đưa” cho “chiếc nôi ngừng” văn nghệ, mở ra một thời kỳ xán lạn cho văn nghệ.
Tiếp tục tinh thần đó, Đại hội VII đã chỉ rõ: Đảng ta chủ trương xây
dựng một “nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc…tạo ra một đời sống tinh thần
cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ”. Nghị
quyết 05 của Bộ chính trị (1987) tập trung vào việc “Đổi mới và nâng cao trình
độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo
đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”. Đây là nghị
quyết duy nhất dành riêng cho văn nghệ từ trước cho tới lúc đó, nó mở ra một
cái nhìn mới về vị trí, chức năng, vai trò và ý nghĩa của văn nghệ, trong đó, văn
học được xem là “một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn
hóa,…bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của con
người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân cách,
bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội”.
18
Như vậy, những điều kiện bên ngoài đã sẵn sàng cho sự đổi mới, vấn đề
còn lại là người cầm bút có thực sự đổi mới từ trong chính bản thân mình hay
không, có thanh toán được với những thói quen cũ, lối nghĩ cũ và cách viết cũ
hay không. Thực tế, người ta nhận thấy nhu cầu đổi mới trong bản thân giới cầm
bút thể hiện cấp bách hơn cả. Là những người quan sát và mô tả cuộc sống, họ
có nhiều điều muốn nói hơn là được nói, thậm chí họ nói cả trước khi được cho
phép. Chính vì vậy, khi được Đảng tạo điều kiện nói thẳng, nói thật, họ đã
“được lời như cởi tấm lòng”, càng hăng hái hơn đi sâu tìm hiểu và thể hiện hiện
thực phức tạp và phong phú đang chờ đợi. Tất nhiên, không chỉ bám vào mảnh
đất hiện thực, nhiều người đã mở lối đi riêng, tìm đến những vùng đất mới, nơi
dành cho những người giàu trí tưởng tượng và óc sáng tạo. Trong Suy nghĩ về
một vài hướng tìm tòi đổi mới trong văn học, Hà Minh Đức đã nhận thấy điều
này ở nhiều nhà văn: “Hiện thực, các mối liên hệ giữa hiện thực và phương thức
biểu hiện vẫn là một vấn đề cần được luận bàn. Một số nhà văn dường như
không tìm được sự hấp dẫn của hiện thực quen thuộc vốn đã hiện hình và được
nhận diện kỹ càng nên có xu hướng đi tìm cái lạ. Cái lạ trong hiện thực chắc
chắn là có sức hấp dẫn rồi vì trong nghệ thuật, nhiều lúc cái quen thuộc, cái cũ
tồn tại và kéo dài trong nhiều thập kỉ (…). Cái lạ được chấp nhận cũng là cái
mới và không dễ đem lại trong văn chương cái lạ. Ý của Bélinski về nhân vật
điển hình lạ mà quen, phải chăng đã gợi mở hướng lạ hóa trong nghệ thuật”
[28, tr.24].
Thay đổi cái nhìn về hiện thực, về đối tượng phản ánh, các nhà văn còn
thay đổi quan niệm về con người. Nếu như trước đây, con người trong văn học
kháng chiến thường “có chung một tâm hồn, có chung một khuôn mặt” thì giờ
đây, nó hiện lên với với đầy đủ sự đa diện, với cả “rắn rết và rồng phượng” và
phát triển không theo một con đường định sẵn. Nhà văn Nguyễn Khải đã từng
trăn trở về những khía cạnh chưa thật hợp lý trong quan niệm nghệ thuật về con
người: “Cách đây 20 năm, tôi chợt nhận ra những ảo tưởng của mình trong sự
tìm kiếm những mẫu người Việt Nam hoàn toàn mới, có tham vọng đặt nền
19
móng cho một nền văn học khác hẳn với những dòng văn học trước đây… Cái
tốt và cái xấu, cái mạnh và cái yếu đều có mầm mống sẵn từ trong mỗi người, từ
trong sâu thẳm của một dân tộc… Không thể thêm hay bớt, lại càng không thể
nhào nặn theo những mẫu hình mà ta mong được thế, muốn được thế”.
Việc đổi mới quan niệm nghệ thuật cũng bao hàm cả đổi mới ngôn ngữ
nghệ thuật. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong một lần nói chuyện với Nguyễn
Minh Châu năm 1981 đã nói: “Bây giờ đã đến lúc cần đổi mới ngôn ngữ nghệ
thuật. Trong hội họa, người ta đã thay đổi nhiều lắm rồi. Họ không vẽ như trước
nữa (…). Gần đây có xu hướng phối hợp ngôn ngữ của các loại hình nghệ thuật
như giữa thơ ca và hội họa, hội họa và nhiếp ảnh, kịch và điện ảnh. Đây là một
hướng mở nhưng cũng phải tuân theo quy luật của từng loại hình nghệ thuật”
[28, tr.22]. Hà Minh Đức cũng cho rằng: “Gần đây khi tiếp cận cuộc sống, một
số người viết như cảm thấy ngôn ngữ văn chương con đẻ của ngôn ngữ đời sống
như gò bó sức sáng tạo, luôn dựng những hàng rào ngăn cản mọi suy tưởng
trong khuôn khổ cái hợp lý thông thường và lôgích của cuộc sống. Trong thơ ca
đã có lối viết khác thường, người làm thơ dùng biểu tượng, ngôn từ lập mã và
buộc người đọc phải giải mã” [28, tr.22]. Thơ có lối viết khác thường, lối viết
khác trước, trong văn xuôi, lối kể chuyện cũng có nhiều thay đổi: “Vào những
thập kỉ đầu thế kỷ XX, lối kể chuyện theo chương hồi đã lỗi thời và hình thức kể
gần với chân lý cuộc sống và tâm lý người đọc của Tự lực văn đoàn và trào lưu
hiện thực phê phán đã thay thế. Từ đó, đất nước trải qua nhiều đổi thay, lối kể
trong văn xuôi cũng thay đổi nhiều. Ngày nay, cái khó với văn xuôi là các hình
thức thông tin báo chí, truyền hình điện ảnh đã chuyển tải nhiều câu chuyện xã
hội và riêng tư. Văn học phải có cách đóng góp của riêng mình” [28, tr.23].
Như vậy, là những người báo hiệu sự đổi mới của văn nghệ nói riêng và
xã hội nói chung, khi có chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, các nhà văn
cũng trở thành những người tiên phong trong đổi mới từ quan niệm về nghệ
thuật cho đến các quan niệm nghệ thuật về hiện thực, về con người hay ngôn
ngữ và thủ pháp nghệ thuật. Bên cạnh đó, một quan niệm tiến bộ nữa mà chúng
20
ta cần ghi nhận đó là cái nhìn mới về mối quan hệ giữa nhà văn và công chúng.
Nếu như trước đây, quan hệ đó chỉ thường có một chiều, nhà văn thường nắm
vai trò độc diễn thì ngày nay, sự đối thoại giữa tác giả và độc giả đã được chú
trọng. Với tính đa thanh, tác phẩm thực sự là sản phẩm của sự kết hợp giữa
người sáng tạo và người đồng sáng tạo.
Sở dĩ có sự thay đổi này là vì văn học phải đáp ứng yêu cầu của một đối
tượng người đọc mới. Khi cái ăn chưa lo đủ, nhu cầu tìm tới văn học dù sao đi
nữa cũng vẫn không cao. Nhưng, một khi cuộc sống vật chất đã được đáp ứng
đến một mức độ nhất định thì nhu cầu về tinh thần trở nên thật bức thiết. Đó
cũng chính là hoàn cảnh xã hội ta những năm sau đổi mới: “Không phải chờ đến
thập niên cuối thế kỷ chúng ta mới có thể hình dung và chứng kiến sự xuất hiện
về nhu cầu thư giãn và nhu cầu gia tăng thời gian rỗi của con người trong đời
sống công nghiệp và đô thị” [50, tr.464]. Khi thời gian nhàn rỗi tăng, nhu cầu
giải trí tăng thì cũng đồng nghĩa với sự gia tăng về số lượng độc giả. Nhận xét
về những độc giả này, Nguyễn Minh Châu viết: “Rất có thể đông đảo người đọc
vẫn còn dễ tính. Mình viết thế nào người ta vẫn đọc vậy thôi nhưng yêu cầu tôi
vừa nói tới ở trên là có thực. Những người đọc đã từng đọc nhiều: những người
từng trải trong cuộc sống và có trí thức đặt nhiều kỳ vọng vào nền văn học cách
mạng của chúng ta. Tầng lớp người đọc này, đối với nước nào cũng vậy, là tiêu
biểu cho nhu cầu cũng như trình độ xã hội, và trong xã hội ta, chính tầng lớp ấy
cũng mỗi ngày một đông hơn: mỗi ngày họ đọc ta tinh tường hơn, bắt ta phải
cầm bút có trách nhiệm hơn”. [47, tr.107]. Như vậy, không những tăng lên về số
lượng, độc giả còn có sự tăng lên về chất lượng. Sự phát triển của ý thức và trình
độ thẩm mỹ trong tiếp nhận văn học buộc văn học phải đổi mới từ bên trong.
