Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp : Tình hình phát triển Thị trường xuất khẩu của Việt Nam: ... Ebook Luận văn Tốt nghiệp : Tình hình phát triển Thị trường xuất khẩu của Việt Nam
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1629 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận văn Tốt nghiệp : Tình hình phát triển Thị trường xuất khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG
I. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU
1. Tầm quan trọng của thương mại quốc tế với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong tác phẩm “Sự giàu có của các Quốc gia” A.Smith đã chỉ rõ: Thương mại quốc tế là một trong những hình thức đem lại sự giàu có và thịnh vượng cho mỗi dân tộc, là nhân tố đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thương mại quốc tế phát triển, thị trường được mở rộng, cho phép tăng chuyên môn hoá sản xuất, tiếp nhận công nghệ mới, khuyến khích phát minh sáng chế, nâng cao năng suất lao động dẫn tới tăng tổng sản phẩm quốc dân. Thương mại quốc tế cho phép các quốc gia mở rộng sản xuất trên cơ sở chuyên môn hoá một cách sâu sắc. Thương mại quốc tế mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ tự cung tự cấp không buôn bán.
Ngày nay, Thương mại quốc tế còn là công cụ để hội nhập nền kinh tế các nước và hình thành kinh tế toàn cầu với một không gian rộng lớn, nhờ đó hiệu quả kinh tế xã hội không ngừng tăng lên làm tăng chất lượng cuộc sống trên toàn thế giới cũng như ở mỗi quốc gia.
Để đánh giá sự tác động của thương mại quốc tế vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân người ta sử dụng mối quan hệ tương quan giữa kim ngạch xuất nhập khẩu với GDP, kim ngạch xuất khẩu so với GDP, kim ngạch nhập khẩu so với GDP và tương quan xuất khẩu so với nhập khẩu.
Thương mại quốc tế ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế còn được tính toán bởi chỉ tiêu tăng trưởng xuất nhập khẩu và tăng trưởng xuất khẩu vào 1% tăng trưởng GDP. Nghĩa là để đạt được 1% tăng trưởng GDP thì kim ngạch xuất nhập
khẩu hay kim ngạch xuất khẩu phải tăng trưởng bao nhiêu phần trăm nếu chúng ta cố định các nhân tố khác.
Tăng trưởng 1% GDP do đóng góp của tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu được tính theo chỉ số liên hoàn và so với năm gốc.
Chỉ số liên hoàn được tính theo công thức:
Đóng góp cho
1% tăng trưởng =
GDP của XK
Tỷ lệ tăng trưởng
xuất khẩu (%) x
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%)
XK
GDP
Chỉ số đóng góp so với thời kỳ gốc (t) được tính theo công thức:
Đóng góp cho
1% tăng trưởng =
GDP của XK
Tỷ lệ tăng trưởng XK (%)
thời kỳ (t+1)
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%)
thời kỳ t
XKt+1
x
GDPt+1
Các chỉ số trên cho ta thấy rằng để tăng trưởng 1% GDP, kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó có tính đến tác động của cả nhập khẩu phải đạt mức tăng trưởng nhất định. Nếu trung bình cho thời kỳ 5 năm hoặc 10 năm, các chỉ số này sẽ có tác dụng dự báo các chỉ tiêu GDP tương ứng với tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu hoặc tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tương ứng.
2. Chiến lược hướng về xuất khẩu
Cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu dựa trên nguyên lý của Keynes về tổng cầu chứ không phải tổng cung là yếu tố quyết định mức sản xuất (lý luận về tổng cầu hiệu quả). Từ đó, mở ra lập luận mới về nền kinh tế mở, lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước. Tình hình đó đòi hỏi người ta phải có phương thức phù hợp, cách đi hợp lý, cấu trúc lại nền kinh tế sở tại, sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thị trường thế giới. Đây chính là cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu hay còn gọi là chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hướng ngoại.
Bản chất của chiến lược hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường thế giới nhằm: phát huy lợi thế so sánh của quốc gia; buộc sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm mau chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại; đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu thị trường (cả trong nước và quốc tế) với giá cạnh tranh không có một con đường nào khác là chuyển dịch cơ cấu nền sản xuất xã hội phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới.
Quan điểm hướng về xuất khẩu được hiểu: “Sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá mà thị trường thế giới cần chứ không phải sản xuất cái ta có”, không chỉ đối với sản phẩm xuất khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và thị trường trong nước.
Nếu như đặc trưng của chiến lược thay thế nhập khẩu là mức bảo hộ cao, kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ, tỷ giá hối đoái ít khuyến khích xuất khẩu thì đặc trưng của chiến lược hướng về xuất khẩu là mức bảo hộ thấp, hạn chế sử dụng hạn ngạch, giấy phép xuất khẩu và các biện pháp hạn chế nhập khẩu, sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích xuất khẩu, tỷ giá hối đoái ủng hộ xuất khẩu.
Ưu thế của chiến lược hướng về xuất khẩu là gắn sản xuất và nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, liên kết các nền kinh tế quốc gia với nhau, tạo ra không gian và nhu cầu kinh tế rộng lớn hơn nhờ liên kết và buôn bán quốc tế, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Đối với nước ta, chiến lược hướng về xuất khẩu có nhiều ý nghĩa lớn :
- Xuất khẩu giúp cho việc tạo ra và tăng thu ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
- Hạn chế bảo hộ công nghiệp địa phương mà thực chất là nuôi dưỡng tính ỷ
lại và thay thế vào đó là nâng đỡ và hỗ trợ cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu
- Bảo đảm môi trường đầu tư cho các nhà tư bản nước ngoài thông qua một hệ thống các chính sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu hút đến mức tối đa vốn đầu tư của các công ty nước ngoài, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Nhanh chóng đổi mới hiện đại hoá công nghệ sản xuất và công nghệ kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước,
- Chiến lược hướng về xuất khẩu vừa là tác nhân vừa là hệ quả và là sự bảo
đảm thắng lợi cho quá trình tự do hoá thương mại,
- Đẩy nhanh tiến trình hội nhập, có hiệu quả thương mại quốc gia với thương mại khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, khi áp dụng chiến lược hướng về xuất khẩu cũng có những nhược điểm:
- Nền kinh tế định hướng hướng về xuất khẩu có thể gây ra sự mất cân đối trầm trọng giữa các ngành xuất khẩu và không xuất khẩu do tập trung hết khả năng cho xuất khẩu và các ngành có liên quan. Các ngành phục vụ cho xuất khẩu sẽ nhận được nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, trong khi các ngành không xuất khẩu thì sẽ không được hưởng chính sách này, vì thế các ngành còn lại sẽ cũng có khuynh hướng hoặc là sản xuất kém hoặc là chuyển dần kinh doanh sang những hoạt động có liên quan tới xuất khẩu. Điều này khiến cho sự phát triển không đồng đều giữa các ngành kinh tế,
- Mọi chính sách vĩ mô như điều chỉnh tỷ giả hối đoái, lãi suất ngân hàng.. do quá tập trung vào khuyến khích xuất khẩu nên có thể dẫn tới những khủng hoảng kinh tế trầm trọng do mất giá đồng tiền,
- Do ít chú ý tới các ngành công nghiệp phát triển thiết yếu nhất, nên mặc dù tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng nền kinh tế vẫn gắn chặt với thị trường nước ngoài nên dễ bị tác động bởi những sự biến đổi của các thị trường lớn,
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần bị kiệt quệ do bị khai thác triệt để
nhằm phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu,
- Nếu quá tập trung vào xuất khẩu mà không coi trọng nhập khẩu thì trong dài hạn, nền kinh tế dễ bị rơi vào tình trạng tụt hậu, nhất là với các nước đang phát triển khi mà trình độ khoa học kỹ thuật chưa phát triển.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường.
1.1 Khái niệm
Theo Samuelson, “thị trường là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá”. Với định nghĩa này, ông đã đơn giản hoá rằng, đây là một quá trình mua bán diễn ra trực tiếp giữa người mua và bán mà ít bị sự điều khiển hoặc các yếu tố bên ngoài chi phối tới cả quá trình. Nhưng với David Begg, thị trường được xem xét dưới nhiều khía cạnh hơn “thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng mặt hàng nào, quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh của giá cả”. Nói tóm lại, thị trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế để thực hiện việc trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá và cụ thể hơn, ở đó cung cầu về hàng hoá gặp nhau và được thoả mãn.
1.2 Đặc điểm của thị trường
Kinh tế thị trường được hiểu là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao dựa trên sự phát triển của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm làm ra của những người sản xuất với nhau. Nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi các quy luật khác nhau: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ...
Quy luật giá trị đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá phải căn cứ vào giá trị xã hội trung bình của hàng hoá để sản xuất và trao đổi một cách bình đẳng ngang giá trên thị trường. Giá cả trên thị trường vận động xoay quanh trục giá trị trung bình của nền sản xuất xã hội, nếu các nhà sản xuất vi phạm quy luật giá trị thì sẽ dẫn tới thua lỗ và phá sản.
Quy luật cung cầu hoạt động thông qua hai lực lượng cơ bản của thị trường là Cung và Cầu (Người bán – Người mua, Người sản xuất – Người tiêu dùng …)
thuộc hai khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất và tiêu dùng. Quy luật này nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng của Cung và Cầu. Cung cầu không tồn tại độc lập riêng rẽ với nhau mà thường xuyên tác động qua lại nhau. Mối quan hệ này xảy ra thường xuyên, lặp đi lặp lại trên thị trường. Vì vậy, để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, lực lượng sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường phải xuất phát từ những nhu cầu sẵn có hoặc tiềm năng của thị trường.
Quy luật cạnh tranh là sự biểu hiện của quy luật lợi ích trong nền kinh tế thị trường. Trên thị trường, với sự tự do sản xuất kinh doanh của nhiếu chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia thường dẫn tới sự cạnh tranh lẫn nhau trên tất các các phương diện: cạnh tranh về giá cả, chất lượng, và dịch vụ phục vụ khách hàng. Quá trình cạnh tranh này có thể xẩy ra giữa người mua với người bán, người mua với người mua và người bán với người bán với nhau. Muốn tồn tại và giành thắng lợi trên thương trường, các lực lượng của thị trường cần luôn bám sát quy luật cạnh tranh. Bởi cạnh tranh là một cuộc chạy đua không có đích cuối cùng làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống, chất lượng tăng lên, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất – kinh doanh, không ngừng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, cạnh tranh tước quyền thống trị và độc quyền về kinh tế.
Quy luật lưu thông tiền tệ chỉ ra trong thị trường, khối lượng tiền lưu thông phải phù hợp với tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị trường. Nếu quy luật này bị vi phạm sẽ dẫn tới ách tắc trong lưu thông và gây khó khăn dẫn đến mất ổn định nền kinh tế. Do vậy, để tồn tại và phát triển thị trường hàng xuất khẩu, các thành phần tham gia vào thị trường đều phải tự giác tuân thủ theo các quy luật thị trường một cách nghiêm túc.
Nói về thị trường quốc tế, “thị trường quốc tế của một nước là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng có nhu cầu về những mặt hàng nào đó của nước đó”
2. Thị trường hàng hoá xuất khẩu
2.1 Hàng hoá xuất khẩu
Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại hàng hoá (phân biệt với xuất khẩu dịch vụ gắn với khái niệm thương mại dịch vụ) theo quy ước của Liên hợp quốc và WTO là những sản phẩm hàng hoá hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản xuất, gia công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị trường ngoài nước (xuất khẩu). Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi là hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá quá cảnh không thuộc diện của khái niệm hàng hoá xuất khẩu.
Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá khác biệt so với hàng hoá tiêu dùng ở trong nước. Những hàng hoá xuất khẩu phải đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hoá phải cao, đảm bảo đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kỹ thuật và môi trường và đạt được tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu. Ví dụ: sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu vào khối EU hay Mỹ phải đạt các tiêu chuẩn trong hệ thống HACCP .Vấn đề nhãn mác hàng hoá gắn liền với uy tín của doanh nghiệp và rất được các nước công nghiệp phát triển quan tâm.Ví dụ, hàng hoá của Trung Quốc mang thương hiệu Made in China, hàng của Nhật Bản mang thương hiệu Made in Japan, trong khi đó Việt Nam lại chưa chú ý đúng mức để phát triển hàng hoá xuất khẩu mang thương hiệu Made in Việt Nam bởi hàng của ta chất lượng kém, số lượng ít, khối lượng nhỏ.
