1
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC DƯƠNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2018
2
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC DƯƠNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN HẢI CHÂU,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 834.04.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
63 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 1036 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội từ thực tiễn quận Hải châu, thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRỊNH THỊ THU
HÀ NỘI, năm 2018
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác đảm bảo an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta xác
định là một nhiệm vụ trọng tâm trong công cuộc đổi mới đất nước. Qua 32
năm đổi mới, đường lối lãnh đạo của Đảng về xây dựng hệ thống chính sách
ASXH đã có những bước phát triển cả về tư duy và xây dựng chính sách;
quan điểm, mục tiêu, nội dung và phương thức thực hiện có nhiều đổi mới
theo hướng ngày càng toàn diện và hiệu quả hơn thể hiện rõ trong các văn
kiện, văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng qua các kỳ Đại
hội.
Đại hội XI tiếp tục làm rõ những quan điểm, định hướng nội dung của
từng chính sách ASXH trong đó có chính sách BTXH: “Tiếp tục sửa đổi,
hoàn thiện hệ thống BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ
xã hội đa dạng, linh hoạt có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã
hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi
ro trong cuộc sống...chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ sang cung cấp dịch
vụ BTXH dựa vào cộng đồng; bảo đảm các đối tượng BTXH có cuộc sống ổn
định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế,
dịch vụ công thiết yếu".
Từ năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/2000/NĐ-CP quy
định về chính sách cứu trợ xã hội và qua nhiều lần bổ sung sửa đổi, thay thế
bằng các Nghị định 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP,và hiện
nay thực hiện theo Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính
phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng BTXH và Thông tư
liên tịch số 29/2014 ngày 24/10/2014 của Bộ LĐ-TB&XH và Bộ Tài chính về
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 136/2013/NĐ-CP.
4
Với những nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có xu hướng tăng
như khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí
hậu tiếp tục đặt ra nhiều khó khăn thách thức, tạo áp lực lớn lên hệ thống bảo
hiểm xã hội, bảo trợ xã hộ và các dịch vụ chăm sóc xã hội cho các cá nhân và
tổ chức. Điều này đòi hỏi phải có một hệ thống bảo trợ xã hội hiệu quả hơn,
phù hợp hơn với nhu cầu và đặc điểm của xã hội.
Tuy hiện nay, các quy định của Luật và các văn bản dưới Luật về chính
sách BTXH cơ bản đầy đủ, đối tượng thụ hưởng chính sách đã được mở rộng
gắn với phương thức thực hiện cũng được đa dạng hóa, nhưng chính sách
BTXH vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu và sự đòi hỏi của xã hội, chưa
bao phủ hết các tất cả các đối tượng thật sự cần trợ giúp, một số quy định, quy
trình thủ tục thực hiện chính sách BTXH chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn đặt ra.
Từ thực tế thực hiện chính sách BTXH tại quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng, trung bình hàng năm có hơn 6.000 đối tượng được thụ hưởng các giá trị
mà chính sách BTXH mang lại với tổng kinh phí trên 27 tỷ đồng/năm đã góp
phần cải thiện đời sống của đối tượng liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình tổ
chức thực hiện đã phát sinh một số vướng mắc đó là: bỏ sót đối tượng đủ điều
kiện hưởng, quy trình chưa đảm bảo về thời gian, các thủ tục có lúc còn chậm,
văn bản quy định đôi lúc chưa phù hợp với thực tế,xuất phát từ thực tế đó
bản thân chọn đề tài "Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội từ thực tiễn quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm vừa qua, vấn đề an sinh xã hội luôn được các học giả quan
tâm, nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học, báo chí, nhiều luận văn và các
công trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu sau:
Trong các giáo trình: “Giáo trình nhập môn ASXH” của Nguyễn Hữu
5
Hải chủ biên (2007) [25]; “Xây dựng hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội
thường xuyên ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Toản (2011) [36]; “Phát
triển hệ thống ASXH đến năm 2020” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Lan
Hương, Đặng Kim Chung, Lưu Quang Tuấn, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Đặng
Thị Hà Thu (2013) [27] đã nêu những lý luận về ASXH; những chủ chương,
đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước về chính sách ASXH nói chung
và chính sách BTXH nói riêng, phương pháp tiếp cận, hệ thống thực thi, điểm
mạnh, điểm hạn chế của chính sách BTXH hiện hành và đề xuất, kiến nghị
hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở Việt Nam.
Các đề tài nghiên cứu nêu trên tuy đã chỉ ra những cơ sở lý luận mới về
chính sách ASXH, trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng, định hướng các
phương pháp giải quyết các vấn đề ASXH, BTXH trong xu thế toàn cầu hóa
nhưng chưa đi sâu nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách BTXH; kết quả
đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp thường xuyên chỉ dừng tại thời
điểm năm 2010 trở về trước. Riêng đối với quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng, đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đánh giá về kết
quả thực hiện chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn, nhất là trong giai đoạn
20 năm xây dựng và phát triển quận. Chính vì vậy, tôi lựa chọn hướng nghiên
cứu về những vấn đề lý luận về chính sách BTXH ở Việt Nam; kết quả thực
hiện chính sách bảo trợ xã hội trong 3 năm từ 2015 đến 2017; đưa ra giải pháp
hoàn thiện về thực hiện chính sách BTXH trong thời gian đến trên địa bàn
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách BTXH nói chung và phân
tích thực trạng thực hiện chính sách BTXH tại quận Hải Châu, thành phố Đà
Nẵng trong thời gian qua, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng
6
cao nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BTXH trên địa bàn quận
Hải Châu trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận của chính sách BTXH.
