Luận văn Tốt nghiệp Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế TNDN

Tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế TNDN: ... Ebook Luận văn Tốt nghiệp Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế TNDN

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Luận văn Tốt nghiệp Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế TNDN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI: Trong bất kì một chế độ xã hội nào, thuế luôn luôn là một công cụ thể hiện quyền lực của Nhà nước và là nguồn tài chính chủ yếu và tin cậy để phục vụ nhu cầu chi tiêu công cộng xã hội. Với tốc độ gia tăng và đa dạng hóa nhanh chóng về phát triển kinh doanh cùng với xu thế nhất thể hóa các khu vực và toàn cầu hóa nhằm khai thác tối đa lợi thế so sánh của mỗi quốc gia nói riêng và khu vực nói chung đã đặt các nhà hoạch định chính sách kinh tế, tài chính trước những thách thức lớn lao đòi hỏi phải cải cách toàn diện. Hiện nay, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang phát triển với tốc độ cao, đi đầu trong mọi ngành nghề. Khu vực này đã tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân và ngày càng khẳng định vị trí tiên phong. Với tốc độ phát triển nhanh chóng của trình độ sản xuất kinh doanh, hệ thống chính sách thuế và cách thức quản lý thuế có nhiều điểm tỏ ra không còn phù hợp. Điển hình đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp là hai nguồn thu chủ lực trong tổng nguồn thu thuế nhưng cũng lại là lĩnh vực bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập nhất. Trước bối cảnh này, hệ thống thuế nước ta đã có sự tiến triển không ngừng và ngày càng hoàn thiện đã có đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, cải cách thuế cần được kết hợp chặt chẽ và tương thích giữa chính sách và quản lý thuế vì một hệ thống chính sách dù có tiên tiến đến đâu cũng không phát huy được tác dụng nếu không phù hợp với trình độ quản lý và ngược lại, cải cách quản lý hành chính thuế cần được dựa trên một hệ thống chính sách thuế ổn định và rõ ràng. Do vậy, công tác quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp sao cho hiệu quả là vô cùng quan trọng, không những đảm bảo nguồn thu mà còn mang lại nhiều lợi ích xã hội. Đó là lý do em chọn đề tài: “ Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỷnh An Giang”. 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Đề tài gồm có 3 phần chính: Phần mở đầu Phần nội dung Chương 1: Tổng quan về thuế Chương 2: Giới thiệu sơ lược về Chi cục thuế huyện Tân Châu Chương 3: Phân tích tình hình quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu Chương 4: Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỷnh An Giiang. Phần kết luận 3. MỤC TIÊU NGHÊN CỨU: - Để có thêm nhiều hiểu biết đối với hệ thống thuế và cách thức quản lý hành chính về thuế - Đánh giá hiệu quả quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục. - Tìm ra những tồn tại và nguyên nhân trong công tác quản lý hiện nay. - Đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận sự việc theo sự vận động và phát triển của nó. - Phương pháp tổng hợp số liệu dựa trên: các báo cáo, tài liệu của cơ quan thực tập, các số liệu thống kê của Phòng Thống kê huyện. - Phương pháp so sánh: theo thời gian, theo chỉ tiêu… - Phương pháp liên hệ cân đối: dựa vào các mối liên hệ về lượng, về mức độ biến động giữa hai mặt của một yếu tố và quá trình quản lý. - Phương pháp đồ thị và biểu đồ: bằng hình ảnh, tính chất của đồ thị để phân tích mối quan hệ, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. 5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Chi cục thuế huyện Tân Châu thực hiện thu nhiều loại thuế, phí nhưng thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao nhất nhưng chứa đựng nhiều vướng mắc, bất cập. Do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nên đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỷnh An Giang trong 3 năm từ 2001 đến 2003. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ 1.1 SỰ CẦN THIẾT CỦA THU NGÂN SÁCH, THUẾ: Lịch sử xã hội loài người đã trải qua những giai đoạn tiến hoá và phát triển, trong quá trình đó thì sự hình thành Nhà nước là một tất yếu khách quan. Nhà nước là một phạm trù mang tính lịch sử, Nhà nước do giai cấp thống trị hình thành nên để cai trị những giai cấp đối kháng trong xã hội. Nhà nước xét ở khía cạnh phân công lao động xã hội là một bộ máy tổ chức với nhiều hệ thống cơ quan có chức năng nhiệm vụ khác nhau để tổ chức cai quản xã hội. Để hoạt động được, bộ máy Nhà nước cần nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy từ trung ương đến địa phương, chi cho những công việc thuộc chức năng Nhà nước như: chi đầu tư phát triển, chi an ninh quốc phòng, các vấn đề phúc lợi xã hội…Ngày nay, xã hội càng phát triển thì nhu cầu chi tiêu càng lớn, cả về phát triển chiều rộng lẫn chiều sâu cho tất cả lĩnh vực. Như vậy, vấn đề được đặt ra là thu từ đâu để phục vụ cho chi tiêu? Bộ máy Nhà nước gồm những người chuyên công tác quản lý điều hành chứ không trực tiếp sản xuất trong khi thu nhập của xã hội do các tầng lớp dân cư tạo ra. Lịch sử cho thấy có 3 hình thức động viên một phần thu nhập của xã hội để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, đó là: quyên góp, vay của dân và dùng quyền lực buộc dân đóng góp. Quyên góp thì dựa trên tinh thần tự nguyện, vay thì phải trả mà trả thì lại phải tìm nguồn thu. Cho nên lịch sử cũng cho thấy hình thức thứ 3 là hữu hiệu và hiệu quả nhất. Và hình thức buộc dân đóng góp chính là thuế. Từ những nhận định trên cho thấy, thuế là một sản phẩm tất yếu của sự phân công lao động xã hội. Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, vì Nhà nước và do Nhà nước. Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan vì vậy thuế cũng là một tất yếu khách quan với chức năng chủ yếu và đầu tiên là nhằm đảm bảo nguồn tài chính cho Nhà nước. Nhà nước và thuế là hai phạm trù luôn gắn liền với nhau. Sử dụng thuế làm công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế là sự cần thiết khách quan đối với mọi Nhà nước. Nhưng mức độ và nội dung sử dụng ở các nước thì không hoàn toàn giống nhau; mà nó tuỳ thuộc vào từng Nhà nước nhất định, với tình hình kinh tế- xã hội nhất định và định hướng phát triển kinh tế cụ thể trong từng thời kỳ lịch sử. Hiện nay, tuỳ góc độ mà có các khái niệm khác nhau về thuế, đứng ở góc độ pháp luật thì: “Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân, được Nhà nước qui định thông qua hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước”. Đồng thời thuế là công cụ điều tiết kinh tế linh hoạt nhạy bén và hiệu quả. Tính hợp lý của các hình thức và biện pháp thuế khiến cho thuế trở thành công cụ điều tiết sắc bén, đa diện và thâm nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế. 1.2 BẢN CHẤT CỦA THUẾ: Bản chất của thuế gắn liền với bản chất của Nhà nước. Nhà nước mang bản chất nào thì thuế mang bản chất của giai cấp mà Nhà nước đó đại diện. Trong xã hội phong kiến, Nhà nước vương quyền dùng thuế là phương tiện bóc lột, vơ vét của nhân dân bị trị để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu theo ý chí riêng của giai cấp mình mà không quan tâm đến lợi ích nhân dân. Đến xã hội tư bản, cũng là xã hội có giai cấp đối kháng là tư sản- vô sản, thuế đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế xã hội, thực hiện được nhiều chức năng của nó nhưng xét về bản chất vẫn phục vụ cho giai cấp tư sản- giai cấp thống trị. Nhà nước ta là Nhà nước của dân do dân và vì dân nên thuế nước ta mục tiêu cuối cùng cũng phục vụ lợi ích nhân dân. Quan điểm của Nhà nước ta về thuế là việc động viên vào ngân sách Nhà nước phải vừa hài hòa về lợi ích