Luận văn Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn thị xã Điện bàn, tỉnh Quảng Nam

1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN VĂN PHỜ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2018 2 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN VĂN PHỜ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 834.04.02 NGƯỜI HƯ

pdf82 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn thị xã Điện bàn, tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH PHÚ HÀ NỘI, năm 2018 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bộ máy Nhà nước xây dựng nền hành chính hiện đại nhằm phục vụ tốt nhu cầu, lợi ích cho nhân dân, trong đó cán bộ, công chức lại càng có vai trò quyết định đến hiệu quả tất yếu của bộ máy công quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi vấn đề, gốc có tốt thì ngọn mới tốt”; Hiệu lực, hiệu quả, chất lượng của bộ máy nhà nước đều phụ thuộc vào trình độ, năng lực, phẩm chất của đội ngũ này, đặc biệt là cán bộ, công chức ở cấp cơ sở. Hệ thống chính trị của nước ta có 4 cấp. Chính vì vậy, cấp xã là đơn vị hành chính cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính bốn cấp ở nước ta (cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã). Năng lực và hiệu quả hoạt động của công chức cấp xã có vai trò tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của đất nước trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong giai đoạn cách mạng mới ngày nay cũng như nước ta đã và đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói rằng “Cấp xã là nơi gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Đội ngũ cán bộ cấp xã luôn có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế- xã hội; đồng thời họ phải thực sự là những người tận tâm, tận lực, gương mẫu, “thật thà nhúng tay vào việc”, “nói đi đôi với làm”, “biết vận động dân cho đúng và cho khéo”, “không để sót một người nào”, “phải thực sự óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” để cho “dân tin tưởng, dân yêu mến, dân giúp đỡ, dân ủng hộ, dân bảo vệ” (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, Hội nghị Trung ương khóa IX đã ra nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, nội dung nghị quyết đã xác định: “ Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của 4 Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở” là một trong những vấn đề cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở. Điện Bàn là thị xã đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Nam. Điện Bàn được Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết công nhận là thị xã vào tháng 3 năm 2015. Là Thị xã đang ra sức nỗ lực phát triển nhanh, bền vững để sớm trở thành một trong những trung tâm kinh tế động lực phát triển ở phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này thì một trong những giải pháp mang tính nền tảng, tác động trực tiếp đến hiệu quả công việc, đó là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức của thị xã nói chung, trong đó có công chức xã, phường nói riêng. Tuy nhiên, trong thời gian qua đánh giá lại đã cho thấy rằng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và chức danh quy hoạch, sử dụng cán bộ, chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới. Đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay trên địa bàn thị xã Điện Bàn nhất là cán bộ, công chức cấp xã vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước không cao, trình độ năng lực, tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ, việc tổng kết, đánh giá để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức chậm được tiến hành, hiệu quả chưa đi vào chiều sâu, thiết thực. Từ những lý do nêu trên học viên chọn đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo, Bồi dưỡng công chức cấp xã từ thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu làm luận văn cao học chuyên ngành chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chính sách cán bộ, công chức là hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ CBCC, là công cụ và các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CBCC đồng bộ, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng. 5 Chính sách CBCC bao gồm: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, chính sách sử dụng và quản lý CBCC, chính sách đảm bảo lợi ích động viên CBCC. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này học viên xin phép chỉ được nghiên cứu chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà cụ thể là thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. Nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã nói riêng, từ trước tới nay đã có nhiều nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều công trình khoa học đăng tải từ Trung ương đến địa phương, ở các Học viện, nhà trường, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau: - Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và tác giả Trần Xuân Sầm đồng chủ biên: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001. - Tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương đồng chủ biên: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2004. - Sách: Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay- Những vấn đề lý luận và thực tiễn. TS. Mạc Minh Sản, Nxb. Chính trị - Hành chính, 2009. - Tác giả Nguyễn Thị Hồng Hải chủ biên: Hỏi đáp về quản lý cán bộ công chức cấp xã, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013. Những công trình nghiên cứu khoa học nêu trên, đã đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về cán bộ, công chức; chủ yếu tiếp cận và phân tích về cơ sở lý thuyết, cơ sở pháp lý và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức trên thực tế. Việc nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã hầu như chưa được đề cập đến. Ngoài các công trình nêu trên, trong thời gian gần đây đã có rất nhiều công trình khoa học, nhiều luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về vấn đề này, đơn cử một số 6 công trình tiêu biểu sau đây: Nguyễn Thị Tuyết Nga: Một số biện pháp hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước ở tỉnh Phú Yên, Luận văn Thạc sỹ quản lý công, Học viện hành chính quốc gia, năm 2002. Dựa trên cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng CBCC; thực tiễn đào tạo, bồi dưỡng CBCC trong các cơ quan nhà nước ở tỉnh Phú Yên, Luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhà nước của tỉnh, trong đó đặc biệt chú trọng đến giải pháp tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng CBCC của tỉnh. Ngoài ra, còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học tập trung nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức như: Ngô Thành Can: Cải cách quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhằm nâng cao năng lực thực thi công vụ. Học viện hành chính quốc gia đăng trên Tạp chí Viện khoa học tổ chức nhà nước, năm 2013. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ quan niệm về đào tạo, bồi dưỡng CBCC, quy trình đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện cải cách trong đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Các công trình nghiên cứu nói trên đều có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xã nói riêng. Phạm vi nghiên cứu của các công trình trên được thực hiện khá đa dạng, đa phần thực hiện ở một tỉnh hoặc một số cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Chính vì vậy, Học viên mạnh dạn chọn nội dung đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, thực tiễn tại thị xã Điện Bàn, tỉnh QuảngNam”. Có thể nói rằng đây là đề tài nghiên cứu chuyên sâu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và không trùng lắp với các công trình nghiên cứu khác. Học viên mong muốn góp phần đánh giá đúng thực trạng, đề ra những giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả nhằm không ngừng nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp 7 xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến. Do vậy, học viên đi sâu vào nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với 7 chức danh công chức đối với cấp xã, trong đó trọng tâm đi sâu vào phân tích những ưu điểm, mặt hạn chế, nguyên nhân, từ đó căn cứ các quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của nhà nước để đề xuất các giải pháp mang tính thực tiễn cao để áp dụng tại thị xã Điện Bàn.. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Học viên tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để từ đó xác định căn cứ để đề xuất các giải pháp mang tính thiết thực, hiệu quả. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn phải đi vào thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như sau: - Nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã hiện nay như: Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của CBCC cấp xã; mục tiêu, nguyên tắc, yêu cầu, quy trình, sự cần thiết đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã. Nghiên cứu về các yếu tố có ảnh hưởng cũng như thực trạng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã; Nêu lên những ưu điểm và những bất cập, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế này. Qua đó, đề xuất một số giải pháp mang tính khả thi, đồng bộ hơn và đồng thời có những kiến nghị đối với cấp ủy, chính quyền và các cơ quan có liên quan ở các cấp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với CC cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đối với công tác cán bộ của thị xã nói chung và công chức xã, phường nói riêng trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 8 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, từ việc phân tích nhu cầu cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng, đến thiết kế chương trình; xây dựng tài liệu; lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức triển khai thực hiện. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng đối với 07 chức danh công chức chuyên môn xã- phường như: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng- thống kê; Địa chính- xây dựng- đô thị và môi trường (đối với phường) hay Địa chính- nông nghiệp- xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính- Kế toán; Tư pháp- hộ tịch; Văn hoá- xã hội. + Thời gian: từ năm 2012 đến năm 2017. + Không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức thuộc ở 20 xã, phường trên địa bàn của thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và các văn bản quản lý nhà nước đối với công chức và công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn); nghị quyết của thị xã. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp khảo cứu tài liệu; Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi; Phương pháp phỏng vấn sâu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số thủ pháp nghiên cứu như: thống kê, so sánh, phân tích, luận giải...nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, đánh giá về thực trạng và đề ra các giải pháp thiết thực mang tính khả thi. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. 9 6.2. Ý nghĩa thực tiễn + Số liệu thực tế và các giải pháp đặt ra tại luận văn có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo và có những chính sách thiết thực, hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã phù hợp trong thực tiễn hiện nay. Luận văn nghiên cứu thành công sẽ là tài liệu tham khảo giúp cấp ủy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, thiết kế nên chương trình, khung đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã phù hợp, sát với thực tiễn hơn. Luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo để tiếp tục nghiên cứu phát triển vấn đề này trong tương lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của Luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác ĐT, BD đối với đội ngũ công chức cấp xã; Chương 2: Thực trạng trong công tác ĐT, BD công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong ĐT, BD công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. 10 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.1. Khái niệm công chức cấp xã và chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã 1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã 1.1.1.1. Công chức Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Công chức chỉ những người được các cơ quan nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong các cơ quan chuyên môn công quyền và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” Từ Trung ương đến cơ sở. Theo Luật Cán bộ công chức năm 2008: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.” [25, tr.51] Như vậy, Công chức được hiểu là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong tổ chức (Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, trong Quân đội nhân dân (mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng); trong Công an nhân dân (mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp) và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, trong biên chế và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 11 Công chức khác với cán bộ ở chỗ, cán bộ được hiểu là những người được bầu hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong tổ chức (Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội). 1.1.1.2. Công chức cấp xã Theo Luật chính quyền địa phương năm 2015 và Nghị định 92/2009/NĐ- CP ngày 22/10/2009 của Chính Phủ quy định như sau: Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã gồm các chức danh: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã); Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hoá - Xã hội. Như vậy chúng ta có thể xác định chức danh công chức cấp xã có 07 chức danh công chức như Nghị định 92/2009- NĐ/CP đã đề cập ở trên. Đối tượng này có đặc thù là làm công tác chuyên môn, tham mưu, giúp UBND thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn xã, phường, thị trấn. 1.1.2. Đặc điểm của công chức cấp xã Công chức cấp xã là những người được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đây là đội ngũ gần dân, sát dân nhất, trực tiếp triển khai các chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, công chức cấp xã vừa tham gia công tác lại vừa sản xuất, kinh doanh, gắn với lợi ích trong gia đình, dòng họ. Chính vì vậy, đã giúp cho đội ngũ công chức cấp xã luôn hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương mà họ công tác, sinh sống, bên cạnh đó công chức cấp xã còn thông thạo phong tục, tập quán, tâm lý của nhân dân và có những điều kiện thuận lợi trong việc vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. 12 - Công chức cấp xã được tuyển dụng và xếp loại theo ngạch, bậc. Mỗi ngạch được tiêu chuẩn hóa riêng biệt, gắn liền với đặc điểm và yêu cầu của từng vị trí công việc cụ thể theo trình độ đào tạo. - Đối với công chức Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã: ngoài những tiêu chuẩn quy định chung đối với đội ngũ công chức cấp xã, còn phải có khả năng phối hợp với các đơn vị Công an nhân dân, Quân đội nhân dân tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực hiện một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự; giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, bảo vệ chế độ Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. - So với cán bộ chuyên trách cấp xã thì đội ngũ công chức cấp xã có tính ổn định tương đối và có tính chuyên môn hóa cao. Hơn nữa, công chức cấp xã là những người trực tiếp tiếp xúc và giải quyết các công việc hằng ngày của nhân dân và là cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền được phân cấp, đảm bảo cho các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước được triển khai thực hiện và nhanh chóng đi vào thực tiễn của cuộc sống. Các công việc quản lý nhà nước ở cơ sở thường đa dạng và luôn có sự đan xen các mối quan hệ lợi ích; do đó, đòi hỏi công chức cấp xã là “người làm dâu trăm họ”, họ phải giải quyết công việc của địa phương đảm bảo đúng quy định, pháp luật của nhà nước, nhưng cũng phải hợp lòng dân, được dân tin, dân yêu, dân chăm lo. Đa phần Công chức cấp xã là người địa phương, chỉ có một số ít là người của địa phương khác hoặc được cấp trên tăng cường về, hoặc luân chuyển từ địa phương này sang địa phương khác. Vì vậy, họ là những người thường am hiểu rất rõ về đời sống kinh tế, tâm tư, nguyện vọng, sinh hoạt thường ngày, văn hoá ứng xử, phong tục, tập quán, lối sống của người dân trên địa bàn mình quản lý, làm việc. Điều này đã tạo được sự thuận lợi nhất định cho CC cấp xã thực hiện việc quản lý nhà nước và giải quyết tốt các vấn đề phát sinh trên địa 13 bàn mà học đang sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, giữa họ với những người dân địa phương thường có mối quan hệ huyết thống, quan hệ dòng tộc, bà con thân thuộc hay quê hương, làng, bản; xóm, ấp, khóm...các mối quan hệ này đã ít nhiều gì cũng có sự chi phối nhất định đến hoạt động thực thi công vụ của đội ngũ công chức cấp xã, nhất là trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân- cộng đồng- Nhà nước. Công chức cấp xã phải giải quyết tất cả các công việc trong đời sống xã hội ở địa phương, cơ sở mang tính thường xuyên để đảm bảo quyền và lợi ích, nguyện vọng chính đáng của người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đội ngũ CC cấp xã phần lớn là những người trưởng thành từ thực tiễn hoạt động phong trào của địa phương hoặc được tuyển dụng nhưng không đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nên hầu hết CC cấp xã chưa được đào tạo bài bản, đúng qui trình hay thực hiện việc chuẩn hóa đối với đội ngũ cán bộ này. Vì vậy, CC cấp xã sau khi được tuyển dụng thì phải cử đi đào tạo và đào tạo lại nên năng lực thực hiện nhiệm vụ trong quản lý nhà nước của đội ngũ này còn nhiều hạn chế nhất định. Thực tế đã cho thấy, một bộ phận CC cấp xã thiếu những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ hoặc không am hiểu, thành thạo mọi kỹ năng cần thiết cho hoạt động công vụ và một bộ phận CC cấp xã có thái độ ứng xử chưa phù hợp trong xử lý và giải quyết công việc, tiếp xúc với nhân dân. Hiện nay, trình độ của công chức cấp xã đã từng bước được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập về trình độ văn hoá, lý luận chính trị, nhận thức, năng lực thực thi công vụ; một số CC cấp xã làm việc chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn được truyền từ các thế hệ đi trước hoặc một số CC trẻ có trình độ chuyên môn nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn nên đã gặp không ít khó khăn khi xử lý, giải quyết các tình huống xảy ra trong công việc được phân công. Tất cả những điều nêu trên đã làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ tham mưu trong quản lý nhà nước ở địa phương được phân công phụ trách. Với những đặc điểm nêu trên, đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng CC cấp xã 14 cần có những cách thức, phương pháp, lộ trình và bước đi sao cho phù hợp, xem xét cả về nội dung, chương trình và cách thức tổ chức thực hiện đối với từng đối tượng đặc thù để đảm bảm tính hiệu quả lâu dài, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đào tao, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ sau khi được cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng trong bối cảnh ngày nay. 1.1.3. Vị trí, vai trò của CBCC cấp xã Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ. Người khẳng định rằng: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [24, tr.280]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã tiếp tục xác định rằng: “Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư”. Như vậy, CBCC cấp xã nói chung và CC cấp xã nói riêng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng: CC cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương, đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước đề ra. Không có đội ngũ cán bộ nói chung và cũng như đội ngũ công chức ở cơ sở nói riêng vững mạnh, nắm bắt, tuyên truyền và triển khai thực hiện mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thì dù đường lối, chủ trương chính trị có đúng đắn đi chăng nữa thì cũng khó biến thành hiện thực, đi vào cuộc sống có hiệu quả. Đội ngũ công chức này vừa là người trực tiếp tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi hành, vừa là người làm cầu nối để phản ánh những tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước, để từ đó kịp thời có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung sao cho đúng và phù hợp với thực tiễn của cuộc sống. Nói đúng hơn, ở khía cạnh này, họ luôn có vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng 15 nhân dân. Nhiệm vụ của công chức cấp xã là thực thi công vụ mang tính tự quản theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất của thực thi quyền lực nhà nước ở cơ sở thông qua việc giải quyết các công việc hằng ngày mang tính chất quản lý, tự quản mọi mặt ở địa phương (hay còn gọi là tự quản dân cư). Công chức cấp xã còn trực tiếp bảo đảm trật tự kỷ cương tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân. Thông qua hoạt động của đội ngũ công chức cấp xã, nhân dân được thể hiện quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình (người đại diện). Thông qua việc tuyên truyền, tổ chức, lôi cuốn, phát động phong trào, theo dõi, kiểm tra và nhân rộng các phong trào tốt, những cá nhân điển hình, tiên tiến , khai thác tối đa nguồn lực về vật chất, tinh thần nội lực từ nhân dân và địa phương để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo quốc phòng- an ninh, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội ở cơ sở ngày càng có hiệu quả. Để