Cảm nhận rõ điều này, Nguyễn Minh Châu nói: “Quả thật, tầng lớp người đọc
khó tính và tinh tường ấy họ đang đòi ở những người sáng tác chúng ta một cái
gì trên sức chúng ta. Vẫn với chất liệu ấy trên tay, họ đòi hỏi người sáng tác
phải làm ra một cái thành phẩm thật là hơn trước. Họ chỉ vào cái gói gạo buộc
sau xe đạp anh sáng tác mà bảo: “Lâu nay anh vẫn thổi cơm cho tôi ăn, cơm
21
cũng khá dẻo đấy nhưng ăn no rồi, ăn thêm hai ba bắt chỉ thấy no thêm chứ
không say. Vậy lần này, với gói gạo kia, anh hãy đem cất rượu lên! Anh hãy cho
tôi một chén hay nửa chén thôi cũng được. Sau một ngày làm việc, anh hãy cho
phép tôi được nhấm nháp, thưởng thức cái của anh làm ra có thể say sưa tôi đôi
chút!” [47, tr.107].
Nói một cách công bằng thì không phải nhà văn là người chủ động nhận
thấy cần đối thoại với độc giả của mình trong tác phẩm, mà chính độc giả đã
buộc nhà văn phải làm như thế, phải trả lại không khí dân chủ cho quan hệ giữa
người sáng tác và người thưởng thức.
Như vậy, có thể nhận thấy văn học Việt Nam sau 1975 tồn tại trong một
môi trường thấm đẫm tinh thần đổi mới, đổi mới từ chính trong bản thân người
sáng tác, người thưởng thức, cho đến đổi mới từ phía người quản lý sinh hoạt
văn nghệ. Đó chính là tiền đề quý báu cho văn học thể hiện tính chất tiên tiến,
đồng thời giúp văn học luôn khẳng định được ý nghĩa, giá trị của nó đối với đời
sống tinh thần của nhân loại.
Trong không khí đổi mới chung đó, lý luận văn học Việt Nam sau 1975
cũng có sự chuyển mình. Điều này đã được Phan Cự Đệ nêu rõ trong Đổi mới và
quy luật: “Quá trình đổi mới cũng diễn ra sôi động trong lĩnh vực lý luận phê
bình. Điều đó là tự nhiên vì lý luận phê bình xưa nay vẫn là một mặt trận giao
phong của những tư tưởng và quan điểm khác nhau. Những cuộc tranh luận
công khai, dân chủ đã tạo ra một khí sắc mới cho công tác lý luận phê bình,
giúp bạn đọc hiểu một cách sâu sắc và nhuần nhị hơn nhiều vấn đề như mối
quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, giữa văn nghệ và hiện thực cuộc sống…
Những quan điểm bảo thủ hoặc cơ hội, cứng nhắc, giáo điều hoặc xã hội học
dung tục đã bị tấn công quyết liệt nhằm làm sáng tỏ hơn những đặc trưng thẩm
mỹ của văn học nghệ thuật và sự phát triển mới của lý luận hiện thực xã hội chủ
nghĩa” [29, tr.55]. Trong điều kiện “trời đã mới, người càng nên đổi mới”,
không khó để nhận thấy tinh thần đổi mới chung của các nhà nghiên cứu lý luận.
Bên cạnh những vấn đề mới, những điều đã được khẳng định từ lâu, nay có thể
22
được nhìn bằng ánh sáng mới, mang những sắc màu mới, mà chủ nghĩa hiện
thực là một vấn đề như thế. Thật vậy, vốn là một trào lưu văn học xuất hiện từ
thế kỷ XIX, lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực tưởng như đã ổn định, không có gì
đáng bàn cãi. Thế nhưng, khi mở cửa đón gió bốn phương, chúng ta mới nhận
thấy, nền lý luận thế giới đã có nhiều thay đổi và vấn đề này cũng đã được quan
niệm khác trước. Kết hợp với tình hình thực tế của văn học nước nhà, các nhà lý
luận nhận thấy không nên giữ mãi cái nhìn cũ. Nhờ đó, những quan điểm trước
đây được đem ra đánh giá lại, chỉ giữ lại những gì còn ý nghĩa tiến bộ, những gì
đã trở nên ấu trĩ, lỗi thời thì lược bỏ và thay đổi đi. Tìm hiểu chung về tình hình
nghiên cứu của giới lý luận Việt Nam về vấn đề chủ nghĩa hiện thực từ năm
1975 đến nay, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn quá trình nhận thức về vấn đề chủ nghĩa
hiện thực đã và đang được diễn ra như thế nào.
1.2. Tình hình nghiên cứu:
Lý luận văn học Việt Nam là một nền lý luận non trẻ. Mặc dù từ thời kỳ
văn học trung đại, chúng ta đã có không ít những nhận định, quan điểm rất sâu
sắc về các lĩnh vực thuộc đời sống văn học, nhưng đó mới chỉ là những ý kiến
rải rác, chưa tập hợp thành hệ thống. Đến thời kỳ văn học hiện đại 1930 – 1945,
trong sinh hoạt văn nghệ đã xuất hiện những dấu hiệu của một nền lý luận và
phê bình văn học chuyên nghiệp. Tiêu biểu là cuộc bút chiến giữa Thơ Cũ và
Thơ Mới, giữa quan điểm Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân
sinh,… với những tên tuổi, những công trình nghiên cứu ngày nay hãy còn được
nhắc tới. Tuy nhiên, những nghiên cứu lúc bấy giờ thường nghiêng về phê bình
hơn lý luận, chủ yếu vẫn dựa trên cảm xúc và kinh nghiệm cá nhân hơn là dựa
trên hệ thống những quan điểm lý luận khoa học và nếu được viết thành giáo
trình để giảng dạy thì chúng lại có mặt trong phần lịch sử văn học, chứ không
phải là lý luận văn học. Chỉ sau Cách mạng tháng Tám 1945, đứng trước yêu
cầu đào tạo thế hệ mới cho đất nước, đội ngũ các nhà giáo, các nhà nghiên cứu
mới cho ra đời những bộ giáo trình đầu tiên, đánh dấu sự ra đời của lý luận văn
23
học Việt Nam. Với bộ giáo trình Sơ thảo nguyên lý văn học, xuất bản năm 1958
và Mấy vấn đề nguyên lý văn học, xuất bản năm 1960, giáo sư Nguyễn Lương
Ngọc được xem là người đặt viên gạch đầu tiên cho nền lý luận nước nhà. Trong
bài Về việc biên soạn giáo trình lý luận văn học bậc Đại học ở ta 50 năm qua,
Nguyễn Ngọc Thiện đã nhận định: “Giáo sư Nguyễn Lương Ngọc, một cây bút
nổi tiếng từ trước Cách mạng tháng 8/1945, với uy tín và năng lực lý luận phê
bình sắc sảo đã thực hiện một cách xuất sắc vai trò khai sơn phá thạch, xây đắp
nền móng cho việc hình thành môn khoa học về văn học có tên Lý luận văn học.
Công lao và đóng góp bước đầu của ông cho lịch sử chuyên ngành là rất đáng
trân trọng” [82, tr.13]. Như vậy, nền lý luận của chúng ta mới chỉ ra đời vào
nửa sau thế kỷ XX, khá muộn so với lý luận văn học thế giới.