Đánh giá kết quả thực hiện chính sách BTXH từ thực tiễn quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách BTXH trên địa bàn quận Hải Châu trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách bảo trợ xã hội
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Tập trung 4 chính sách:
+ Chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng (trợ cấp xã hội thường xuyên)
+ Chính sách trợ giúp về y tế
+ Chính sách hỗ trợ chi phí mai táng
+ Chính sách trợ giúp đột xuất
- Phạm vi về khách thể: Người được trợ cấp xã hội hàng tháng theo
Nghị định 136/2013/NĐ-CP bao gồm: trẻ em dưới 16 không có nguồn nuôi
dưỡng; Trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo, người bị nhiễm HIV thuộc hộ
nghèo không còn khả năng lao động; Trẻ em khuyết tật, người khuyết tật
thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội theo quy định của pháp luật về người khuyết
tật; Người đơn thân nghèo đang nuôi con, người cao tuổi cô đơn không nơi
nương tựa; Người từ đủ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến nay.
- Phạm vi không gian: Tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước về vấn đề an sinh xã hội và chính sách
BTXH nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin liên quan từ các các văn bản Luật, văn bản dưới
Luật (Nghị định, Thông tư), tài liệu chuyên ngành về BTXH; các công
trình nghiên cứu, các báo cáo thống kê, báo cáo tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận các chính sách về BTXH, làm rõ
vị trí, vai trò, đặc điểm chức năng các chế độ chính sách BTXH hiện hành đối
với các đối tượng yếu thế trong xã hội tại quận Hải Châu.
Qua đánh giá làm sáng tỏ cơ sở lý luận liên quan đến chính sách xã hội,
từ đó có cơ sở để đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách BTXH đạt hiệu
quả cao.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ thêm lý luận và thực tiễn trong
việc vận dụng cơ sở lý luận về vấn đề chính sách công để xem xét mối quan
hệ giữa lý thuyết và thực tiễn trong việc thực hiện chính sách BTXH trên địa
bàn quận Hải Châu.
Làm cơ sở cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này hoàn
thiện các chính sách, thực hiện có hiệu quả bảo trợ xã hội ở quận Hải Châu
nói riêng và các quận, huyện khác của thành phố Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, cụ
8
thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách BTXH.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách BTXH tại quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách BTXH tại quận
Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI
1.1. Khái quát về chính sách bảo trợ xã hội
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Chính sách công: Là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời
sống kinh tế xã hội là công cụ tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể gắn với giải quyết các công cụ thực hiện
giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng cầm
quyền. [22]
1.1.1.2. An sinh xã hội
Nguyễn Hải Hữu (2007) định nghĩa “ASXH là một hệ thống các cơ chế
chính sách các giải pháp của nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp mọi thành
viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế, xã hội làm cho
cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn,
bệnh nghề nghiệp, già cả không còn khả năng lao động hoặc vì các nguyên
nhân khác rơi vào nghèo khổ, bần cùng và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức
khỏe cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và trợ giúp đặc biệt”. [42]
1.1.1.3. Chính sách xã hội
Là một hệ thống quan điểm, chủ trương, biện pháp dựa trên những tư
tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo, được cụ thể hóa và thể chế hóa bằng
pháp luật của nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội phù hợp với bản chất
chế độ xã hội (chính trị), phản ánh lợi ích, trách nhiệm của cộng đồng nói
chung và từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích thỏa mãn những nhu
cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân, góp
phần ổn định an toàn xã hội, phát triển và tiến bộ xã hội. [15]
10
1.1.1.4. Trợ giúp xã hội
Là sự trợ giúp bằng tiền mặt hoặc hiện vật của nhà nước (lấy từ nguồn
thu thuế, không phải đóng góp của người nhận) nhằm đảm bảo mức sống tối
thiểu cho đối tượng được nhận. Hầu hết các khoản trợ cấp được dựa trên cơ sở
đánh giá gia cảnh hoặc thu nhập nhất định. Theo quan điểm hiện đại trợ giúp xã
hội bao gồm 3 loại hình: hỗ trợ thu nhập, trợ cấp gia đình, dịch vụ xã hội. [42]
1.1.1.5. Bảo trợ xã hội (social protection)
Bảo trợ xã hội ở Việt Nam thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. BTXH theo nghĩa rộng có khái niệm nội hàm và vai trò giống như
ASXH; còn BTXH theo nghĩa hẹp (truyền thống) là hệ thống cơ chế, chính
sách và các giải pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội nhằm trợ giúp và bảo
vệ đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong xã hội (còn gọi là đối tượng xã hội) ổn
định cuộc sống và hòa nhập cộng đồng như: người già, người tàn tật, trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, người bị nhiễm HIV/AIDS, những nạn nhân
của thiên tai và những người có hoàn cảnh đặc biệt khác. [36, tr.23]
BTXH theo nghĩa hẹp không có đầy đủ chức năng phòng ngừa, hạn chế
và khắc phục rủi ro cho tất cả các thành viên trong xã hội. Độ bao phủ của nó
chỉ giới hạn trong phạm vi các đối tượng BTXH chứ không phải hướng tới
các thành viên trong xã hội và hoạt động của nó cũng mang tính bị động đối
phó với rủi ro hơn là chủ động phòng ngừa và hạn chế rủi ro. [36, tr.24]
1.1.1.6. Thực hiện chính sách bảo trợ xã hội (CSBTXH)
CSBTXH bao gồm cả hệ thống chính sách của nhà nước như chính
sách trợ cấp xã hội, chính sách cứu đói, chính sách hỗ trợ chăm sóc sức khỏe,
chính sách hỗ trợ giáo dục cho bộ phận dân cư yếu thế. Vì vậy BTXH có vai
trò và là trách nhiệm của nhà nước, không những thế mà còn là hoạt động có
tính chất về công tác xã hội, không dành riêng cho một hoặc một số đối tượng
xã hội, đồng thời BTXH không phải là giải pháp toàn diện về ASXH mà là
11
một phần của ASXH. [36, tr.15]
Chính sách của nhà nước về BTXH là hệ thống các quy định, giải
pháp hỗ trợ của nhà nước đối với các đối tượng BTXH với mục tiệu giúp các
đối tượng khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài trong cuộc
sống. Việc bảo đảm này thông qua các hoạt động hỗ trợ tài chính, nhu yếu
phẩm và các điều kiện vật chất khác cho các nhóm đối tượng.