2.2 Thị trường hàng hoá xuất khẩu
2.2.1 Khái niệm thị trường hàng hoá xuất khẩu
Thị trường hàng hoá xuất khẩu là thị trường trong đó người mua và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá mua bán, chất lượng hàng hoá cao theo tiêu chuẩn quốc tế, mua bán theo hợp đồng với khối lượng lớn, thanh toán chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới. Xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả xuất khẩu
trực tiếp (nước tiêu thụ cuối cùng) và xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian). Chẳng hạn, một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hoá của Việt nam hoặc nhập hàng hoá của Việt nam rồi đem xuất khẩu sang thị trường khác cũng được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt nam.
2.2.2 Phân loại thị trường hàng hoá xuất khẩu
Căn cứ vào vị trí địa lý:
Thị trường Châu lục
Thị trường khu vực
Thị trường nước và vùng lãnh thổ
Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương
Thị trường truyền thống
Thị trường hiện có
Thị trường mới
Thị trường tiềm năng
Căn cứ mức độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính sách phát triển thị
trường của nước xuất khẩu đối với các thị trường xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu trọng điểm hay thị trường chính. Đối với loại thị trường này, trong quan hệ ngoại thương, nước xuất khẩu có thể phải chấp nhận một số thiệt thòi về lợi ích trước mắt để thu được lợi ích lâu dài (nhất là trong đàm phán ký kết các hiệp định thương mại cấp Chính phủ). Đây là những thị trường mà một nước sẽ nhằm vào khai thác chính và trong một tương lai lâu dài.
Thị trường xuất khẩu tương hỗ. Đối với loại thị trường này, nước xuất khẩu duy trì quan hệ giao thương theo nguyên tắc tương hỗ - tức là hai nước có quan hệ ngoại thương dành cho nhau những ưu đãi và nhân nhượng tương xứng nhau, nhất là trong việc mở rộng thị trường.
Căn cứ vào dung lượng và sức mua của thị trường
Thị trường xuất khẩu có sức mua lớn
Thị trường xuất khẩu có sức mua trung bình
Thị trường xuất khẩu có sức mua thấp
Căn cứ vào kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại giữa nước xuất khẩu với nước nhập khẩu:
Thị trường xuất siêu
Thị trường nhập siêu
Căn cứ mức độ mở cửa của thị trường, mức bảo hộ, tính chặt chẽ và khả
năng xâm nhập thị trường:
Thị trường “khó tính”
Thị trường “dễ tính”
Căn cứ vào sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp của nước xuất khẩu:
Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh
Thị trường xuất khẩu không có ưu thế cạnh tranh
Căn cứ vào các thoả thuận thương mại cấp Chính phủ và các yêu cầu của đối tác thương mại về việc có hạn chế hay không hạn chế định lượng nhập khẩu một số mặt hàng:
Thị trường xuất khẩu theo hạn ngạch
Thị trường xuất khẩu không có hạn ngạch
Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường:
Thị trường độc quyền
Thị trường độc quyền “nhóm’
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo : một dạng của loại hình này đã được nhiều nước ứng dụng thành công khi tìm kiếm thị trường là thị trường ngách
Thị trường ngách được xem như một loại hình thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Thị trường này đóng một vai trò rất quan trọng cho các nước đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu, những nước mà khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn kém so với các hàng hoá hiện có trên thị trường quốc tế. Về khái niệm, thị trường ngách là một khoảng trống hay những “khe nhỏ” trên thị trường, ở đó đã xuất hiện hay tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó. Những nhu cầu này chưa được các nhà kinh doanh khác phát hiện hoặc phát hiện ra nhưng họ không có lợi thế hoặc không muốn đầu tư vào để thoả mãn. Song nhu cầu này lại được một số nhà kinh doanh khác phát hiện và đầu tư để khai thác đưa hàng đến tiêu thụ. Đối với nước ta, thị trường ngách cần được đặc biệt lưu tâm nghiên cứu để xuất khẩu hàng hoá vì quy mô và khối xuất khẩu nhiều loại hàng hoá của ta phù hợp với loại thị trường này.
III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1 Trung Quốc
1.1 Khái quát về thực trạng xuất nhập khẩu của Trung Quốc
Bảng 1.1 Xuất khẩu của Trung Quốc (1978 - 1998)
Đơn vị: 100 triệu USD
Năm
1978
1980
1985
1990
1991
1992
1994
1997
1998
Xuất khẩu
97.5
181.2
273.5
620.9
718.4
850
1210.4
1530.7
1520.9
Nhập khẩu
108.9
200.2
422.5
533.5
637.9
806.1
1156.9
1680.3
1719.1
Kim ngạch XNK
206.4
381.4
696
1154.4
1356.3
1656.1
2367.3
3211
3240
Thâm hụt TMQT
-11.4
-19
-149
87.4
80.5
43.9
53.5
-149.6
-198.2
(Nguồn: IMF, Intellegent Unit, 1998 và Keigetsu ho - Toyo Kenzai 9 - 99, No. 9, Vol. 59, P 45 – 46)
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thời kỳ 1978 - 1998 tăng trung bình 16.5% hàng năm. Sau khủng hoảng tài chính khu vực, Trung quốc cam kết duy trì ổn định đồng Nhân dân tệ với mục tiêu ngăn chặn mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế khu vực. Đồng Nhân dân tệ trong giai đoạn này bị đánh giá cao, trong khi sức cạnh tranh của các nền kinh tế khủng hoảng được cải thiện nhờ phá giá, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu Trung quốc giảm đáng kể.
Đồ thị 1.2 Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung quốc
1978 1980 1985 1990 1991 1992 1994 1997 1998
140.0%
120.0%
100.0%
80.0%
60.0%
40.0%
20.0%
0.0%
-20.0%
T¨ng tr−ëng xuÊt khÈu T¨ng tr−ëng nhËp khÈu
Đồ thị 1.2 Thâm hụt cán cân thương mại Trung quốc
20.0%
10.0%
0.0%
1978 1980 1985 1990 1991 1992 1994 1997 1998
-10.0%
-20.0%
-30.0%
-40.0%
-50.0%
-60.0%
Th©m hôt/xuÊt khÈu
Thâm hụt thương mại đã có thời kỳ bằng khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu (năm 1985). Trong thời kỳ 5 năm 1990-1994, Trung quốc đạt thặng dư trong cán cân thương mại nhưng ở mức độ nhỏ, chỉ tương đương với khoảng 5% tổng giá trị xuất khẩu trong thời kỳ này. Mặc dù vậy, đây cũng là nhân tố quan trọng
góp phần tăng đáng kể dự trữ ngoại tệ của Trung quốc trong thời kỳ này.
Quốc
1.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Trung
Kinh nghiệm đầu tiên, Chính phủ Trung Quốc xác định tập trung mở cửa kinh tế để thúc đẩy xuất khẩu. Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp để mở cửa nền kinh tế bao gồm:
Trung Quốc ưu tiên phát triển các đặc khu kinh tế. Ngay từ những năm
1979, Trung Quốc đã thành lập các đặc khu xuất khẩu, nhưng ngay sau đó đã đổi thành đặc khu kinh tế vì các đặc khu xuất khẩu bị hạn chế ở khả năng chế biến và xuất khẩu. Sau đó, các đặc khu kinh tế được phát triển thành các khu trung tâm thương mại lớn, có các cơ sở gia công xuất khẩu tiên tiến, những khu sinh hoạt có chất lượng cao với đầy đủ tiện nghi phục vụ, những trung tâm thông tin quốc tế lớn. Việc xây dựng các trung tâm thương mại lớn được thực hiện bằng bước thứ nhất, chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề và bước thứ hai, huy động vốn đầu tư, tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh theo điều kiện của từng đặc khu. Xây dựng các loại hình doanh
nghiệp có vốn đầu tư khác nhau: vốn trong nước, vốn nước ngoài hay vốn liên doanh.
Trung Quốc còn ưu tiên tập trung mở cửa các thành phố ven biển. Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố vùng duyên hải, thành lập tại đây các khu công nghiệp kỹ thuật cao, thực thi chính sách khuyến khích các loại hình gia công xuất khẩu để tận dụng nguồn lao động dồi dào, đồng thời áp dụng các biện pháp để nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu ngành nghề vùng ven biển. Các thành phố ven biển là các khu vực mở cửa về kinh tế - kỹ thuật, trở thành những cầu cảng lớn giúp Trung Quốc hướng ra thị trường Thái Bình Dương, Tây Âu và Bắc Hoa Kỳ. Các thành phố này được hưởng các quy chế ưu tiên như tại các đặc khu kinh tế trong hoạt động xuất khẩu nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tích cực mở cửa các cửa khẩu biên giới Đông Bắc và Tây Nam. Phát huy ưu thế cuả 228 000 km đường biên giới chung giữa 9 tỉnh và khu tự trị với 15 quốc gia châu Á khác, Trung Quốc rất chú trọng đến việc phát triển hoạt động biên mậu. Ngoài hình thức trao đổi hàng là chủ yếu, Trung Quốc rất chú trọng đến việc phát triển các hình thức buôn bán khác như đưa sức lao động, thiết bị kỹ thuật và mẫu hàng ra nước ngoài để đổi lấy những mặt hàng, nguyên vật liệu quý hiếm trong nước còn thiếu.
Chính phủ Trung Quốc tiến hành đổi mới bộ máy tổ chức ngoại thương cho ngày càng gọn nhẹ, giảm bớt sự rườm rà trong thủ tục hành chính, giúp cho hoạt động xuất khẩu thuận lợi.
Để giúp các xí nghiệp ngoại thương thoát khỏi tình trạng lệ thuộc và thiếu năng động, Trung Quốc đã từng bước tách chức năng của chính quyền khỏi họat động của xí nghiệp. Nhờ đó các xí nghiệp ngoại thương đã có được quyền hạn thực sự, chủ động hơn trong hoạt động của mình.. Chính phủ đã đưa quyền tự chủ kinh doanh xuống các địa phương với những nội dung:
- Đưa quyền sản xuất kinh doanh và xuất khẩu cho các xí nghiệp sản xuất cỡ nhỏ và vừa, từng bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại thương cho Tổng công ty xuất nhập khẩu.
- Cho phép các địa phương có thể thành lập các công ty ngoại thương địa phương. Các thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh cũng được phép thành lập Tổng công ty ngoại thương riêng.
- Cho phép 19 Bộ, Ngành của Trung Ương được thành lập công ty xuất nhập khẩu.
Bên cạnh việc đưa quyền tự chủ kinh doanh xuống các địa phương, Trung Quốc còn thực hiện chế độ trách nhiệm khoán ngoại thương. Hình thức khoán được thực hiện theo phương thức: Tổng công ty ngoại thương Trung ương giao khoán xuất nhập khẩu trực tiếp cho các địa phương. Các địa phương chịu trách nhiệm về mặt xuất khẩu, thu ngoại tệ xuất khẩu và giao nộp ngoại tệ lên trên, bảo đảm đầy đủ chỉ tiêu với nhà nước. Sau khi đã nhận khoán, các địa phương giao chỉ tiêu khoán xuống các doanh nghiệp và cơ sở hoạt động ngoại thương trong tỉnh, thành phố hay huyện. Chế độ khoán này được xây dựng dựa trên cơ sở điều chỉnh hối suất, xoá bỏ chế độ bù lỗ xuất khẩu đối với các xí nghiệp ngoại thương.
Thứ nhất, Trung Quốc đã mạnh dạn cái cách thể chế kế hoạch ngoại thương từ chế độ hai chiều sang chế độ một chiều là chính. Địa phương là người chính thức nhận khoán trực tiếp nhiệm vụ xuất nhập khẩu ngoại thương của Nhà nước. Lấy mốc kế hoạch xuất khẩu của năm 1988, Nhà nước xác định những năm về sau, phần hàng hoá xuất khẩu thực hiện theo kế hoạch quản lý một chiều giữa Trung ương và địa phương chiếm 70% kế hoạch, phần hàng hoá xuất khẩu thực hiện theo chế độ quản lý hai chiều chiếm 30%. Về kế hoạch xuất khẩu, hàng hoá xuất khẩu thuộc kế hoạch có tính pháp lệnh chiếm 30% tổng mức xuất khẩu hàng hoá, hàng hoá thuộc kế hoạch có tính chất hướng dẫn chiếm khoảng 15% tổng mức xuất khẩu, 55% tổng mức xuất khẩu được buông lỏng, thực hiện tự do kinh doanh thả nổi, do thị trường điều tiết. Việc làm này khiến cho các địa phương có được tính tự chủ trong kinh doanh xuất khẩu hàng hoá.