Vì ra đời khi nền lý luận văn học thế giới đã định hình từ lâu nên lý luận
văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền lý luận ấy. Sẽ không quá
nếu nói rằng chúng ta không có người “lập ngôn”, mà chủ yếu chỉ tiếp thu những
thành quả của lý luận nước ngoài. Ngay từ những cuốn sách đầu tiên, sự ảnh
hưởng ấy đã thể hiện khá rõ. Theo Nguyễn Phúc, “Điều dễ nhận thấy là tác giả
chịu ảnh hưởng rõ rệt của sách giáo khoa về lý luận văn học của Liên Xô như
Abramôvits, Timôphêép và của Trung Quốc như Ba Nhân v.v…, về cả hệ thống
cũng như luận điểm chính trong từng nguyên lý” [83, tr.440]. Trong tình hình
chung ấy, việc nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực cũng chỉ được bắt đầu từ
thập niên 60, chủ yếu là dịch và giới thiệu những nghiên cứu đã được đúc kết của
phương Tây và Liên Xô. Ngoài những bộ giáo trình chính thống được giảng dạy
tại các trường học, các sách chuyên khảo về chủ nghĩa hiện thực chiếm số lượng
không nhiều. Đơn cử là cuốn Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật
của Hồng Chương được nhà xuất bản Sự thật ấn hành năm 1962. Còn lại, đa số
là các bài viết ngắn đăng tải trên báo chí, chủ yếu giới thiệu sơ lược hoặc giúp
độc giả tìm hiểu một vài phương diện nhất định của chủ nghĩa hiện thực phê
phán như: Vũ Khiêu, Dưới ánh sáng của Lênin tiến tới đỉnh cao nhất của văn
học (Tạp chí Văn học số 4/1960), Sơn Tùng, Điển hình trong văn học (Tạp chí
24
Văn học số 8/1960), Sơn Tùng, Tính cách điển hình (Tạp chí Văn học số
9/1960), Sơn Tùng, Hoàn cảnh điển hình (Tạp chí Văn học số 10/1960), Đỗ Đức
Dục, Tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực phê phán (Tạp chí Văn học số 2/1964), Đỗ
Đức Dục, Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây từ nửa sau
thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX (Tạp chí Văn học số 3/1972),…Ngoài việc
nghiên cứu tài liệu lý luận nước ngoài và phổ biến cho độc giả Việt Nam, các
nhà nghiên cứu Việt Nam còn dùng lý thuyết ấy soi rọi và làm sáng tỏ thực tiễn
văn học ở Việt Nam, thể hiện qua những bài viết như: Suy nghĩ về sự xuất hiện
của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam của Đỗ Đức Dục (Tạp chí Văn
học số 4/1971), Một vài suy nghĩ về lý luận văn học Mác – Lênin và thực tiễn
văn học Việt Nam của Phương Lựu (Tạp chí Văn học 6/ 1973), hay cuốn Truyện
Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du của Lê Đình Kỵ, xuất bản năm
1970…
Nghiên cứu và vận dụng lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực, các nhà
nghiên cứu còn muốn dựa vào đó để phê phán một số quan điểm mà họ cho là
phi Mácxit. Một mặt, họ nghiên cứu và lên án một số xu hướng đi ngược lại
quan điểm của Mác, Lênin về văn học ở nước ngoài (như cuốn Chủ nghĩa xét lại
hiện đại trong văn học nghệ thuật ở một số nước của Hoàng Xuân Nhị, Trường
Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1974,…). Mặt khác, họ vận dụng những hiểu biết ấy
để phê phán những xu hướng tương tự của văn học trong nước. Một ý kiến vượt
khỏi khuôn khổ của các quan niệm kinh điển ấy, có thể sẽ trở thành chủ đề cho
một cuộc tranh luận thực sự. Tiêu biểu như cuộc tranh luận xung quanh cuốn
Các phương pháp nghệ thuật của Lê Đình Kỵ. Sự xuất hiện của tập sách này đã
kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt bài viết: Bàn thêm về vấn đề thế giới quan
và sáng tác (Chung quanh cuộc thảo luận về cuốn “Các phương pháp nghệ
thuật của Lê Đình Kỵ” của Duy Lập (Tạp chí Văn học số 2/1963), Chung quanh
cuộc tranh luận về quyển “Các phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ của
Hoàng Xuân Nhị (Tạp chí Văn học số 4/1963), Nhìn lại cuộc trao đổi ý kiến về
25
cuốn “Các phương pháp nghệ thuật” của Lê Đình Kỵ của Nam Mộc (Tạp chí
Văn học số 5/1963),…
Nhìn lại nền lý luận văn học Việt Nam trước 1975, chúng ta nhận thấy
đó là một giai đoạn còn nhiều hạn chế nhưng không phải không có những mặt
tích cực. Thật vậy, tuy chưa có được lý thuyết riêng của chính mình nhưng việc
tiếp thu các công trình lý luận nước ngoài đã thể hiện được tinh thần cầu thị của
giới học thuật nước ta. Có thể còn thô sơ hay mắc phải những thiếu sót, sai lầm,
nhưng thành quả lao động ấy thật đáng ghi nhận cho những người được mệnh
danh là “khai sơn, phá thạch”, mở đầu cho một nền lý luận văn học hiện đại,
càng đáng trân trọng hơn khi họ đã vượt qua những khó khăn của đất nước trong
những năm bị chiến tranh chia cắt, để định hình và phát triển nền lý luận văn
học nước nhà.
Khi đất nước được thống nhất, hòa bình lập lại, cùng với văn học, lý luận
văn học bước sang một giai đoạn mới. Bên cạnh những cơ hội và thử thách có
chung với sáng tác văn học, lý luận còn có những cơ hội và thử thách riêng. Nếu
so với văn học thế giới, chúng ta có thể tự hào về nền văn học của cha ông,
nhưng nếu so với lý luận văn học thế giới, chúng ta chỉ là kẻ hậu duệ. Hơn nữa,
khi đất nước được giải phóng, được giao lưu với bên ngoài, chúng ta thật ái ngại
vì nhận thấy nền lý luận non trẻ của mình đã sớm già nua, lạc hậu. Nhiều vấn đề
như Tiếp nhận văn học, Chủ nghĩa cấu trúc, Chủ nghĩa hình thức, Phân tâm học,
Tâm phân học, Thi pháp học,… đã được các nước nói từ mấy chục năm trước
trong khi chúng ta chưa sẵn sàng để tiếp thu, nói gì đến phát hiện ra. Rõ ràng,
đổi mới là một nhu cầu vô cùng bức thiết đối với lý luận văn học Việt Nam.
Nhanh chóng chiếm lĩnh những mảng kiến thức mới, đồng thời vận dụng sáng
tạo vào nền văn học dân tộc là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của các nhà
lý luận văn học Việt Nam sau 1975. Với ý thức trách nhiệm cao độ, kết hợp với
tinh thần say mê khoa học, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã đem lại sự khởi sắc
cho nền lý luận nước ta. Sự phong phú của tài liệu đã khơi thêm dòng tư duy,
khiến cho nhiều định kiến được dỡ bỏ, nhiều sai lầm được khắc phục, giúp cho
26
mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều phía hơn, khách quan hơn và hợp lý hơn.
Trong số những vấn đề ấy, vấn đề chủ nghĩa hiện thực cũng là một trong những
tâm điểm của quá trình đổi mới.
Từ 1975 đến nay, chặng đường hơn 30 năm quả không dài đối với lịch sử
và văn học dân tộc, cũng chưa đủ để hoàn tất quá trình hiện đại hóa đất nước và
nền lý luận văn học nước nhà. Song, đối với một vấn đề như chủ nghĩa hiện thực
thì việc nghiên cứu và đổi mới trong chừng ấy năm quả là không ít, nhất là khi
nó mới chỉ được chính thức ra mắt ở Việt Nam vào những năm 60. Để tiện cho
việc nghiên cứu, chúng tôi tạm chia quãng thời gian ấy thành: những năm 1975
– 1985, những năm 1986 – 2000 và những năm đầu thế kỷ XXI.
1.2.1. Những năm 1975 – 1985:
Xét về mặt lịch sử xã hội, đây là 10 năm đất nước thực hiện bước chuyển
đổi từ đời sống chiến tranh sang hòa bình, khắc phục hậu quả do chiến tranh để
lại và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quá khứ vừa mới đi qua nên còn in
đậm dấu ấn trong lòng người. Viết về cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước vẫn là
một đề tài có sức cuốn hút lớn cả với lực lượng sáng tác đã kinh qua chiến tranh
lẫn lực lượng sáng tác trẻ. Thời gian chính là khoảng cách cần có giúp người
cầm bút nhìn về cuộc chiến tranh sâu sắc hơn, toàn diện hơn, từ đó, đối diện với
cuộc sống mới tỉnh táo hơn, vững vàng hơn. Do vậy, trong những năm cuối thập
kỉ 70, cơ bản, lối viết vẫn không khác mấy so với văn học thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ. Tuy nhiên, sang đầu thập niên 80, tình hình đã biến chuyển theo một
xu hướng khác. Hiện thực cuộc sống sau chiến tranh đã làm vỡ lẽ nhiều điều.
Hóa ra, đằng sau vinh quang nào cũng có những đớn đau, bên cạnh những anh
hùng, cuộc sống còn có không ít kẻ tiểu nhân, trong mỗi con người đều có thiên
thần và ác quỷ. Cuộc đấu tranh giờ đây không phải chống kẻ thù ngoại xâm mà
là đấu tranh với quan liêu, tiêu cực làm thanh sạch xã hội và đấu tranh với chính
mình, làm thanh sạch tâm hồn con người. Lối viết một chiều, cách khai thác một
hướng, hoặc sơ lược, chung chung giờ đây khiến cả người đọc lẫn người viết
27
khó lòng chấp nhận. Điều này khiến cho văn học chững lại một thời gian, nhưng
đó lại là khoảng lặng cần thiết để nâng cao tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của
người viết.