kinh tế và xã hội, vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện các chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng. 1.2.1 Bản chất kinh tế: Thuế là một bộ phận thu nhập của xã hội được tập trung để phục vụ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Kinh tế là cơ sở của thuế, thuế gắn chặt chẽ với sản xuất, kinh doanh và kiểm soát thu nhập của mọi tổ chức và cá nhân để động viên và điều hoà thu nhập, điều tiết kinh tế (điều tiết sản xuất và tiêu dùng). Nguồn thu từ thuế cho ngân sách Nhà nước chỉ có thể tăng nhiều và nhanh trên cơ sở kinh tế được phát triển và đạt hiệu quả cao. Ngược lại, qua thu thuế phải góp phần kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, thúc đẩy thực hành tiết kiệm về mọi mặt trong sản xuất và tiêu dùng một cách hợp lý để tạo nguồn thu thuế ngày càng lớn hơn. Chính vì vậy nếu Nhà nước tăng mức động viên thuế quá cao chỉ nhằm mục đích đơn thuần tăng thu ngân sách để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà bỏ qua yêu cầu đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế thì thường gặp thất bại, dễ dẫn đến hậu quả xấu về nhiều mặt. 1.2.2 Tính cưỡng chế của thuế: Đây là một phạm trù độc đáo và có nét riêng. Tính cưỡng chế được thể hiện thông qua các điều khoản pháp luật. Thuế không thể xây dựng trên và dung hòa với tư tưởng tự nguyện; khoản thuế thu được không thể trông chờ vào thiện chí hay nhiệt tình của dân chúng đối với Nhà nước. Thuế thể hiện ý chí toàn dân chứ không riêng ai cả. 1.2.3 Tính không có đối giá trực tiếp: Nộp thuế cho Nhà nước không giống chi tiền mua một sản phẩm hay dịch vụ nào đó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng riêng tư. Nộp thuế là một nghĩa vụ không thể thoái thác và khối lượng các lợi ích mà người nộp thuế nhận được từ Nhà nước không liên quan gì đến khối lượng thuế đã chi trả. Người nộp thuế không nhận lại được lợi ích tương xứng với khoản họ đóng góp. Khoản tiền từ thuế sẽ được Nhà nước sử dụng vào những mục tiêu chiến lược và lâu dài, nó quay lại phục vụ cho người dân nhưng gián tiếp và rất khó nhận thấy. 1.2.4 Thuế được dùng vào chi tiêu công cộng: Đặc tính này giảm nhẹ ý niệm cưỡng bức của thuế. Ngày nay, quyền lực công cộng đã thuộc về toàn thể dân chúng, bộ máy Nhà nước do dân chúng điều khiển nên việc nộp thuế và sử dụng tiền thu thuế cũng do dân chúng quyết định. Ngoài một phần cung cấp cho quản lý hành chánh, đại bộ phận thuế thu được chuyển giao lại cho người dân khi Nhà nước chi ngân sách cho văn hoá, thông tin, thể dục thể thao,giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội cho các chương trình nghiên cứu khoa học, chống ô nhiễm môi trường, chống tệ nạn xã hội…Ví dụ như tổng thu trên địa bàn An Giang năm 2003 là 1.892.010 triệu đồng, trong đó thu từ thuế, phí và lệ phí là 444.000 triệu đồng, chiếm 23,47% tổng thu ngân sách Nhà nước của tỷnh. Số tiền phục vụ chi quản lý hành chính là 100 tỷ đồng, chi giáo dục đào tạo là 359,5 tỷ đồng, chi đầu tư phát triển 654,6 tỷ đồng, chi y tế là 78 tỷ…Tổng chi lên đến 1.642,7 tỷ đồng, chiếm 86,82% so tổng thu. Điều này cho thấy nguồn thu từ thuế chủ yếu phục vụ cho chi tiêu công cộng. 1.2.5 Tính vĩnh viễn: Nộp thuế cho Nhà nước không giống cho Nhà nước vay nên không thể đòi lợi tức và vốn đáo hạn. Thuế được dùng vào tài trợ công chi, mà phần lớn công chi là những khoản cấp phát, cho không. Trên ý nghĩa đó, đóng thuế cho chính phủ là san sẻ một phần gánh nặng công chi. Xét về bản chất, thuế là một hình thức tái phân phối thu nhập xã hội do các doanh nghiệp và dân chúng sáng tạo hình thành nên ngân sách Nhà nước, nhằm tài trợ các nhu cầu chi tiêu công cộng. Xét về hiện tượng thuế là quá trình chuyển dịch một chiều thu nhập xã hội từ khu vực tư vào khu vực công cộng. Như vậy nộp thuế thực chất là quá trình chuyển dịch chi tiêu tư thành chi tiêu vì lợi ích chung. Tái phân phối thu nhập xảy ra khi một tư nhân đóng một khoản tiền thuế cho Nhà nước và nhận lại không tương xứng phần “lợi ích” từ công chi. Nếu tư nhân đó nhận được “lợi ích” từ công chi tương xứng với số tiền thuế anh ta đã nộp thì không có sự tái phân phối. Tái phân phối thu nhập xã hội gồm: tái phân phối theo chiều dọc và tái phân phối theo chiều ngang. Tái phân phối theo chiều dọc nhằm san sẻ thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân giàu; tái phân phối chiều ngang nhằm điều hòa thu nhập của các doanh nghiệp và cá nhân các ngành, lĩnh vực hoặc các giới khác nhau. Trên thực tế những khác biệt giữa hai loại thuế là rất mờ nhạt. Tóm lại, thuế là một đặc quyền chỉ thuộc Nhà nước và thể hiện sức mạnh của Nhà nước trong dời sống xã hội. Nhà nước dùng thuế để tái phân phối thu nhập xã hội và điều chỉnh kinh tế vĩ mô. 1.3 VAI TRÒ CỦA THUẾ Nền kinh tế các nước trên thế giới hiện nay diễn ra đều có sự quản lý của Nhà nước, mức động viên tùy từng quốc gia nhưng không ai có thể phủ nhận vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Và tích cực hay tiêu cực thể hiện trội hơn thì tuỳ từng phương thức điều hành, quản lý. Thuế cũng vậy, bản thân thuế cũng chứa đựng những mâu thuẫn nội tại; vai trò của thuế là rất to lớn, rất quan trọng nhưng đến mức nào còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Vai trò của thuế hiện nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm, đôi khi trái ngược nhau. Nhưng nhìn chung toàn bộ hệ thống thuế trong cơ chế thị trường có các vai trò cơ bản sau: 1.3.1 Thuế là nguồn thu chủ yếu, ổn định của ngân sách Nhà nước: Thuế đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế hiện nay. Thuế là công cụ chủ yếu để tập hợp và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc đân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thuế được thu dựa trên cơ sở thu nhập xã hội nên nền kinh tế phát triển ổn định thì nguồn thu cũng ổn định. Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế phải bao quát hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng xã hội để đảm bảo thu đầy đủ và hợp lý. Như vậy, để đảm bảo thuế là nguồn thu chủ yếu, ổn định của ngân sách Nhà nước thì cần có chính sách, hệ thống thuế phù hợp với khả năng của nền kinh tế, với sức đóng góp của nhân dân và giúp thực hiện mục tiêu kinh tế tăng trưởng cao và ổn định. 9 Điểm giống nhau và khác nhau giữa thuế, phí và lệ phí: Thuế, phí và lệ phí giống nhau ở chỗ đều là khoản thu của ngân sách Nhà nước ; đều là một phần thu nhập của tổ chức, cá nhân đóng góp cho Nhà nước; đều chứa đựng tính quyền lực của Nhà nước… Ngoài ra, thuế và phí, lệ phí về mặt kinh tế còn khác nhau về mục đích sử dụng số tiền thu được và tính hoàn trả cho người nộp: mọi khoản thuế thu được đều tập trung vào ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước, nguồn thu cho mọi loại thuế không gắn với một mục đích chi nhất định. Trong khi phí, lệ phí thường gắn với một mục tiêu chi cụ thể cho một hoạt động cụ thể của Nhà nước. Mặt khác thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp và ngang giá như phí, lệ phí, chỉ khi được hưởng lợi ích hay dịch vụ công cộng mới phải nộp phí, lệ phí và khi phát sinh nhu cầu thì mới thu. Từ đó cho thấy, thuế là nguồn thu cơ bản của Nhà nước, các khoản thu khác như phí, lệ phí chỉ mang tính hỗ trợ và được xem là khoản thu để giảm chi. 1.3.2 Thuế góp phần điều chỉnh nền kinh tế: Ngoài việc huy động cho thu ngân sách Nhà nước, thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập nên căn cứ vào từng tình huống kinh tế, Nhà nước có thể sử dụng thuế làm công cụ điều chỉnh nền kinh tế. Lúc nền kinh tế đang tăng trưởng cao thì một chính sách tăng thuế sẽ ức chế sự phát triển ngay lập tức. Ngược lại, trong hoàn cảnh kinh tế sa sút, sản xuất trì trệ thì việc hạ thấp thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu, xúc tiến phục hưng nền kinh tế. Đấy là những ví dụ đơn giản về tác động của chính sách thuế đối với nền kinh tế. Trong thực tế thì một cơ chế thuế có rất nhiều tác động đối với mọi thành phần kinh tế. Do vậy, cần ban hành chính sách thuế trên tầm nhìn tổng quan có sự tác động qua lại giữa các mặt kinh tế- chính trị- xã hội để Nhà nước có thể chủ động phát huy vai trò điều hòa, thúc đẩy kinh tế phát triển. Các qui định về đối tượng, pham vi đánh thuế, thuế suất, điều kiện miễn, giảm thuế… Xét về hiện tượng thì mang tính cưỡng chế nhưng bản chất là nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế nhất định, nhằm khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào ngành nghề, sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bởi đơn giản là, người nộp thuế sẽ thấy đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Tóm lại, thông qua thuế Nhà nước tác động tích cực đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý mọi nguồn nhân lực, vật lực của đất nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu và cơ cấu kinh tế. 1.3.3 Thuế góp phần đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội: Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi bất hợp lý cho đối tượng nào. Sự bình đẳng và công bằng thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau. Vì vậy, các tổ chức, cá nhân có điều hoạt động, hoàn cảnh khác nhau thì sự bình đẳng, công bằng phải được xét đoán dựa trên nhiều yếu tố chứ không chỉ dựa vào mức thuế suất hay phạm vi đánh thuế. Cần phân biệt rõ giữa công bằng xã hội và bình quân chủ nghĩa- mọi người nộp thuế như nhau mới là công bằng thì không đúng. Ví dụ như đánh thuế cao lên người có thu nhập cao nhưng đồng thời cần có những qui định khác để khuyến khích họ đầu tư chất xám, đầu tư vốn, cải tiến kĩ thuật- công nghệ để ngày càng nâng cao thu nhập thì đã là công bằng. Bình đẳng, công bằng xã hội không chỉ là đạo lý, lý thuyết mà phải được biểu hiện bằng Luật pháp, chế độ, qui định rõ ràng của Nhà nước để buộc mọi người phải tuân theo, điển hình là thuế. Công bằng còn thể hiện ở việc Nhà nước có những biện pháp chống thất thu hiệu quả; chế độ miễn, giảm thuế hợp lý; kiểm tra xử lý nghiêm minh những vụ vi phạm; khắc phục tình trạng cửa quyền, móc ngoặc, tham ô… của cán bộ thuế;... 1.4 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP: 1.4.1 Hệ thống thuế ở Việt Nam hiện nay: Từ giữa những năm 80, cùng với công cuộc mở của và đổi mới nền kinh tế, hệ thống thuế Việt Nam đã được nghiên cứu và đến năm 1990- một hệ thống thuế được hình thành bao gồm chính sách thuế và hệ thống quản lý thuế. Giai đoạn này đã có được một hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh. Đến nay, hệ thống pháp luật về thuế đã được hoàn thiện hơn, gồm các luật thuế chủ yếu như: luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; luật thuế giá trị gia tăng; luật thuế tiêu thụ đặc biệt; luật thuế thu nhập doanh nghệp; luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; luật thuế tài nguyên; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế sử dụng đất nông nghiệp; một số hình thức thu phí và lệ phí. 9 Phân theo góc độ người nộp thuế thì có thể chia thuế làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu: Thuế trực thu là loại thuế thu trực tiếp trên thu nhập của người nộp thuế. Thuế trực thu có bản chất kinh tế là người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế, thường là thuế thu nhập, thuế tài sản…Thuế trực thu có những ưu điểm như: động viên thu nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập nên đảm bảo được công bằng xã hội, người có thu nhập cao thì nộp nhiều và ngược lại. Mặt khác, thuế trực thu cũng có những tồn tại như: tính toán phức tạp; dễ bị phản ứng tiêu cực từ phía người nộp; diện quản lý thu thuế rộng nên thường tốn nhiều công sức nhưng hiệu quả thấp… Thuế gián thu là loại thuế Nhà nước thu vào người tiêu dùng nhưng không trực tiếp vào thu nhập của người tiêu dùng mà thu giá tiếp qua người bán hàng hóa, dịch vụ. Bản chất kinh tế của thuế gian thu là người nộp thuế không phải là người chịu thuế mà người chịu thuế là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Thuế gián thu thường là thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt…Thuế gián thu có những ưu điểm như: nghiệp vụ tính thuế và thu thuế đơn giản; người tiêu dùng khó nhận biết là mình nộp thuế nên ít phản ứng hơn. Trái lại, thuế gián thu có nhược điiểm là tính lũy thoái của nó. Vì thuế gián thu đánh như nhau trên cùng một loại hàng hóa và số lượng như nhau thì chịu thuế như nhau, nhưng thực chất tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu chịu thấp hơn người nghèo, người có thu nhập càng cao thì tỷ lệ nộp thuế gián thu trên thu nhập càng thấp. Chính vì vậy, để động viên thuế từ tất cả mọi người trong xã hội, người ta sử dụng thuế gián thu cùng với thuế trực thu hợp thành hệ thống thuế thống nhất, trong đó các loại thuế vùa thực hiện nhiệm vụ chính của mình vừa hỗ trợ nhau để phát huy tác dụng đồng bộ của cả hệ thống thuế. 9 Một số loại thuế điển hình và tác dụng của chúng: Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao có tác dụng góp phần thực hiện công bằng xã hội; điều tiết một phần thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu thấp hoặc không có thu nhập thông qua các công tác an sinh xã hội. Thuế tiêu thụ đặc biệt có tác dụng là nguồn thu quan trọng của ngân sách; là công cụ để Nhà nước hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng của xã hội theo hướng có hiệu quả; hạn chế, tiết kiệm đối với những hàng hóa xa xỉ… Thuế tài nguyên có tác dụng góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả; góp phần bảo vệ môi trường và bảo vệ tài nguyên quốc gia; dùng nguồn thu này để thực hiện các biệp pháp bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên. 1.4.2 Thuế giá trị gia tăng: Thuế giá trị gia tăng có hiệu lực hiện nay ở Việt Nam thay cho Thuế doanh thu trước đây. Nước ta áp dụng thuế giá trị gia tăng đặt căn bản trên hóa đơn. Có ý kiến cho rằng thuế giá trị gia tăng nên được coi là một phương pháp đánh thuế mới hơn là một sắc thuế độc lập, bởi vì theo giáo sư Mel Kraus của trường đại học Amsterdam và Petet O’Brien, nhà kinh tế học tại Geneva thì:” Khái niệm thuế giá trị gia tăng có liên quan đến phương pháp hành thu chứ không liên hệ đến một thứ thuế riêng biệt thuộc một nhóm đặc biệt hay một hoạt động kinh tế đặc biệt theo như nhiều người vẫn tưởng…Về bản chất,thuế giá trị gia tăng không phải là một thứ thuế đánh trên chi phí tiêu thụ mà cũng không phải là một thứ thuế đánh trên lợi tức xuất phát từ các yếu tố sản xuất, nó vốn là một cách thức đánh thuế trên căn bản từng cái một, từng giai đoạn một nhằm tránh cách đánh thuế hai lần”. Vậy, “thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Thực chất đó là một loại thuế doanh thu đánh vào mỗi giai đoạn sản xuất lưu thông hàng hóa kể từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến thành phẩm và cuối cùng là cho đến giai đoạn tiêu dùng. Chính vì vậy mà có người gọi đó là thuế doanh thu có khấu trừ số thuế đã nộp ở giai đoạn trước.Thuế giá trị gia tăng được phép tính cộng vào giá bán hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng gánh chịu. ¾ Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hóa chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu). ¾ Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng: là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. 