Thứ hai, Trung Quốc đã thực hiện thể chế quản lý tài chính ngoại thương. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện buông lỏng quan hệ tài vụ ngoại thương, tách rời sự bó buộc tài chính giữa Trung ương với địa phương để thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và tự chịu lãi, lỗ. Việc tiến hành hạch toán theo phương thức khoán ngoại thương, đồng thời mở rộng phạm vi sử dụng vốn để thúc đẩy kinh doanh, tăng lãi, giảm lỗ đã Nhà nước tránh khỏi việc phải bù lỗ cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Chính phủ còn thực hiện giảm thuế doanh thu cho các doanh nghiệp ngoại thương thu mua hàng hoá để xuất khẩu và các doanh nghiệp đại lý cung ứng hàng hoá xuất khẩu.
Thứ ba, Trung Quốc thực hiện phân phối lại lợi nhuận trong ngoại thương. Trung quốc cho phép doanh nghiệp xuất nhập khẩu được giữ lại toàn bộ lợi nhuận. Việc làm này không làm cho sản xuất phát triển, Nhà nước phải thực hiện bù lỗ nhiều cho xuất khẩu hàng hoá. Tới 1988, trên cơ sở cải cách chế độ khoán kinh doanh ngoại thương, Trung Quốc thực hiện cải cách triệt để hơn thể chế phân phối lợi nhuận của đơn vị ngoại thương với biện pháp khoán rộng, đưa mức khoán thu ngoại tệ xuất khẩu cho toàn bộ doanh nghiệp ngoại thương các cấp, các loại hình, nộp lợi nhuận và ngoại tệ theo hệ số cơ bản, đồng thời khoán doanh số cho các xí nghiệp: nếu tăng cũng không thu, nếu lỗ sẽ không bù.
Sử dụng các công cụ về thuế, chính sách trợ cấp xuất khẩu, hỗ trợ về tài chính, chính sách tỷ gía hối đoái, hỗ trợ xúc tiến thương mại và tìm cách vượt qua rào cản về hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu cũng là một kinh nghiệm khác của Trung Quốc trong việc thúc đẩy xuất khẩu thành công.
Đối với công cụ thuế. Trong hoạt động thu thuế xuất khẩu, Chính phủ Trung Quốc thực hiện áp dụng thu thuế điều tiết xuất khẩu đối với hàng hoá có doanh thu lớn, nếu xuất khẩu không có lãi và lợi nhuận dưới 7,5 % thì không thu.
Để thúc đẩy xuất khẩu, Trung Quốc áp dụng chế độ thoái thu thuế giá trị
gia tăng đã nộp (áp dụng VAT đầu ra bằng 0% cho hàng xuất khẩu).
Chế độ hoàn thuế xuất khẩu được Trung Quốc bắt đầu áp dụng từ năm
1983. Đến nay, các loại thuế sản phẩm được được hoàn lại bao gồm: thuế sản phẩm, thuế giá trị gia tăng, thuế doanh thu và thuế tiêu dùng. Đối với việc áp dụng chế độ này, Quốc vụ viện đã yêu cầu phải thực hiện theo nguyên tắc thu bao nhiêu thì hoàn bấy nhiêu, hoàn thuế triệt để, không thu thì không hoàn. Để đảm
bảo chính sách này được thi hành triệt để, ngành thuế vụ Trung Quốc còn phối hợp với các ngành hữu quan để có các biện pháp quản lý hoàn thuế xuất khẩu và đặc biệt chú trọng tới việc hoàn thiện chính sách này.
Đối với chính sách trợ cấp xuất khẩu, Trung Quốc thực hiện chính sách này ngay từ những năm đầu mở cửa. Để chuẩn bị ra nhập WTO, Trung quốc xoá bỏ trợ cấp cho xuất khẩu kể từ 1/1/1999. Nhưng các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vẫn nhận được trợ cấp gián tiếp như giảm giá năng lượng, nguyên liệu thô và nhân công; ưu đãi tín dụng (doanh nghiệp xuất khẩu được vay với lãi suất ưu đãi, bảo hộ rủi ro theo thông lệ quốc tế).
Hỗ trợ về tài chính. Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng đầu tư Trung Quốc, Tổng cục kiểm soát ngoại tệ là những tổ chức tài chính quan trọng được thành lập với nhiệm vụ trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Tất cả cơ quan có quan hệ buôn bán với nước ngoài đều phải mở tài khoản ở Ngân hàng Trung Quốc và thông qua đó để thực hiện để thực hiện mọi giao dịch ngoại tệ. Ngân hàng Trung Quốc thực hiện giám sát các công ty, các xí nghiệp sử dụng số ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để hỗ trợ xuất khẩu.
Chính sách tỷ giá hối đoái. Trung Quốc sử dụng như một công cụ để tăng cường xuất khẩu. Trước 1979, việc quản lý ngoại hối theo cơ chế tập trung đã kìm hãm sự xuất khẩu. Vì thế, để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ thực hiện cải cách thể chế quản lý ngoại hối thông qua điều chỉnh tỷ giá hối đoái và thực hiện chế độ giữ lại ngoại tệ. Trung Quốc loại bỏ chế độ hạn chế khối lượng ngoại tệ tối đa. Theo hệ thống tài chính mới, các công ty và doanh nghiệp xuất khẩu có khoản thu ngoại tệ được bán ra theo tỷ giá thị trường. Sự thay đổi này cũng có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài (trước đây họ bị buộc phải đăng ký nguồn vốn của mình theo tỷ giá chính thức của nhà nước song lại phải mang lợi nhuận về theo tỷ giá cao hơn trên thị trường chứng khoán)
Hỗ trợ xúc tiến thương mại. Các cơ quan thương vụ của Trung Quốc đã có nhiều cố gắng trong việc liên hệ với các ngành, các giới kinh doanh của các nước
sở tại để thúc đẩy xuất khẩu như tham gia tích cực vào việc đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại; bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp nước mình ở các nước sở tại, giúp đỡ các tổ chức đoàn thể hoạt động ngoại thương ở trong nước sang làm việc và buôn bán với nước ngoài.
Trung Quốc còn cho thành lập các công ty thương mại quốc tế tổng hợp, hoạt động trong nhiều lĩnh vực và có nhiều chi nhánh ở nhiều nước. Trong thời gian đầu hoạt động, các hãng này được hỗ trợ nhiều mặt như vốn, xác địng ngân hàng chủ quản, cho phép được quyền huy động vốn của nước ngoài, ưu tiên xem xét nếu có điều kiện chín muồi thì có thể huy động vốn bằng cổ phiếu.
Trung Quốc đã thiết lập hệ thống kênh phân phối thông qua hệ thống mạng lưới Hoa kiều ở khắp nơi trên thế giới với số lượng lớn.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tìm cách vượt hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu. Trung Quốc cố gắng ký kết các hiệp định thương mại với các nước để được hưởng những nhượng bộ về buôn bán. Đồng thời, Trung Quốc còn nghiên cứu kỹ hàng rào kỹ thuật trong thương mại của các nước bạn hàng để xem ảnh hưởng như thế nào đối với việc xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu của mình, từ đó đưa ra các biện pháp đối phó thích hợp.
Kinh nghiệm quan trọng trong thúc đẩy thị trường hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc là việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Trung Quốc đề ra kế hoạch lấy khoa học kỹ thuật thúc đẩy phát triển mậu dịch. Nội dung của kế hoạch này gồm: trong 3 năm xây dựng một loạt các cơ sở sản xuất sản phẩm kỹ thuật cao của 5 ngành: tin học, công nghệ sinh học, vật liệu xây dựng, hàng điện tử, hàng tiêu dùng; đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu hàng kỹ thuật cao, đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ đạo cần có bản quyền sở hữu công nghiệp; tạo môi trường thuận lợi để tiếp cận kỹ thuật cao, đẩy mạnh chuyển giao kỹ thuật để thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước; tổ chức các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sản phẩm cao đạt tiêu chuẩn ISO.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu được chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 sẽ lấy xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động làm trọng tâm, thay thế
dần xuất khẩu những sản phẩm thô, sơ cấp, nông nghiệp. Giai đoạn 2, lấy xuất khẩu sản phẩm công nhiệp làm thành phẩm, công nghiệp nặng, hoá chất sử dụng nhiều vốn thay thế những sản phẩm sơ cấp và công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Giai đoạn 3 sẽ xuất khẩu sản phẩm kỹ thuật cao, đòi hỏi tri thức và công nghệ tiên tiến.
2. Thái lan
2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Thái lan
Bảng 2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Thái lan thời kỳ 1979-1999
1979
1989
1998
1999
1999-03
GDP (Tỷ USD)
27.4
72.3
112.1
124.3
Tăng trưởng GDP
6.8
5.4
-10.2
4.2
5.0
Xuất khẩ._.u (triệu USD)
6269
25291
66400
71485
Nhập khẩu (triệu USD)
8137
27127
48813
57577
Cán cân thanh toán (triệu USD)
-2086
-2498
14434
11346
Tăng trưởng xuất khẩu
12.5
10.0
6.7
8.9
9.0
Tăng trưởng nhập khẩu
8.0
6.3
-22.3
19.6
Xuất khẩu/GDP
22.6
34.9
58.6
57.1
Thâm hụt/GDP
-7.6
-3.5
12.9
9.1
Thâm hụt/xuất khẩu
-33.27
-9.88
21.74
15.87
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng thế giới, World Development
Indicator 2001, CD-ROM
Đồ thị 2.1 Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu và GDP của Thái lan
1979 1989 1998 1999 1999-03
25
20
15
10
5
0
-5
-10
-15
-20
-25
T¨ng tr−ëng GDP T¨ng tr−ëng xuÊt khÈu T¨ng tr−ëng nhËp khÈu
Đồ thị 2.2 Thâm hụt cán cân thanh toán của Thái lan thời kỳ 1979-1999
40
30
20
10
0
1979 1989 1998 1999
-10
-20
-30
-40
-50
Th©m hôt/GDP Th©m hôt/xuÊt khÈu
Bảng 2.1, đồ thị 2.1 và đồ thị 2.2 đã đưa ra một bức tranh khái quát về tình hình tăng trưởng xuất nhập khẩu của Thái lan trong thời gian 1979-1999. Một điều đáng ngạc nhiên là trong khi Thái lan là một trong những nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực thì năm 1998, 1999 lại chứng kiến thặng dư trong cán cân thanh toán của Thái lan. Lý do của hiện tượng này là do xuất khẩu giảm sút, nhưng đồng thời nhu cầu nhập khẩu cũng giảm nhanh chóng. Suy giảm của nhập khẩu có thể được xem xét là kết quả của sự suy giảm dòng vốn FDI, và suy giảm của cầu trong nước đối với hàng hoá nhập khẩu
2.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Thái Lan
Trong những năm gần đây, Chính phủ Thái lan đã thể hiện quyết tâm trong việc hợp tác chặt chẽ với khu vực tư nhân để thực hiện các chiến lược phát triển, tạo điều kiện cho hàng hoá từ Thái lan xâm nhập vào những thị trường mới. Mục tiêu của Chính phủ Thái lan là nhằm tăng cường các dịch vụ và phương tiện công cộng cơ bản đã được thiết lập để hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu và để khuyến khích việc đa dạng hoá các sản phẩm và thị trường.
Thái Lan đã tích cực thành lập các uỷ ban và cục: Uỷ ban đầu tư, Cục xúc tiến xuất khẩu và Uỷ ban phát triển xuất khẩu cũng như các thông tin thương mại quốc tế.
Uỷ ban đầu tư dành ưu tiên cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nguyên vật liệu trong nước hoặc thuê một lực lượng lớn lao động, thu được ngoại tệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế vùng ngoài thủ đô. Bất cứ một dự án khả thi nào mà xuất khẩu được 80% hoặc nhiều hơn thì được Uỷ ban đầu tư hỗ trợ. Các biện pháp mà Uỷ ban đầu tư dành ưu đãi cho các dự án có định hướng xuất khẩu gồm:
Miễn thuế nhập khẩu và thuế kinh doanh đối với các nguyên vật liệu và các chi tiết nhập khẩu.
Miễn thuế nhập khẩu và thuế thuế kinh doanh đối với các mặt hàng tái xuất.
Miễn thuế kinh doanh cho các nhà sản xuất hoặc các thương nhân buôn bán nguyên vật liệu hoặc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu.
Uỷ ban cũng sẽ cung cấp ưu đãi đầu tư nếu dự án đáp ứng các tiêu chuẩn như tăng ngoại tệ thông qua sản xuất hàng xuất khẩu, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực trong nước, tăng đáng kể công ăn việc làm, hoạt động ở các tỉnh, bảo vệ được nguồn năng lượng hoặc thay thế các nguồn nguyên liệu sản xuất phải nhập khẩu và thiết lập hoặc phát triển các ngành cơ bản làm nền tảng cho những bước phát triển tiếp theo của các ngành khác.