Trong thời gian này, lý luận văn học có sự chuyển tiếp giữa lý luận trước
và sau giải phóng. Trong bối cảnh đất nước thống nhất, sự giao lưu quốc tế
thuận lợi và được mở rộng, công việc tổ chức biên soạn giáo trình lý luận văn
học mới để giảng dạy ở khoa văn các trường đại học trên cả nước được triển
khai ngay sau tháng 4 năm 1975 bởi các chuyên gia trường Đại học Sư phạm và
Tổng hợp Hà Nội, Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến 5
năm sau, bộ giáo trình ấy mới được hoàn thành. Trong thời gian ấy, buộc lòng
chúng ta phải sử dụng bộ giáo trình được biên soạn trước giải phóng. Đó là bộ
Cơ sở lý luận văn học, gồm 4 tập, do tập thể các nhà giáo thuộc tổ bộ môn giảng
dạy lý luận văn học các trường Đại học Sư phạm Vinh, Đại học Sư phạm Hà
Nội và Đại học Tổng hợp Hà Nội biên soạn. Bộ sách này đã lần lượt ra đời từng
tập trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến năm 1970.
Đến năm 1980, tập đầu tiên của bộ giáo trình được biên soạn theo tinh
thần mới đã được ra mắt. Đến năm 1985, trọn bộ 3 tập đã chính thức ra mắt, với
số trang đạt kỉ lục, lên tới 1300 trang. Đây là bộ giáo trình đầu tiên của nền lý
luận văn học trong giai đoạn mới. Nếu như trước giải phóng, các bộ giáo trình
của Nguyễn Lương Ngọc và Hà Minh Đức biên soạn chủ yếu giới thiệu những
thành tựu lý luận của các nước xã hội chủ nghĩa thì đến bộ giáo trình này, những
thành tựu của các nước tiên tiến Âu Mỹ đã được nghiên cứu và chọn lọc giới
thiệu. Nếu như trước đây, chủ nghĩa hiện thực được giới thiệu như một bước tiếp
nối của chủ nghĩa cổ điển và lãng mạn, đồng thời là tiền đề cho sự hình thành và
phát triển của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì nay, trong tập 3 mang
tên Phương pháp sáng tác, do Lê Đình Kỵ và Phương Lựu viết, được ấn hành
bởi nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp năm 1983, chủ nghĩa hiện
thực còn được giới thiệu trong mối tương quan với các chủ nghĩa hiện đại. Cách
giới thiệu này sẽ giúp cho việc nhìn nhận bức tranh các trào lưu, trường phái văn
28
học sẽ bao quát hơn, việc đánh giá đặc điểm và vai trò của chủ nghĩa hiện thực
cũng xác đáng hơn.
Bên cạnh việc biên soạn giáo trình để giảng dạy, các nhà lý luận Việt
Nam vẫn không ngừng đẩy mạnh công tác nghiên cứu và dịch thuật để giới thiệu
và hướng đạo cho bạn đọc bằng nhiều công trình, tiêu biểu như: Cuốn C.Mác,
F.Ăngghen, V.I.Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ, của Hà Minh Đức,
được nhà xuất bản Sự thật ấn hành tại Hà Nội năm 1982 và cuốn Mấy vấn đề lý
luận văn học, Tài liệu tham khảo chương trình Hệ Cao đẳng Sư phạm, thành phố
Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1984, với Phần chuyên đề C.Mác, F.Ăngghen,
V.I.Lênin và văn học nghệ thuật của Lê Đình Kỵ đã giới thiệu những quan điểm
về văn nghệ của các nhà tư tưởng lớn, cũng là những vấn đề then chốt của lý
luận Mácxít; cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại do Phan Cự Đệ biên soạn,
được nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp ấn hành tại Hà Nội năm
1977 và tái bản có sửa chữa, bổ sung năm 1978, trong tập 1, phần hai, cũng dành
hẳn chương sáu để bàn về Vấn đề điển hình hóa trong các tiểu thuyết hiện thực
phê phán ở Việt Nam; cuốn Tìm hiểu văn học của Lê Đình Kỵ được nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh cho ra mắt năm 1984, dành chương ba để nói về Chủ
nghĩa hiện thực,… Mặc dù các cuốn sách kể trên cũng chỉ dành một phần nhất
định để bàn về chủ nghĩa hiện thực, nhưng đó là cơ hội cho vấn đề này được bàn
thêm ngoài phạm vi các bộ giáo trình.
Nói chung, nỗ lực của các nhà nghiên cứu Việt Nam là rất đáng ghi
nhận. Nhờ đó, độc giả Việt Nam được biết đến nền văn học hiện thực trên thế
giới, đồng thời nắm rõ nền văn học hiện thực của Việt Nam. Song, chừng ấy vẫn
chưa đủ vì việc các nhà nghiên cứu tiếp thu lý luận nước ngoài, sau đó truyền
đạt lại cho bạn đọc Việt Nam đã tỏ ra có nhiều hạn chế. Hạn chế thứ nhất là độc
giả không được tiếp xúc trực tiếp với các công trình nghiên cứu trong tính hệ
thống và toàn vẹn của nó. Việc dịch thuật đôi khi chỉ đi vào một vài vấn đề nhất
định. Hạn chế thứ hai nằm ở tính chủ quan của các dịch giả. Trong khi chuyển
tải một vấn đề từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, nhiều dịch giả
29
thường kết hợp nguyên bản với ý kiến chủ quan của mình, làm cho nội dung bản
dịch đôi lúc sai khác so với nguyên bản. Trong khi đó, chuyện độc giả ảnh
hưởng từ tác giả lại là lẽ thường. Do vậy, việc dịch và giới thiệu trọn vẹn các
công trình nghiên cứu nước ngoài trở thành một đòi hỏi khá bức xúc. Đáp ứng
yêu cầu ấy, nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung tâm lực để đảm đương công việc
này. Kết quả là trong thời kỳ này, chúng ta có được những tập sách quý dịch từ
tài liệu nước ngoài. Đầu tiên phải kể đến cuốn Số phận lịch sử của chủ nghĩa
hiện thực (Suy nghĩ về phương pháp sáng tác) của Bôrix Xuskôv, do Hoàng
Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Hải Hà dịch, được nhà xuất bản Tác phẩm
mới (Hội Nhà văn Việt Nam) ấn hành năm 1980. Đây là một công trình nghiên
cứu mang tính chuyên sâu, cũng là một tài liệu quý để tham khảo khi nghiên cứu
về chủ nghĩa hiện thực. Tác giả đã chỉ ra tiến trình phát triển của chủ nghĩa hiện
thực, từ chủ nghĩa hiện thực thời Phục hưng, Khai sáng đến chủ nghĩa hiện thực
phê phán thế kỷ XIX ở Tây Âu, rồi đến chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa,
trong đó, chủ nghĩa hiện thực phê phán vẫn được trình bày kỹ hơn cả. Không
dành toàn bộ dung lượng để nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực, nhưng những
cuốn sách được dịch sau đó cũng đóng góp không nhỏ trong việc giới thiệu chủ
nghĩa hiện thực đến độc giả Việt Nam.
Cuốn Lý luận văn học của Gulaie._.ủ nghĩa, đó là hòn đá tảng của các nhà phê bình thời kỳ mới đặt lại nền
móng cho chủ nghĩa hiện thực” [86, tr.68].
Nhận thức lại vị trí của tính chân thực, quan hệ giữa tính khuynh hướng và
tính chân thực tất cũng sẽ được nhìn nhận lại. Trước đây, do hiểu không đúng về
148
tính khuynh hướng, đồng nhất nó với tính chính trị nên người ta đã cho rằng nó
quyết định tính chân thực. Ngày nay thì vấn đề đó đã được quan niệm lại.
Về điển hình, vấn đề vẫn được xem là vấn đề mấu chốt của chủ nghĩa hiện
thực, trong thời gian này cũng bị “sờ” đến. Trong hai bài nghiên cứu: Một định
nghĩa đáng được bàn lại – điều đáng nghi ngờ về mối quan hệ giữa hoàn cảnh điển
hình và nhân vật điển hình và Một công thức cần phải xóa bỏ - lại bàn về hoàn
cảnh điển hình và nhân vật điển hình, Từ Tuấn Tây đã bàn lại luận điểm của
Ăngghen. Ông cho rằng việc Ăngghen phê phán Cô gái thành thị của Hacơnetx “là
thiếu chính xác và không công bằng” vì “không thể cho rằng tác phẩm nghệ thuật
chỉ biểu hiện lực lượng chính diện và chủ lưu của cuộc sống mới có thể phản ánh
bản chất cuộc sống xã hội, mới có ý nghĩa điển hình, còn những tác phẩm miêu tả
hiện tượng tiêu cực và chi lưu của cuộc sống không thể phản ánh bản chất cuộc
sống xã hội, từ đó kết luận tác phẩm ấy không có ý nghĩa điển hình” [86, tr.71].