1.1.2. Phân loại đối tượng bảo trợ xã hội
Tùy theo cách tiếp cận và nghiên cứu mà có các cách phân loại đối
tượng bảo trợ xã hội như sau:
+ Theo đối tượng, bao gồm: (i) Trẻ em mồ côi: cả cha lẫn mẹ, trẻ em
mồ côi cha, mồ côi mẹ, trẻ em bị bỏ rơi...;(ii) Trẻ em khuyết tật, người khuyết
tật: Người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng. Người khuyết tật
nặng là người cao tuổi, người khuyết tật nặng là trẻ em, Người khuyết tật đặc
biệt nặng, người khuyết tật nặng đang mang thai hoặc nuôi một con dưới 36
tháng tuổi;(iii) Người cao tuổi: Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có
người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và
quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng
tháng, người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền
phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận
vào cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại cộng
đồng;(iv) Người nhiễm HIV nghèo không có khả năng lao động; (v) Đối
tượng khó khăn khác.
+ Theo loại hình thực hiện, bao gồm: (i) Trợ giúp xã hội đột xuất; (ii)
Trợ cấp xã hội hàng tháng; (iii) Trợ giúp giáo dục, đào tạo và dạy nghề
1.1.3. Đặc trưng của chính sách bảo trợ xã hội
Người được trợ cấp thông thường không phải trực tiếp đóng góp toàn
bộ chi phí trợ giúp xã hội do nhà nước chi trả và đóng góp từ các tổ chức xã
12
hội khác...thực tế khi đã là đối tượng bảo trợ xã hội thì người dân không còn
khả năng tạm thời hoặc vĩnh viễn tự đảm bảo cho cuộc sống bản thân và gia
đình. Vì vậy, người được trợ cấp xã hội không bị ràng buộc bởi những điều
kiện đóng góp, nguồn quỹ trợ cấp thường do các tổ chức, cá nhân hoặc nhà
nước gây dựng. [25, tr.244]
Thông thường thì trợ cấp xã hội sẽ góp phần cùng với gia đình và bản
thân đối tượng đảm bảo cho mức sống của đối tượng được trợ cấp bằng hoặc
cao hơn mức sống tối thiểu của nhân dân cùng khu vực cư trú. Vì vậy, hạn
mức trợ cấp xã hội thường được nghiên cứu dựa trên nhu cầu thực tế của từng
đối tượng cụ thể được trợ giúp, đồng thời đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh
tế, xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. [25, tr.244]
Trợ giúp xã hội đột xuất thông thường là hình thức cứu trợ khẩn cấp,
chỉ cứu trợ một lần với các hình thức trợ giúp bằng: tiền, lương thực hoặc các
hiện vật khác như: nhu yếu phẩm, dụng cụ sinh hoạt, đồ dùng cá nhân.
1.1.4. Vai trò của chính sách bảo trợ xã hội
- Thực hiện chức năng tái cơ cấu của cải xã hội: Nhà nước tăng cường
nguồn lực đối với các vùng nghèo, vùng chậm phát triển thông qua nguồn thu
thuế để thực hiện chính sách TGXH nhằm tiến đến sự phát triển cân bằng, hài
hòa giữa các vùng, từng bước hạn chế và khắc phục sự chênh lệch giữa các
vùng và giữa các nhóm dân cư. [35, tr.19]
1.1.5. Nguyên tắc thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
Chính sách BTXH được tổ chức thực hiện trên nguyên tắc tuân thủ quy
trình tổ chức thực hiện một hợp phần chính sách của nhà nước vì vậy phải
đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của mục tiêu chính sách đó là trợ giúp có thể
là đột xuất hoặc thường xuyên đối với các đối tượng khó khăn trong xã hội
vươn lên thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn.
1.1.5.1. Đảm bảo tính hiệu lực
13
Đảm bảo tính hiệu lực là nhằm đạt được mục tiêu mong muốn của nhà
nước. Bảo đảm cân đối các nguồn lực và dự lường được các nhân tố ảnh
hưởng trong quá trình thực hiện chính sách.