Bên cạnh Uỷ ban đầu tư, Cục xúc tiến xuất khẩu và Uỷ ban phát triển xuất khẩu có chức năng tăng cường sự công nhận quốc tế về các sản phẩm của Thái lan và hỗ trợ cho khách hàng nước ngoài mong muốn làm ăn với Thái lan. Nhiệm vụ của Cục này bao gồm:
Phát triển và lên kế hoạch về hoạt động đẩy mạnh khuếch trương và phát triển xuất khẩu, giám sát thực hiện các chương trình hành động phát triển xuất khẩu
Tổ chức các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu một cách toàn diện và thúc đẩy việc bán các sản phẩm của Thái lan.
Cung cấp thông tin và dịch vụ thương mại cho các nhà sản xuất, xuất khẩu của
Thái lan và các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Trợ giúp và hỗ trợ phát triển chất lượng, kiểu dáng các sản phẩm của Thái lan.
Đưa ra các nguyên tắc để giải quyết các khó khăn trong hoạt động xuất khẩu
Hợp tác và phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước để đẩy mạnh các hoạt động khuyếch trương xuất khẩu.
Thêm vào đó, Chính phủ Thái lan còn đưa ra các biện pháp xúc tiến xuất khẩu mà các nhà xuất khẩu của Thái lan cho là khuyến khích họ nhất. Kế hoạch cắt giảm thuế và miễn thuế đối với nguyên liệu thô, miễn thuế thu nhập và giảm thuế nhập khẩu, thuế kinh doanh đối với các thiết bị máy móc. Tuy nhiên, khi thực thi chính sách miễn giảm thuế này, một số công ty xuất khẩu nhỏ của Thái lan đã chứng minh để nhận được ưu đãi đó họ cần phải thực hiện một số cam kết
nào đó có thể không thích hợp đối với kinh doanh của họ. Ví dụ như việc thuê người thông thạo làm các thủ tục giấy tờ, nhiều khi chi phí này cao hơn khoản họ được hưởng.
Đối với hệ thống tài chính cho xuất khẩu. Kinh nghiệm đã thực hiện tại Thái lan cho chúng ta thấy, các nhà xuất khẩu mới và nhỏ nhiều khi phải đối mặt với những trở ngại lớn để nhận được tài trợ từ các ngân hàng của mình. Họ gặp nhiều khó khăn trước khi có đủ điều kiện để nhận được tài trợ từ ngân hàng. Họ cũng gặp bất lợi trong quá trình tìm kiếm khoản hỗ trợ tài chính vì thiếu các khoản thế chấp hữu hình. Mặc dù cơ cấu mới có kế hoạch phân bổ nguồn tín dụng cho các nhà xuất khẩu nhỏ thì một số vấn đề vẫn tồn tại trong việc hỗ trợ các nhà xuất khẩu nhỏ. Những nhà xuất khẩu nào có giấy phép xuất khẩu đều có thể nhận được khoản tín dụng cả gói, nghĩa là nhận được hỗ trợ tài chính từ phía Chính phủ. Mặt khác, các nhà sản xuất không vì mục đích xuất khẩu chỉ có thể nhận khoản tín dụng này với lãi suất cao hơn. Điều này có thể gây ra sự khác biệt giữa hai nhóm nhà sản xuất. Bản thân các nhà xuất khẩu có thể sử dụng sai mục đích hoặc không hợp lý các khoản tín dụng ưu đãi trên, dùng cho mục đích kinh doanh khác ngoài xuất khẩu. Hơn nữa, lãi suất tín dụng cho xuất khẩu thấp hơn nhiều so với lãi suất thị trường, nhu cầu được tái cấp vốn tăng lên đáng kể, ngân hàng trung ương Thái lan nếu không quản lý chặt chẽ được phương thức này thì có thể bị đe doạ tới tình hình phát triển kinh tế cuả đất nước.
Thái lan còn tăng cường thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân. Khu vực này năng động đã thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, đa dạng hoá cơ cấu xuất khẩu cả về sản phẩm lẫn thị trường. Thái lan mạnh dạn thực hiện chính sách tự do hoá, tư nhân hoá một số lĩnh vực hoạt động công cộng. Chính sách tỷ giá linh hoạt và hệ thống thanh toán tự do đã được thực hiện. Chính những chính sách này đã đóng góp đáng kể vào thúc đẩy xuất khẩu.
3. Hàn Quốc
3.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Hàn quốc
Bảng 3.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Hàn quốc
1979
1989
1998
1999
1999-03
GDP (Tỷ USD)
64.6
221.2
317.1
406.9
Tăng trưởng GDP
8.6
6.1
-6.7
10.7
6.7
Xuất khẩu (triệu USD)
19097
70790
157686
171692
Nhập khẩu (triệu USD)
22603
65985
115035
143973
Cán cân thanh toán (triệu
USD)
-4151
5360
40954
25010
Tăng trưởng xuất khẩu
12.5
14.8
13.2
16.3
9.6
Tăng trưởng nhập khẩu
9.0
10.4
-22.4
28.9
Xuất khẩu/GDP
27.2
32
49.4
42.1
Thâm hụt/GDP
-6.4
2.4
12.9
6.1
Thâm hụt/xuất khẩu
-21.74
7.57
25.97
14.57
Nguồn: tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng thế giới, World Development
Indicator 2001
Đồ thị 3.1 Tăng trưởng xuất nhập khẩu của Hàn quốc
1979 1989 1998 1999 1999-03
40
30
20
10
0
-10
-20
-30
T¨ng tr−ëng GDP T¨ng tr−ëng xuÊt khÈu T¨ng tr−ëng nhËp khÈu
Đồ thị 3.2. Thâm hụt cán cân thanh toán hàn Quốc thời kỳ 1979 - 1999
79 1989 1998 19
50
40
30
20
10
0
19 99
-10
-20
-30
-40
Th©m hôt/GDP Th©m hôt/xuÊt khÈu
Trong suốt thời kỳ từ 1989 tới nay, Hàn Quốc luôn đạt thặng dư trong xuất nhập khẩu, nghĩa là luôn đạt tỷ lệ xuất siêu. Năm 1998, do tác động của khủng hoảng tài chính trong khu vực Đông Nam Á, nhập khẩu của Hàn Quốc đã giảm một cách đáng kể so với năm trước (22,4%), nhưng xuất khẩu vẫn tăng cao. Thặng dư cán cân thương mại thời kỳ này đạt mức cao nhất. Đối với Hàn Quốc, xuất khẩu luôn chiếm một tỷ trọng cao trong tổng GDP có khi lên tới gần 50% vào năm 1998. Đó là một trong những lý do giúp cho Hàn Quốc tăng trưởng kinh
tế cao.
Quốc
3.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Hàn
Hàn Quốc không đánh thuế đối với mặt hàng xuất khẩu. Vật tư, nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu. Hàn Quốc cho phép tự do hoá xuất khẩu hầu hết các mặt hàng, chỉ rất ít các mặt hàng chịu sự điều tiết của Nhà nước (chỉ quan tâm tới những mặt hàng liên quan đến luật vệ sinh thực phẩm, thiết bị y tế, hoá mỹ phẩm ..
Về tín dụng, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện tín dụng xuất khẩu dưới ba hình thức: vốn xuất khẩu dành cho nhà cung cấp trong nước, vốn trực tiếp dành cho người mua nước ngoài, vốn cho vay lại bằng cách EXIMBANK của Hàn Quốc cho ngân hàng nước ngoài vay tiền với lãi suất thấp để ngân hàng này cho người mua vay lại để mua hàng hoá của Hàn Quốc.
Cục xúc tiến thương mại của Hàn Quốc, Phòng Thương mại và Công nghiệp cùng với các Viện nghiên cứu thực hiện cung cấp miễn phí một cách dễ dàng các thông tin cần thiết về thị trường, cơ hội làm ăn. Mạng lưới các trung tâm cung cấp tông tin này được đặt ở nhiều nơi trên thế giới nhằm mục đích thu thập thông tin thị trường, kinh tế, chính trị từ các nước một cách nhanh nhất và cập nhật nhất.
Chính phủ Hàn Quốc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay ngắn hạn với lãi suất phù hợp để tìm kiếm, thâm nhập thị trường mới và những doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu những mặt hàng mới. Nhà nước còn hỗ trợ một phần về tài chính để
giúp các doanh nghiệp này có thể tham dự hội chợ hay triển lãm ở nước ngoài nhằm mục đích giới thiệu và quảng cáo mặt hàng của mình với nước ngoài.
4 Nhật Bản
4.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản
Bảng 4.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản
1979
1989
1998
1999
GDP (Tỷ USD)
1011
2899.3
3783
4395.1
Tăng trưởng GDP
3.7
1.6
-2.8
1.4
Xuất khẩu (triệu USD)
117130
311254
436456
464692
Nhập khẩu (triệu USD)
126730
267831
363488
395527
Cán cân thanh toán (triệu
USD)
-8740
63215
120696
106865
Tăng trưởng xuất khẩu
5.2
5.1
6.47
Tăng trưởng nhập khẩu
12.5
9.2
8.81
Xuất khẩu/GDP
11.6
10.7
11.5
10.6
Thâm hụt/GDP
-0.86
2.18
3.19
2.43
Thâm hụt/xuất khẩu
-7.46
20.31
27.65
23.00
(Nguồn: Tác giả tính toán từ nguồn số liệu của Ngân hàng thế giới, World development Indicator CD – ROM)
Đồ thị 4.1 Tăng trưởng xuất nhập khẩu và GDP của Nhật Bản
14
12
10
8
6
4
2
0
1979 1989 1998 1999
-2
-4
T¨ng tr−ëng GDP T¨ng tr−ëng xuÊt khÈu T¨ng tr−ëng nhËp khÈu
Đồ thị 4.2 Thâm hụt cán cân thương mại của Nhật Bản
35.00
30.00
25.00
20.00
15.00
10.00
5.00
0.00
1979 1989 1998 1999
-5.00
-10.00
-15.00
Th©m hôt/GDP Th©m hôt/xuÊt khÈu
Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản sau những năm khủng hoảng đã chuyển sang một hướng khác đó là việc mở rộng cửa cho các nước khác xuất khẩu vào Nhật Bản. Qua bảng 3.4.1 ta thấy, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của Nhật Bản nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu. Nguyên nhân làm cho nhập khẩu tăng nhanh hơn so xuất khẩu có thể là do sự rps buộc của các cường quốc mạnh - các cường quốc liên tục bị nhập siêu từ Nhật Bản. Nhật Bản dùng chính sách tăng nhập khẩu cũng chủ yếu để làm hoà giải mối quan hệ buôn bán với các nước bạn hàng. Tuy nhiên, tốc độ nhập khẩu của Nhật Bản đã giảm nhẹ từ
12% (1979) xuống còn 8,8% năm 1999. Tốc độ xuất khẩu tăng nhưng vẫn thấp hơn tốc độ nhập khẩu. Nhật Bản luôn là một nước thực hiện xuất siêu rất cao.
4.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản
Nhật Bản là một nước bị ảnh hưởng tương đối nặng nề hậu quả của chiến tranh và là một nước hoàn toàn thiếu nguyên liệu sản xuất. Nhưng chỉ sau chiến tranh thế giới II, tức là vào những năm 50s hay 60s, nền kinh tế Nhật Bản đã khôi phục và phát triển một cách nhanh chóng đã làm cho vị thế của Mỹ và các nước Tây Âu lay động trên thương trường quốc tế. Hiện nay, sản phẩm dân dụng của Nhật (ôtô, xe gắn máy, hàng điện, điện tử) đã có mặt mọi nơi trên thế giới và chiếm được uy tín cao đối với khách hàng toàn cầu ở mặt chất lượng của sản phẩm.
Hệ thống chính sách của Nhật Bản đã đem lại những đóng góp lớn lao cho sự thành công của mình.
Đối với kế hoạch và chính sách. Nhật Bản đã sử dụng hệ thống chính sách và Chính phủ chịu trách nhiệm cao nhất trong xây dựng kế hoạch công nghiệp. Kế hoạch của Chính phủ Nhật Bản bao gồm việc làm rõ phương hướng kinh tế xã hội, chỉ rõ phương hướng chính sách của Chính Phủ nhằm thực hiện mục tiêu chương trình và trong hệ thống kế hoạch của mình, Chính phủ còn đưa ra những chỉ dẫn hoạt động cho các cơ sở kinh doanh.
Về chính sách tài chính. Nhật Bản hạn chế chi trong phạm vi thu, bảo đảm cân bằng ngân sách. Chính phủ luôn giữ mức thuế suất thấp đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước để khuyến khích họ sản xuất, tập trung tăng cường đầu tư vào hiện đại hoá nhà máy. Thay vào việc lấy thuế làm nguồn thu chính cho Ngân sách, Chính phủ đã tăng cường sử dụng hình thức phát hành công trái để vay tiền dân.
Chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản liên tục thực hiện chính sách lãi suất thấp trong những năm sau chiến tranh thế giới II để khuyến khích các công ty trong nước tích cực sử dụng nguồn vốn vay Ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh.
Chế độ quản lý xí nghiệp. ở Nhật Bản, chế độ quản lý ở xí nghiệp rất độc đáo, và có lẽ điều này đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự nhanh chóng thành công của Nhật Bản. Thứ nhất, các công ty của Nhật Bản đã rất táo bạo, nhìn xa trông rộng. Các nhà quản lý ở các công ty của Nhật Bản không bao giờ nghĩ tới lợi ích trước mắt mà họ đã thực hiện tầm nhìn chiến lược, nhìn lâu dài tới sự phát triển và tồn tại của công ty. Các công ty sẵn sàng hoãn lợi nhuận tối đa trước mắt để tăng tỷ phần thị trường, sẵn sàng đầu tư vào kỹ thuật, đề cao rèn luyện nhân viên, dồn sức vào hiện đại hoá nhà máy ngay cả khi nhà máy hiện có đã đáp ứng được nhu cầu trước mắt. Thứ hai, việc duy trì chế độ làm việc suốt đời cho công nhân theo chính sách của Nhật Bản khi người công nhân làm việc cho công ty đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập một nền tảng ý
thức quan trọng trong việc đóng góp trách nhiệm cho sự phát triển kinh doanh của công ty. Chế độ tiền lương trong công ty dựa vào thâm niên, hàng năm để giúp nhân viên không bị nhàm chán trong công việc, các công ty của Nhật Bản đã ứng dụng luân chuyển công việc cho nhân viên. Lấy làm việc theo nhóm là mục tiêu chính để hướng cho từng cá nhân trong quá trình làm việc. Các nhà quản lý cũng giảm tới mức thấp nhất sự cách biệt địa vị giữa nhà quản lý và công nhân. Thứ ba, các công ty ở Nhật Bản đã áp dụng hệ thống kích thích cho nhân viên về vật chất, tinh thần, và truyền thống, chế độ tiền lương và thăng tiến trong công ty. Đồng thời, các nhà quản lý của Nhật Bản rất tôn trọng sáng kiến của nhân viên, khuyến khích phát triển các sáng kiến trên tinh thần nhóm.
Nhật Bản đã thành công trong việc vượt lên làm chủ khoa học kỹ thuật hiện đại. Sau chiến tranh thế chiến thứ II, các nước tư bản dồn phần lớn chi phí nghiên cứu vào mục tiêu quân sự, hay chinh phục vũ trụ thì Nhật Bản lại tập trung chủ yếu vào nghiên cứu mục tiêu dân dụng. Trong lĩnh vực này, Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp nhập kỹ thuật hiện đại và phương pháp sản xuất tiên tiến của nước ngoài và duy trì nguyên tắc chỉ mua bằng phát minh hoặc thiết bị của nước ngoài rồi nghiên cứu, sử dụng làm chủ kỹ thuật đó, không để cho người nước ngoài sử dụng kỹ thuật mới trên đất Nhật. Con người Nhật Bản được đào tạo với ý thức luôn săn tin, cùng xử lý thông tin và cùng tham gia quyết định.
Hơn nữa, sự kết hợp hài hoà giữa Chính phủ và giới kinh doanh ở Nhật trong chính sách ngoại thương đã tạo lên được sức cạnh tranh mạnh mẽ ở tầm quốc gia. Chính phủ Nhật Bản đã hoạch định chiến lược rõ ràng chuyển từ sản xuất hàng hoá có hàm lượng lao động cao sang phát huy sức mạnh truyền thống xuất khẩu các sản phẩm có nguyên liệu ngoại nhập để nhanh chóng mở rộng sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu. Chính phủ trợ cấp tiền để thúc đẩy loại bỏ những thiết bị cũ, chuyển đổi những ngành nghề đã qua thời kỳ hưng thịnh. Giải pháp được đưa ra là: tìm kiếm phát triển công nghệ mũi nhọn để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước, trợ giúp các ngành sản xuất đã được lựa chọn nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, Chính phủ Nhật còn khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu phát triển và cải tiến các kỹ thuật
đã nhập khẩu.
Để tổ chức và đẩy mạnh xuất khẩu, các tổ chức xúc tiến thương mại đã được ra đời. Các tổ chức này xây dựng điều tra ở hầu hết tất cả các nước, theo dõi những thay đổi về chính sách thuế quan, về thị hiếu tiêu dùng và tình hình cạnh tranh của các nước. Do đó, thông tin luôn được cập nhật và cung cấp kịp thời cho các nhà sản xuất trong nước. Ngoài ra, Nhật Bản còn cho thành lập các phòng trưng bày tại nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm mới. Trong quá trình tổ chức thăm dò và tìm kiếm đối tượng có thể trở thành khách hàng, những hội nghị tối cao bàn về xuất khẩu trong đó có sự tham gia của cả đại diện Chính phủ và giới kinh doanh được thành lập họp định kỳ bàn về mục tiêu xuất khẩu và đánh giá các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu được tổ chức. Thông qua các cuộc hội nghị như vậy, kế hoạch và thực tế luôn đi đôi với nhau. Chính phủ (người lập ra các kế hoạch) lắng nghe và hiểu biết quá trình hoạt động từ phía các doanh nghiệp.
Từ sau những năm 1970s, sau cuộc khủng hoảng kinh tế của mình và để xoa dịu tình hình quan hệ với các nước trên thế giới (do Nhật Bản liên tục xuất siêu sang các nước nhất là Mỹ và Tây Âu), Nhật Bản đã phục hồi nền kinh tế, xoa dịu tình hình bằng cách đầu tư ra nước ngoài và tự kiềm chế xuất khẩu, mở rộng cửa cho hàng hoá nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa. Nghiên cứu cải cách các luật về phân phối và buôn bán theo cách đơn giản để tạo điều kiện cho sự thâm nhập dễ dàng của các công ty nước ngoài.
Đồng thời, Chính phủ còn đổi mới chiến lược kinh tế đối ngoại theo hướng hội nhập có hiệu quả vào những thay đổi của nền kinh tế thế giới. Cùng với tạo dựng và mở rộng nhu cầu trong nước, Nhật Bản đã tích cực điều chỉnh chiến lược kinh tế đối ngoại nhằm giải quyết những yêu cầu như: giảm lệ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu nước ngoài, đa dạng hoá thị trường và sản phẩm xuất khẩu thích ứng với xu thế tự do hoá thương mại và kiềm chế xuất khẩu trong những trường hợp bất lợi cho nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là giảm thiểu sự mất cân
đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu gây tình trạng tách nền kinh tế Nhật ở chừng mực nhất định với thị trường thế giới.
5. Kết luận về kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của các nước đã và mới công nghiệp hoá
Nhìn chung, các nước Trung Quốc, Thái Lan đều đi theo con đường tăng cường mở cửa nền kinh tế, đặc biệt đối với Trung Quốc, họ đã thành công trong việc ưu tiên phát triển các đặc khu kinh tế, mở cửa các thành phố ven biển và mở cửa các cửa khẩu biên giới.
Thực hiện khoán ngoại thương cũng là một kinh nghiệm hay để Nhà nước dễ dàng quản lý đối với các doanh nghiệp trong khi thực hiện chỉ tiêu đã được khoán.
Việc xoá bỏ trợ cấp trực tiếp mà thay vào đó là trợ cấp gián tiếp thông qua giảm giá năng lượng, nguyên liệu thô và nhân công… là một biện pháp mà trong đó Nhà nước vẫn hỗ trợ được cho các doanh nghiệp và đồng thời tránh tạo cho các doanh nghiệp thói ỷ lại, ít năng động trong sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn mà thị trường tự do đang nổi lên, các rào cản về thương mại như hàng rào kỹ thuật sẽ được sử dụng nhiều hơn tránh cho việc sử dụng thuế thì cách mà các nước đã làm là cố gắng ký kết hiệp định thương mại với các nước để được hưởng những nhượng bộ trong ngoại thương.
Lấy khoa học kỹ thuật thúc đẩy phát triển mậi dịch, hình thành môi trường kỹ thuật cao, đẩy nhanh tốc độ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao.
Tăng cường tham gia của các khu vực tư nhân cũng là một giải pháp mà các nước đã sử dụng
Ở các nước này, các trung tâm xúc tiến xuất khẩu cũng đã được hình thành không những ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài. Các trung tâm này hoạt động tích cực và có hiệu quả trong việc thu thập thông tin về thị trường quốc tế và xử lý các thông tin đó.
Tuỳ thuộc vào điều kiện địa lý, kinh tế và nguồn lực của từng nước mà các nước trên đã có những hoạt động riêng để thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu của mình. Tuy nhiên, Việt nam cần phải căn cứ và phân tích từng mảng điều kiện cụ thể của mình để từ đó có những giải pháp cụ thể hơn.
Qua tìm hiểu về kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, ở đây còn nổi lên kinh nghiệm phát triển thị trường ngách của một số nước như Trung Quốc và Hàn Quốc, Nhật Bản. Theo kinh nghiệm của một số nước thành công trên thị trường thế giới, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều tận dụng được khai thác thị trường ngách trên thế giới.
Đối với Nhật Bản, sau đại chiến thế giới thứ hai, Nhật Bản đã kiệt quệ về kinh tế, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhật Bản với Mỹ và phương Tây rất mỏng manh. Trong khi Mỹ và các nước phương Tây tập trung vốn, thế lực vào công nghiệp phục vụ cho chiến tranh và chinh phục vũ trụ thì Nhật Bản nhanh chóng đi vào nghiên cứu phần còn lại đó là hàng dân dụng (ô tô, điện tử, các mặt hàng cần nhiều lao động và các mặt hàng cần thiết bị, linh kiện tinh vi). Hơn thế nữa, thị trường lớn tập trung vào các nước như Mỹ, Tây Âu và các nước này chưa để ý tới các nước ở khu vực Châu Á, Mỹ Latinh và Châu Phi, Nhật Bản đã dùng sách lược tấn công vào thị trường đó. Ở đâu có chỗ trống là ở đó Nhật nhảy vào. Và kết quả là, sản phẩm của Nhật Bản được biết trên toàn cầu. Ví dụ, ngay tại đất Mỹ với thị trường xe gắn máy. Mỹ chỉ tậo trung vào sản xuất những xe máy cỡ lớn, giá cao với tỷ lệ lãi cao nên đã bỏ qua thị trường xe gắn máy nhỏ vì cho rằng thị trường này đem lại lợi nhuận thấp. Các công ty của Nhật Bản như Honda, Suzuki, Yamaha đã dành lấy thời cơ này để nhảy vào thị trường Mỹ và các thị trường khác trên thế giới. Các công ty này sản xuất xe cỡ nhỏ với giá rẻ hơn để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Khi xâm nhập vào Mỹ, họ đã không bị các nhà sản xuất của Mỹ phản ứng lại vì những nhà sản xuất này cho rằng loại xe này chỉ như một thứ đồ chơi và không đem lại lợi nhuận cao, không hợp với thói quen của người Mỹ. Do vậy, các nhà sản xuất Nhật Bản đã tận dụng ngay cơ hội này khi đã có sự nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng.
Đối với Hàn Quốc, các nhà sản xuất này cũng đã tìm mọi cách để khai thác thị trường ngách. Phương hướng đi tìm thị trường ngách của Hàn Quốc thường tập trung vào các đặc điểm:
Tìm những phần thị trường mà các đỗi thủ chính bỏ qua, nhưng có khả
năng nảy sinh cơ hội kinh doanh.
Tìm kiếm phần thị trường mà các đối thủ chính quan tâm mà không đáp
ứng đủ nhu cầu người tiêu dùng
Phần thị trường có mức cạnh tranh thấp nhất
Phần thị trường mà các đối thủ thiếu sự thay đổi về công nghệ
Phần thị trường mà ranh giới nhập cuộc của các đối thủ rất cao nhưng các doanh nghiệp Hàn Quốc lại có lợi thế hơn.
Việc Hàn Quốc khai thác được một thị trường bỏ ngỏ là 30 triệu dân Mỹ sống dưới mức nghèo khổ. Vì vậy, các doanh nghiệp Hàn Quốc đã sản xuất những mặt hàng nhanh, nhiều, tốt, rẻ phục vụ cho gần 30 triệu dân này.