Theo Từ Tuấn Tây, mục đích chủ yếu của lá thư của Ăngghen “là phát biểu ý kiến
riếng của mình về sáng tác cụ thể của một nhà văn”, “chứ không phải là định nghĩa
nghiêm túc về chủ nghĩa hiện thực” do đó không nên coi ý kiến ấy là “tiêu chuẩn
duy nhất để đánh giá tất cả các tác phẩm văn nghệ”. Kết luận của Từ Tuấn Tây là
trong lá thư của Ăngghen “có một số quan điểm và luận thuyết không đủ tính chất
của một luận thuyết khoa học, do đó nếu coi nó là một định nghĩa để sử dụng thì rõ
ràng có chỗ không hoàn thiện” [86, tr.71].
Có người phê phán ý kiến của Từ Tuấn Tây là “Không những về lý luận là
sai lầm không có chút căn cứ, mà về thái độ và cách làm cũng khá khinh suất” [86,
tr.71] nhưng tác giả Lê Huy Tiêu lại cho rằng Từ Tuấn Tây đã phá vỡ quan niệm
phải tuyệt đối tin tưởng, không cho phép nghi ngờ đối với những lời bàn cụ thể của
các nhà kinh điển Mácxít. Việc minh xác những kiến giải này còn phải cần thêm
thời gian nhưng có thể thấy nhu cầu và năng lực nhận thức của con người là không
cùng. Chính nhờ đó, vấn đề tưởng đã cũ như chủ nghĩa hiện thực vẫn luôn có thêm
những màu sắc mới.
149
Ở Việt Nam, dòng văn học hiện thực lại bắt đầu khi chủ nghĩa hiện thực ở
phương Tây đã đi vào giai đoạn khủng hoảng, nên con đường phát triển của chủ
nghĩa hiện thực ở Việt Nam cũng không hoàn toàn giống chủ nghĩa hiện thực ở
Phương Tây. Trong Ảnh hưởng của tư tưởng Mácxít và phong trào cách mạng đối
với sự phát triển của văn xuôi hiện thực phê phán (1930-1945), Phan Cự Đệ đã vẽ
ra con đường phát triển đó như sau: “Tư tưởng Mácxít đã thâm nhập vào Việt Nam
khoảng những năm 20, nhưng nó chỉ được giới thiệu công khai trong thời kỳ Mặt
trận Dân chủ (1936-1939) [22, tr.62], “Tư tưởng Mácxít và phong trào cách mạng
đã tạo điều kiện cho văn học hiện thực phê phán phát triển rực rỡ trong thời kỳ Mặt
trận Dân chủ, giúp nó nhận ra những mâu thuẫn đối kháng, những vấn đề bản chất
của xã hội, do đó ở chặng cuối, không rơi vào chủ nghĩa tự nhiên mà một bộ phận
đã có sự giao lưu với văn học cách mạng để chuyển hóa thành hiện thực xã hội chủ
nghĩa” [22, tr.66].
Nhìn nhận chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa như một bước phát triển
đem lại những phẩm chất mới cho chủ nghĩa hiện thực, Phan Cự Đệ đã nhấn mạnh
nhiệm vụ xây đắp nền văn học ấy để khắc phục hạn chế của chủ nghĩa hiện thực
trước đó: “Phải khiêm tốn mà nhận rằng trước khi có nền văn xuôi hiện thực xã hội
chủ nghĩa thì cái nền văn xuôi hiện thực chủ nghĩa của chúng ta còn nghèo. Văn
học còn bỏ trống nhiều thời của con người Việt Nam với những mặt mạnh mặt yếu
của nó cũng như chưa định hình thật rõ nét trong văn xuôi. Văn học trong thời kỳ
đổi mới của chúng ta có nhiệm vụ phải củng cố cái nền hiện thực của văn xuôi hiện
thực xã hội chủ nghĩa” [29, tr.52].
Như vậy, sống trong môi trường văn học xã hội chủ nghĩa, việc đánh giá chủ
nghĩa hiện thực có phần thấp hơn chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là một điều
dễ hiểu. Tuy nhiên, việc nhà văn Nguyễn Minh Châu, một cây bút nổi tiếng của văn
học hiện thực XHCN lại thèm muốn cái mà các nhà văn hiện thực trước đây có
được và làm được lại là một điều buộc ta phải suy nghĩ: “Có lúc tôi đem công việc
của chúng ta so sánh với công việc của các nhà tiền chiến cầm bút trước cách
mạng, gọi là các nhà văn hiện thực phê phán. Ví dụ như ông Nam Cao chẳng hạn.
150
Có lần ông ấy la lối, la lối ầm lên rằng thiên hạ vít hết lối của ngòi bút ông ấy. Viết
cây chuối hay con chó hoặc kẻ say rượu đều phạm húy, đều có người đe đánh, đe
đốt nhà. Bị o ép đến như vậy tưởng không viết được gì thế mà cuối cùng, cả một đời
cầm bút của Nam Cao trước cách mạng số năm có là bao nhiêu đâu vậy mà đủ để
lại khá nhiều, nhất là có thể có cái quyền viết rất thật, bao nhiêu lẽ đời, sự đời, bao
nhiêu khuôn mặt người đời thực đến thế” [47, tr.128-129].
Tâm sự ấy của Nguyễn Minh Châu cho chúng ta hiểu rằng không phải cái mới
lúc nào cũng tiến bộ và hoàn hảo, cũng như không phải cái cũ nào cũng lạc hậu và
hoàn toàn bị vượt qua. Sức sống của những cái cũ nhưng tiến bộ sẽ luôn được khôi
phục và tiếp nối. Trong bài Tsêkhôp và Nam Cao – một sáng tác hiện thực kiểu mới,
Đào Tuấn Ảnh cho rằng: “Khoảng thời gian sáng tác trước Cách mạng của Nam
Cao thật ngắn ngủi (5 năm). Ông bước vào cuộc cách mạng của dân tộc mà không
thể mang theo hành trang văn chương của mình, bởi nó thật xa lạ với chất sử thi
hào hùng của một dân tộc đói nghèo lạc hậu đứng dậy chống ngoại xâm. Có thể
nói, truyền thống Nam Cao bị ngắt quãng khá lâu, giống như truyện Tsêkhôp.
Truyền thống của Tsêkhôp bắt đầu được khôi phục lại ở Liên Xô bằng sáng tác của
các nhà văn viết về chiến tranh vào những năm 70. Còn truyền thống của Nam Cao
được khôi phục lại cũng bằng sáng tác của nhà văn đi ra từ chiến tranh – Nguyễn
Minh Châu – những năm 80” [1, tr.177].
Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, những cây bút như Nguyễn Huy Thiệp, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Khắc Trường, Dương Hướng,… đã góp phần khôi phục và
phát triển truyền thống của Nam Cao nói riêng và truyền thống của chủ nghĩa hiện
thực nói chung.
Phan Cự Đệ từng nói, chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam không rơi
vào chủ nghĩa tự nhiên, một bộ phận văn học hiện thực chủ nghĩa đã chuyển hóa
thành chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Như vậy, bộ phận còn lại của chủ nghĩa
hiện thực phải chăng vẫn lặng lẽ nhưng bền bỉ đi tiếp chặng đường của mình? Nhận
diện tình hình văn học vừa qua, Nguyễn Văn Dân cho rằng: “Chúng tôi cho rằng
“sự phê phán trở lại” ở đây cũng không phải là sự trở lại với chủ nghĩa hiện thực
151
phê phán. Hiện nay, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, còn nhìn chung, xu hướng “tự
phê phán” của người trong cuộc là tính đặc trưng của văn học ta trong giai đoạn
vừa qua, nó khác với tính chất phê phán đối kháng của chủ nghĩa hiện thực phê
phán trước đây” [12, tr.69]. Từ đó, ông đã mạnh dạn trình bày suy nghĩ của mình:
“Như vậy có thể nói, những nỗ lực muốn đặt tên cho giai đoạn văn học hiện nay là
một yêu cầu và là một vấn đề quan trọng của lý luận văn học. Theo tôi, liệu có thể
gọi nó là chủ nghĩa hiện thực tự vấn không? Với nghĩa là văn học của một dân tộc
đang tự phê phán, tự khẳng định, tự đổi mới” [12, tr.71].
Khái niệm “Chủ nghĩa hiện thực tự vấn” được Nguyễn Văn Dân đề xuất có
được xem là tên gọi của chủ nghĩa hiện thực trong giai đoạn mới ở Việt Nam hay
không, chưa có thể có câu trả lời ngay được, nhưng sự tiếp tục tồn tại và phát triển
của chủ nghĩa hiện thực có vẻ như đã rõ rồi.