1.1.5.2. Đảm bảo tính hiệu quả
Để đảm bảo tính hiệu quả, việc thực hiện chính sách BTXH cần phải
đạt được mục tiêu mà chính sách đề ra với một mức chi phí hợp lý nhất, tiến
độ thực hiện chính sách đảm bảo theo kế hoạch hoặc dao động trong khoảng
thời gian cho phép.
1.1.5.3. Đảm bảo tính công bằng
Chính sách BTXH tổ chức thực hiện đã được phân loại theo từng nhóm
với từng tiêu chí. Tuy nhiên trong từng nhóm đối tượng lại có từng loại đối
tượng cụ thể khác nhau. Vì vậy, khi xác định từng loại đối tượng cụ thể cần
phải xác định đúng, tính đủ đảm bảo công bằng trong thực thi chính sách.
1.1.5.4. Đảm bảo tính công khai, minh bạch
Đảm bảo tính công khai, minh bạch là công khai hóa, minh bạch hóa
các quá trình trong thực hiện chính sách đến chủ thể thụ hưởng chính sách
cũng như chủ thể ban hành chính sách
1.1.6. Vấn đề chính sách bảo trợ xã hội
1.1.6.1. Công cụ chính sách bảo trợ xã hội
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật: TGXH được thể hiện thông
qua Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị định, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ, các văn bản hướng dẫn của các Bộ, các cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (Thông tư) và các quy định của cấp địa phương.
Tùy từng chính sách để thể chế văn bản cho phù hợp. Có những chế độ trợ
giúp chỉ thực hiện trong ngắn hạn thì chưa nên thể chế trong văn bản Luật,
hoặc ngược lại có chế độ cần được bảo đảm bằng hệ thống Luật thì mới bền
vững và ổn định lâu dài. Thông thường, chính sách và cơ chế tài chính được
14
quy định do thể chế chính sách, nhưng trong TGXH có những giai đoạn việc
thể chế chính sách phụ thuộc vào nguồn lực tài chính vì điều kiện ngân sách
chưa bảo đảm. Vì có sự khác biệt này mà có chế độ chính sách TGXH chưa
bao phủ 100% đối tượng ngay khi chính sách ban hành.
- Kế hoạch chính sách: Là tập hợp các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể và các
biện pháp thực hiện chính sách trong một khoảng thời gian nhất định để đảm
bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực hoàn thành mục tiêu chính sách đã đề ra.
Các kế hoạch phải đảm bảo các nguyên tắc và các bước yêu cầu của xây dựng
kế hoạch thực hiện chính sách.
- Tổ chức bộ máy và cán bộ: Tổ chức thực thi chính sách TGXH chịu
sự chi phối bởi các nguyên tắc quản lý ngành, lĩnh vực (cơ quan chuyên môn)
và quản lý địa phương (lãnh thổ của các tỉnh, vùng, miền) sở dĩ hình thành hai
cơ chế quản lý này là do có sự phân cấp quản lý theo ngành và phân cấp quản
lý theo địa phương. Sự đan xem của hệ thống quản lý tạo được tính thống
nhất của tổ chức quản lý, tính chủ động của các địa phương, nhưng nó cũng
tạo ra những hạn chế trong tổ chức thực hiện chính sách.
- Tài chính: Nguồn ngân sách vẫn là nguồn chính để thực hiện chính
sách TGXH bao gồm: Ngân sách nhà nước, các nguồn vận động xã hội hóa,
kêu gọi đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân Sở dĩ xác
định có nguồn hình thành ngoài ngân sách để thực hiện chính sách là vì trên
thực tế có các hoạt động huy động kinh phí từ các doanh nghiệp, các tổ chức
quốc tế.
Cơ chế tài chính thực hiện chính sách là những quy định về quản lý, sử
dụng và thanh quyết toán, giám sát, đánh giá về tài chính và tuân thủ nguyên
tắc: (i) hướng đến bảo đảm đủ ngân sách cho nhu cầu trợ giúp, (ii) thống nhất
quản lý từ TW đến địa phương, (iii) tạo ra sự linh hoạt về nguồn, (iv) quản lý
chặt chẽ, không thất thoát. Với các nguyên tắc này, các cấp phải đảm bảo đủ
15
nguồn để thực hiện chính sách, không vì lý do khó khăn mà bố trí thiếu
nguồn. [36, tr.36]
- Giáo dục, tâm lý: Công tác giáo dục được thực hiện thông qua các
hình thức giáo dục truyền thống như: giảng dạy tại trường lớp, trung tâm đào
tạo; hệ thống thông tin chuyên ngành; hệ thống tư vấn chính sách; tuyên
truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài, phát thanh;
các phong trào, các hoạt động xã hội như: từ thiện nhân đạo, hoạt động chăm
sóc, phụng dưỡng các đới tượng chính sách
1.1.6.2. Chủ thể chính sách bảo trợ xã hội
Chính sách BTXH ở nước ta xuất phát từ những đường lối, chủ trương
của Đảng. Quốc hội, Chính phủ ban hành các chính sách, tổ chức điều hành,
thực hiện và giám sát việc thực hành chính sách BTXH. Bộ Lao động –
Thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và các đơn vị có liên
quan tổ chức hoạch định và tham mưu ban hành các chính sách BTXH thuộc
phân quyền, phân nhiệm. UBND các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng như:
LĐ-TB&XH, Tài chính, Y tế, Giáo dục đào tạo tổ chức thực hiện chính sách;
mời Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các hội đoàn thể cùng cấp tham gia giám sát
quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Việc giám sát và bình xét, đánh giá kết quả thực hiện chính sách BTXH
cần có sự tham gia của các đối tượng BTXH và cộng đồng dân cư để đảm bảo
tính khách quan, minh bạch và chính xác.