đội ngũ Công chức cấp xã phát huy tốt vai trò đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải xây dựng đội ngũ này có đủ phẩm chất, năng lực cần thiết cho mọi hoạt động thực thi công vụ. Như Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa khoá IX đã nhấn mạnh rằng : “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”. Trong đó đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với Công chức cấp xã nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ này, góp phần thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước ở cơ sở. Thực tiễn đã cho chúng ta thấy rằng, địa phương nào có đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ công chức nói riêng tốt thì địa phương đó chắc chắn rằng sẽ có sự phát triển cao trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước cấp trên giao phó, đáp ứng được sự tin cậy, gửi gắm lòng tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ này. 16 1.2. Mục tiêu, nội dung, tầm quan trọng của chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã 1.2.1. Những khái niệm có liên quan 1.2.1.1. Đào tạo, bồi dưỡng và Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Theo Nguyễn Thị Hồng Hải, trong Hỏi đáp về quản lý cán bộ công chức cấp xã: “Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức đã được đào tạo, nhằm củng cố, mở mang và trau dồi một cách có hệ thống những kỹ năng và chuyên môn nghề nghiệp.” [21, tr.130-131] Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được hiểu như sau: đây là hoạt động nhằm bổ sung, cập nhập kiến thức, kỹ năng chuyên môn cho CBCC trong một tổ chức khi mà những kiến thức, kỹ năng được đào tạo trước đây đã lạc hậu, không đủ để thực hiện có hiệu quả hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong tổ chức đó”. [21, tr.161-162] 1.2.1.2. Đặc trưng của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức + Đối tượng người học là những người có kinh nghiệm ít hoặc nhiều trong công tác; vì vậy, phương pháp bồi dưỡng phải khác so với phương pháp bồi dưỡng thông thường của lứa tuổi học sinh, sinh viên. + Những người tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng này nhằm mục đích thực thi công vụ tốt hơn; do đó, nội dung cũng phải phù hợp, thay đổi linh hoạt tuỳ theo yêu cầu của mỗi vị trí trong hoạt động công vụ và nhu cầu thực tiễn của mỗi đối tượng. + Đào tạo, bồi dưỡng CBCC nhằm phát triển năng lực làm việc và nâng cao khả năng thực hiện công việc của người học trong thực tế, đáp ứng được nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của tổ chức trong thực thi công vụ. Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng CBCC được hiểu như sau: đó là quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng, trang bị, cập nhập, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý, chức danh chuyên môn, vị trí công việc cho CBCC trong tổ chức. 17 1.2.1.3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã Là một bộ phận của CBCC nói chung, CBCC cấp xã có những đặc điểm chung cũng giống như CBCC; là những người thực thi công vụ, có ít nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn công tác. Bên cạnh đó, hoạt động của đối tượng này có đặc thù như đã nói ở phần 1.1.2. Vì vậy cần có cách nhìn nhận rõ hơn về đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. Theo Nguyễn Thị Hồng Hải trong Hỏi đáp về quản lý cán bộ công chức cấp xã: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp xã là một quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng, trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cho các cán bộ cấp xã. Còn đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã là một quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng, trang bị, cập nhật, nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp. Việc đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã chính là việc trang bị, bổ sung những kiến thức cần thiết dựa trên các tiêu chuẩn, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng công chức, trong đó tập trung vào việc vận dụng những kiến thức lý luận vào thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề quản lý cụ thể.” [21, tr.132-133-134] 1.2.2. Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã Đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã nói riêng đây chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập, nhằm giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình với các mục đích đó là: - Trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan; thay đổi thái độ và hành vi đến công việc để phát triển năng lực làm việc của công chức và nâng cao khả năng thực hiện công việc trong thực tế của họ. - Giúp ...những người trực tiếp quản lý đội ngũ học viên theo quy trình quản lý đào tạo, nắm vững những khó khăn, thuận lợi của từng học viên trong quá trình tham gia đào tạo, bồi dưỡng; là nơi để học viên trao đổi, phản ánh, đóng góp ý kiến về chương trình, phương pháp giảng dạy của giảng viên, điều kiện cơ sở vật chất để phục vụ trong quá trình học tập. Chính vì vậy, cán bộ quản lý phải trở thành cầu nối giữa học viên và giảng viên, với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Trong thực tế quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ quản lý cũng là nơi hay phát sinh tiêu cực trong mối quan hệ giữa học viên với công tác đào tạo, bồi dưỡng. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý công tâm, tận tụy, sâu sát với công việc quản lý, thực hiện nghiêm chỉnh quy chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, đồng thời gắn bó, chia sẽ với những khó khăn của học viên là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung và đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã nói riêng. 33 - Đối với hoạt động tổ chức quá trính đánh giá các kết quả có liên quan đến chất lượng trong đào tạo, bồi dưỡngđối với đội ngũ công chức cấp xã Có thể nói đây là khâu khá quan trọng trong các quy trình tổ chức đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. Đây là cơ sở để các cơ quan quản lý, các đơn vị có liên quan tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, các địa phương sử dụng công chức ở cấp xã có được những thông tin về mức độ nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức ở cấp xã sau khi được cử đi đào tạo, bồi dưỡng; qua đó có những điều chỉnh kịp thời về nội dung, chương trình, cách thức đào tạo, bồi dưỡng sao cho phù hợp và phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, khách quan, trung thực trong quá trình này. Về nội dung đánh giá: đánh giá chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá chất lượng học viên tham gia khoá đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên tham gia khoá đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; đánh giá chất lượng cơ sở vật chất phục vụ khoá đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá hiệu quả sau công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức; đánh giá chất lượng của khoá đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức [25]. Tùy vào mỗi nội dung có những tiêu chí khác nhau. Ví dụ như đánh giá chất lượng học viên tập trung vào các nội dung: mục tiêu học tập, phương pháp học tập, thái độ tham gia học tập. Đánh giá hiệu quả sau công tác đào tạo, bồi dưỡng tập trung vào các nội dung: kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ công chức; các kỹ năng cơ bản như giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức vào thực tiễn ra sao, tổ chức công việc, thái độ của công chức sau khi tham gia các khóa (lớp) đào tạo, bồi dưỡng; đánh giá mức độ về sự chủ động, tinh thần trách nhiệm, sự tự tin, tinh thần hợp tác với đồng nghiệp được cải thiện như thế nào so với trước khi cán bộ được cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng. Kết quả đánh giá là cơ sở để cơ quan quản lý, đơn vị tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nghiên cứu, báo cáo cơ quan cấp trên, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong các khâu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đồng thời khắc phục những yếu kém đối với chất lượng chương trình dạy và học, đội ngũ 34 giảng viên, cơ sở vật chất, nâng cao kết quả học tập của học viên. - Trong quá trình tổ chức đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần quan tâm đến các chính sách có liên quan đối với haotj động đào tạo, bồi dưỡng + Trước hết quan tâm về mặt thời gian trong quá trình cử cán bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cần thiết: Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, đối với chương trình, thời gian được các cơ quan chức năng như Bộ giáo dục và Đào tạo, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương quy định rất cụ thế, rõ ràng tùy thuộc vào đối tượng, khóa học như: chương trình học tập trung trong khoảng thời gian từ 2-3 tháng như chương trình bồi dưỡng kiến thức QLNN cho các đối tượng là chuyên viên, chuyên viên chính. Vì vậy, bố trí, sắp xếp công việc cho CBCC có đủ thời gian đảm bảo để theo học các khoá đào tạo, bồi dưỡng là một yêu cầu rất quan trọng. Điều này phụ thuộc rất lớn vào sự quan tâm của lãnh đạo ở từng địa phương xã, phường trong việc phân công công việc, bố trí sắp xếp CBCC làm thay công việc của những người được cử tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị và công tác quản lý nhà nước. Lãnh đạo địa phương cần ý thức rằng việc cử CBCC đi tham gia đào tạo, bồi dưỡng là để nhằm nâng cao năng lực của họ phục vụ và đáp ứng tốt nhu cầu đối với công việc ở từng địa phương; vì vậy, việc dành đủ thời gian để họ toàn tâm, toàn ý, tập trung cao độ đối với việc tham gia học tập, bồi dưỡng là một trong những điều kiện nhằm để không ngừng nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối tượng là công chức cấp xã trong thời kỳ hiện nay. + Hỗ trợ về mặt tài chính: Đây là một trong những yếu tố nhằm đảm bảo cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng diễn ra một cách thuận lợi, đạt kết quả tốt nhất. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cho công chức cấp xã do Nhà nước cấp, hỗ trợ, được phân bổ từ nguồn ngân sách nhà nước cho các cấp chính quyền địa phương quân tâm và tiếp tục được phân bổ đến các cơ quan, đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước. Công chức được cử đi học được hưởng trọn nguyên lương. Như vậy, Nhà nước bao cấp toàn bộ kinh phí 35 cho công tác dào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã hiện nay, ngoài ra các xã, phường có công chức đi học còn được sự quan tâm hỗ trợ thêm kinh phí xăng xe, tiền ăn, văn phòng phẩm từ nguồn kinh phí tự thu, tự chi của xã, phường. - Sử dụng công chức sau khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng: Mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng là để nhằm không ngừng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ làm việc cho công chức. Phát huy năng lực làm việc cho mỗi CBCC bên cạnh các yếu tố chủ quan, còn phụ thuộc rất lớn vào việc bố trí, sử dụng. Rõ ràng, nếu công chức được đào tạo, bồi dưỡng về mặt chuyên môn, nghiệp vụ này nhưng được giao một công việc khác theo kiểu “học một đằng, làm một nẻo” hay thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn, chức trách, ngạch bậc cao nhưng được giao nhiệm vụ ở ngạch bậc thấp hơn, thì rõ ràng công chức rất khó có thể phát huy được khả năng, năng lực của mình một cách hiệu quả nhất. Hơn nữa, điều này còn gây tác động tâm lý không tốt đến công chức khác của địa phương xã, phường; họ sẽ xem đó là những tấm gương và không có động lực để tiếp tục tham gia các khoá cử đào tạo, bồi dưỡng tiếp theo. Như vậy, có thể nói công tác bố trí, sử dụng công chức sau khi được đào tạo, bồi dưỡng của cấp uỷ, chính quyền địa phương xã, phường có tác động quan trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. Vai trò đó được thể hiện ngay từ khâu quy hoạch cán bộ, sắp xếp, lựa chọn, bố trí, cử cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ sau khi được đào tạo, bồi dưỡng một cách “đúng người, đúng việc”, đề bạt, bổ nhiệm, sắp xếp vào vị trí công việc cao hơn. Có như vậy, mới tạo được động lực để công chức tích cực tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng và quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ trong công tác tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt được kết quả cao nhất. Tiểu kết Chương 1 Trong chương 1, học viên đã nêu rõ khái niệm về CBCC nói chung và công chức cấp xã nói riêng và đặc điểm, vị trí, vai trò của công chức cấp xã. Qua đó, chúng ta thấy rõ vai trò của công chức cấp xã là những người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đưa chủ trương, Nghị quyết của Đảng đến với cuộc sống của nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ để thi hành, cùng với đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung cũng như 36 đội ngũ công chức cấp xã nói riêng góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ sở; góp phần quyết định sự thành công trong việc đưa chủ trương, đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống thực tiễn của người dân và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân dân ngay tại cơ sở xã, phường. Đồng thời, chương này còn làm rõ những vấn đề về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã: xác định rõ phạm vi được đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã, mục tiêu, vai trò, nguyên tắc, sự cần thiết phải thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã; quy trình trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, yêu cầu và các yếu tố ảnh hưởng tác động đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. Trong đó, đặc biệt nêu rõ quy trình các khâu trong công tác đào tạo, bồi dưỡng gồm các bước: xác định nhu cầu cần đào tạo, lập kế hoạch đào tạo, thực hiện kế hoạch đào tạo, đánh giá đào tạo và nhấn mạnh 02 yêu cầu cơ bản cần đảm bảo trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã đó là: đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng các tiêu chuẩn chức vụ, chức danh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ, giải quyết tốt công việc cho người dân và doanh nghiệp. Với những nghiên cứu về những vấn đề lý luận chung tại Chương 1 đã cung cấp những vấn đề về cơ sở lý luận khoa học cho việc phân tích, đánh giá thực trạng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ở phần Chương 2. 37 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM 2.1. Khái quát về công chức cấp xã ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam 2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện dân cư Thị xã Điện Bàn là thị xã đồng bằng nằm về phí bắc của tỉnh Quảng Nam với tổng diện tích tự nhiên là 214,71km2, phía Bắc giáp huyện Hoà Vang và quận Ngũ hành Sơn (thành phố Đà Nẵng), phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Đông Nam giáp thành phố Hội An và biển Đông, phía Tây giáp huyện Đại Lộc. Thị xã có 20 đơn vị hành chính, trong đó có 07 phường nội thị (phường Điện Ngọc, Điện Nam Bắc, Điện Nam Trung, Điện Nam Đông, Điện An, Điện Dương và Vĩnh Điện) và 13 xã trực thuộc (Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Trung, Điện Thắng Nam, Điện Minh, Điện Phương, Điện Phước, Điện Hồng, Điện Tiến, Điện Hòa, Điện Thọ, Điện Phong, Điện Trung và Điện Quang). Điện Bàn là thị xã đồng bằng ven biển nên địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc phát triển đô thị- công nghiệp, dịch vụ, cũng như thuận lợi trong việc phát triển liên kết vùng giữa Thành phố Đà nẵng và Thành phố Hội An cũng như các huyện lân cận. Có bờ biển cát trắng, nước trong, sông nước hiền hòa thuận lợi cho khai thác du lịch. Bên cạnh đó, đất đai của thị xã Điện Bàn khá tốt, có độ phì nhiêu cao, nhóm đất phù sa chiếm đến 69,67% tổng diện tích đất, cho phép cư dân tổ chức thâm canh nông nghiệp theo chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng giống, cây trồng. Đồng thời, Điện Bàn nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển đối với các loại cây trồng nông nghiệp như lúa, hoa màu, các loại cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Đến cuối năm 2017, thị xã Điện Bàn có 230.000 người (dân số qui đổi), với 139.852 người trong độ tuổi lao động, chiếm tỷ lệ 60,8% tổng dân số. Trong đó, lực lượng lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là 116.994 người. Lao động 38 nông nghiệp tiếp tục giảm chỉ còn 29,24%, điều này đã cho thấy xu hướng tích cực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp- dịch vụ. Mức tăng dân số trong giai đoạn 2012- 2017 là 0,91%/năm. Mật độ dân số 1.071 người/km2. 2.1.2. Tình hình kinh tế- xã hội của thị xã Thị xã Điện Bàn là vùng đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và chống Mỹ đầy vinh quang nhưng cũng chịu nhiều hy sinh mất mát rất to lớn, thị xã Điện Bàn có 25 tập thể và 52 cá nhân đã vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; có 2.463 Mẹ Việt Nam anh hùng, hơn 19.000 liệt sỹ, gần 8.000 thương bệnh binh và các đối tượng hưởng chính sách người có công với cách mạng. Trong thời gian qua, thị xã Điện Bàn được sự quan tâm đầu tư rất lớn từ Trung ương và Tỉnh Quảng Nam cũng như sự giúp đỡ của các cơ quan sở, ban, ngành; Do vậy, Đảng bộ và nhân dân thị xã Điện Bàn đã siết chặc khối đại đoàn kết, luôn khắc phục để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tập trung huy động các nguồn lực, khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh của địa phương, từng bước xây dựng và tập trung phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hoá, đô thị hoá và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tạo sự chuyển biến rõ nét, căn bản về chuyển dịch nền kinh tế địa phương từ một huyện (trước năm 2015, hiện nay là thị xã) nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ: từ chỗ trước đây, ngành nông nghiệp chiếm hơn 70% giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn thị xã thì đến nay, ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã phát triển mạnh và đã thay thế vị trí của ngành nông nghiệp chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trên địa bàn. Trong giai đoạn 2012- 2017, nền kinh tế đã có những bước tăng trưởng khá, chuyển dịch theo hướng tích cực, đạt bình quân 14,65%/năm; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ, đến cuối 2017, giá trị công nghiệp- xây dựng chiếm 72%, dịch vụ chiếm 24%, nông nghiệp chỉ còn 4%. Thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 35 triệu đồng/năm; tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kết cấu hạ tầng toàn xã hội 5 39 năm đạt khoảng 8.708 tỷ đồng, tăng bình quân 24,34%/năm. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng cao và sớm vượt chỉ tiêu so với dự toán; tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2017 ước đạt 1.046,16 tỷ đồng, bằng 167,2% dự toán, tăng 18,5% so với năm 2016; trong đó, phần thị xã quản lý thu là 228,26 tỷ đồng, đạt 132,5% dự toán, tăng 33,5% so với năm 2016. Hằng năm có hơn 68% thôn, khối phố được công nhận thôn, khối phố văn hóa; hơn 91% gia đình được công nhận gia đình văn hóa, 35- 40% xã văn hóa, gần 90% cơ quan đạt chuẩn văn hóa. Hệ thống các di tích lịch sử luôn được quan tâm trùng tu, tôn tạo, nâng cấp nhằm quảng bá hình ảnh và con người Điện Bàn, giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Công tác giáo dục- đào tạo, hoàn thành khá tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên, hoàn thành phổ cập giáo dục ở tất cả các cấp học, 20/20 xã, phường đạt phổ cập giáo dục ở các cấp học, 68/68 trường đạt chuẩn quốc gia; cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học luôn được đầu tư xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện; đội ngũ nhà giáo phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng; công tác khuyến học, khuyến tài ngày càng đầu tư phát triển, thị xã đã công bố và ra mắt giải thưởng Phạm Phú Thứ vào đầu năm 2018. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân luôn được quan tâm đầu tư đúng mức, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng được nâng lên, bình quân có hơn 9 bác sỹ/1 vạn dân (tăng 4 bác sỹ/1 vạn dân so với năm 2010), hiện nay đang tập trung thực hiện nghị quyết trung ương 6 khóa XII về công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới. 2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam 2.2.1. Về xây dựng và ban hành các văn bản quy định đối với công tác dào tạo, bồi dưỡng công chức của tỉnh Quảng Nam và thị xã Điện Bàn Để công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung và công chức cấp xã nói riêng đạt được hiệu quả và chất lượng cao, trong thời gian qua, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Quảng Nam; Thị uỷ, UBND thị xã Điện Bàn đã chỉ đạo và ban hành khá nhiều các 40 văn bản quy định có liên quan đến vấn đề này, cụ thể: - Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 30/6/2011 của Tỉnh uỷ Quảng Nam khóa XX “Về công tác cán bộ, giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020”. - Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 12/8/2016 của Tỉnh uỷ Quảng Nam XXI “Về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy, giai đoạn 2016 - 2021 và định hướng đến năm 2025”. - Quyết định số 2606/QĐ-UBND ngày 19/8/2011 của UBND tỉnh Quảng Nam Phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, giai đoạn 2011- 2015, định hướng đến năm 2020. - Kế hoạch số 4597/KH-UBND ngày 15/12/2011 của UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2011- 2015. - Quyết định số 37/QĐ-UBND ngày 30/12/2013 của UBND tỉnh Quảng Nam ban hành Quy định về cơ chế, chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Quảng