9 Căn cứ tính thuế giá trị gia tăng là giá tính thuế và thuế suất Giá tính thuế được xác định dựa trên đặc điểm, tính chất, hay phương thức bán hàng… của hàng hóa, dịch vụ. Các qui định đưa ra được dựa sát vào thực tế kinh doanh của từng ngành, nghề cụ thể nên đảm bảo công bằng, hợp lý đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Thuế suất hiện nay có các mức khác nhau, mức thuế suất thấp hay cao tuỳ vào mức khuyến khích của Nhà nước đối với những ngành, nghề, loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau nhiều hay ít. Diển hình như đối với hàng xuất khẩu, mức thuế suất hiện nay là 0% do Nhà nước đặc biệt khuyến khích xuất khẩu bởi nguồn thu từ xuất khẩu đóng góp rất lớn cho tổng thu nhập quốc dân, cho sự phát triển kinh tế của đất nước. ¾ Phương pháp tính thuế: Thuế giá trị gia tăng mà các cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo 2 phương pháp: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng. Sở dĩ cần có 2 phương pháp là vì có những cá nhân, tổ chức kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn, chứng từ để làm căn cứ xác định thuế giá trị gia tăng đầu ra và thuế giá trị gia tăng đầu vào để tính theo phương pháp khấu trừ. ♦ Phương pháp khấu trừ thuế: Theo phương pháp này, số thuế giá trị gia tăng phải nộp được xác định bằng thuế giá trị gia tăng đầu ra trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Thuế giá trị gia tăng đầu vào được xác định căn cứ vào hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ để kinh doanh của cơ sở kinh doanh. Còn thuế giá trị gia tăng đầu ra thì dựa trên hóa đơn bán hàng. Số thuế phải nộp= Thuế giá trị gia tăng đầu ra – Thuế giá trị gia tăng đầu vào Thuế giá trị gia tăng đầu ra= Giá tính thuế hàng hóa dịch vụ bán ra x Thuế suất Thuế giá trị gia tăng đầu vào = Tổng số thuế giá trị gia tăng đã thanh toán được ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng hàng hóa nhập khẩu ♦ Phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng: Theo phương trực tiếp trên giá trị gia tăng thì số thuế giá trị gia tăng phải nộp được xác định bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ đó. Để tính được số thuế phải nộp theo phương pháp này thì phải tính được giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra. Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra xác định dựa trên doanh thu và chi phí. Chúng được xác định như sau: Số thuế phải nộp= Giá trị gia tăng hàng hóa, dịch vụ x Thuế suất thuế giá trị gia tăng Giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ = Giá thanh toán hàng - Giá thanh toán của hóa dịch vụ, bán ra hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng 9 Các cơ sở kinh doanh phải tuân thủ các điều luật về đăng ký nộp thuế, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế như: Đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế trực tiếp quản lý theo hướng dẫn của cơ quan thuế. Kê khai thuế giá trị gia tăng từng tháng và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế trong 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Nộp thuế đầy đủ đúng quy định vào ngân sách Nhà nước. Thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày 25 của tháng tiếp theo. Thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế. Năm quyết toán thuế được tính theo năm dương lịch. 9 Ưu điểm của thuế giá trị gia tăng : Tuy còn nhiều tranh cãi nhưng không một ai có thể phủ nhận tính tích cực của thuế giá trị gia tăng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Một số ưu điểm của thuế giá trị gia tăng như: tính trung lập của thuế đối với qui trình sản xuất, kinh doanh khác nhau thông qua việc xoá bỏ các vấn đề thuế đánh chồng thuế. Thuế giá trị gia tăng ít mang phản ứng nặng nề về phía người chịu thuế lẫn người nộp thuế, bởi đánh thuế theo phương pháp này, dưới hình thức một loại thuế gián thu mà người nộp thuế không phải chịu thuế được đánh giá là cách đánh thuế khôn ngoan, tiện lợi; thuế giá trị gia tăng dễ hành thu vì gánh nặng của thuế được chuyển qua từng công đoạn để cuối cùng qui vào người tiêu thụ sản phẩm; sự đơn giản trong công tác quản lý thu thuế; thuế giá trị gia tăng là loại thuế trung tính đối với độ dài ngắn của qui trình sản xuất và phân phối, nhưng lại không trung tính về mặt kinh tế do đó tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế; thuế giá trị gia tăng được chấp nhận tương đối dễ dàng và ít có trường hợp gian lận, ngoại trừ khu vực có qui mô nhỏ và khu vực cung ứng dịch vụ, khu vực có nhiều hoạt động ngầm không khai báo. 9 Tác dụng: Thuế giá trị gia tăng có những tác dụng cơ bản như: không thu trùng như thuế doanh thu, bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước, kích thích xuất khẩu (thuế xuất 0%), không phải là một khoản chi phí (ngoại trừ các trường hợp nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo phương pháp trực tiếp) do đó khôn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4.3 Thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành nhằm đảm bảo bao quát và điều tiết được tất cả các khoản thu nhập đã, đang và sẽ phát sinh của các cơ sở kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Thuế thu nhập doanh nghiệp còn nhằm khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích các tổ chức, cá nhân sản xuất trong nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, thuế thu nhập doanh nghiệp tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. ¾ Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có thu nhập đều phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. ¾ Đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác. Tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm: doanh nghiệp Nhà nước; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng, hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; doanh nghiệp tư nhân; hợp tác xã; tổ hợp tác; tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. 9 Căn cứ tính thuế là thu nhập chịu và thuế suất: Thu nhập chịu thuế bao gồm: thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và thu nhập khác, kể cả thu nhập thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ở nước ngoài. Xác định thu nhập chịu thuế: trong kỳ tính thuế nhập chịu thuế trong trong kỳ tính thuế khác trong kỳ tính thuế thuế kỳ tính thuế Thu nhập chịu thuế = Doanh thu để tính thu - Chi phí hợp lý + Thu nhập chịu Trong đó: Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền cung ứng dịch vụ, kể cả trợ giá, phụ thu, phụ trội mà cơ sở kinh doanh được hưởng. Chi phí hợp lý là các chi phí là các chi phí có liên quan đến sản xuất kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa dịch vụ được pháp luật thừa nhận. Thu nhập chịu thuế khác bao gồm: thu nhập từ chênh lệch mua, bán chứng khoán, quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất; lãi từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản, tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; kết dư cuối năm các khoản dự phòng; thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xoá sổ nay đòi được; thu các khoản nợ phải trả không xác định được chủ; các khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót mới phát hiện ra và các khoản thu nhập khác. 9 Cơ sở kinh doanh có những trách nhiệm như: Đăng ký thuế thu nhập doanh nghiệp cùng với việc đăng ký thuế giá trị gia tăng . Kê khai thuế: Hàng năm, c._.