1.1.6.3. Thể chế chính sách bảo trợ xã hội
Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy
định: tại Điều 3: “,mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện” và tại Điểm 2, Điều 59: “Nhà nước tạo bình
đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an
sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người
16
nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác”.
1.2. Nội dung chính sách bảo trợ xã hội
1.2.1. Chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng (trợ cấp xã hội thường
xuyên)
Trợ cấp xã hội hàng tháng được tính bằng khoản tiền của nhà nước hỗ
trợ cho đối tượng CSXH trong khoảng thời gian nhất định là 01 tháng để mua
lượng thực, nhu yếu phẩm và chi trả các khoản chi tiêu cần thiết phục vụ cho
nhu cầu tối thiểu của một người.
1.2.1.1. Đối tượng được hưởng trợ cấp thường xuyên.
Theo Nghị định 136/2013/NĐ-CP, thì các đối tượng sau đây được
hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng.
1. Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng thuộc một trong các
trường hợp quy định sau đây:
(i) Bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi;
(ii) Mồ côi cả cha và mẹ;
(iii) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại mất tích theo quy định của
pháp luật;
(iv) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang hưởng chế độ chăm sóc,
nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội;
(v) Mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại đang trong thời gian chấp
hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm
hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc;
(vi) Cả cha và mẹ mất tích theo quy định của pháp luật;
(vii) Cả cha và mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở
bảo trợ xã hội, nhà xã hội;
(viii) Cả cha và mẹ đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại
17
giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
(ix) Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại
đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội;
(x) Cha hoặc mẹ mất tích theo quy định của pháp luật và người còn lại
đang trong thời gian chấp hành án phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành
quyết định xử lý vi phạm hành chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
(xi) Cha hoặc mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở
bảo trợ xã hội, nhà xã hội và người còn lại đang trong thời gian chấp hành án
phạt tù tại trại giam hoặc đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành
chính tại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc.
2. Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Khoản 1 nêu trên mà đang học phổ thông, học nghề, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.
3. Trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo; người bị nhiễm HIV thuộc hộ
nghèo không còn khả năng lao động mà không có lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp ưu đãi người có công hàng tháng, trợ cấp
hàng tháng khác.
4. Người thuộc hộ nghèo không có chồng hoặc không có vợ; có chồng
hoặc vợ đã chết; có chồng hoặc vợ mất tích theo quy định của pháp luật và
đang nuôi con dưới 16 tuổi hoặc đang nuôi con từ 16 tuổi đến 22 tuổi nhưng
người con đó đang học phổ thông, học nghề, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học văn bằng thứ nhất (sau đây gọi chung là người đơn thân nghèo
đang nuôi con).
5. Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
18
(i) Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và
quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng
người này đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng;
(ii) Người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện quy định tại Điểm a
Khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ
cấp xã hội hàng tháng;
(iii) Người cao tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và
quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp
nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội nhưng có người nhận chăm sóc tại
cộng đồng.
6. Trẻ em khuyết tật, người khuyết tật thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội
theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.
1.2.1.2. Mức trợ cấp xã hội hàng tháng (Phụ lục 1)
(i) Mức chuẩn trợ cấp, trợ giúp xã hội (sau đây gọi chung là mức chuẩn
trợ giúp xã hội) là 270.000 đồng (Khoản 1, Điều 4, Nghị định 136/2013/NĐ-
CP).
(ii) Trường hợp đối tượng thuộc diện hưởng các mức theo hệ số khác
nhau thì chỉ được hưởng một mức cao nhất. Riêng người đơn thân nghèo đang
nuôi con đồng thời là đối tượng quy định tại các Khoản 3, 5, 6, Điều 5, Nghị
định 136 thì ngoài chế độ đối với người đơn thân nghèo đang nuôi con còn
được hưởng chế độ đối với đối tượng quy định tại Khoản 3 hoặc Khoản 5
hoặc Khoản 6, Điều 5, Nghị định 136.
1.2.1.3. Thủ tục thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng
(i) Đối tượng hoặc người giám hộ của đối tượng làm hồ sơ theo quy
định tại Điều 7 Nghị định 136 gửi chủ tịch UBND cấp xã;
(ii) Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Hội đồng xét
duyệt trợ giúp xã hội (sau đây gọi chung là hội đồng xét duyệt) thực hiện xét
19
duyệt và niêm yết công khai kết quả xét duyệt tại trụ sở UBND cấp xã trong
thời gian 07 ngày, trừ những thông tin liên quan đến HIV của đối tượng
Trường hợp có khiếu nại, trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, hội đồng xét duyệt kết luận và công khai về vấn đề
khiếu nại, trình chủ tịch UBND cấp xã;
(iii) Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được biên bản
kết luận của hội đồng xét duyệt, chủ tịch UBND cấp xã có văn bản (kèm theo
hồ sơ của đối tượng) gửi Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội;
(iv) Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ của
đối tượng và văn bản đề nghị của chủ tịch UBND cấp xã, Phòng Lao động -
Thương binh và Xã hội có trách nhiệm thẩm định, trình chủ tịch UBND quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND cấp huyện)
quyết định trợ cấp xã hội cho đối tượng. Trường hợp đối tượng không đủ điều
kiện hưởng, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phải trả lời bằng văn
bản và nêu rõ lý do;
(v) Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản
trình của Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, chủ tịch UBND cấp
huyện xem xét, quyết định trợ cấp xã hội hàng tháng cho đối tượng.