Nam. - Quyết định số 1087/QĐ-UBND ngày 28/02/2016 của UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025. - Kế hoạch số 487/KH-UBND ngày 18/02/2016 của của UBND tỉnh Quảng Nam về “Đổi mới trong công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức” năm 2016 và giai đoạn 2016- 2020. - Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị xã Điện Bàn lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2015- 2020 - Chương trình hành động số 10-CTr/HU ngày 19/9/2011 của Huyện uỷ Điện Bàn (nay là Thị uỷ) về công tác cán bộ giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020” - Chương trình hành động số 07-CTr/HU ngày 30/10/2016 của Thị uỷ Điện Bàn “về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy, giai đoạn 2016- 2021 và định hướng đến năm 2025”. - Kế hoạch số 678/KH-UBND ngày 18/11/2016 của UBND thị xã Điện Bàn về thực hiện Chương trình hành động số 07-CTr/TU ngày 31/10/2016 của Thị uỷ 41 Điện Bàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy, giai đoạn 2016- 2021 và định hướng đến năm 2025”. Nhìn chung, hệ thống các văn bản nêu trên đều đề cập đến công tác nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Nội dung của các văn bản đã thể hiện rõ tinh thần đổi mới toàn diện trên các mặt: chế độ đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; trách nhiệm, tăng cường phân cấp cho các cơ quan ban ngành, cấp ủy chính quyền địa phương trong tổ chức và quản lý trong đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã; đồng thời phải thường xuyên đổi mới hình thức và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, kỹ năng hành chính đối với công chức; tạo lập cơ sở pháp lý để kiểm soát chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã. 2.2.2. Số lượng và chất lượng công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam * Về số lượng công chức cấp xã (thống kê đến thời điểm 31/12/2017) + Số lượng công chức cấp xã: 225 người (trong đó Nữ: 89). (Xem Biểu 2.1.) - Trưởng Công an: 13 người (Nữ 0); Chỉ huy trưởng Quân sự: 20 người (Nữ 0); Văn phòng- Thống kê: 40 người (Nữ: 21); Tài chính- Kế toán: 37 người (Nữ: 32); Địa chính- Xây dựng và Môi trường (phường): 14 người (Nữ: 01); Địa chính - Nông nghiệp- Xây dựng và Môi trường (xã): 26 người (Nữ: 0); Tư pháp- Hộ tịch: 38 người (Nữ: 16); Văn hoá- xã hội: 37 người (Nữ: 19). 0 5 10 15 20 25 30 35 40 Công an Quân sự VP-TK TC-KT ĐC-XD TP-HT VH-XH Nam Nữ Biểu số 2.1. Số lượng công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn (Nguồn: Phòng Nội vụ thị xã, tháng 12/2017) 42 Qua biểu số 2.1 chúng ta thấy số lượng công chức cấp xã được bố trí đảm bảo theo đúng chức danh, số lượng quy định tại Nghị định 92-NĐ/CP. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ nữ giữ chức vụ chủ yếu ở các chức danh như văn phòng thống kê; tài chính kế toán là tương đối, còn lại các chức danh khác do cán bộ nam đảm nhận. + Về cơ cấu độ tuổi công chức cấp xã theo độ tuổi (xem biểu 2.3). Cụ thể: - Dưới 30 tuổi: 36 người (16%) - Từ 30 đến 40 tuổi: 75 người (33,3%) - Từ 41 đến 50 tuổi: 68 người (30,2%) - Trên 50 tuổi: 46 người (20,5%) Dưới 30 tuổi Từ 30 đến 40 tuổi Từ 41 đến 50 tuổi Trên 50 tuổi Biểu số 2.2. Cơ cấu theo độ tuổi của công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn (Nguồn: Phòng Nội vụ thị xã, tháng 12/2017) Qua biểu 2.2 chúng ta thấy cơ cấu độ tuổi công chức cấp xã có tỷ lệ tương đối hợp lý. Trong đó số lượng công chức dưới 50 tuổi chiếm phần lớn, việc này cho thấy phản ánh mức độ ngày càng được trẻ hoá trong đội ngũ công chức ở xã, phường trên địa bàn thị xã Điện Bàn hiện nay. 2.2.2.2. Về chất lượng công chức cấp xã (xem biểu 2.4). Cụ thể: - Thạc sĩ: 04 người ( 18 %) - Đại học: 161 người (71,5%) - Cao đẳng: 05 người (22,2%) - Trung cấp: 55 người (24,3%) 43 Thạc sĩ Đại học Cao đẳng Trung cấp Biểu số 2.3. Cơ cấu theo trình độ của công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn (Nguồn: Phòng Nội vụ thị xã, tháng 12/2017) Qua biểu số 2.3 cho thấy, đội ngũ công chức cấp xã của thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam có trên 71,5 % công chức có trình độ đại học chuyên môn trở lên và cơ bản đảm bảo thực hiện chức năng nhiệm vụ ở từng địa phương. * Những nhận xét đối với đội ngũ công chức cấp xã ở thị xã Điện Bàn hiện nay Có thể thấy rằng hiện nay công chức cấp xã ở thị xã Điện Bàn có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có ý thức tổ chức, kỷ luật, có số lượng, cơ cấu tương đối hợp lý, phù hợp với chủ trương, quy định của đảng và nhà nước, đa số công chức cơ sở được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, gắn bó mật thiết với nhân dân, hiểu dân, gần dân trọng dân. Bên cạnh đó, được sự quan tâm thường xuyên của các cấp ủy và chính quyền các cấp, đến nay trình độ và năng lực trong thực tiễn công tác của công chức cấp xã có nhiều tiến bộ. Hiện tại, công chức đạt 3 chuẩn (có trình độ học vấn THPT, trung cấp lý luận chính trị và trung cấp chuyên môn trở lên) đạt khá cao. Thái độ giao tiếp, ứng xử của đa số công chức thực thi nhiệm vụ ở cơ sở với các tổ chức, công dân có nhiều chuyển biến rõ rệt, lịch thiệp, có ý thức trách nhiệm, tận tình và chu đáo, ứng xử đúng mực, nhiều công chức ở cơ sở không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, thái độ cầu thị, luôn luôn khắc phục mọi khó khăn, thử thách, thường xuyên nỗ lực phấn đấu trong quá trình công tác và học tập, rèn luyện, hăng hái chăm lo việc chung ở cộng đồng thôn, khối phố, đóng góp tích cực vào sự phát triển của địa phương. đóng vai trò then chốt trong việc đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với dân, trực tiếp chăm lo đời sống 44 vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bên cạnh những ưu điểm đối với đội ngũ công chức cấp xã đã nêu ở trên, công chức cấp xã ở thị xã Điện Bàn còn có một số hạn chế, khuyết điểm cần phải được chỉ ra để khắc phục, đó là: Số lượng công chức cấp xã đông nhưng chưa thật sự mạnh, một số chức danh công chức phân bố chưa hợp lý so với yêu cầu tổ chức biên chế ở từng địa phương. Một bộ phận công chức có kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước còn hạn chế, chưa chuyên sâu, chậm đổi mới tư duy, thiếu tính chủ động, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong công việc, ý thức tổ chức kỷ luật, tính đấu tranh tự phê bình và tự phê bình, tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân chưa cao. Kiến thức về pháp luật, về tổ chức bộ máy, nhất là về quản lý tài chính còn nhiều hạn chế dẫn đến lúng túng trong thực thi trách nhiệm và thẩm quyền, đặc biệt khi được Nhà nước phân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Bên cạnh những hạn chế về khả năng, năng lực cũng như về trình độ lý luận chính trị, quản lý nhà nước, kinh nghiệm, các kỹ năng cần thiết đối với công chức cấp xã, ở một số xã, phường vẫn còn diễn ra tình trạng về tinh thần trách nhiệm, thái độ giao tiếp, ứng xử, vai trò trách nhiệm trong công tác tham mưu, đề xuất, còn bị động lung túng, chưa công tâm, thạo việc. Một số địa phương có tình trạng công chức có biểu hiện xa dân, quan liêu, nhũng nhiễu, cửa quyền, hách dịch, vi phạm quy chế dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân ngay tại cơ sở. 2.2.3. Công tác tổ chức triển khai thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam 2.2.3.1. Xác định nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng Theo khoản 3, Điều 63 Luật Cán bộ, công chức quy định: “Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức vụ, chức danh, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ, công chức. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã do cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ quy định. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã do ngân sách nhà nước 45 cấp và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật”. Do vậy, dựa trên quy định tiêu chuẩn chức danh công chức cấp xã, qua thống kê về số liệu công chức hằng năm, Phòng Nội vụ thị xã đã tham mưu UBND thị xã trong việc lập kế hoạch xác định nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng trình Sở Nội vụ tỉnh Quảng Nam để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã. Do vậy, tuỳ theo số lượng và nhu cầu cần thiết mà tỉnh sẽ có kế hoạch và quyết định mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng tập trung tại trường chính trị tỉnh hay phân bổ về thị xã tổ chức tại trung tâm bồi dưỡng chính trị cũng như cử đi đào tạo, bồi dưỡng các khóa theo yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị cho đội ngũ công chức cấp xã hiện nay. 2.2.3.2. Lập kế hoạch trong công tác đào tạo, bồi dưỡng Trên cơ sở xác định nhu cầu đào tạo, Phòng Nội vụ thị xã đã tham mưu cho UBND thị xã xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng với mục tiêu là tiến hành đào tạo, bồi dưỡng nội dung kiến thức về quản lý nhà nước, kỹ năng tham mưu cho lãnh đạo trong quản lý, điều hành, kỹ năng thực hiện chuyên môn nghiệp vụ, thái độ phục vụ nhân dân đối với công chức ở xã, phường. Trước năm 2013, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tập trung vào mở các lớp như: sơ cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng- an ninh, các lớp học nghị quyết, bồi dưỡng nhận thức về Đảng và Đảng viên mới, còn các lớp bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ thì công chức được cử đi học theo kế hoạch mở lớp của Sở Nội vụ hoặc liên kết với các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp mở các lớp đào tạo Đại học tại chức chuyên ngành kinh tế phát triển, Đại học Luật, Cử nhân kế toán, Cử nhân chuyên ngành văn hóa tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã và liên kết với các trường nêu trên mở các lớp tại Trường Trung cấp kinh tế- kỹ thuật Quảng Đông đóng tại xã Điện Thắng Bắc- thị xã Điện Bàn. Từ năm 2013 đến nay, do làm tốt công tác khảo sát và được sự hỗ trợ của UBND tỉnh, Sở Nội vụ, UBND thị xã đã mở các lớp với nội dung đào tạo, bồi dưỡng khác nhau. Cụ thể đó là: - Từ năm 2013 đến năm 2017, mỗi năm mở 01 lớp: bồi dưỡng kiến thức, kỹ 46 năng soạn thảo văn bản; bồi dưỡng kỹ năng giao tiếp trong thực thi công vụ; bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước nằm trong chương trình ngạch chuyên viên. Mỗi lớp trung bình là 80 học viên, trong đó có khoảng 40 công chức cấp xã tham gia trong mỗi lớp học. - Năm 2014: mở 03 lớp bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ xây dựng nông thôn mới với 198 CBCC tham gia khoá học. - Năm 2015 mở lớp: 03 lớp bồi dưỡng công tác cải cách hành chính cho công chức cấp xã với 294 học viên; phối hợp với Học viện Cán bộ quản lý Xây dựng và Đô thị- Bộ Xây dựng mở 01 lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý đô thị và quản lý xây dựng cho 40 công chức Địa chính- Xây dựng. - Năm 2016 mở 01 lớp bồi dưỡng công tác Quản lý nhà nước về tôn giáo cho 40 công chức Văn hoá- xã hội; 04 lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ cho đại biểu HĐND cấp xã với 532 đại biểu (trong đó có 261 đại biểu là công chức cấp xã); phối hợp với Viện nghiên cứu quản lý hành chính- Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam mở 01 lớp quy trình ứng xử và kỹ năng giao tiếp với công dân cho bộ phận “một cửa” cho công chức xã, phường với 85 cán bộ, công chức tham gia. Bên cạnh đó, UBND thị xã, Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã phối hợp với trường Trung cấp kỹ thuật Quảng Đông, Đại học Quảng Nam, Đại học Đà Nẵng mở các lớp: bồi dưỡng tin học văn phòng, bồi dưỡng ngoại ngữ anh văn B cho hơn 231 công chức cấp xã tham gia các khóa học. Ngoài ra hằng năm, thực hiện kế hoạch của Sở Nội vụ tỉnh Quảng Nam, UBND thị xã đã cử công chức đi bồi dưỡng theo chức danh và nghiệp vụ chuyên môn. Bên cạnh đó còn phối hợp với các trường tổ chức đào tạo, bồi dưỡng lớp Trung cấp tin học; năm 2017 phối hợp với Trường Đại học Kinh Bắc mở 01 lớp đào tạo trình độ Đại học chính quy chuyên ngành công tác xã hội cho đối tượng là công chức cấp xã và cán bộ thuộc các cơ quan của thị xã tham gia đào tạo trong khóa này, thời gian đào tạo là 02 năm đối với những cán bộ đã có bằng Trung cấp chuyên nghiệp trở lên cũng như đối tượng công chức cấp xã có bằng đại học tại chức cùng chuyên ngành nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ này theo nghị quyết 04 của tỉnh ủy 47 Quảng Nam (có bằng Đại học chính quy mới được quy hoạch, đề bạt bổ nhiệm). 