ơ sở kinh doanh căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của năm trước và khả năng của năm tiếp theo tự kê khai doanh thu, chi phí, thu nhập chịu thuế, số thuế phải nộp cả năm, có chia ra từng quý theo mẫu của cơ quan thuế và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý chậm nhất là ngày 25 tháng1; nếu tình hình sản xuất, kinh doanh trong năm có sự thay đổi lớn thì cơ sở kinh doanh phải báo cáo cơ quan thuế trực tiếp quản lý để điều chỉnh số thuế tạm nộp cả năm và từng quý. Trong trường hợp cơ quan thuế kiểm tra phát hiện việc kê khai thuế của cơ sở kinh doanh chưa phù hợp thì có quyền ấn định số thuế tạm nộp cả năm và từng quý. Nộp thuế: cơ sở kinh doanh tạm nộp số thuế hàng quý theo bảng tự kê khai hoặc theo số thuế cơ quan thuế ấn định đầy đủ, đúng hạn vào ngân sách Nhà nước. Thời hạn nộp thuế hàng quý chậm nhất là ngày cuối quý. Quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế. 9 Tác dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng rộng rãi đối các cơ sở sản xuất kinh doanh. Trong sự phát triển của nền kinh tế, tích lũy của các đơn vị kinh tế ngày càng tăng lên sẽ là cơ sở tăng thu thuế thu nhập doanh nghiệp cho Nhà nước. Và góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng có lợi cho nền kinh tế. Điều này thể hiện qua việc thiết kế thuế suất chung cho các ngành nghề và thực hiện miễn, giảm thuế khuyến khích tái đầu tư vào sản xuất. Đồng thời, đảm bảo phân phối công bằng, hợp lí giữa các cơ sở kinh doanh kết hợp hài hòa các lợi ích kinh tế, từ đó tạo động lực phát triển sản xuất. Thuế thu nhập doanh nghiệp là khoản thuế trực thu liên quan trực tiếp đến lợi nhuận, nguồn vốn tích lũy của các doanh nghiệp. Một chính sách thu quá cao sẽ ảnh hưởng đến sự mở rộng đầu tư sản xuất của doanh nghiệp. Mặt khác, do yêu cầu phải xác định những chi phí hợp lý một cách chính xác để tính thu nhập chịu thuế nên về mặt nghiệp vụ quản lý đối với loại thuế này rất phức tạp nếu bộ máy quản lý không hoàn chỉnh. Vì vậy, cùng với sự phát triển kinh tế tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất và thúc đẩy hạch toán kinh doanh. Thuế thu nhập doanh nghiệp đã được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa bằng việc áp dụng một mức thuế suất thống nhất cho ngành, thiết lập một qui chế rõ ràng về việc xác định thu nhập chịu thuế, nhất là xác định các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ. Các trường hợp miễn, giảm thuế ngày càng được sửa đổi, hoàn thiện. CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CHI CỤC THUẾ HUYỆN TÂN CHÂU 2.1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ- Xà HỘI TỈNH AN GIANG: 2.1.1 Đặc điểm tự nhiên và hành chính: An Giang là vùng đất mới và còn rất trẻ so với các vùng khác của đất nước. An Giang nằm ở vùng Tây Nam Bộ, thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, là tỷnh biên giới có nhiều dân tộc và tôn giáo. Ngoài ra, An Giang còn nằm ở hạ lưu lưu vực sông Mê Kông nên bị ảnh hưởng nhiều bởi lũ lụt, sụt lở bờ sông… Tỷnh An Giang có thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, 9 huyện và 140 đơn vị hành chính cơ sở (118 xã,11 phường, 11 thị trấn). 2.1.2 Tình hình kinh tế- xã hội những năm vừa qua: Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP tỷnh An Giang qua 3 năm ĐVT: % Năm 2001 2002 2003 Tốc độ tăng trưởng GDP (%) 4,52 10,54 9,13 Khu vực nông nghiệp (%) -0,51 10,33 2,75 Khu vực công nghiệp-xây dựng (%) 11,65 10,84 12,77 Khu vực dịch vụ (%) 7,04 10,63 13,58 Nguồn: Phòng Thống kê huyện Tân Châu Năm 2002, tỷnh An Giang đứng trước thách thức vô cùng khó khăn là GDP năm 2001 có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong 12 năm qua, chỉ đạt 4,52%. Trong đó khu vực nông nghiệp là thế mạnh to lớn của tỷnh lại tăng trưởng âm do lũ tăng cao đột ngột và kéo dài, thêm vào đó lại gặp khó khăn cho đầu ra của con cá. Trước những thách thức này, tỷnh ủy vẫn tích cực, chủ động cùng sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự nỗ lực, quyết tâm của nhân dân vượt qua thử thách đã đạt được những thành quả đáng tự hào là GDP tăng trưởng 10,54%, đạt mức cao nhất trong 6 năm qua, kể từ năm 1996, đã phục hồi một cách tuyệt vời nền kinh tế tỷnh giảm sút liên tiếp trong 4 năm qua, nhất là năm 2001. Đến năm 2003, tăng trưởng tiếp tục đạt 9,13% với tổng sản phẩm trong tỷnh (GDP) đạt 13.190.244 triệu đồng (theo giá hiện hành), vượt so với chỉ tiêu 8,5% Đạt được sự tăng trưởng cao khi đứng trước hàng loạt những khó khăn là nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn tỷnh ra sức khắc phục bất lợi, tập trung khai thác thế mạnh tỷnh nhà đem lại thành quả vô cùng to lớn. 9 Cụ thể đối với từng khu vực trong năm 2003 như sau: ƒ Khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng 37,65% với các ngành chủ lực đều tăng cao, nhất là 2 ngành mũi nhọn lúa và cá. Mặc dù năm 2003 ngành thủy sản An Giang gặp rất nhiều khó khăn do vụ kiện bán phá giá cá da trơn từ phía Mỹ từ đó Mỹ áp đặt mức thuế suất cao, đặt ra trước mắt những khó khăn còn to lớn hơn nhưng con cá vẫn tìm được đầu ra nhờ quay lại thị trường nội địa và chủ động tìm kiếm thị trường mới trên thế giới. ƒ Khu vực công nghiệp- xây dựng chiếm tỷ trọng 12,73%, sản xuất công nghiệp năm nay ổn định và đạt mức tăng trưởng khá 14,52%. Đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Nhờ sự tăng trưởng khu vực nông nghiệp kích thích, tạo điều kiện cho khu vực công nghiệp- xây dựng tăng trưởng theo nhờ giá lúa cao làm tăng sức mua của nhân dân làm cho thị trường nội địa sôi động, sản xuất phát triển. ƒ Khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng 49,62%, xấp xỉ 50%. Hoạt động kinh doanh năm 2003 tiếp tục phát triển, nổi bật là hoạt động xuất khẩu đạt tốc độ tăng 24,21% so cùng kỳ, đạt kim ngạch 183 triệu USD. Xuất khẩu gạo thuận lợi, nông dân có lợi nhuận, tác động tích cực đến sản xuất, mức lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ tăng 15,64% so cùng kỳ. Một yếu tố không kém phần quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển là vốn. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình trong việc cung vốn đúng nơi, đúng lúc. Ngoài ra, tỷnh còn đạt được những chỉ tiêu chủ yếu trong năm 2003 như: Thu ngân sách trên địa bàn tỷnh đạt 1.080.000 triệu đồng, tăng 17% so 2002, trong đó thu thuế ngoài quốc doanh đạt 250.000 triệu đồng tăng 27,92% so cùng kỳ. Đây là năm đầu tiên thu ngân sách trên địa bàn đạt trên 1000 tỷ đồng. Đồng thời, GDP bình quân đầu người đạt 6,147 triệu đồng, tăng 14,65% so 2002, tăng 2,74% so kế hoạch.Giải quyết việc làm cho 25.000 lao động, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 5,2% và kế hoạch 2004 chỉ còn 4,2%. Các lĩnh vực văn hóa- xã hội cũng có những bước tiến đáng ghi nhận và đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao về mọi mặt. Tóm lại, tuy vẫn còn đó những thách thức, nguy cơ nhưng sự phát triển trong những năm vừa qua đã tạo một nền tảng vững chắc và tín hiệu tốt cho một tương lai phát triển ổn định, bền vững của tỷnh. Đồng thời cần tìm ra giải pháp phát huy tiềm năng vô cùng to lớn về nhân lực, vật lực chưa được khai thác tốt của tỷnh ta. 2.2 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ Xà HỘI HUYỆN TÂN CHÂU TỈNH AN GIANG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN: 2.2.1 Đặc điểm tự nhiên và hành chính: Tân Châu là huyện đầu nguồn, thường gánh chịu những đợt lũ sớm đổ về. Huyện Tân Châu cách trung tâm tỷnh An Giang khoảng 40 km về hướng Đông- Nam. Tân Châu có phía Bắc giáp biên giới Campuchia, phía Đông giáp sông Tiền, phía Nam giáp huyện Phú Tân, phía Tây giáp sông Hậu và huyện An Phú. Vì vậy, Tân Châu từ xưa đến nay vẫn giữ vị trí quốc phòng quan trọng. Huyện lại có địa hình thấp nên vào mùa lũ từ khoảng tháng 7 đến tháng 9 thường chịu nhiều thiệt hại về của cải, vật chất ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Ngược lại, cũng do lũ đất đai được bù đắp lượng phù sa màu mỡ và dòng nước sông Tiền cũng mang đến nguồn thuỷ lợi dồi dào. Tiền thân huyện Tân Châu là huyện Phú Châu, sau tách thành huyện Tân Châu và huyện An Phú. Tân Châu có một thị trấn và 9 xã gồm: thị trấn Tân Châu, xã Vĩnh Hoà, xã Phú