Thời gian hưởng trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi quy định tại
Điểm b, Khoản 5, Điều 5, Nghị định 136 kể từ thời điểm người đó đủ 80 tuổi.
Thời gian hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng của đối tượng khác, kể từ tháng
chủ tịch UBND cấp huyện ký quyết định trợ cấp xã hội hàng tháng.
1.2.1.4. Thủ tục điều chỉnh, thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng
(i) Đối tượng, người giám hộ của đối tượng hoặc tổ chức, cá nhân liên
quan có kiến nghị về việc đối tượng không còn đủ điều kiện hưởng hoặc thay
đổi điều kiện hưởng gửi chủ tịch UBND cấp xã;
(ii) Trình tự thẩm định, quyết định không còn đủ điều kiện hưởng trợ
20
cấp xã hội hàng tháng thực hiện quy định tại các Điểm b,c,dvà đ, Khoản 1,
Điều 8, Nghị định 136;
(iii) Thời gian điều chỉnh, thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng kể từ
tháng ngay sau tháng chủ tịch UBND cấp huyện ký quyết định.
(iv) Trường hợp đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng bị chết, chủ
tịch UBND cấp xã đề nghị phòng LĐ-TB&XH báo cáo chủ tịch UBND cấp
huyện quyết định thôi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Thời gian thôi hưởng
trợ cấp xã hội hàng tháng kể từ ngay sau tháng đối tượng đang hưởng trợ cấp
xã hội hàng tháng chết.
1.2.2. Chính sách trợ giúp về y tế
Chính sách y tế đối với đối tượng BTXH là việc đối tượng BTXH được
nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế để khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
1.2.2.1. Đối tượng được cấp thẻ BHYT
Theo quy định tại Điều 9, Nghị định 136 thì các đối tượng sau đây
được nhà nước cấp thẻ BHYT bao gồm:
(i) Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng:
(ii) Người từ 16 tuổi đến 22 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Khoản 1 Điều này mà đang học phổ thông, học nghề, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học văn bằng thứ nhất.
(iii) Trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo; người bị nhiễm HIV thuộc hộ
nghèo không còn khả năng lao động mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm
xã hội hàng tháng, ưu đãi người có công hàng tháng, trợ cấp hàng tháng khác.
(iv) Người cao tuổi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người cao
tuổi thuộc hộ nghèo không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc
có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng
chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng; người từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc diện
quy định tại Điểm a Khoản này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã
21
hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng; người cao tuổi thuộc hộ nghèo
không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống
ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội
nhưng có ngườ...
Bảng 2.3. Số lượng thẻ BHYT cấp đối với đối tượng BTXH
Năm 2015 2016 2017
Số thẻ BHYT được cấp (thẻ) 4.905 4.582 4.888
Số tiền chi trả (nghìn đồng) 3.046.057 2.944.527 3.191.275
Nguồn:Phòng LĐ-TB&XH quận Hải Châu
Công tác thực hiện chính sách bảo trợ xã hội được thực hiện đúng chế
độ, đúng đối tượng thụ hưởng, đã quyết định tăng mới 540 đối tượng được
hưởng trợ cấp xã hội, ngừng hưởng 510 đối tượng, điều chỉnh mức hưởng 135
đối tượng.
Công tác cấp thẻ BHYT cho người nghèo, người thoát nghèo không
quá 2 năm, hộ cận nghèo, người bị bệnh hiểm nghèo; miễn, giảm học phí; hỗ
trợ học tập và các hỗ trợ khác được thực hiện tốt.
Công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em tiếp tục có những bước tiến đáng kể.
Đã vận động hơn 1,433 tỷ đồng (hiện vật, học bổng) hỗ trợ cho 3.510 lượt em
có hoàn cảnh khó khăn. 13/13 phường ra mắt CLB quyền trẻ em. Tổ chức
nhiều hoạt động cho trẻ em khuyết tật, trẻ em mồ côi, trẻ em bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS, trẻ em nghèo từ nguồn vận động. Khám sàng lọc phát hiện sớm
bệnh tim bẩm sinh cho 1.415 trẻ em từ 01 tháng tuổi đến 20 tuổi.
40
Tổ chức Lễ phát động “Tháng hành động vì trẻ em” và khai mạc hoạt
động hè 2017, tặng 1.576 xuất quà; Tổ chức “Đêm hội Trăng Rằm” nhân Tết
Trung thu 2017, phát 1.600 suất; Trao 157 suất học bổng 40 suất hỗ trợ dụng
cụ học tập và 80 suất quà cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Miễn, giảm học
phí cho 661 trường hợp, hỗ trợ chi phí học tập cho 905 trường hợp;
Tổ chức tặng quà mừng thọ cho 1.964 người cao tuổi nhân dịp ngày
Người cao tuổi Việt Nam.Các hỗ trợ khác (ốm đau, chữa bệnh, quà cho trẻ
em, khó khăn đột xuất, ma chay, gạo, xe đạp...) cho 4.742 trường hợp.