Đối với Trung Quốc, các doanh nghiệp đã sử dụng nhiều chiến thuật trong khai thác thị trường và đã thành công với những chiến thuật đó. Các doanh nghiệp của Trung Quốc khai thác thị trường theo rất nhiều kiểu khác nhau. Thứ nhất, mèo nhỏ tích cực bắt nhiều chuột nhỏ. Hàng hoá của các doanh nghiệp Trung Quốc len lỏi vào tất cả những ngách thị trường các nước không kể bán được ít hay nhiều. Trung Quốc còn tạo điều kiện cho các công ty xuất khẩu hàng hoá xuất khẩu bàng con đường tiểu ngạch. Thứ hai, Trung Quốc còn kinh doanh theo kiểu ít vốn nhưng chịu khó lao động, tích cực tái đầu tư để tăng dần tiềm lực của doanh nghiệp. Thứ ba, khi hàng của Trung Quốc có ưu thế thì họ đã dùng số lượng để phong toả các khe hở của thị trường, làm cho hàng hoá của nước đó khó len chân vào thị trường đó. Chiến lược này dựa vào sức mạnh về số đông và lòng nhiệt tình của người bán hàng. Thứ tư, Nhà nước Trung Quốc đã tích cực kêu gọi các nhà hảo tâm, các hoa kiều yêu nước đầu tư vốn và tìm thị trường, cùng các doanh nghiệp trong nước khai thác thị trường. Thứ năm, đổi mới kỹ thuật, thay
đổi chủng loại và hạ giá. Hàng hoá Trung Quốc thường giành phần thắng bằng giá rẻ, chất lượng bình thường nhưng hàng nhiều và đa dạng về chủng loại, nhiều khác biệt trong giá trị sử dụng.
Dựa trên cơ sở kinh nghiệm của các nước ở trên thiết nghĩ rằng, đối với Việt nam, trong chính sách thúc đẩy thị trường xuất khẩu, nghiên cứu khai thác thị trường ngách tức là định hướng tìm hiểu những thị trường mà ta có khả năng sản xuất xuất khẩu được mà ở thị trường đó thực sự chưa có quá nhiều đối thủ cạnh tranh cũng sẽ là một ưu thế quan trọng.
2. Vấn đề đặt ra đối với việc phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Việt nam
Từ thực tiễn của Việt nam kết hợp với nhiều kinh nghiệm từ Trung Quốc, Thái lan, Đài loan, Hàn Quốc, một số vấn đề được đặt ra cho Việt nam như sau:
Thứ nhất, kiên trì đường lối phát triển kinh tế theo hướng mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy các nước thực hiện chính sách mở cửa đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh hơn các nước thực hiện chính sách hướng nội. Đài loan, Hàn Quốc đã thành công trong việc thực hiện chính sách công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Các nước đi sau như Trung Quốc, Thái lan cũng gặt hái được những thành công nhờ mở cửa kinh tế.
Đài Loan và Hàn Quốc đã thành công trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng và xuất khẩu nhở áp dụng các biện pháp thu hút và sử dụng vốn nước ngoài một cách hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao. Trung Quốc thì áp dụng một cách đồng bộ các biện pháp để mở của kinh tế , tận dụng tối đa lợi thế so sánh để xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Thái lan đã thành công trong việc phát triển kinh tế hướng ngoại.
Việt Nam tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế chậm hơn so với các nước trong khu vực, lại là một nước có trình độ phát triển thấp nhất thế giới, do vậy bên cạnh những cơ hội do quá trình tạo ra, hội nhập của Việt nam cũng gặp rất nhiều thử thách. Vì vậy, Việt nam cần hết sức thận trọng để hội nhập một cách chủ động, tránh lệ thuộc tuyệt đỗi vào các nước khác. Một thực tế có thể thấy rằng, nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam về hội nhập và cạnh tranh thương mại quốc tế còn rất hạn chế. Các ngành và các doanh nghiệp chưa thật sự chủ động trong việc điều chỉnh chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện hội nhập. Điều này hạn chế khả năng tiếp cận thị trường thế giới của doanh nghiệp, kìm hãm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Vậy, việc cần làm ngay đó là trang bị nhận thức cho các doanh nghiệp về vai trò hội nhập đỗi với sự tồn tại và thành công của họ.
Thứ hai, Việt nam cần hoạch định một chiến lược thị trường dài hạn và có trọng điểm
Để đáp ứng được yêu cầu này, Nhà nước cần hoạch định các chiến lược dài hạn cho các thị trường có nhiều tiềm năng, lập và tham gia các dự án phát triển ở nước ngoài.
Phân thị trường thế giới theo khu vực và đặc điểm, sau đó tập trung nghiên cứu và lên kế hoạch cho các thị trường mới có nhiều tiềm năng đối với các công ty của Việt nam. Xuất phát từ quan điểm thị trường dài hạn, chính phủ Việt nam và các công ty Việt Nam có thể đề ra một kế hoạch thâm nhập các thị trường này một cách có hiệu quả hơn. Đặc biệt cần có các những giải pháp để đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh lệ thuộc và một số thị trường truyền thống như hiện nay.
Thứ ba, Việt nam cũng cần thực hiện hỗ trợ về tài chính cho công tác phát triển thị trường
Để nâng cao tiềm lực về vốn, công nghệ, nhân lực cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cần thiết về tài chính, nhất là trong giai đoạn đầu tiếp cận thị trường thế giới. Các nước được nêu ra ở trên đã thực hiện khá thành công biện pháp hỗ trợ này, vì muốn tạo ra sản phẩm
thâm nhập được vào thị trường nước ngoài là một công việc khá tốn kém, các doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu cần phải có vốn để thực hiện công việc đó. Ngoài hình thức hỗ trợ tài chính thông qua chế độ tín dụng ưu đãi, Chính phủ cần thực hiện nhiều hình thức trợ giúp khác để các nhà xuất khẩu trang trải những khoản chi phí như nghiên cứu thị trường quốc tế, tham gia hội chợ thương mại quốc tế...
Thứ tư, Việt nam còn cần phải có chính sách khuyến khích phát triển các khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu ở các nước. Chính phủ các nước coi việc phát triển khu vực này là động lực của tăng trưởng kinh tế. ở Việt Nam, lĩnh vực này chưa được quan tâm một cách thích đáng. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới về cuộc điều tra gần đay trong lĩnh vực kinh tế tư nhân cho thấy lĩnh vực này hoạt động trong môi trường còn nhiều rủi ro, hạn chế về nguồn lực, khả năng tiếp cận nguồn vốn, thông tin còn hạn chế, các thể chế hỗ trợ thị trường cũng như các loại hình dịch vụ kinh doanh còn kém phát triển ít kinh nghiệm để học hỏi. Do đó, Chính phủ cần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi cũng như các chính sách khuyến khích thích hợp để thu hút khu vực tư nhân tham gia hoạt động xuất khẩu.
Thứ năm, Việt nam cũng cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách thuế và thuế trong hoạt động xuất khẩu, góp phần phát triển ngoại thương ở Việt nam.
Tất cả các nước thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đều coi việc cải cách chính sách thuế là một trong những giải pháp quan trọng để khuyến khích xuất khẩu và thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Cải cách các sắc thuế vừa là đòi hỏi của quá trình hội nhập, vừa là động lực kích thích xuất khẩu hàng hoá.
Thuế có thể tăng thu ngân sách nhưng để tăng thu nhập cần có quy mô thương mại lớn chứ không phải bằng thuế suất cao. Nên giảm dần thuế nhập khẩu để tạo tiền đề cho nước ta gia nhập WTO và mở rộng buôn bán với các nước tron._. Thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ:
Trước hết, việc đầu tư, nhất là của các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, phải được đặt trong chiến lược kinh doanh tổng thể, đảm bảo cân đối hài hoà giữa đồng vốn, trình độ công nghệ, khả năng kết hợp với các yếu tố đầu vào khác (như sử dụng lao động), khả năng tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn, không nhất thiết phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại nhất cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở. Tuy nhiên, trong một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới thì nhất thiết phải chú trọng nhập khẩu thiết bị tiên tiến nhằm tạo
cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu.
Nhà nước cần tạo lập một thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá đặc biệt. Để tạo lập thị trường công nghệ, nên khuyến khích việc ký kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển công nghệ quốc gia. Cụ thể, thay vì cung cấp vốn ngân sách cho các nghiên cứu khoa học theo kiểu bao cấp, nên thành lập một quỹ riêng cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách.
Đối với nông sản, chú trọng đầu tư đổi mới giống cây trồng, công nghệ từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, phù hợp với nhu cầu trên thị trường đi đôi với việc chú trọng đầu tư vào khâu sau thu hoạch mà hiện nay ta còn rất hạn chế.
Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trực tiếp cho cho hoạt động xuất khẩu như các cảng, kho tàng, kể cả kho ngoại quan, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại (tham gia triển lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã thị trường đòi hỏi
…); đặc biệt cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư nguồn nhân lực, đặc biệt cán bộ quản lý.
* Vai trò của Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu và trợ giúp tài chính khác:
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được quy định trong luật khuyến khích đầu tư trong nước (Luật năm 1998). Chính phủ đã cho phép hình thành một quỹ tại Bộ Tài chính có tên là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng phương thức hoạt động của quỹ này lại thiên về trợ cấp theo kiểu “cho không”, hoàn toàn không phù hợp với điều
10 của Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Trong điều kiện tài chính còn nhiều eo hẹp, không nên thành lập các quỹ thiên về cấp phát như quỹ tại Bộ Tài chính vừa qua. Ngoài quỹ
hỗ trợ xuất khẩu, cần khẩn trương xúc tiến việc thành lập các quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng như tinh thần nghị quyết số 09/2000/NQ – CP ngày 15 tháng
06/2000 về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Cụ thể, quỹ bảo hiểm xuất khẩu được nhà nước khuyến khích thành lập đối với một số ngành hàng quan trọng, có khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, gỗ, tiêu, điều… để bảo hiểm cho ngành hàng đó. Việc quản lý các quỹ này sẽ do các hiệp hội ngành hàng đảm trách theo cơ chế tài chính do Bộ Tài chính trình thủ tướng quyết định.
2. Các giải pháp về thị trường
Để chủ động thâm nhập thị trường quốc tế, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, khai thác thêm các thị trường mới, bảo đảm cơ cấu thị trường hợp lý theo nguyên tắc đa phương hoá, cần đổi mới công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô theo hướng phân định rõ trách nhiệm và tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước, hiệp hội và các doanh nghiệp.
2.1. Các giải pháp chung cho thị trường xuất khẩu.
2.1.1. Về phía Nhà Nước.
Một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước là đàm phán thương mại để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Đàm phán thương mại (song phương và đa phương) bao gồm đàm phán mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan. Song song với đàm phán mở của thị trường mới, một trong những chỉ tiêu cần phấn đấu với từng thị trường là giảm nhập siêu để tiến tới cân bằng cán cân thương mại một cách hợp lý.
Chức năng quan trọng thứ hai của Nhà nước là thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian tới, cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu nhập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung – cầu hàng hoá và dịch vụ… để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang web) của bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề.
Khi đã có sản phẩm hàng hoá, tức là đã có tiền đề thì việc tổ chức thị trường và hoạt động xúc tiến cụ thể là rất quan trọng. Thông qua hai khâu này sản phẩm xuất khẩu mới đến đựoc thị trường, với người tiêu dùng. Vì vậy tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại phải trở thành một chức năng quan trọng của Bộ Thương mại và tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán phải là các tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Và để làm được điều đó phải đặt mối quan hệ giữ các cơ quan hữu quan trên một trục dọc và phải tăng tốc độ chuyển động đi đôi với đảm bảo sự chuyển động hướng đích của toàn bộ trục này.
Tham tán nông nghiệp là vấn đề cần được bàn thêm. Là một nước xuất khẩu nông sản, chúng ta nên có các tham tán nông nghiệp ở nước ngoài để kịp thời thông tin về nhà những thay đổi về chính sách và khả năng nhập khẩu nông sản của thị trường sở tại. Với chuyên môn sâu về nông sản và nông học, tham tán nông nghiệp có thể sẽ giúp được các doanh nghiệp nhiều hơn là tham tán thương mại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi các biện pháp kỹ thuật và môi trường đang được các nước phát triển sử dụng ngày càng nhiều để hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nông nghiệp trong nước.
Cần nâng cao hiệu quả hoạt động của Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Để thực hiện tốt chức năng của mình, Cục Xúc tiến thương mại cần được trang bị đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất và đội ngũ.
Nhà nước có thể hỗ trợ việc thâm nhập và mở rộng thị trường thông qua việc khuyến khích thu hút đầu tư cuả các tập đoàn xuyên quốc gia và của các nhà sản xuất “chìa khoá trao tay”. Đây là một giải pháp cần chú trọng bởi lẽ các tập đoàn xuyên quốc gia là những người đi đầu trong lĩnh vực chuyên môn hoá và hợp tác hoá.