Nói tóm lại, trong các tiểu luận, chuyên khảo lý luận văn học ở Việt Nam từ
1975 đến nay, chủ nghĩa hiện thực luôn là một trong những vấn đề được đặc biệt
quan tâm. So với giáo trình, các chuyên khảo, tiểu luận có lợi thế hơn về dung
lượng trình bày, về phạm vi vấn đề sẽ nghiên cứu. Vì vậy, vấn đề chủ nghĩa hiện
thực có thể được nghiên cứu trong toàn bộ “số phận lịch sử” của nó cũng như một
khía cạnh nào đó, trong cả tập sách cũng như vài ba trang giấy. Đặc biệt, đến với
các chuyên khảo, tiểu luận là đến với không khí tự do, đối thoại trong trao đổi.
Chính vì vậy, đây là môi trường lý tưởng cho việc nêu những băn khoăn, suy nghĩ,
đề xuất những ý kiến, sự cọ xát những quan điểm khác nhau về chủ nghĩa hiện thực.
Khảo sát các chuyên khảo, tiểu luận về chủ nghĩa hiện thực từ 1975 đến nay, điều
ấn tượng nhất đối với chúng ta có lẽ là những tranh luận văn học. Dường như bất cứ
vấn đề nào của chủ nghĩa hiện thực cũng có thể được đem ra mổ xẻ, xem xét và bàn
bạc ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể những vấn đề được chúng tôi đề cập trên đây
chưa bao quát được toàn cảnh, nhưng qua đó có thể thấy giới nghiên cứu luôn tìm
tòi, đào sâu và phát hiện những điều mới mẻ. Khi phát hiện được rồi, họ rất nhiệt
tình chia sẻ những suy nghĩ của mình, thậm chí, khi cần, họ mạnh dạn đấu tranh
không khoan nhượng để khẳng định điều mà họ cho là đúng đắn. Đó là phẩm chất
152
rất cần có của người làm công tác lý luận, góp phần tạo nên sự sôi động, mới mẻ
cho bầu không khí lý luận văn học vốn rất dễ rơi vào trạng thái tĩnh tại, xơ cứng. Sự
năng động và phong phú của các chuyên khảo, tiểu luận này là sự bổ sung kịp thời
và quan trọng cho bức tranh chung về chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở
Việt Nam từ 1975 đến nay.
Tuy nhiên, phấn khởi trước sự sôi động trong tranh luận văn học trong thời
gian qua, chúng ta vẫn không thể dẹp bỏ băn khoăn về những cuộc tranh luận ấy.
Bên cạnh những cuộc tranh luận cần thiết và đem lại hiệu quả thiết thực, có không ít
những tranh luận thiếu chất lượng và vô bổ. Một trong những nguyên nhân quan
trọng là các nhà nghiên cứu đã xuất phát từ những khái niệm, những tiêu chí không
thống nhất với nhau, mỗi người chọn cho mình một phương tiện riêng để cùng tham
gia một cuộc chơi, để rồi không ai chịu ai cả. Nhìn lại tất cả các vấn đề được xới
lên, không có mấy vấn đề được giải quyết triệt để, gọn ghẽ, thậm chí còn bừa bộn
hơn trước. Dường như trong bản hòa âm này, chúng ta chưa có được chủ âm. Vì
vậy, tuy có rộn ràng nhưng chưa thể đem lại một giai điệu đẹp.
153
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa hiện thực là một vấn đề lớn, không chỉ một người mà có thể giải
quyết được. Chủ nghĩa hiện thực cũng là một vấn đề mang tầm cỡ quốc tế, không
chỉ nền lý luận của một quốc gia nào đó có thể giải quyết thỏa đáng được. Và chủ
nghĩa hiện thực còn là một vấn đề có lịch sử phát triển lâu đời, hãy còn đang tiếp
diễn, không thể một thời có thể giải quyết dứt điểm được. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu chủ nghĩa hiện thực không thể chủ quan, nóng vội và cẩu thả.
Nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ
1975 đến nay chính là nghiên cứu một lát cắt của quá trình tiếp nhận của giới lý
luận phê bình đối với lý luận và văn học hiện thực chủ nghĩa. Sự tiếp nhận ấy không
phải là sự tiếp nhận thụ động, chết cứng, mà có tính năng động, tích cực. Các nhà
nghiên cứu đã không ngừng tìm tòi và khám phá vấn đề để thỏa mãn nhu cầu chiếm
lĩnh và mở rộng tri thức về chủ nghĩa hiện thực, đồng thời xây dựng một nền lý luận
mang tính khoa học và tính thực tiễn cao, góp phần đưa văn học ngày càng phục vụ
đắc lực cho việc bồi dưỡng thế giới tinh thần của con người, giúp cải tạo và phát
triển xã hội.
Giai đoạn từ 1975 đến nay là một giai đoạn khá đặc biệt trong lịch sử Việt
Nam. Đó là thời gian xã hội Việt Nam có nhiều sự biến đổi, từ chiến tranh sang hòa
bình, từ cơ chế bao cấp sang tự do phát triển, từ đóng cửa sang mở cửa hội nhập,…
Những thay đổi ấy đã ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của xã hội và con người
Việt Nam. Bao cơ hội lẫn thử thách không cho phép chúng ta dậm chân tại chỗ, mà
phải luôn vận mình để bắt kịp nhịp sống của thế giới xung quanh.
Lý luận văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay có những thuận lợi và
thử thách riêng để tồn tại và phát triển. Đó là giai đoạn mà việc nhận thức lại mọi
vấn đề trở nên hết sức phổ biến. Từ những nghiên cứu của mình kết hợp với dịch
thuật và nghiên cứu lý luận văn học nước ngoài, các nhà lý luận Việt Nam đã mang
lại một giai đoạn khá sôi nổi cho lý luận văn học Việt Nam. Là một vấn đề từng
154
được quan tâm nghiên cứu trước giải phóng, từ 1975 đến nay, chủ nghĩa hiện thực
vẫn luôn có mặt trong các công trình nghiên cứu quan trọng và các cuộc tranh luận
văn học lớn ở Việt Nam. Trong phạm vi tư liệu thu thập được, chúng tôi đã tìm hiểu
vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong lý luận văn học ở Việt Nam từ 1975 đến nay qua
những giai đoạn cũng như trong những loại tư liệu nghiên cứu khác nhau.
Thực hiện lối cắt ngang, chúng tôi chia việc nghiên cứu vấn đề chủ nghĩa hiện
thực thành 3 giai đoạn: từ giải phóng đất nước 1975 đến 1985, từ công cuộc đổi mới
1986 đến năm 2000, và những năm đầu thế kỷ XXI, từ 2001 đến nay. Giai đoạn
đầu, nhìn chung xã hội còn sống trong môi trường tư tưởng không khác trước, nếu
có thay đổi, cũng chỉ mới là những dấu hiệu ban đầu, nên việc kiến giải vấn đề chủ
nghĩa hiện thực cơ bản giống như trước đây. Giai đoạn thứ hai, giai đoạn sau đổi
mới, là một giai đoạn sôi động nhất. Lý luận văn học thực hiện những bước chuyển
đổi rất căn bản, do đó, chủ nghĩa hiện thực được bàn bạc và xem xét lại một cách
toàn diện. Đến giai đoạn thứ ba, vấn đề vẫn được tiếp tục nghiên cứu, tuy không ồn
ào như giai đoạn trước nhưng cũng không kém phần gây cấn và thú vị.
Thực hiện lối bổ dọc, chúng tôi khảo sát việc nghiên cứu và trình bày về chủ
nghĩa hiện thực trong các giáo trình và các chuyên khảo, tiểu luận một cách độc lập,
vì tính chất và mức độ nghiên cứu của hai loại tư liệu này có sự khác nhau. Trong
các giáo trình, vấn đề chủ nghĩa hiện thực được nhìn nhận trong trạng thái ổn định
và mang tính cơ bản, đồng nhất hơn. Trong các chuyên khảo, tiểu luận, vấn đề lại
được đặt trong thế biến đổi và mang tính đa dạng hơn.
Có thể thấy, trong hơn 30 năm qua, vấn đề chủ nghĩa hiện thực vẫn luôn là
một đề tài có sức hấp dẫn lớn đối với giới nghiên cứu. Nó thu hút được sự quan tâm
đông đảo của các nhà lý luận, phê bình cũng như những người trực tiếp cầm bút
sáng tác hoặc giảng dạy văn học. Với tinh thần say mê khoa học, các nhà nghiên
cứu đã tìm đến với các nền học thuật lớn để tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực và đưa
chủ nghĩa hiện thực về với lý luận văn học Việt Nam. Từ những nguồn khai thác
chủ yếu trước đây như Liên Xô, Trung Quốc, ngày nay, giới nghiên cứu đã mở rộng
sang các nước phương Tây và các khu vực khác trên thế giới để đánh giá vấn đề
155
toàn diện và đích xác hơn. Từ những băn khoăn, trăn trở của mình, họ đã chân
thành bộc lộ cũng như thẳng thắn trao đổi để đưa nhận thức về chủ nghĩa hiện thực
đến gần chân lý hơn. Tất cả họ đều gặp nhau ở hoài bão xây dựng một nền lý luận
Việt Nam tráng kiện và minh triết. Và thực tế, họ đã thực hiện được hoài bão ấy ở
một mức độ nhất định.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực
trong thời gian qua cũng còn những hạn chế nhất định. Số lượng giáo trình chúng ta
sử dụng trong hơn 30 năm quả là ít ỏi. So với nền giáo dục của các nước tiên tiến
thì với số lượng giáo trình như thế, chúng ta khó có thể đạt được chất lượng cao.