Năm 2017, quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” đã thu được 2,038 tỷ đồng bằng
101% kế hoạch. Hoàn thành việc chuyển giao và giám sát công tác chi trả trợ
cấp người có công qua hệ thống Bưu điện kể từ tháng 11/2017. Công tác đào
tạo nghề và giải quyết việc làm được gắn chặt với công tác giảm nghèo với
8.012 lượt người lao động được tạo việc làm. Tư vấn định hướng nghề nghiệp
cho các học sinh bỏ học, học sinh có nguy cơ bỏ học,... (có 13 em đăng ký
tham gia học nghề).
Việc thực hiện chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, chính sách trợ
giúp về y tế trên địa bàn quận trong thời gian qua đạt được những kết quả nhất
định, song vẫn còn những tồn tại, hạn chế, đó là:
- Tiếp nhận, chi trả các chế độ chính sách của Đảng, nhà nước chưa kịp
thời, đầy đủ, chưa đúng đối tượng. Hiện nay theo quy định, một số nhóm đối
tượng như NKT, người cao tuổi, đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH
hoặc người có công hàng tháng thì không được hưởng chính sách trợ cấp xã
hội hàng tháng, tuy nhiên tại các phường, quận không nguồn dữ liệu người
đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH và không có phần mềm hỗ trợ cán bộ
làm công tác BTXH trong việc chống trùng chế độ hưởng và BHYT, nên dẫn
đến một số đối tượng hưởng trùng chế độ, BHYT gây thất thoát ngân sách
nhà nước.
41
- Một số phường chưa thực hiện đúng quy trình thủ tục giải quyết
(không niêm yết công khai danh sách đối tượng, mức hưởng hoặc không gửi
quyết định trợ cấp cho đối tượng); Vẫn có tình trạng chậm trễ trong thực
hiện chính sách trợ giúp thường xuyên, cấp thẻ BHYT;
- Trước đây việc tổ chức chi trả trợ cấp thường xuyên đối với đối tượng
BTXH do cán bộ LĐ-TB&XH phường chi trả. Hiện nay, trên danh sách chi
trả được lập từng tháng, dịch vụ bưu điện đã tổ chức chi trả trợ cấp thường
xuyên, trợ cấp mai táng phí (chi trả tại UBND phường hoặc địa điểm của bưu
cục).
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
- Đội ngũ công chức/người lao động chưa được đào tạo cơ bản về công
tác xã hội; năng lực chuyên môn còn hạn chế; trong quá trình tổ chức triển
khai thực hiện chính sách còn biểu hiện bàn quan, dân cần, cán bộ chưa vội.
- Đội ngũ công chức/người lao động tham mưu và tổ chức thực hiện
chính sách BTXH ở phường còn kiêm nhiệm thêm các lĩnh vực LĐ-TB&XH
nên khối lượng công việc nhiều, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ này có sự
quan tâm song vẫn chưa đáp ứng được so với đời sống hiện nay (có cán bộ
hưởng chế độ theo cán bộ không chuyên trách).
2.2.3. Thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí mai táng
Bảng 2.4.Số đối tượng và kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ
chi phí mai táng qua các năm 2015 - 2017
Năm 2015 2016 2017
Số đối tượng (người) 284 288 268
Số tiền chi trả (nghìn đồng) 1.533.600 1.555.200 1.447.200
Nguồn: Phòng LĐ-TB&XH quận Hải Châu
Thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí mai táng phí đối với đối tượng
BTXH qua các năm được thực hiện theo đúng quy định, tuy nhiên vẫn có một
42
số người thân đối tượng không biết về chính sách này nên không làm hồ sơ
hưởng hỗ trợ kinh phí mai táng dẫn đến chậm trễ hoặc bỏ sót đối tượng.
2.2.4. Thực hiện chính sách trợ giúp đột xuất
Trong 3 năm, đã tổ chức trợ cấp 286.320kg gạo cho 19.088 khẩu
(15kg/khẩu) cho các hộ thiếu lương thực trong dịp Tết nguyên đán với tổng
kinh phí 3.441.057.000 đồng.
Bảng 2.5. Số liệu thực hiện chính sách trợ giúp đột xuất
qua các năm 2015-2017
Năm
Hỗ trợ tết Nguyên đán Trợ cấp đột xuất
Gạo(kg)/khẩu
Số tiền
(nghìn đồng)
Số người
Số tiền
(nghìn đồng)
2015 151.890/10.126 1.359.415 0 0
2016 50.370/3.358 694.652 1 2.700
2017 84.060/5.604 1.386.990 1 15.000
Cộng 286.320/19.088 3.441.057 2 17.700
Nguồn: Phòng LĐ-TB&XH quận Hải Châu
Công tác tổ chức cấp phát quà dịp Tết được thực hiện kịp thời, trên cơ
sở chủ trương của Thành ủy, UBND thành phố, UBND quận Hải Châu chỉ
đạo phòng LĐ-TB&XH, UBND các phường tiến hành lập danh sách đối
tượng, tổ chức phúc tra đối tượng sau đó cấp gạo, kinh phí về địa phương để
cấp phát. Bên cạnh đó, cấp ủy, chính quyền 13/13 phường luôn tập trung quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, vì vậy qua các năm, công tác cấp phát hỗ trợ
quà Tết được tổ chức chu đáo, kịp thời, không có sai sót xảy ra.