Lộc, xã Vĩnh Xương, xã Tân An, xã Long An, xã Châu Phong, xã Lê Chánh, xã Phú Vĩnh, xã Long Phú. Huyện Tân Châu có tổng diện tích tự nhiên là 16.110 ha. Dân số toàn huyện đạt 159.068 người trong đó số người trong độ tuổi lao động là 94.343 người, nữ chiềm tỷ lệ 51,44%. Mật độ dân cư là 1.013 người/ km2 Do vậy, huyện có dân cư đông đúc và chủ yếu sống bằng nghề nông và thương mại- dịch vụ. 2.2.2 Tình hình kinh tế- xã hội và định hướng phát triển: Phát huy thành tích đạt được năm 2002, cùng với sự quan tâm của trung ương, của tỷnh đầu tư cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội đã tạo điều kiện cho nền kinh tế huyện Tân Châu năm 2003 đạt tốc độ tăng trưởng là 10,6%. Năng lực và trình độ các ngành kinh tế đã được nâng lên, các chính sách và cơ chế mới được hoàn thiện có tác động tích cực trong việc huy động nguồn nhân lực cho đầu tư phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, văn hóa- xã hội có nhiều tiến bộ, tình hình an ninh, trật tự ổn định. Những kết quả chủ yếu trong năm 2003 như: Tổng sản phẩm gia tăng (VA-GDP) đạt 902.681 triệu đồng, tăng 10,6%. Nâng GDP bình quân đầu người từ 5,120 triệu đồng lên 5,695 triệu đồng.Tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 70.233 triệu đồng, tăng 16,81% so cùng kỳ; trong đó thu từ kinh tế địa bàn đạt 47.662 triệu đồng, tăng 32,08% so cùng kỳ. Tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn 4,81%. Số người được giải quyết việc làm là 3.474. Qua 3 năm, từ 2001 đến nay tốc độ tăng trưởng đều và ổn định, lần lượt là 10,4%, 10,8%,10,6%. Đồng thời, thu ngân sách mỗi năm đều đạt kế hoạch so với dự toán tỷnh, dự toán pháp lệnh và thường tăng so với cùng kì. Để đạt những kết quả trên thì có sự đóng góp của các khu vực kinh tế của huyện trong năm 2003 là: Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế huyện Tân Châu năm 2003: ĐVT: % Tốc độ tăng trưởng (%) Cơ cấu kinh tế (%) 10,6 100 Khu vực nông nghiệp 4,36 33,07 Khu vực công nghiệp- xây dựng 13,78 20,77 Khu vực dịch vụ 14,03 46,16 Nguồn: Phòng Thống Kê huyện Tân Châu Khu vực nông nghiệp do có sản xuất lúa vụ 3 nên sản lượng cả năm tăng 3,47% so với năm 2002. Từ đó làm tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp tăng 4,36%. Đây là năm đầu tiên huyện uỷ- Uỷ ban nhân dân huyện chủ trương sản xuất lúa vụ 3 trên diện rộng toàn huyện, nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân. Đối với khu vực này, huyện chủ trương thực hiện các giải pháp thiết thực để nâng cao hiệu quả sản xuất như: tiếp tục tăng sản xuất lúa vụ 3; nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với nhu cầu thị trường và hướng tới xuất khẩu quy hoạch vùng sản xuất lúa chất lượng cao; củng cố mạng lưới nhân giống; tăng cường công tác khuyến nông đưa nhanh ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành; tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân vay vốn; hoàn chỉnh hệ thống thủy nông nội đồng… Trong ba năm qua thì tỷ trọng khu vực nông nghiệp có xu hướng giảm vì đây là khu vực có tốc độ tăng trưởng thấp nhất. Tuy nhiên, với đa số dân cư sống bằng nghề nông và đa số diện tích của huyện là đất canh tác nên tỷ trọng khu vực này cũng chiếm tương đối cao là 33,07%. Khu vực công nghiệp- xây dựng tăng trưởng 13,78% đạt mục tiêu kinh tế đề ra. Do đẩy mạnh chương trình khuyến công giải ngân kịp thời cho các cơ sở, đặc biệt là bộ phận xây dựng khá cao nhờ đẩy nhanh tiến độ xây dựng cụm tuyến dân cư, các công trình công cộng, cơ sở sản xuất và hộ dân xây dựng nhà ngày một tăng. Các mục tiêu được đưa ra đối với khu vực là: đạt tốc độ tăng trưởng 14,50% trong năm 2004; tập trung phát triển ngành nghề thuộc thế mạnh địa phương, thu hút nhiều lao động; phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp gắn bó với phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa; đẩy nhanh tiến độ qui hoạch cụm công nghiệp, tạo tiền đề kêu gọi đầu tư; khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất… Với những nền tảng đã tạo dựng, cùng với tốc độ tăng trưởng cao trong các năm qua thì mục tiêu đặt ra là hoàn toàn có khả năng đạt được. Từ đó tạo điều kiện và môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Khu vực thương mại- dịch vụ tăng trưởng khá cao, đạt 14,03%. Những hoạt động chủ yếu của khu vực này đều tăng cao: bộ phận thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng tăng từ 16- 17%. Đây là khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất đạt 46,16% và tăng mạnh trong những năm qua. Khu vực này chiếm vị trí chủ đạo và là thế mạnh của huyện nhờ vị thế giao thông thủy bộ, kết hợp quan hệ giao lưu với nước bạn thông qua cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương. Để ngày càng khẳng định vị thế thì mục tiêu đặt ra cho năm 2004 là: tốc độ tăng trưỏng đạt 15,07%; phát triển đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, đẩy mạnh khai thác thị trường nội địa, mở rộng thị trường bên ngoài nhất là Campuchia; nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ, bưu chính viễn thông, tín dụng, ngân hàng…Những giải pháp được đưa ra để phát huy tiềm lực sẵn có cho sự phát triển là: phát triển mạnh thị trường nội địa, mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm dịch vụ ở nông thôn; đẩy mạnh xúc tiến thương mại thông qua các hội chợ; phát triển du lịch làng Chăm Châu Phong, lập qui hoạch khu du lịch núi Nổi; gọi vốn đầu tư xây dựng siêu thị Tân Châu; nghiên cứu xây dựng một số chợ đầu mối chuyên ngành như chợ nông sản, thủy sản, gia súc, rau quả; tăng cường công tác quản lý thị trường góp phần ổn định thị trường và phát triển lành mạnh… Dựa vào những kết quả đạt được trong những năm qua Ủy ban nhân dân huyện đặt ra những mục tiêu và giải pháp cụ thể đối với từng khu vực kinh tế để định hướng cho sự phát triển kinh tế xã hội của huyện sao cho đúng hướng và phát huy tối đa nguồn lực sẵn có, tạo đà cho sự phát triển ổn định và bền vững về sau. Các mục tiêu được đưa ra là mục tiêu lâu dài và các giải pháp là chiến lược, thiết thực nhưng đạt được kế hoạch đề ra là nhiệm vụ không dễ dàng cho các thành phần kinh tế, các cơ quan chức năng thực thi. Bởi vì để kinh tế phát triển thì cần có sự phát triển đồng bộ về mọi mặt của xã hội cả về văn hóa và ổn định an ninh, quốc phòng…Và công tác quản lý Nhà nước phải đảm bảo cho mọi việc diễn ra đồng bộ, hỗ trợ nhau tạo sức bật đủ lớn cho tiến trình xây dựng huyện. 9 Những thuận lợi và khó khăn trong môi trường kinh doanh ở Tân Châu: ƒ Thuận lợi: Có được sự lãnh đạo, điều hành hiệu quả của Ủy ban nhân dân huyện và các ngành các cấp; tốc độ tăng trưởng từ 2001 đến nay đều trên 10%; cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo thế mạnh của địa phương; cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội được quan tâm đầu tư; có nhiều chính sách phát triển kinh tế; đời sống vật chất, tinh thần nhân dân được cải thiện đáng kể; văn hóa xã hội từng bước phát triển; kinh nghiệm và trình độ sản xuất được nâng cao, nhiều mô hình sản xuất giỏi, sản xuất thí điểm mang lại hiệu quả cao…. ƒ Khó khăn: Sự chuyển dịch cơ cấu chung của huyện còn chậm, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp còn chưa vững chắc và ổn định, hiệu quả; chất lượng sản phẩm có tăng nhưng kém sức cạnh tranh; qui mô sản xuất còn nhỏ lẻ, năng suất, chất lượng, hiệu quả còn thấp; thời tiết khí hậu thay đổi thất thường, cảnh báo những nguy cơ và tác động xấu có thể xảy ra; lĩnh vực xã hội còn nhiều tồn tại, bức xúc… Tóm lại, con đường đi lên sự phát triển thì bao giờ cũng nhọc nhằn, chông gai chứ không đầy hoa thơm và cỏ lạ. Nhưng với mục tiêu phía trước và hướng đi được vạch rõ cùng sự quyết tâm của mọi ngành, mọi nghề, mọi người thì đích đến ở ngay phía trước. 