Tính ổn định của giáo trình lại được thực hiện quá ư riết róng, khiến cho lý luận văn
học trong nhà trường khá xa rời thực tiễn sáng tác và nghiên cứu. Người học sẽ phải
mất nhiều thời gian để bắt kịp xu thế phát triển từng ngày, từng giờ của thực tế văn
học. Trong các chuyên khảo, tiểu luận, bức tranh chung về chủ nghĩa hiện thực có
đa thanh, đa sắc hơn, nhưng lại có phần rối rắm và dang dở. Nhiều vấn đề được xới
lên nhưng việc xem xét bên trong chưa hoàn tất nên còn khá bề bộn. Căn nhà đã
được bắt tay kiến thiết nhưng các kiến trúc sư còn chưa thống nhất phương án và
giải pháp thực hiện nên vẫn chưa xong xuôi. Làm việc trong bầu không khí lý luận
hiện nay, chúng ta giống như đang sống tạm trong căn nhà đang sửa chữa, còn thiếu
vắng bàn tay của kiến trúc sư trưởng.
Trước tình hình nghiên cứu ấy, chúng tôi cho rằng cần đẩy mạnh đa dạng
hóa giáo trình giảng dạy hơn để nguồn nhân lực chúng ta đào tạo có một kiến thức
phong phú và chắc chắn hơn. Cần có sự phối hợp giữa các trường đại học, của các
chuyên gia đầu ngành để có sự thống nhất chung với những vấn đề cơ bản. Trên cơ
sở đó, các trường có thể xây dựng những giáo trình riêng phục vụ cho nhu cầu đặc
thù của trường mình. Đối với các tiểu luận và chuyên khảo, trên tinh thần phát huy
dân chủ, chúng ta vẫn tiếp tục ủng hộ những suy nghĩ mới, những kiến giải mới. Có
điều, cần có sự gặp gỡ, đối thoại để đi đến thống nhất những tiêu chí đánh giá giúp
giảm bớt những tranh luận không cần thiết. Vai trò nhạc trưởng ấy có lẽ phải trông
cậy vào hội Lý luận phê bình văn học Việt Nam. Bản thân mỗi người nghiên cứu
156
cũng cần trau dồi không ngừng vốn hiểu biết của mình. Cần biết lắng nghe để tìm ra
hạt nhân hợp lý của các ý kiến trái ngược với mình. Cần mở rộng giao lưu với các
nền lý luận tiên tiến để có cái nhìn xa rộng hơn. Có như vậy, những vấn đề được đặt
ra trong thời gian qua mới sớm được giải quyết triệt để và trọn vẹn.
157
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh chủ biên (2002), Nam Cao – con người và tác phẩm, Nxb Hội
nhà văn.
2. Lại Nguyên Ân (1981), “Nhìn chủ nghĩa hiện thực trong sự vận động lịch sử”
(Đọc Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực – Xuscốp), Tạp chí Văn học
(4), tr.130 -140.
3. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
4. Bakhtin M. (1999), “Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử của
chủ nghĩa hiện thực”, Ngân Xuyên dịch, Tạp chí Văn học, (4), tr.77–88.
5. Trần Lê Bảo (2004), “Nhóm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển Trung
Quốc”, Tạp chí Văn học, (9), tr.15-24.
6. Nguyễn Duy Bắc (2005), “Mấy ghi nhận về thành tựu của lý luận văn học
trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (1), tr.142-151.
7. Đồng Khánh Bính (2005), “Diễn biến lý luận văn học phương Tây thế kỷ XX”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8), tr.17-28.
8. Trần Văn Bính (1965), “Về bản chất của điển hình”, Tạp chí Văn học, (3),
tr.11-19.
9. Lưu Văn Bổng (2004), “Một ý kiến nhỏ về cách nhìn mới đối với lý luận văn
học và một lời thỉnh cầu khẩn thiết”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (12),
tr.121-127.
10. Hồng Chương (1962), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
11. Phạm Vĩnh Cư (2004), “Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới lý
luận văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (12), tr.21-34.
12. Nguyễn Văn Dân (2005), Vì một nền lý luận phê bình văn học chất lượng cao,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
158
13. Phạm Tiến Duật (1980), “Về bút pháp hiện thực trong thơ Việt Nam hiện đại”
(1945-1980), Tạp chí Văn học, (5), tr.16-19.
14. Đỗ Đức Dục, (1972) “Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây
từ nửa sau thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (3), tr.91-
104.
15. Đỗ Đức Dục, (1971), “Suy nghĩ về sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực trong
văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (4), tr.100-115.
16. Đỗ Đức Dục, (1964), “Tìm hiểu chủ nghĩa hiện thực phê phán”, Tạp chí Văn
học, (2).
17. Trương Đăng Dung (2001), “Những đặc điểm của hệ thống lý luận Mácxit thế
kỷ XX”, Tạp chí Văn học, (7), tr.17-26.
18. Trương Đăng Dung (1998), “Đặc trưng mỹ học - Từ chủ nghĩa hiện thực đến
đặc trưng mỹ học của Lukác, Tạp chí Văn học nước ngoài, (5), tr.200 - 228.
19. Trương Đăng Dung (2004), “Trên đường đến với tư duy lý luận văn học hiện
đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (12), tr.47-64.
20. Thành Duy (1989), “Đổi mới hay dấu hiệu khủng hoảng về lý luận”, Tạp chí
Văn học, (2), tr.11-15.
21. Đại học quốc gia Hà Nội, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí Văn nghệ quân
đội (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội.
22. Phan Cự Đệ (1982), “Ảnh hưởng của tư tưởng Mácxit và phong trào cách
mạng đối với sự phát triển của văn xuôi hiện thực phê phán Việt Nam 1930-
1945”, Tạp chí Văn học, (6), tr.62 –70.
23. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, Nxb Đại học và trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
24. Trịnh Bá Đĩnh (2005), “Nửa thế kỷ giới thiệu những tư tưởng mỹ học và lý
luận văn học nước ngoài ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (5),
tr.45-58.
159
25. Hà Minh Đức, (1982), C.Mác, F. Ăngghen, V.I. Lênin và một số vấn đề lý luận
văn nghệ, NXB. Sự thật, Hà Nội.
26. Hà Minh Đức (2004), “Cơ sở lý luận và cách đánh giá của Mác, Ăngghen về
một số tác phẩm văn học phương Tây thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, (12), tr.73-80.
27. Hà Minh Đức chủ biên (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
28. Hà Minh Đức (2006), “Suy nghĩ về một vài hướng tìm tòi đổi mới trong văn
hoc”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (4), tr.21-28.
29. Hà Minh Đức chủ biên (1991), Trao đổi ý kiến - Mấy vấn đề lý luận văn nghệ
trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật.
30. Trọng Đức (1982), “Chủ nghĩa hiện thực dưới ánh sáng của nguyên lý hệ
thống”, Tạp chí Văn học, (6), tr.42-54.
31. Gulaiep N. A. (1982), Lý luận văn học, Lê Ngọc Tân dịch, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
32. Lê Bá Hán (1993), Về một số vấn đề lý luận văn nghệ cơ bản đang được tranh
luận qua công cuộc đổi mới (1987 – 1992), đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Bộ.
33. Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm (1985), Văn học lãng mạn và văn học hiện thực
phương Tây thế kỷ XIX, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
34. Nguyễn Văn Hạnh (1988), “Cái cá biệt và cái khái quát trong nghệ thuật”, Tạp
chí Văn học, (5), tr.20-27.
35. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa
học xã hội.
36. Nguyễn Văn Hạnh (1987), “Về nội dung khái niệm chủ nghĩa hiện thực trong
văn học”, Tạp chí Văn học, (1), tr.57-72.
37. Nguyễn Văn Hạnh, Lê Đình Kỵ (1976), Cơ sở lý luận văn học, tập 4, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
38. Nguyễn Trung Hiếu (1989), “Từ đặc thù văn học nhìn lại vị trí (của Phản ánh
luận và thế giới quan)”, Tạp chí Văn học, (4), tr.64 - 93.