0 10 20 30 40 50 60 Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý của Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND Bồi dưỡng kiến thức QLNN và kỹ năng nghiệp vụ Văn phòng - Thống kê Bồi dưỡng kiến thức QLNN và kỹ năng nghiệp vụ Tài chính - Kế toán Bồi dưỡng kiến thức QLNN và kỹ năng nghiệp vụ tư pháp-hộ tịch Bồi dưỡng kiến thức QLNN và kỹ năng nghiệp vụ về văn hóa Bồi dưỡng kiến thức QLNN và kỹ năng nghiệp vụ về lao động xã hội Bồi dưỡng kiến thức QLNN và kỹ năng nghiệp vụ về xây dựng Số lượt CBCC được cử đi bồi dưỡng Biểu số 2.4. Số lượng công chức cấp xã được UBND thị xã cử đi tham gia bồi dưỡng theo kế hoạch của Sở Nội vụ tỉnh Quảng Nam (Nguồn: Phòng Nội vụ thị xã, tháng 12/2017) 2.2.3.3. Thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng - Về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng: trong những năm qua, Trung tâm...0". Trong đó, Đề án phải bao quát được các đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng, là công chức cấp xã. Ngoài các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, Đề án phải tập trung nâng cao kỹ năng, năng lực làm việc, ý thức, tinh thần trách nhiệm, thái độ ứng xử, phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở thị xã với mục tiêu là làm sao phải tạo ra sự đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; tạo nhận thức chung, thống nhất, đồng hành trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của thị xã theo xu thế chung của đất nước. Đề án phải nêu rõ nội dung cụ thể các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo thứ tự ưu tiên, bao gồm: đối tượng, lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cần đào tạo, bồi dưỡng, số lượng học viên, số lớp, thời gian, địa điểm tổ chức lớp học, nhu cầu dự trù phân bổ kinh phí. Đồng thời cử công chức ở xã, phường tham gia các khóa này theo kế hoạch mở lớp đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Ngoài ra, các cấp chính quyền địa phương có thể xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã theo hướng đổi mới là dựa trên 03 nhóm đối tượng đó là: nhóm cần cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng liên tục, nhóm cần cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày, nhóm cần cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng dài ngày. Nhóm cần cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng liên tục: nhóm người cần được đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ, bổ sung kiến thức về chuyên môn phục vụ tốt nhất đối với những yêu cầu công việc thực tế. Nhóm bồi dưỡng ngắn ngày là quan tâm bồi dưõng các kỹ năng mềm đáp ứng yêu cầu của từng công việc cụ thể. 69 Nhóm bồi dưỡng dài ngày là quan tâm đối với những người có triển vọng phát triển lên các vị trí, chức danh cao hơn, có khả năng đảm nhận các chức danh lãnh đạo, quản lý thì cần phải tạo điều kiện để học tập để kịp thời nâng cao trình độ đáp ứng các vị trí công việc trong tương lai khi được bố trí, sử dụng vào các vị trí, chức danh lãnh đạo, quản lý sau này. Với kết quả khảo sát về nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho công chức cấp xã được đề cập trong chương 2, cho thấy rằng: địa phương cần tập trung xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và kiến thức quản lý chuyên ngành. Phòng Nội vụ cần tham mưu cho UBND thị xã lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho công chức trẻ ở cấp xã về các kỹ năng cần thiết giúp nâng cao năng lực trong việc tham mưu quản lý nhà nước. Các địa phương phối hợp với Phòng Nội vụ tiến hành khảo sát về thực trạng nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng về các kỹ năng của CBCC nói chung của địa phương, phân định đối với từng nhóm đối tượng khảo sát cụ thể (cơ bản dựa trên kỹ năng đã nêu ở chương 1 và thực trạng từ chương 2, nếu cần thiết có thể bổ sung thêm các kỹ năng khác) để tổng hợp làm cơ sở cho việc xây dựng bảng nhu cầu chung. 3.2.3. Nâng cao, kiện toàn Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã Đây là một trong những giải pháp tạo tiền đề nhằm hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng đối tượng công chức cấp xã nói riêng. Xuất phát từ thực trạng ở chương 2 đã nêu, Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã cần quan tâm xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ giảng viên cả về số lượng lẫn chất lượng, hướng đến đảm bảo đội ngũ này đạt chuẩn theo quy định, đặc biệt là đội ngũ giảng viên chuyên trách tại Trung tâm hiện nay. Đồng thời lãnh đạo địa phương cần phải quan tâm xây dựng, bồi dưỡng đối với đội ngũ giảng viên kiêm chức có kiến thức, có kinh nghiệm thực tiễn và khả năng giảng dạy để tham gia giảng dạy tại Trung tâm chính trị thị xã; tổ chức thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đối với đội ngũ giảng viên làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (về chế độ phụ cấp, tiền lương, nâng ngạch, bậc và các chế độ đãi ngộ khác). 70 Về cơ sở vật chất: trước mắt cần tập trung nâng cấp hội trường và khu nhà làm việc cho Trung tâm và bố trí thêm kinh phí để đầu tư mua sắm mới hệ thống âm thanh, đèn chiếu, máy chiếu, bàn ghế, phòng nghỉ ngơi đảm bảo các trang thiết bị nge nhìn, ti vi, quạt điện cho đội ngũ giảng viên, hệ thống cây xanh, cảnh quang... cho Trung tâm để đảm bảo hoạt động dạy và học hiệu quả và khoa học hơn. 3.2.4. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức trong đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã Xuất phát từ thực trạng trong chương 2 đã nêu: nội dung, chương trình chậm đổi mới và kết quả khảo sát phản ánh thực tế tính đáp ứng của chương trình với người học, tính thống nhất nội dung và phương pháp chưa cao (chỉ có 62,5% khảo sát đồng ý), có chương trình được đánh giá là bổ ích ở tỷ lệ rất thấp...Điều này đòi hỏi cần phải đổi mới phương pháp nội dung, chương trình, phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; sát thực với thực tế công việc của mỗi vị trí, nâng cao kỹ năng hành chính. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn liền với yêu cầu, vị trí công việc; dựa trên các tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu công việc để xác định nội dung, chương trình cần tiến hành đào tạo, bồi dưỡng đối với từng đối tượng sao cho phù hợp. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng: phải bảo đảm trang bị đủ kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu công vụ, quy định theo tiêu chuẩn đối với công chức các ngạch hành chính, kiến thức văn hoá công sở, trách nhiệm và đạo đức công vụ của công chức. Nội dung cần bao quát kiến thức cơ bản nhằm trang bị cho người học thế giới quan, nhân sinh quan duy vật biện chứng, phương pháp luận khoa học cách mạng, nâng cao năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn, khả năng ứng dụng lý luận một cách sáng tạo, hiệu quả. Kiến thức cơ bản phải cung cấp cho học viên phương pháp nghiên cứu, phương pháp phát hiện, xử lý, giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn cuộc sống. Cần dành một tỷ lệ thích hợp cho kỹ năng thực hành trong cấu trúc của chương trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho các đối tượng khác nhau để khi gặp những tình huống cụ thể trong công tác thì cán bộ có thể xử lý nhanh, kịp thời, hiệu quả và đồng thời cũng cần chú trọng gắn liền 71 nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, cập nhật những chủ trương, chính sách mới và kinh nghiệm thực tế trong việc giải quyết những tình huống cụ thể thường xảy ra ở cơ sở giúp nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ trong thực tế sau này. Tiến tới xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu công việc, trong đó xác định rõ kiến thức, kỹ năng người học cần đạt được sau khi kết thúc khoá học như cập nhật thông tin, bổ sung tri thức mới, hiện đại, sự phát triển kỹ năng nghề nghiệp hoặc nghiệp vụ công tác đáp ứng nhu cầu công việc. Cho phép cán bộ được lựa chọn chương trình sao cho phù hợp, thiết thực với nhu cầu công việc, từ đó có động lực và thái độ học tập tích cực, nghiêm túc. Cụ thể: - Về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thị xã: để triển khai thực hiện chương trình sơ cấp lý luận chính trị có hiệu quả, lãnh đạo Trung tâm chính trị cần sớm đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chương trình để có sự điều chỉnh sao cho phù hợp. Nội dung giảng dạy cần chú ý tập trung nhiều hơn vào việc xử lý các tình huống phát sinh từ thực tiễn của các địa phương để rèn luyện kỹ năng công tác cho người học. Nội dung, chương trình giảng dạy phải tiếp tục giảm lý thuyết, tăng thực tế hay còn gọi là thực hành; tăng lượng câu hỏi mở; giảm sự trùng lắp về nội dung giữa các môn học. Giảng viên phải thường xuyên bổ sung cập nhật kiến thức mới để bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn, thu hút đối với người học. - Về nội dung, chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ: bên cạnh việc tập trung đi sâu vào các kiến chuyên môn, cần tăng cường lồng ghép giảng dạy các kỹ năng có liên quan đến nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng để giúp học viên rèn luyện được kỹ năng phục vụ cho công việc trong thực tiễn. - Về nội dung, chương trình bồi dưỡng về kiến thức về kỹ năng tham mưu quản lý nhà nước: để việc áp dụng chương trình mới có hiệu quả, đòi hỏi giảng viên phải nghiên cứu xây dựng các tình huống có liên quan đến nội dung bồi dưỡng nhưng phải gắn với thực tế của địa phương để lôi cuốn người học tham gia vào quá trình tham gia bồi dưỡng. Đối với việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu công việc thì đòi 72 hỏi UBND thị xã tăng cường xin ý kiến của Sở Nội vụ triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho từng nhóm đối tượng. Đối với công chức cấp xã, cần tập trung bồi dưỡng các kỹ năng như: kỹ năng phối hợp, kỹ năng tham mưu, đề xuất giải quyết công việc. Ngoài ra, cần quan tâm mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng chung như kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng thu thập, xử lý thông tin, giải quyết vấn đề. Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần bám sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế đào tạo tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng năm cũng như chế độ đào tạo, bồi dưỡng trước khi đề bạt bổ nhiệm vào các vị trí chức danh công tác. Nghiêm túc triển khai Nghị định 36/2013/NĐ- CP về vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức nhằm xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh công chức trong từng cơ quan Nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và bố trí sử dụng cán bộ, công chức một cách hợp lý nhất. Trên cơ sở xây dựng chức danh, tiêu chuẩn, vị trí việc làm và cơ cấu công chức, xây dựng các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, khả thi, thiết thực, đảm bảo hoàn thành yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuẩn về chức danh cán bộ và ngạch công chức theo quy định; đào tạo, bồi dưỡng gắn với sử dụng có trọng tâm, trọng điểm. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng: cần đổi mới theo hướng nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý gắn với vị trí và trách nhiệm tương ứng của cán bộ. Tuỳ theo đặc thù của từng môn học có thể lựa chọn các phương pháp phù hợp, vận dụng các phương pháp giảng dạy tiên tiến kết hợp sử dụng các công cụ, phương tiện dạy học hiện đại, trực quan, sinh động, dễ tiếp thu, nghiên cứu. Phần lớn người học những chương trình đào tạo, bồi dưỡng này là những công chức đã đạt chuẩn ở những trình độ nhất định, đã qua thực tiễn, có nhiều kinh nghiệm công tác, có khả năng tự học, tự nghiên cứu, phân tích đánh giá vấn đề. Vì vậy, nên định hướng nội dung học tập, nghiên cứu, nêu vấn đề, tình huống và hướng 73 dẫn, gợi mở, đối thoại để rèn luyện phương pháp, kỹ năng giải quyết vấn đề, xử lý tình huống. Để việc học tập có kết quả, đạt chất lượng cao, sau mỗi bài học, cụm chuyên đề nên cho học viên đi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thực tập rút kinh nghiệm với thời gian sao cho phù hợp. Nội dung đi nghiên cứu, khảo sát thực tế phải sát với nội dung bài học, có giảng viên hướng dẫn, sau đợt nghiên cứu, thực tập học viên phải viết bài thu hoạch. Chú trọng phương châm của đổi mới là lý luận liên hệ thực tế, bảo đảm tính khoa học, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, độc lập suy nghĩ của người học. Phương thức học tập nên được thực hiện kết hợp giữa học tập trung và đi thực tế để điều tra, nghiên cứu thực sự và xử lý tình huống nhằm góp phần giải quyết một số vấn đề và đề xuất những biện pháp xử lý những vấn đề đang nổi cộm, bức xúc hiện nay. Ngoài ra, mỗi lớp, hay từng nhóm trong khóa học có thể thực hiện một công trình nghiên cứu tập thể về một ngành, lĩnh vực hoặc một địa phương nào đó, hoặc xây dựng một số đề án lớn của thị xã, của tỉnh nhằm phát huy tính tích cực cũng như năng lực vốn có của người học một cách thiết thực và hiệu quả. Thực hiện chủ trương hằng năm, công chức cấp xã phải được bồi dưỡng tập trung để cập nhật kiến thức, kinh nghiệm mới ít nhất 10 ngày tại trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã. Về hình thức bồi dưỡng: cần áp dụng linh hoạt các hình thức bồi dưỡng như: bồi dưỡng dài hạn, ngắn hạn. Đồng thời, để đảm bảo hiệu quả bồi dưỡng, các cơ sở bồi dưỡng cần cân nhắc số lượng học viên hợp lý, dưới 60 người để tạo điều kiện học viên phát huy vai trò của mình và các lớp bồi dưỡng được mở tại thị xã để tạo điều kiện thuận lợi cho công chức tham gia học tập; xem xét nên áp dụng việc chia ra khóa bồi dưỡng theo từng đợt ngắn ngày đáp ứng nhu cầu của người học và đồng thời giúp họ giải quyết được công việc của đơn vị một cách trôi chảy (Phụ lục 2.2 cho thấy, 100% đồng ý khóa bồi dưỡng ngắn ngày). 3.2.5. Thay đổi cơ chế, chính sách có liên quan và bổ sung, cấp kinh phí kịp thời, đáp ứng đối với công chức cấp xã Khắc phục tình trạng do kinh phí cấp chậm, cơ chế chính sách chưa phù hợp nên địa phương bị động trong triển khai nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng như đã 74 trình bày ở chương 2; để hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã, để tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai công tác này được thuận lợi, căn cứ vào quyền hạn được giao và thực tiễn quản lý của địa phương, thị xã Điện Bàn cần хеm xét mạnh dạn đổi mới cơ chế, chính sách liên quan đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức cấp xã trên địa bàn thị xã. Với cơ chế, chính sách đối với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trên địa bàn thị xã, cần tập trung vào hai vấn đề: Về đổi mới cơ chế quản lý tài chính : UBND thị xã cần quan tâm, xem xét thay đổi cách giao ngân sách cho Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã cần tách bạch rõ việc giao ngân sách chi thường xuyên và giao ngân sách để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Kiến nghị UBND tỉnh cần quan tâm tăng cường kinh phí đầu tư về cơ sở vật chất, tổ chức hoạt động cho Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thị xã để đáp ứng nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của địa phương. Về công tác chỉ đạo, điều hành: cần làm rõ hơn nữa mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của từng cấp ủy cùng cấp; sự quản lý về một số nội dung như cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động....của UBND cùng cấp; trách nhiệm của Ban Tuyên giáo Thị ủy trong việc phối hợp với ban Tổ chức thị ủy chỉ đạo các hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị trên địa bàn thị xã. Ngoài ra, thị xã cần sửa đổi, bổ sung chính sách hỗ trợ đào tạo thu hút bảo đảm đủ mạnh, hấp dẫn để tạo nguồn cán bộ cho cấp xã sau này có bản lĩnh chính chính trị, trang bị chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng tham mưu, đề xuất, xử lý các công việc trong công tác quản lý nhà nước ở cấp cơ sở. Liên quan đến vấn đề này, lãnh đạo Ban Tổ chức Thị uỷ đã nhấn mạnh: “Việc sớm điều chỉnh, bổ sung cơ chế chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.” Về cơ chế, chính sách hỗ trợ đối tượng được cử đi tham gia đào tạo, bồi dưỡng: UBND thị xã cần xem xét tiếp tục sửa đổi quy định hiện hành theo hướng khuyến khích cán bộ, công chức tự tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; ngân sách nhà nước hỗ trợ thêm một phần kinh 75 phí; đồng thời xem xét nâng mức hỗ trợ về công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho các đối tượng công chức được cử đi học. Đơn vị cử công chức đi học xem xét hỗ trợ kịp thời chi phí đi lại cho người học và bố trí người thay thế công việc để tạo điều kiện thuận lợi và sự an tâm cho đội ngũ công chức tham gia các khóa học theo đúng quy định. 3.2.6. Đổi mới trong khâu đánh giá quá trình tham gia đào tạo, bồi dưỡng của công chức cấp xã Việc đánh giá chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan, trung thực. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng bên cạnh việc đổi mới thực hiện đánh giá kết quả học tập của học viên thông qua kiểm tra, thi cuối kỳ theo hướng tự luận. (Khảo sát cho thấv 81,7% chọn hình thức đánh giá kết quả học tập hiệu quả là thi tự luận), đề mở, tổ chức viết bài thu hoạch theo hướng xử lý tình huống; cần phải tổ chức khảo sát đánh giá dựa trên các nội dung: Mức độ phù hợp giữa nội dung chương trình với yêu cầu tiêu chuẩn ngạch và yêu cầu vị trí việc làm; năng lực của giảng viên và sự phù hợp của phương pháp trong công tác đào tạo, bồi dưỡng với nội dung chương trình đối với người học; năng lực tổ chức đào tạo, bồi dưỡng của các cơ sở nhà trường, trung tâm; mức độ tiếp thu kiến thức, kỹ năng của người học và thực tế áp dụng vào việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lên kế hoạch triển khai hoạt động đánh giá chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng theo Bộ chỉ số đánh giá chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức do Bộ Nội vụ ban hành kèm theo Công văn số 4524/BNV- ĐT ngày 27/10/2014 về việc hướng dẫn thực hiện công tác đánh giá chất lượng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để làm cơ sở cho cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng (cán bộ, công chức, viên chức)CB CCVC, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng phải tiến hành cải tiến nhằm không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần tăng cường phối hợp với Phòng Nội vụ, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thị xã đánh giá quá trình tham gia học tập của học viên, để từ đó có những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng sao cho phù 76 hợp. Đặc biệt, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị thị xã cần linh hoạt, chủ động bổ sung nội dung, áp dụng hình thức, phương pháp truyền đạt phù hợp, thiết thực, hiệu quả, để tăng cường chất lượng trong bồi dưỡng chương trình sơ cấp lý luận chính trị theo quy định của Trung ương hiện hành. Các địa phương cử công chức đi học phải thực hiện tốt việc đánh giá năng lực và khả năng thực thi nhiệm vụ của cán bộ trước khi cử đi đào tạo và sau khi đào tạo. Các cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải phối hợp với các địa phương phát phiếu khảo sát đánh giá hiệu quả sau khi đào tạo, bồi dưỡng để điều chỉnh chương trình, nội dung áp dụng phù hợp với thực tiễn. UBND thị xã cần phải phối hợp với Sở Nội vụ theo dõi, kiểm tra, đánh giá tính chuyên cần và kết quả học tập của đội ngũ công chức cấp xã; thông báo cho UBND xã về tình hình và kết quả học tập của từng công chức được cử đi tham gia đào tạo, bồi dưỡng để đơn vị làm cơ sở đánh giá, xếp loại vào cuối năm về mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với từng công chức cấp xã. 3.2.7. Đổi mới, nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả trong hoạt động quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hoạt động quản lý đào tạo, bồi dưỡng cần được thực hiện theo hướng: phát huy vai trò tự quản của học viên; nâng cao tinh thần trách nhiệm của giảng viên; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; tăng cường tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đào tạo. Xây dựng, lựa chọn, đề xuất cử Ban Cán sự lớp phải thực sự là cầu nối quan trọng, đáng tin cậy giữa cơ sở đào tạo và lớp học cũng như mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa lớp học với giảng viên và cơ sở đào tạo, là nhân tố hiệu quả bảo đảm kỷ luật, kỷ cương của lớp học; đồng thời góp phần tích cực phát huy tính tự giác, niềm say mê và sáng tạo trong học tập của từng học viên. Ban hành các quy định cụ thể về trách nhiệm của giảng viên trong quản lý lớp học; có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với việc thực hiện các quy định này. Sử dụng rộng rãi các trang thiết bị công nghệ hiện đại; xây dựng và khai thác các phần mềm trong quản lý đào tạo. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đào tạo bảo đảm cả về chất 77 lượng và số lượng. Người làm công tác quản lý đào tạo phải nắm chắc chuyên môn, nghiệp vụ, sử dụng thành thạo công nghệ thông tin, giao tiếp tốt, có khả năng tham mưu và tác nghiệp hiệu quả. Chỉnh sửa, bổ sung, xây dựng mới và ban hành các quy chế, quy định liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách khoa học, kịp thời. Đây là hoạt động quan trọng, cần đặc biệt chú ý vì quy chế, quy định là công cụ, phương tiện quản lý, là căn cứ pháp lý cho toàn bộ các hoạt động có liên quan. Bên cạnh đó, cần gấp rút xây dựng và triển khai đề án về kiểm định chất lượng trong đào tạo, bồi dưỡng ; xây dựng và đưa vào sử dụng Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. 3.3. Kiến nghị, đề xuất Với mục tiêu phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ đại hội Đảng bộ thị xã lần thứ XXII vào năm 2020, nhằm đưa Điện Bàn sớm trở thành thị xã phát triển; đòi hỏi các cấp, các ngành cần quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao chất lượng đối với đội ngũ CBCC nói chung cũng như sự quan tâm nhất định đến đội ngũ công chức cấp xã nói riêng bằng nhiều cách thức đa dạng, linh hoạt để không ngừng nâng cao chất lượng trong công tác cán bộ đối với đội ngũ này là yêu cầu hết sức cần thiết, khách quan. Với những giải pháp đã nêu ở trên, căn cứ vào tình hình thực tiễn ở địa phương, học viên xin mạnh dạn nêu lên một số đề xuất, kiến nghị mang tính xây dựng để đưa hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả thiết thực: 3.3.1. Đối với Trung ương Cần sớm nghiên cứu, tổng kết việc thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị để có những điều chỉnh, bổ sung phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay; cần quan tâm, bố trí nguồn kinh phí nhiều hơn và kịp thời giúp địa phương chủ động thực hiện các chương trình ĐT, BD theo Qụyết định số 1956/QĐ- TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ. 3.3.2. Đối với tỉnh, thị xã và các xã- phường * Đối với tỉnh 78 Cần thường xuyên tổ chức đánh giá một khách quan trong công tác ĐT, BD theo Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Nam để có những biện pháp điều chỉnh cần thiết. Đồng thời, tỉnh cần xem xét tiếp tục sửa đổi, bổ sung cơ chế tài chính hỗ trợ cho việc tham gia ĐT, BD để tạo thuận lợi cho công chức tham gia các khóa ĐT, BD theo quy định. Đề nghị Sở Nội vụ tỉnh phải thường xuyên phối hợp với các địa phương tiến hành khảo sát đánh giá sau khi ĐT, BD về các chương trình áp dụng cho từng đối tượng theo Quyết định số 1956/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ, để kịp thời rút kinh nghiệm, điều chỉnh các lớp sau một cách phù hợp hơn. * Đối với thị xã Cần tăng cường hơn nữa trong công tác kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch ĐT, BD cho công chức cấp xã, để từ đó yêu cầu cấp có thẩm quyền xử lý các vấn đề một cách kịp thời. Mặc khác, phối hợp với chính quyền cấp dưới (xã, phường) trong việc đánh giá chất lượng sau khi ĐT, BD của công chức cấp xã để có những kiến nghị kịp thời lên cấp có thẩm quyền rút kinh nghiệm, bổ sung nội dung, chương trình trong công tác đào tạo, bồi dưỡng có hiệu quả đối với cán bộ sau này. * Đối với xã, phường Cần tổ chức đánh giá kịp thời đối với đội ngũ công chức cấp xã được cử đi tham gia đào tạo, bồi dưỡng để từ đó tham mưu, đề xuất với cấp có thẩm quyền xác định nhu cầu, lập kế hoạch tham gia đào tạo, bồi dưỡng sao phù hợp, thiết thực. Cần phải thường xuyên quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để đội ngũ công chức cấp xã được tham gia các khóa (lớp) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm không ngừng nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, kỹ năng trong quản lý nhà nước góp phần vào quá trình thực thi công vụ ngày càng tốt hơn. Tiểu kết Chương 3 Trong chương 3, học viên đã xác định rõ quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, của đảng bộ và chính quyền địa phương về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã và đề xuất một số giải pháp nhằm 79 hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn trong thời gian đến như: nâng cao nhận thức của cá nhân, tổ chức, đơn vị có liên quan trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; xác định đúng, kịp thời nhu cầu cần đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; kiện toàn Trung tâm bồi dưỡng chính trị thị xã; đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thay đổi cơ chế, chính sách có liên quan và bổ sung, cấp kinh phí kịp thời đáp ứng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới cách thức đánh giá quá trình đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý của chính quyền địa phương, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan có liên quan trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã; đổi mới, nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả trong hoạt động quản lý đối với nhiệm vụ này. Tuy nhiên, để làm tốt những nội dung của học viên đề xuất, qua đó tỉnh, thị xã cần phải xem xét tiếp tục sửa đổi, bổ sung cơ chế tài chính hỗ trợ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phối hợp với chính quyền cấp dưới trong việc đánh giá chất lượng sau khi cử cán bộ tham gia đào tạo, bồi dưỡng, nhất là đội ngũ công chức cấp xã để có những kiến nghị kịp thời lên cấp có thẩm quyền để có những điều chỉnh phù hợp, hiệu quả. 80 KẾT LUẬN Công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung cũng như đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã nói riêng đã và đang ngày càng được khẳng định rõ vai trò trong việc hình thành nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công việc, vị trí việc làm của từng cán bộ công chức trong thực tiễn hiện nay. Vì vậy, thông qua các hình thức cử cán bộ tham gia các khóa (lớp) đào tạo, bồi dưỡng sao cho phù hợp, có hiệu quả thiết thực sẽ góp phần xây dựng đội ngũ công chức cấp xã luôn có phẩm chất đạo đức tốt; có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, kỹ năng trong công tác, xử lý những tình huống phát sinh khó khăn trong thực tiễn, có tính chuyên nghịêp cao, hết lòng hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản nhằm để định hướng cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã. Đồng thời là căn cứ để các cơ quan có thẩm quyền triển khai thực hiện các chủ trương, quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã. Chính vì vậy, trong thời gian qua, lãnh đạo cấp ủy và chính quyền các cấp trên địa bàn thị xã luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất có thể đối với công tác ĐT, BD CBCC cấp xã nói chung cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã nói riêng và triển khai thực hiện, đạt được nhiều kết quả quan trọng trong thực tế. Có thể nói rằng, trong 05 năm qua, với việc thường xuyên quan tâm đội ngũ công chức cấp xã được tham gia các khóa (lớp) đào tạo, bồi dưỡng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, các kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức về tin học, ngoại ngữ, kỹ năng tham mưu quản lý phù hợp với từng chức vụ, chức danh, vị trí công tác của cán bộ. Vì vậy, đã giúp đội ngũ công chức cấp xã ngày càng nâng cao hơn về năng lực và kỹ năng xử lý các công việc trong thực tiễn đặ ra. Nhìn chung, đội ngũ công chức cấp xã luôn luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phần lớn đã được trang bị, nâng cao về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, thể hiện được năng lực trong thực tiễn công tác, đã bổ sung kiến thức, kỹ năng cần thiết, đảm nhận tốt các công việc, chức trách nhiệm vụ được giao. Các kết quả nêu trên đã đóng góp rất to lớn, tích cực đối với sự phát triển về mọi mặt của các xã, phường 81 nói riêng và của thị xã Điện Bàn nói chung. Mức độ hài lòng của người dân đối với đội ngũ công chức xã, phường ngày càng cao. Tuy nhiên, so với mục tiêu và các quy định tiêu chuẩn chung đối với từng đối tượng cụ thể cũng như yêu cầu thực tiễn đặt ra thì đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn thị xã Điện Bàn vẫn còn những hạn chế nhất định trên một số mặt công tác như: mức độ thành thạo, xử lý các tình huống phát sinh, phức tạp trong công việc chưa thật sự tốt, còn thụ động, thiếu linh hoạt, nhạy bén. Công tác đánh giá đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ này bên cạnh những kết quả đã đạt được góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của công tác cán bộ ở cơ sở như đã trình bày ở trên, vẫn còn nhiều điểm hạn chế, thiếu sót nhất định cần phải được khắc phục kịp thời, hiệu quả như: vấn đề nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp nhịp nhàng của các ngành, cơ quan có liên quan và của chính đội ngũ công chức ở xã, phường; nội dung, chương trình, hình thức tổ chức các khóa (lớp) đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ này còn chưa thật sự đổi mới, cũng như cơ chế, chính sách còn có những bất cập nhất định. Chính những điều này, đã ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, trên cơ sở phân tích định hướng chung của Đảng, Nhà nước, phân tích thực trạng đối với công tác này ở địa phương, với mục tiêu đề ra của tỉnh Quảng Nam và thị xã Điện Bàn, học viên đã đề xuất các giải pháp nhằm hướng đến mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã trong thời gian tới liên quan đến tất cả các vấn đề như nhận thức, chủ thể thực hiện, nội dung, chương trình, hình thức đào tạo, bồi dưỡng, cơ chế, chính sách, vì thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp trên sẽ không ngừng nâng cao chất lượng của trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với đội ngũ công chức cấp xã trong tình hình hiện nay, góp phần rất tích cực và rất to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng thị xã Điện Bàn trở thành thị xã phát triển vào năm 2020, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_thuc_hien_chinh_sach_dao_tao_boi_duong_cong_chuc_ca.pdf
Tài liệu liên quan