2.3 Giới thiệu sơ lược về Chi cục thuế huyện Tân Châu: Chi cục thuế huyện Tân Châu được thành lập từ năm 1991 khi Tân Châu tách ra từ huyện Phú Châu trên cơ sở Phòng thuế công thương nghiệp Phú Châu trước đây. Từ đó đến nay, Chi cục thuế đi vào hoạt động ngày càng ổn định và dần dần được hoàn thiện về mọi mặt và công tác mang lại hiệu quả. 2.3.1 Bộ máy tổ chức: (được in thành 2 trang riêng) Qua các tài liệu phân tích về tình hình nhân sự ở Chi cục thuế huyện Tân Châu, nhận thấy: trình độ văn hóa: tốt nghiệp cấp 2 chiếm tỷ lệ 4,34%, tốt nghiệp cấp 3 chiếm tỷ lệ là 95,66%; trình độ chuyên môn: sơ cấp chiếm tỷ lệ 2,44%, trung cấp chiếm tỷ lệ 50%, đại học chiếm tỷ lệ 31,70%; số còn lại là nhân viên hợp đồng. Cán bộ- công nhân viên công tác lâu năm nhiều kinh nghiệm chiếm tỷ lệ 25,60%. Số người trẻ chiếm khoảng 50%. Qua thực tế đó ta thấy, Chi cục thuế chú trọng công tác nhân sự, không chỉ chú trọng kiến thức chuyên môn mà còn tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ công nhân viên học tập, rèn luyện. Thời gian qua, Chi cục thuế thường xuyên gởi cán bộ tham dự các khoá tập huấn ngắn và dài hạn để nâng cao chuyên môn và cập nhật những thông tin, chính sách, nhiệm vụ mới trong điều kiện mới. 2.3.2 Chức năng nhiệm vụ của các phòng, ban: ¾ Chi cục thuế: Thực hiên nhiệm vụ chung: dự toán thu thuế và thu khác trên địa bàn, đề ra biện pháp, phương án thu thống nhất cho toàn Chi cục thuế thực hiện đúng theo Luật định; kiểm tra thực hiện kế hoạch thu; chịu trách nhiệm trước Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, Ban lãnh đạo Cục thuế về mặt chỉ tiêu của Chi cục thuế, tham mưu cho Uỷ ban nhân dân huyện, Cục thuế trong việc đề nghị miễn giảm thuế …Tăng cường mối quan hệ giữa các ngành, các cấp trong địa bàn huyện. Thực hiện các chức năng quản lý và điều động cán bộ, công nhân viên thuộc phạm vi mình quản lý cho phù hợp với từng địa bàn, xét khen thưởng, đề bạt cán bộ đồng thời xử lý kỉ luật cán bộ vi phạm những qui định ngành thuế. ¾ Ban lãnh đạo chi cục: Chi cục trưởng và 2 phó chi cục trưởng thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo công tác quản lý thu thuế tại địa bàn huyện theo các chính sách, Luật, Nghị định, Thông tư về thuế của Nhà nước và dưới sự chỉ đạo của các cơ quan,ban ngành có thẩm quyền. ¾ Tổ Nhân sự- Hành chính quản trị- Tài vụ: Thực hiện công tác quản lý cán bộ như: đề nghị nâng lương, tuyển dụng, chuyển ngạch, kỉ luật đối với cán bộ của Chi cục thuế; đề nghị tổ chức, phân công công việc giữa các tổ, đội và từng cán bộ; xây dựng qui hoạch cán bộ lãnh đạo tổ, đội; thực hiện các báo cáo thống kê về công tác cán bộ; phối hợp với các tổ, đội có liên quan để tổ chức hướng dẫn học tập nghiệp vụ cho cán bộ của Chi cục…Thực hiện công tác văn thư, hành chính của Chi cục Thuế: xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của cơ quan, đôn đốc việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác; tổ chức thực hiện công tác văn thư, lưu trữ, đánh máy, in ấn các tài liệu, tiếp nhận phân phối và lưu hành công văn, giấy tờ theo qui chế làm việc của cơ quan; đề xuất việc trang bị cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho cơ quan; phối hợp với các tổ chức khác trong việc tiếp khách, tiếp dân đến cơ quan làm việc…Quản lý kinh phí chi tiêu của Chi cục Thuế, gồm: lập dự toán chi ngân sách của đơn vị; quản lý việc thanh toán chi trả tiền lương, thưởng, phụ cấp.. hàng tháng cho cán bộ cơ quan; đảm bảo công tác hậu cần phục vụ nhu cầu công tác và sinh hoạt của cơ quan; thực hiện chế độ thanh, quyết toán và báo cáo định kỳ theo chế độ qui định.Thực hiện công tác khác có liên quan đến cán bộ công chức, hành chính và tài vụ cơ quan. ¾ Tổ xử lý dữ liệu: Giúp Chi cục trưởng Chi cục Thuế trong việc lập dự toán thu, thực hiện tính thuế, lập bộ ra thông báo thuế và kế toán thu. Cụ thể là: Chủ trì trong việc lập dự toán thu; theo dõi tình hình thực hiện dự toán thu thuế từng tháng, quý, năm; lập sổ lưu giữ các chỉ tiêu kinh tế, các số liệu có liên quan đến công tác xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Lập bộ thuế; xử lý tờ khai thuế (của các đối tượng kê khai); tính thuế, tính nợ, tính phạt hoặc ấn định thuế, phát hành thông báo thuế; kế toán và theo dõi thu nộp thực hiện thống kê thuế; xem xét quyết toán thuế của các đối tượng kê khai, xác định số thuế phải nộp và thực nộp trong năm, số thuế nộp thừa, số thuế nộp thiếu để đưa vào thông báo tiếp theo. Cung cấp các thông tin cần thiết cho các tổ Nghiệp vụ, tổ Thanh tra và các đội thuế phục vụ cho công tác quản lý thu. ¾ Tổ quản lý ấn chỉ: Giúp Chi cục trưởng Chi cục Thuế trong công tác quản lý ấn chỉ thuế. Cụ thể như: Tổ chức kế toán nhập, xuất tất cả các loại ấn chỉ thuế, cấp phát và bán hóa đơn, tờ khai thuế cho đối tượng nộp thuế; mở sổ sách theo dõi quản lý, thanh toán biên lai thuế, phí, lệ phí với từng cán bộ thuế, đơn vị sử dụng biên lai thu phí, lệ phí. Lập báo cáo tình hình sử dụng biên lai thuế, phí, lệ phí, hóa đơn, chứng từ theo đúng chế độ qui định; theo dõi quản lý và kiểm tra đối tượng sử dụng hóa đơn, chứng từ trên địa bàn. Hướng dẫn các đối tượng sử dụng biên lai thuế, phí, lệ phí, hóa đơn, chứng từ…thực hiện đúng việc ghi chép, quản lý sử dụng theo đúng chế độ qui định của Nhà nước. Thanh hủy ấn chỉ thuế hết hạn sử dụng theo đúng qui định… ¾ Tổ nghiệp vụ: Giúp Chi cục trưởng Chi cục Thuế hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ thuế đối với các đối tượng nộp thuế và các tổ, đội của Chi cục Thuế; điều tra xác định doanh thu thực tế của các hộ kinh doanh để đề xuất kế hoạch điều chỉnh doanh thu đối với hộ thu ổn định… Tổ Nghiệp vụ cần phối hợp với các đội thuế xã trong việc kiểm tra, xác minh các hồ sơ, tờ khai thuế, lệ phí, đảm bảo tính chính xác để chuyển cho Tổ xử lý dữ liệu ra thông báo thu, đảm bảo sự kiểm tra giám sát lẫn nhau trong quá trình thu. ¾ Tổ Thanh tra, kiểm tra: Giúp Chi cục trưởng Chi cục Thuế trong việc thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế trong việc thực hiện chính sách thuế, các chế độ quản lý; xử lý khiếu nại và vi phạm về thuế của đối tượng nộp thuế, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện cưỡng chế thuế. Cụ thể như: Thực hiện thanh tra, kiểm tra các đối tượng nộp thuế; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành Luật thuế; thanh tra, kiểm tra cán bộ thuế trong việc thực thi chính sách thuế, các biện pháp nghiệp vụ hành thu. Xử lý các trường hợp vi phạm về thuế, giải quyết các khiếu nại về thuế theo thẩm quyền. Phối hợp các đơn vị có liên quan thực hiện cưỡng chế thuế đối với các đối tượng nộp thuế vi pham Pháp Luật về thuế; phối hợp với các lực lượng kiểm tra, kiểm soát thị trường… ¾ Đội thuế xã: Đội thuế có nhiệm vụ quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, xác định chính sách căn cứ tính thuế, cung cấp cho bộ phận tính thuế, lập bộ, phát hành thông báo nộp thuế và đôn đốc thu nộp các loại thuế phát sinh trên địa bàn đối với các cơ sở cá nhân , các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế xã hội thuộc các thành phần kinh tế. Tổ chức cho các đối tượng nộp tiền thuế vào kho bạc Nhà nước, nếu nơi nào xa xôi thì tổ chức thu tại cơ sở, thanh toán kịp thời biên lại, ấn chỉ thuế. Phối hợp cùng Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn, tổ đoàn thể trên địa bàn tuyên truyền giáo dục, giải thích, vận động các đối tượng sản xuất kinh doanh và nhân dân tự giác thực hiện nghiêm chỉnh các Luật và Pháp lệnh thuế. Phối hợp với bộ phận kiểm tra, xử lý việc chấp hành chính sách, chế độ, nghĩa vụ nộp thuế, kết hợp với các ngành xử phạt hành chính, cưỡng chế việc trốn lậu thuế…Thực hiện các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các loại thuế và thu khác trên địa bàn, kết quả thu hàng tháng, quý, năm, tình hình chấp hành các luật và các hướng dẫn của Nhà nước về thuế và thu khác. Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân trong việc đề nghị miễn, giảm thuế theo qui định của Pháp luật, đề xuất với ngành, địa phương các biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp với tình hình thực tế. Giúp Chi cục trưởng Chi cục Thuế quản lý thu thuế các đối tượng nộp thuế trên địa bàn được giao; tham gia với Tổ xử lý dữ liệu để xây dựng kế toán thu thuế… CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP 3.1 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU: 3.1.1 Năm 2001: Trong năm 2001, toàn huyện thu được 34.468 triệu đồng, đạt 109% chỉ tiêu tỷnh giao, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Riêng đối với thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp tình hình thu như sau: Bảng 3: Tình hình thu thuế giá trị gia tăng. thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2001 ĐVT: triệu đồng Khoản mục Chỉ tiêu Thực Chênh lệch thực % thực hiện so chỉ tiêu hiện hiện so chỉ tiêu Thuế giá trị gia tăng 6.315 6.875 560 108,87 Thuế thu nhập doanh nghiệp 8.920 5.437 -3.483 60,95 Tổng cộng 15.235 12.312 -2.923 80,81 Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu Xét thuế giá trị gia tăng, thực hiện đạt 108,87%, vượt 9% so dự toán đề ra với số tuyệt đối là 560 triệu đồng. Con số 560 triệu đồng không phải là đáng kể nhưng trong hoàn cảnh huyện Tân Châu bị thiên tai lũ lụt ảnh hưởng nặng nề đến đời sống kinh tế xã hội của nhân dân thì đã là đạt chỉ tiêu. Trái lại, thuế thu nhập doanh nghiệp trong năm chỉ thu được 5.437 triệu đồng, thấp hơn 29% so kế hoạch với số tuyệt đối là 3.483 triệu đồng. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm, ảnh hưởng của thiên tai cũng không gây thất thu lớn đến vậy. Từ các số thu trên dẫn đến tổng thu từ hai loại thuế trên chỉ đạt gần 81% so dự toán, trong khi thu từ thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm đến 35,53% tổng thu trên địa bàn. Tình hình thu diễn ra như thế thì có nhiều nguyên nhân, do bản thân nền kinh tế giảm sút, do công tác quản lý còn nhiều thiếu sót, do ý thức doanh nghiệp kém, gian lận của cán bộ thuế, của doanh nghiệp… Về nguyên nhân kinh tế, đây là một năm rất khó khăn cho sự phát triển kinh tế huyện trước sự tấn công quá nhanh của lũ lụt đến mức không ứng phó kịp thời, đây là điểm khác so mọi năm. Hậu quả của nó là sự tác động dây chuyền, mùa màng thất thu khiến nông dân mất thu nhập dẫn đến khu vực nông lâm ngư nghiệp giảm 11% so năm trước trong khi ngành này chiếm tỷ trọng đến 33,88%. Do nông dân chiếm đa phần nên sự tụt giảm này khiến cho ngành thương mại dịch vụ kém sôi động hẳn so sức mua trên thị trường giảm đáng kể, ngành này chiếm đến 43,63% cơ cấu và mức tăng trưởng chỉ đạt 5,97%. Những tác động này tạo sức ì lớn cho kinh tế huyện, tuy nhiên khu vực công nghiệp- xây dựng lại có mức tăng đột biến đến 98,17% do có nhiều khu dân cư mới được thành lập. Sự tăng trưởng mang nhiều tính thời vụ đó là cú huých cho nền kinh tế huyện lúc đó, giúp cho tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,4%, điều này vượt xa mong đợi trong tình hình khó khăn như vậy. Với bức tranh toàn cảnh kinh tế huyện Tân Châu như thế thì có thể giải thích một phần về số thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp. Do hầu hết các lĩnh vực đều xuống dốc nên thu nhập doanh nghiệp giảm là điều dễ hiểu, dẫn đến số thuế thu nhập doanh nghiệp giảm theo. Ngược lại, thuế giá trị gia tăng lại tăng vì dù cho hầu hết các lĩnh vực suy yếu nhưng GDP vẫn tăng hơn 10%, mức tăng tương đối cao, tạo thêm nhiều giá trị gia tăng trong xã hội là cơ sở cho việc thu thuế giá trị gia tăng. Với bấy nhiêu lý giải thì không đủ để giải thích tình hình thu trong năm qua, còn phải kể đến công tác quản lý, công tác này góp phần rất lớn đến kết quả thu nhưng lại có nhiều thiếu sót như: công tác quản lý hộ chưa tích cực, bỏ sót rất nhiều hộ kinh doanh nhỏ, lẻ do cán bộ thuế và hội đồng tư vấn thuế còn ngán ngại vì cho rằng mức thu không đáng kể hoặc đưa vào lập bộ sẽ khó thu, khó xử lý; quản lý hộ thời vụ còn lỏng lẽo, nhất là hộ kinh doanh thuộc lĩnh vực xây dựng; các cơ sở kinh doanh gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp thông qua việc ghi giảm doanh thu hay tăng chi phí hợp lý, hoặc cả hai bằng rất nhiều mánh khoé mà cán bộ thuế phát hiện rất ít… Huyện Tân Châu là nơi kinh doanh mua bán nông sản nhộn nhịp, nguồn hàng hoá hình thành từ sản lượng lương thực của huyện trung bình hàng năm lên đến 115.000 ngàn tấn, ngoài ra còn có lương thực từ các huyện lân cận và từ Campuchia. Các doanh nghiệp thuộc Chi cục quản lý năm nay có doanh số chỉ đạt 13% về quản lý doanh số bán hàng so năm trước, chỉ đạt 19% về quản lý doanh số bán hàng so nguồn lương thực. Như vậy, nguồn thất thu thuế là rất lớn. 3.1.2 Năm 2002: Tổng thu ngân sách Nhà nước từ thuế năm 2002 trên địa bàn huyện đạt 35.769 triệu đồng, vượt 17,93% so dự toán tỷnh, cao hơn 5,20% so chỉ tiêu phấn đấu cục giao. Tình hình thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp như sau: Bảng 4: Tình hình thu thuế giá trị gia tăng. thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2002 ĐVT: triệu đồng Khoản mục Chỉ tiêu pháp Chỉ tiêu phấn  Thực Chênh lệch thực thu so  Tỷ lệ đạt (%) Thuê giá trị gia  lệnh  đấu thu So CTPL So CTPĐ So CTPL So CTPĐ tăng Thuế thu nhập doanh nghiệp 8.620 9.000 12.252 3.632 3.252 142,13 136,12 4.245 5.090 5.375 1.130 285 126,62 105,60 Tổng cộng 12.865 14.090 17.627 4.762 3.537 137,02 125,10 Nguồn: Chi cục thuế huyện Tân Châu Qua bảng ta thấy, tổng thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đạt 137,02% so chỉ tiêu pháp lệnh, đạt 125,10% so chỉ tiêu phấn đấu. Đây là mức đạt chỉ tiêu rất cao so các năm trước. Riêng thuế giá trị gia tăng thực thu đạt 12.252 triệu đồng, hơn so chỉ tiêu phấn đấu đến 3.252 triệu đồng, tương đương 36,13%. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, tình hình thu cũng rất khả quan với số thực thu là 5.375 triệu đồng, cao hơn 5,6% so chỉ tiêu phấn đấu. Nhìn chung, tình hình thu thuế tiến triển rất tốt so với năm 2001. Trong năm này, điều kiện triển khai thu thuế cũng gặp rất nhiều khó khăn: tình hình kinh tế không ổn định do giá cả nông sản biến động mạnh, mức tăng trưởng năm 2001 thấp, bị thiên tai 3 năm liên tiếp…Do vậy, đạt được kết quả trên là do các nguyên nhân như: mức tăng trưởng GDP đạt hơn 10%; công tác quản lý có nhiều đổi mới khắc phục thiếu sót của những năm vừa qua; các cơ sở kinh doanh làm ăn có hiệu quả hơn… Về kinh tế, tình hình có nhiều khởi sắc với mức tăng trưởng đạt 10,8%, tuy vẫn còn đó những khó khăn. Cụ thể từng khu vực như sau: ngành nông nghiệp chiếm 35,05% trong cơ cấu kinh tế có mức tăng 5,81%. Đây là một bước tiến bộ đặc biệt, GDP trong ngành này năm 2001 tăng trưởng âm mà bây giờ lại đạt hơn 5%, tăng đến 16%. Nhờ đó khu vực thương mại dịch vụ cũng được vực dậy và sôi động trong cả năm, tăng 11,12% so năm trước với cơ cấu chiếm gần 45%. Ngành công nghiệp- xây dựng có giảm nhưng vẫn đạt mức 18,53%. Như vậy, xét về khía cạnh kinh tế thì thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp được thu tăng là điều tất yếu. Song, để có được mức tăng cao như thế thì phải kể đến đóng góp của công tác quản lý. Những nguyên nhân thúc đẩy tăng nguồn thu như là: công tác quản lý đối tượng nộp thuế được tăng cường hơn, Chi cục quan tâm khai thác triệt để nguồn thu trên cơ sở thực hiện đúng luật; công tác quản lý doanh số thuế đối với các doan._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8032.doc