Cuối cùng, Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào thị trường ngoài thông qua các biện pháp điều tiết nguồn cung và điều tiết tiến độ xuất khẩu. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), cần tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy là các biện pháp này sẽ phát huy được tác dụng rõ rệt hơn nếu được thực hiện đúng thời điểm, đúng liều lượng và
đối tượng, đồng bộ với các biện pháp khác (như hỗ trợ giảm sản xuất, hỗ trợ dịch chuyển lao động sang các ngành khác…) và nhất là khi được sự phối hợp hành động của các nước xuất khẩu lớn trong khu vực và thế giới.
2.1.2. Về phía các hiệp hội ngành hàng
Thực tiễn cho thấy trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết trong việc định hướng cho các doanh nghiệp.
Thời gian qua, các hiệp hội ngành hàng đã phát triển khá nhanh về số lượng, hoạt động đang dần đi vào chiều sâu. Trong thời gian tới cần tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành. Để làm được điều đó, bên cạnh nỗ lực tự thân của hiệp hội, trước hết Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động và quy định rõ chức năng, quyền hạn của các hiệp hội, khắc phục đồng thời cả hai biểu hiện “Quốc doanh hoá” và “Nhà nước hoá” hiệp hội
2.1.3. về phía doanh nghiệp
* Tăng cường tiếp cận phân tích thông tin:
Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp của ta rơi vào tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu thông tin. Có hai mảng thông tin mà các doanh nghiệp của ta còn lúng túng: thứ nhất là khó nắm bắt kịp những thay đổi trong chính sách của Nhà nước, nhất là các chính sách về thuế; thứ hai là thiếu những thông tin chiều sâu về thị trường ngoài (hàng rào phi thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch…). Ngược lai, một số doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tin khác nhau, kể cả các mạng tin của nước ngoài thì lại gặp phải vấn đề trong xử lý và nhận định thông tin.
Có nhiều cách để tiếp xúc với thị trường ngoài như tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo ở nước ngoài, qua đó tìm kiếm các cơ hội hợp tác và đầu tư, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các thay đổi trong sản xuất và kinh doanh, chủ động đi tìm bạn hàng, thị trường, tự lo tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào cơ quan nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp. Để những hoạt động
này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu
đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, tránh biểu hiện tham gia một cách hời hợt.
* Chủ động xây dựng chiến lược kinh doanh và chiến lược thị trường phù hợp với lộ trình hội nhập:
Doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược kinh doanh, chiến lược thị trường trên thế chủ động trong tầm nhìn dài hạn. Hướng cạnh tranh chủ yếu sẽ là thông qua việc hợp lý hoá quy trình sản xuất, quản lý để giảm chi phí sản xuất bình quân, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, chủ động mở rộng thị trường trong đó chú trọng tới cả thị trường “ngách” về sản phẩm, thời vụ… để tăng cường thâm nhập gia tăng thị phần. Cần tránh biểu hiện ỷ lại, trông chờ vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước. Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ngày càng ảnh hưởng sâu rộng tới thương mại quốc tế, các doanh nghiệp cần hết sức chú trọng những thay đổi trong phương thức kinh doanh, phương thức tiếp cận thị trường và khách hàng trên thế giới để có thể vận dụng trong điều kiện cho phép. Những lĩnh vực mới mà doanh nghiệp cần đầu tư tìm hiểu là thương mại điện tử, các nghiệp vụ tự bảo hiểm tại các sở giao dịch kỳ hạn (đối với thương mại nông sản), kinh doanh chứng khoán…
Bên cạnh việc phân định trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các nhóm chủ thể trên để đảm bảo hiệu quả của công tác tiếp cận và mở rộng thị trường. Như đã phân tích, vai trò chủ yếu của Nhà nước sẽ là tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động tiếp cận và thâm nhập thị trường. Trong mối liên hệ đó, chức năng của Hiệp hội trong việc làm cầu nối giữa nhà nước và doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Thông qua Hiệp hội, các kiến nghị, khó khăn của doanh nghiệp sẽ được phản ánh chính xác và nhanh chóng tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời Hiệp hội cũng có thể đề xuất, tham mưu cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, quy định phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành.
2.2. Giải pháp trên một số thị trường trọng điểm:
Phần này sẽ đi vào phân tích một số thị trường trọng điểm theo những mục tiêu và định hướng tổng quát đã đặt ra trong phần thứ hai.
2.2.1. Thị trường Nhật Bản.
Tuy kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm nhưng cho tới nay Việt
Nam vẫn là một bạn hàng nhỏ của Nhật Bản. sở dĩ có tình trạng này là do: Các
doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu thông tin về thị trường Nhật Bản, Nhật Bản chưa dành cho ta quy chế MFN đầy đủ, hơn nữa, hai nước chưa có hiệp định thương mại nên các hàng hoá của Việt Nam phải chịu mức thuế cao hơn nhiều so với mức thuế mà các nước có hiệp định thương mại với Nhật Bản được hưởng; suy thoái kinh tế đã ảnh hưởng đến chi tiêu và đầu tư của người Nhật Bản. Do đó, ảnh hưởng đến việc đẩy mạnh xuất khẩu của ta sang Nhật;…
Trong thời gian tới, để đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật, cần thực hiện các biện pháp sau:
1. Hai nước cần có sự trao đổi, bàn bạc cụ thể (tốt nhất là trong khuôn khổ song phương bởi dự kiến đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam có thể còn kéo dài) để đi đến ký kết thoả thuận về việc Nhật Bản dành cho hàng hoá của Việt Nam quy chế MFN đầy đủ.
2. Bên cạnh việc có chỉ đạo cụ thể cho tham tán thương mại trong việc thu thập thông tin. Bộ Thương mại cần phối hợp với JETRO (Tổ chức xúc tiến Thương mại Nhật Bản) tại Việt Nam để tăng cường hơn nữa công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Nhật tới các doanh nghiệp, đặc biệt là các thông tin có liên quan đến phương thức phân phối, thủ tục xin dấu chứng nhận chất lượng JIS, JAS và Ecomark cũng như chế độ xác nhận trước về thực phẩm nhập khẩu. Đây là việc hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới việc đẩy mạnh xuất khẩu nông sản và thực phẩm, mặt hàng mà ta có thế mạnh, vào một thị trường có đòi hỏi cao như thị trường Nhật. Thái Lan đã đi trước ta một bước trong lĩnh vực này.
3. Nhà nước cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn đầu tư từ Nhật Bản bởi lý do “xuất khẩu trở lại” như trên đã trình bày. Các đề xuất của nhà đầu tư Nhật Bản cần được nghiên cứu kỹ và giải quyết thoả đáng. Trong chừng mực nào đó có thể vượt khỏi nguyên tắc không phân biệt đối xử để giải quyết những yêu cầu riệng của nhà đầu tư Nhật Bản. Việt Nam cần cải thiện vị trí của mình thông qua việc đẩy mạnh tiếp thị, nắm bắt nhu cầu của thị trường. Đặc biệt cần chú ý tới ba yếu tố cơ bản là thiết lập cơ sở để phát triển thị trường theo hình thức văn phòng liên lạc, đại diện hợp tác liên doanh, tập hợp thông tin tổng quát về thương mại Nhật Bản; giao hàng nhanh, an toàn, trung thực và hướng dẫn chi tiết vầ cách sử dụng hàng hoá; xác lập kênh và các cơ chế tiêu thụ sản phẩm ổn định đối với từng loại khách hàng.
Bộ Thương mại cần kết hợp với JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản tại Việt Nam) cung cấp các thông tin về thị trường Nhật Bản. Các thông tin bao gồm phương thức phân phối (Nhật Bản có cách thức phân phối hàng hoá theo kênh riêng), và đặc điểm của từng kênh tiêu thụ này;
Nhật Bản có quan điểm rất rõ ràng trong việc xúc tiến thương mại, coi thị trường các nước ASEAN trong đó có Việt Nam là các thị trường quan trọng. Do đó, Ban Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại cần kết hợp chặt chẽ với ASEAN – CENTRE (Trung tâm xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch ASEAN – Nhật Bản) và JETRO tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tham quan học hỏi kinh nghiệm Nhật và tham gia các hội chợ triển lãm hàng năm ở Nhật Bản để sản phẩm của Việt Nam không chỉ đến với bạn hàng Nhật Bản mà các bạn hàng khác trên thế giới. Chính phủ Việt Nam cần xúc tiến việc ký kết một hiệp định thương mại song phương với Nhật Bản để có thể hạ thấp một số hàng rào phi thuế quan như các tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh sản phẩm đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
2.2.2. Thị trường Trung Quốc
Tuy có một số thuận lợi trong việc phát triển quan hệ thương mại vùng biên với Trung Quốc nhưng thời gian qua ta cũng đã gặp khá nhiều khó khăn trong việc quản lý và sử lý các vấn đề phát sịnh từ thương mại vùng biên. Trước hết là vấn đề thanh toán, “xù nợ”, sau đó là vấn đề chống buôn lậu, chống chuyển ngân lậu, thậm chí cả những vấn đề có ảnh hưởng đến an ninh biên giới. Ngoài ra việc phát triển phương thức buôn bán biên giới cũng có mặt trái là không thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam quan tâm nâng cao chất lượng, đầu tư vào công nghiệp chế biến, không tạo ra được cơ sở cho việc phát triển thương mại lâu dài và bền vững, nhiều khi làm mất thị trường và bạn hàng ở các khu vực
khác.
Trong thời gian tới đây, chủ trương phát triển quan hệ thương mại với
Trung Quốc cần theo những định hướng lớn như sau:
* Đẩy mạnh quan hệ buôn bán với các công ty lớn theo tập quán quốc tế. Sớm hình thành quy chế thương mại biên giới để tăng cường xuất khẩu. Các vấn đề còn vướng mắc như chủ thể kinh doanh, hàng hoá kinh doanh, cửa khẩu chính thức hay không chính thức… cần được xem xét giải quyết dứt điểm để tạo thuận lợi cho xuất khẩu, kể cả tái xuất. Tăng cường hợp tác với các tỉnh biên giới phía Nam Trung Quốc để tận dụng chính sách ưu đãi mà chính phủ Trung Quốc dành
cho khu vực này. Quy chế tạm nhập tái xuất và quy chế chuyển khẩu cần có sự điều chỉnh phù hợp để vừa tăng được kim ngạch tái xuất, vừa đảm bảo được quản lý của nhà nước
* Tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tạm nhập tái xuất và kinh doanh chuyển khẩu với khách hàng Trung Quốc nhưng có biện pháp để đảm bảo an toàn hàng hoá và an toàn thanh toán cho các hoạt động này.
* Ngân hàng Nhà Nước cần nghiên cứu biện pháp tăng cường vai trò của các ngân hàng thương mại trong hoạt động thanh toán mậu dịch biên giới. Vấn đề hàng đầu hiện nay chưa phải là đồng tiền thanh toán mà là thanh toán qua ngân hàng để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các lô hàng xuất khẩu
* Hoạch định kế hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, xây dựng các chợ biên giới để định hướng hoạt động cho các mô hình tổ chức thị trường vùng biên giới, đảm bảo lợi ích của ta.
2.2.3. Thị trường Đài Loan
Trong những năm tới dây, hoạt động xuất khẩu với Đài Loan nhiều khả năng sẽ có thêm những thuận lợi sau: Làn sóng di chuyển sản xuất ra ngoài sẽ ngày càng tăng lên trước hết là do giá nhân công trong nước không ngừng tăng, sau đó là do chính sách tăng cường hợp tác với thị trường phía nam của chính quyền Đài Bắc. Đi đầu sẽ là những ngành sử dụng nhiều lao động như thuộc da, chế biến sản phẩm da, may mặc. Chế biến gỗ. Sau đó sẽ tới những ngành như sản xuất đồ nhựa, đồ điện và điện tử gia dụng; để nâng cao ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế, Đài Loan có xu hướng đẩy mạnh hàng hoá hỗ trợ tài chính cho các nước nghèo thông qua các chương trình hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, thậm chí cho vay cải thiện cán cân thanh toán. Mục tiêu chủ yếu trong thời gian tới đây là đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng như sản phẩm gỗ, hải sản, cao su, dệt may, giầy dép, rau quả và chè.
2.2.4. Thị trường các nước ASEAN
Tỷ trọng của ASEAN tuy cao nhưng nếu chỉ xét riêng yếu tố này thì chưa đủ căn cứ để kết luận rằng ASEAN là thị trường tiêu thụ chính hàng hoá của Việt Nam. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu đi các nước ASEAN có đến 60 – 70% được xuất sang Singapore mà đây là thị trường tái xuất điển hình, giống như Hồng Kông. Vì lý do dó, cần một cách nhìn mang tính thực tiễn hơn khi đánh giá về sự gắn bó thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN.