160
39. Phạm Quang Hưng (1998), Lý luận trước chân trời mở, Nxb Giáo dục.
40. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
41. Vũ Khiêu (1960), “Dưới ánh sáng của Lênin đến đỉnh cao nhất của văn học”,
Tạp chí Văn học, (4), tr1-13.
42. Khraptrenkô M.B. (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, tập 1,
Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
43. Korat N. (1997), Phương Đông và phương Tây (Những vấn đề triết học, triết
học lịch sử, văn học Đông và Tây), Trịnh Bá Đĩnh dịch, Nxb Giáo dục.
44. Lê Đình Kỵ (1984), Mấy vấn đề lý luận văn học, Tài liệu tham khảo chương
trình Hệ Cao đẳng Sư phạm, Tp. Hồ Chí Minh.
45. Lê Đình Kỵ (1984), Tìm hiểu văn học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Lê Đình Kỵ, Phương Lựu (1983), Cơ sở lý luận văn học, tập 3, Nxb Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
47. Tôn Phương Lan (2002), Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn, Nxb Khoa
học xã hội.
48. Duy Lập, (1963), “Bàn thêm về vấn đề thế giới quan và sáng tác” (Chung
quanh cuộc thảo luận về cuốn “Các phương pháp nghệ thuật của Lê Đình
Kỵ”, Tạp chí Văn học, (2), tr.38-45.
49. Phong Lê (1989), “Nhận thức lại vị trí của chủ nghĩa hiện thực và vấn đề chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Văn học, (4).
50. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình thế kỷ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội.
51. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, Những
vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.
52. Phạm Quang Long (2005), Về sự hình thành của chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (1), tr.88-104.
161
53. Lukác G., (1999), “Nghệ thuật và chân lý khách quan”, Trương Đăng Dung
dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài (6), tr.113-141.
54. Phương Lựu (2006), “Để hiểu thêm chủ nghĩa hiện thực vĩ đại của Lukacs”,
Tạp chí Nghiên cứu văn học, (6), tr.3-20.
55. Phương Lựu, (1973), “Một vài suy nghĩ về lý luận văn học Mác – Lênin và
thực tiễn văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (6), tr.89-97.
56. Phương Lựu (2004), Lý luận phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng.
57. Phương Lựu chủ biên (1997), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
58. Phương Lựu (2006), “Về chủ nghĩa hiện thực hiện đại của E.Fischer”, Tạp chí
Văn học, (11), tr.96–102.
59. Phương Lựu, La Khắc Hòa, Trần Mạnh Tiến (2006), Lý luận văn học, tập 3,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
60. Nam Mộc, (1963), “Nhìn lại cuộc trao đổi ý kiến về cuốn Các phương pháp
nghệ thuật của Lê Đình Kỵ”, Tạp chí Văn học, (5), tr.1-21.
61. Nguyễn Tri Nguyên (2005), “Những biến thái của lý luận văn học Mácxít qua
một số trào lưu lý luận văn học ở phương Tây”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, (1), tr.18-26.
62. Nhà xuất bản Văn học (1970), Gorki bàn về văn học, Hà Nội.
63. Phùng Quý Nhâm (1998), “Tinh thần phân tích tâm linh, một đặc trưng của chủ
nghĩa hiện thực”, Tạp chí Văn học (4), tr.37-40.
64. Phùng Quý Nhâm (2002), Văn học và văn hóa từ một góc nhìn, Nxb Văn học,
Trung tâm Nghiên cứu quốc học.
65. Hoàng Xuân Nhị (1974), Chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn học nghệ thuật ở
một số nước, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
66. Hoàng Xuân Nhị (1963), “Chung quanh cuộc tranh luận về quyển Các phương
pháp nghệ thuật của Lê Đình Kỵ”, Tạp chí Văn học, (4), tr.16-29.
67. Pêtơrốp X.M. (1986), Chủ nghĩa hiện thực phê phán, Nguyễn Đức Nam, Phạm
Văn Trọng, Anh Đào dịch, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp.
162
68. Vũ Đức Phúc (1976), “Trào lưu chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam từ
1930 – 1945”, Tạp chí Văn học, (5), tr.58-74.
69. Huỳnh Như Phương (2004), “Mấy công trình lý luận văn học xuất bản ở Nga 5
năm gần đây”, Tạp chí Khoa học ĐHSP TP.HCM (1), tr.5-15.
70. Huỳnh Như Phương (2006), “Môn lý luận văn học trong trường đại học”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học (4), tr.42-51.
71. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn.
72. Huỳnh Như Phương (2006), Tuyển tập Lê Đình Kỵ, Nxb Giáo dục.
73. Trần Thị Phương Phương (2006), Tiểu thuyết hiện thực Nga thế kỷ XIX, Nxb
Khoa học xã hội, TP.HCM.
74. Poselov G.N. chủ biên (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Nghĩa Trọng dịch, Nxb Giáo dục.
75. Đào Xuân Quý (2000), “Lại bàn về chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học, (9), tr.3-14.
76. Lê Hồng Sâm (1999), “Xung quanh chủ nghĩa hiện thực của Balzac”, Tạp chí
Văn học, (4), tr.100-115.
77. Nguyễn Hữu Sơn (2006), “Tính phản biện và tranh luận trong nghiên cứu, lý
luận phê bình văn học”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (5), tr.3-11.
78. Trần Hữu Tá (2004), Tuyển tập Nguyễn Lương Ngọc, Nxb Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, Hội nghiên cứu Giảng dạy văn học Thành phố Hồ
Chí Minh.
79. Kim Thanh (1997), “Sự khác nhau về bản chất giữa Trung Quốc và phương
Tây về chủ nghĩa hiện thực”, Phạm Tú Châu dịch, Tạp chí Văn học, (7),
tr.76-79.
80. Vương Văn Thành (1995), “Nhìn lại cuộc tranh luận văn nghệ thời kỳ mới”,
Phạm Tú Châu dịch, Tạp chí Văn học, (6), tr.38-45.
81. Trần Nho Thìn (2005), “Thông tin bước đầu về ứng xử của giới lý luận quốc tế
đối với các lý thuyết văn học trong thế kỷ XX”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, (1), tr.42-54.
163
82. Nguyễn Ngọc Thiện (2006), “Về việc biên soạn giáo trình lý luận văn học bậc
đại học ở ta 50 năm qua”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (5), tr.12-20.
83. Hữu Thỉnh (chủ biên) (1997), Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1945 – 1995), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
84. Phan Trọng Thưởng (2004), “Lý luận trước yêu cầu đổi mới và phát triển”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, (12), tr.10-20.
85. Lộc Phương Thủy (2005), “Tác động của lý luận văn học nước ngoài đối với lý
luận văn học nước ngoài đối với lý luận văn học Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu văn học, (1), tr.9-17.
86. Lê Huy Tiêu (2005), “Giới lý luận phê bình Trung Quốc thảo luận về chủ nghĩa
hiện thực và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, (1), tr.161-69.
87. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
88. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo dục.
89. Vũ Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (1997), Văn học 1975- 1985: Tác phẩm và
dư luận, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
90. Hà Xuân Trường (2001), “Vài ý kiến nhân Nhìn lại một thế kỷ văn học Việt
Nam”, Tạp chí Văn học, (9), tr.6-9.
91. Sơn Tùng (1960), “Điển hình trong văn học”, Tạp chí Văn học, (8), tr. 75-77.
92. Sơn Tùng (1960), “Hoàn cảnh điển hình”, Tạp chí Văn học, (10), tr.76-79.
93. Sơn Tùng (1960), “Tính cách điển hình”, Tạp chí Văn học, (9), tr.92-95
94. Lê Thị Phong Tuyết (2003), Đỗ Đức Dục – Hành trình văn học, Nxb Khoa học
xã hội.
95. Trương Đức Tường (1998), “Nhận thức lại chủ nghĩa hiện thực”, Phạm Tú
Châu dịch, Tạp chí Văn học, (2), tr.63–70.
96. Phùng Văn Tửu (1970), “Ăngghen và vấn đề điển hình”, Tạp chí Văn học, (6),
tr.10-21.
97. Phùng Văn Tửu (1982), “Mấy vấn đề lý luận về Chủ nghĩa hiện thực”, Tạp chí
Văn học, (6), tr.51-61.
164
98. Viện Văn học - Ủy ban Khoa học xã hội (1989), “Phản ánh hiện thực là chức
năng hay thuộc tính văn học? (Lược thuật cuộc Hội thảo bàn tròn về văn
học và hiện thực)”, Tạp chí Văn học, (1), tr. 3-26.
99. Xusckôv B. (1980), Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực (Suy nghĩ về
phương pháp sáng tác) Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Hải Hà
dịch, Nxb Tác phẩm mới Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
100. Một số vấn đề về đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy Ngữ văn ở
trường trung học phổ thông (2006), Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo
viên trung học phổ thông chu kỳ III, 2004 - 2007.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7346.pdf