Ngân hàng nhà nước nghiên cứu kỹ khả năng sử dụng nội tệ để thanh toán giữa các nước ASEAN, đề án được đưa ra khi khủng hoảng tài chính ở đỉnh cao, tuy không thành công nhưng cũng cho ta thấy một khả năng để tiến tới thương mại cân bằng. Nếu có thể thực hiện được thì ta nên đặt vấn đề “thanh toán bằng bản tệ trong quan hệ thương mại song phương” với Thái Lan và Malaysia là hai nước trước đây khá mặn mà với ý tưỏng này.
Hàng năm ta nhập khẩu một số lượng linh kiện xe máy và phân bón rất lớn từ thị trường ASEAN (gần 80% kim ngạch linh kiện xe máy và hơn 50% kim ngạch phân bón). Đây là hai mặt hàng nhập khẩu có điều kiện nên có thể thay đổi cách điều hành hiện nay. Thay vì cấp không 100% chỉ tiêu cho các doanh nghiệp, nhà nước nên thu về ít nhất là 50% để tổ chức đấu thấu hàng đổi hàng. Indonxia và Philipin sử dụng BULOG và NFA để quyết định mua hay không mua gạo của ta. Mỗi lần muốn bán gạo cho họ đều phải đàm phán rất vất vả với hai tổ chức này. Ta cũng nên tập trung quyền lực một cách tương tự.
Trong bối cảnh nhập siêu trầm trọng từ ASEAN, nếu không sử dụng các biện pháp đặc biệt, táo bạo, thì không thể tiến tới thương mại cân bằng.
2.2.5. Liên minh Châu Âu (EU)
Trong thời gian tới đây, để phát triển xuất khẩu sang EU, cần thực hiện một số giải pháp lớn như sau:
1. Chế độ quản lý nhập khẩu của EU hết sức phức tạp nên việc thu thập thông tin đến các doanh nghiệp là việc có tầm quan trọng hàng đầu. Theo tính toán của UNCTAD, do thiếu thông tin và không hiểu rõ các quy định về thủ tục của EU, các nước đang phát triển chỉ thực sự sử dụng được 48% các ưu đãi của EU trong chế độ GSP. Nếu ta không làm tốt công tác thu thập và phổ biến thông tin thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể tận dụng được mọi cơ hội để thâm nhập vào thị trường EU.
2. Chế độ ưu đãi GSP đang mất dần ý nghĩa do EU hàng năm đều tiến hành giảm thuế MFN theo quy định của vòng dàm phán Uruguay. Chế độ hạn ngạch cho hàng dệt may cũng hết hiệu lực vào năm 2005. xuất khẩu dệt may của ta lại gặp thêm khó khăn do Trung Quốc trở thành thành viên của WTO, EU bỏ thuế và hạn ngạch nhập khẩu đối với hầu hết các sản phẩm (trừ vũ khí) cho 48 nước nghèo nhất thế giới (trong đó có Bangladesh – một số đối thủ của Việt Nam về dệt may). Vì lý do đó, trong thời gian tới đây, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hàng hoá, giữ gìn uy tín của mình
trong việc thực hiện hợp đồng, đảm bảo duy trì đươc toàn bọ các mối quan hệ bạn hàng nhằm chuẩn bị cho thời kỳ “hậu GSP” và “hậu hạn ngạch” nói trên.
3. Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với các bộ ngành hữu quan, tiến hành đàm phán và thoả thuận với EU về các vấn đề còn tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam – EU. Chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau đây:
* Phối hợp với EU trong việc kiểm soát lượng giầy dép mang xuất xứ Việt
Nam xuất khẩu vào EU, tránh nguy cơ EU áp đặt hạn ngạch cho Việt Nam.
* Tìm hiểu rõ các quy định của EU về điều kiện nuôi trồng và chế biến thuỷ sản để trình chính phủ cấp vốn cho các doanh nghiệp nâng cấp thiết bị, cải thiện môi trường, đáp ứng các yêu cầu của EU về vệ sinh thực phảm. Đây là việc cần làm gấp với phương án cụ thể, lượng vốn cụ thể để tăng nhanh số lượng doanh nghiệp được xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
* Yêu cầu EU coi Việt Nam là “Nước có nền kinh tế thị trường” để đảm bảo cho hàng hoá Việt Nam được đối xử bình đẳng với hàng hoá của các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá.
* Đề nghị EU áp dụng trở lại mức thuế 12% cho mặt hàng bánh đa nem và tăng hạn ngạch thuế quan cuả mặt hàng sắn lên 6 vạn tấn/năm.
* Đề nghị EU sớm cùng ta xem xét lại hiệp định dệt may để nâng mức hạn ngạch lên từ 30% đến 50% cho từng chủng loại và nâng mức chuyển hạn ngạch giữa các nước ASEAN từ 10% - 20%.
4. Khuyến kích các hoạt động của CLB doanh nhân EU tại Việt Nam để qua đó nắm bắt thêm thông tin về thị trường EU và tăng cường khả năng lobby của ta với các cơ quan có thẩm quyền của EU.
2.2.6. Thị trường Liên Bang Nga.
Trong thời gian tới đây, cần chú ý thâm nhập và mở rộng thị trường Nga với trọng tâm về hàng hoá là cao su, chè, thực phẩm chế biến, rau quả, hoá phẩm tiêu dùng, dệt may, giày dép và thủ công mỹ nghệ. Để hỗ trợ, có thể xem xét các giải pháp sau đây:
1. Ta và Liên Bang Nga có thể thoả thuận tiếp tục nhập vật tư thiết bị năng lượng theo phương thưc chính sách thanh toán một phần bằng tiền, một phần bằng hàng xuất khẩu của Việt Nam để tạo đầu ra cho một số mặt hàng xuất khẩu như gạo, thịt, cao su, chè, hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng khác. Cần chú ý đây chỉ là sự trợ giúp ban đầu của nhà nước đối với các doanh nghiệp, tạo cơ hội cho hàng hoá của họ xuất hiện trên thị trường Nga. Các doanh nghiệp
cần nắm bắt cơ hội này để tìm hiểu nhu cầu đích thực của thị trường về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, giá thành… từ đó có chiến lược thâm nhập cụ thể. Không nên coi xuất khẩu trả nợ là cơ hội đẩy đi những mặt hàng thấp cấp và kém chất lượng.
2. Bộ Thương mại cũng đề nghị đẩy nhanh sự ra đời của Quỹ Tín dụng hỗ
trợ xuất khẩu để có thể tiến hành bảo lãnh tín dụng xuất khẩu cho người xuất khẩu vào Nga và SNG.
3. Để buôn bán với Nga, nhất định phải có luồng tàu biển hợp lý, với cước phí vận tải ở mức chấp nhận được. Đây là công việc cực kỳ khó khăn bởi vướng phải một mâu thuẩn nan giải: hàng không nhiều thì không có luồng tàu hợp lý nhưng nếu không có luồng tàu hợp lý thì kim ngạch buôn bán sẽ không thể nhiều. Đề nghị chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải trình phương án tăng cường phương thức chuyển đi Odessa và Vladivostok với mức giá cạnh tranh hoặc nhà nước phải hỗ trợ một phần giá cước. Thời gian đầu (có thể là 1,2 năm), chính phủ sẽ trợ một phần cước phí cho các doanh nghiệp. Những tàu chạy tuyến Nga sẽ được miễn mọi khoản thu của Nhà nước như phí cập cầu, phí hoa tiêu, thuế vốn, thậm chí hoàn thuế nhiên liệu (nếu có)… để giảm chi phí.
5. Sớm hoàn thành một Hiệp định về thương mại tự do với CHLB Nga. Nếu xét thấy không thể đàm phán một Hiệp định tổng thể thì có thể tách phần thuế nhập khẩu ra để đàm phán trước. Một trong những hướng có thể xem xét là cho hàng hoá của CHLB Nga được hưởng mức thuế nhập khẩu theo AFTA. Đổi lại, CHLB Nga phải có chế độ thuế nhập khẩu đặc biệt cho hàng hoá của ta. Ngoài ra, cần hết sức chú trọng hình thức hợp tác cấp tỉnh, thành phố để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm các hợp đồng đổi hàng, điều rất khó làm ở cấo Chính phủ.
2.2.7. thị trường Đông Âu và SNG
Do các nước Đông Âu và SNG đều gặp khó khăn về tài chính nên một trong những hướng cần nghiên cứu là tăng cường thương mại hàng đổi hàng với từng nước. Nếu có thể được, nên bàn bạc, trao đổi ở cấp nhà nước, tiến tới ký kết những thoả thuận khung và giao cho các doanh nghiệp thực hiện.
Cộng đồng người Việt tại các nước Đông Âu và một số nước SNG, đặc biệt là Sec và Ba Lan, đã tạo dựng đựoc cơ sở kinh doanh của riêng mình, một số có tầm cỡ khá. Đây là một lợi thế trong việc thâm nhập thị trường. Vì lý do đó, cơ quan thường vụ tại các nước này cần giữ mối liên hệ chặt chẽ với họ, thu thập ý
kiến, phản ánh của họ về tình hình hàng hoá giao theo đường phi mậu dịch và giới thiệu một số về nhà để cùng bàn bạc phương hướng thâm nhập thị trường.
Xét về lâu dài thì việc đẩy mạnh thâm nhập thị trường như Hungari và Ba Lan có tầm quan trọng đặc biệt (có những việc phải làm từ bây giờ để chuẩn bị cho giai đoạn một số nước Đông Âu được kết nạp vào EU).
2.2.8. Thị trường Hoa Kỳ.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào Hoa Kỳ sẽ là dệt may, giầy dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí - điện, sản phẩm gỗ, thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến.
Mỹ là nước điển hình trong hệ thống luật bất thành văn nên hệ thống pháp luật thương mại Mỹ rất phức tạp. Muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ một cách có hiệu quả cần có những kiến thức cơ bản về các đạo luật quan trọng như: Luật thuế và hải quan; Luật bồi thường thương mại; Luật điều tiết nhập khẩu. Bên cạnh đó, còn có các phong tục tập quán kinh doanh của người Mỹ tuy không mang tính bắt buộc nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của mỗi thương vụ.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đặc biệt chú trọng tới chất lượng sản phẩm. Về lâu dài, các doanh nghiệp phải có chính sách ngành hàng thích hợp dựa trên thông tin thị trường chính xác, đảm bảo uy tín với người tiêu dùng Mỹ. Để có được thông tin cần thiết và độ tin cậy cao, các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng các dịch vụ môi giới, tư vấn thương mại và pháp luật của các công ty tư vấn có uy tín.
KẾT LUẬN
Như vậy với những nghiên cứu trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên tăng trưởng xuất khẩu là con đường đúng đắn đưa nền kinh tế Việt Nam “cất cánh” và thực hiện được lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí MInh là một Việt Nam phát triển cùng sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nhưng trên thực tế con đường chúng ta đi không phải là một con đường dễ dàng. Cùng với những thành tích mà chúng ta đã đạt được, với kinh nghiệm thực tiễn của đất nước và các nước trên thế giới sẽ giúp cho Việt Nam vững bước đi lên. Thực tế trong những năm qua đã cho chúng ta thấy rõ sự chuyển đổi của nền ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng sang cơ chế thị trường, mở cửa đa phương, đa chiều các quan hệ thị trường, bạn hàng theo thông lệ quốc tế, từng bước xoá bỏ nguyên tắc “Nhà nước độc quyền quản lý ngoại thương” bằng các chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển một nền ngoại thương nhiều thành phần và thực hiện tự do hoá thương mại. Chính vì thế xuất khẩu Việt Nam đã có những tiến triển vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thời gian qua hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc đòi hỏi phải có biện pháp tháo gỡ trong trước mắt và lâu dài. Trong giai đoạn từ nay đến 2010 Việt Nam phải lựa chọn cho mình chiến lược ngoại thương đúng đắn, phát huy có hiệu quả cao nhất các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình mở cửa, hợp tác phân công lao động và phát triển thương mại quốc tế. Trong khoá luận này, tác giả cũng đã đưa ra một số giải pháp cho việc phát triển thị trường xuất khẩu của Việt nam theo đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chỉ ra trong Đại hội Đảng lần thứ IX.
Với những đóng góp trên, hy vọng rằng trong thời gian tới xuất khẩu của Việt nam sẽ đạt được những thành tựu to lớn tăng trưởng cao, vững chắc và ngày càng nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8169.doc