2.4. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
quận Hải Châu
Trong những năm vừa qua, việc thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
trên địa bàn quận Hải Châu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Với số
43
lượng đối tượng lớn (6.074 đối tượng) nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp của các ban ngành, hội đoàn thể và sự nỗ
lực của đội ngũ cán bộ từ quận đến phường đã tổ chức thực thi chính sách
BTXH cơ bản đảm bảo theo yêu cầu đề ra, kịp thời giải quyết chế độ, điều
chỉnh trợ cấp, tổ chức chi trả kịp thời kinh phí thường xuyên, đột xuất, thẻ
BHYT đến đối tượng và kinh phí mai táng đến gia đình đối tượng.
Trong thời gian đến cần tập trung những vấn đề sau:
- Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách BTXH đến cộng đồng dân
cư còn hạn chế.
- Các văn bản thực thi chính sách BTXH thường xuyên sửa đổi, riêng
lẻ, khó tiếp cận; một số nội dung của văn bản hướng dẫn chưa quy định hoặc
hướng dẫn chưa cụ thể, rõ ràng và còn chồng chéo, nên ảnh hưởng đến việc
triển khai ở địa phương như cấp giấy xác nhận khuyết tật cho đối tượng
khuyết tật về trí tuệ, khuyết tật khác.
- Quy trình về tổ chức dự toán ngân sách trong thực hiện cấp kinh phí
để tổ chức thực hiện chính sách BTXH thường xuyên còn bất cập, chưa tạo
tính chủ động.
- Công tác quản lý nhà nước, sự phối hợp giữa các phòng LĐ-TB&XH,
phòng Tài chính - Kế hoạch và Bảo hiểm xã hội quận còn có những hạn chế
nhất định trong việc cấp kinh phí, cấp thẻ BHYT cho đối tượng BTXH và
thực hiện thanh quyết toán vào quỹ Bảo hiểm xã hội.
- Việc chuyển giao công tác chi trả trợ cấp xã hội hàng tháng sang hệ
thống bưu điện chi trả đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác kiểm tra, quản lý đối
tượng của các phường. Đồng thời khi phường còn chi trả, mỗi đợt chi trả chỉ
chi trả tại một địa điểm duy nhất là UBND phường, đã tạo điều kiện thuận lợi
cho đối tượng trong việc nhận trợ cấp, còn chi trả qua hệ thống bưu điện có
phường chi trả tại nhiều địa điểm hoặc bưu cục khác nhau, có nhiều điểm chi
44
trả không nằm trên địa bàn phường đối tượng thường trú, nên gây khó khăn
trở ngại trong việc nhận trợ cấp của đối tượng.
- Đội ngũ công chức, người lao động làm công tác BTXH (đặc biệt ở
phường) năng lực chuyên môn còn hạn chế, kiêm nhiệm nhiều việc nên ảnh
hưởng đến hiệu quả công việc. Việc luân chuyển, thay đổi cán bộ làm công
tác BTXH tại UBND phường theo chính sách công tác cán bộ của thành phố,
quận,đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác BTXH. Bên cạnh đó, hiện nay hầu
hết cán bộ LĐ-TB&XH đảm nhận, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ như: BTXH,
tệ nạn xã hội, lao động việc làm, bảo vệ trẻ emnên ảnh hưởng đến tiến độ
thực thi công tác BTXH.
- Việc triển khai thực hiện chương trình giảm nghèo còn nhiều bất cập
do nhiều cơ quan, tổ chức cùng tiến hành dẫn đến chồng chéo về đối tượng,
nguồn lực phân tán, lãng phí. Hiện chưa có hệ thống chính sách khuyến khích
hộ nghèo thoát nghèo, vươn lên mà chính sách hiện hành có xu hướng bao
cấp trở lại, nặng về cơ chế xin - cho, tạo tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào cấp
trên, bệnh thành tích còn khá phổ biến trong quá trình triển khai thực hiện,
báo cáo, kiểm tra, đánh giá.
- Số người được hưởng trợ giúp thường xuyên hiện còn ít, chỉ chiếm
khoảng 1,8% dân số (tỷ lệ này ở nhiều nước trong khu vực từ 2,5-3,0%).
Những quy định về tiêu chí và điều kiện được hưởng còn quá chặt chẽ, cứng
nhắc nên người dân ít được tiếp cận. Mức chuẩn để tính mức trợ cấp còn thấp,
chỉ bằng 1/3 so với chuẩn nghèo và chưa bảo đảm nhu cầu trợ cấp của đối
tượng. Mặc dù mức trợ cấp xã hội cho các đối tượng bảo trợ đã được điều
chỉnh nhiều lần song ở mức độ quá thấp so với nhu cầu. Với tốc độ lạm phát
như thời gian qua, mức trợ cấp xã hội quá thấp, do vậy trợ giúp chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn. Các đối tượng bảo trợ khó có thể đảm bảo được
cuộc sống ở mức tối thiểu và rất cần sự trợ giúp của người thân, gia đình và
45
cộng đồng. Công tác trợ giúp thường xuyên ở nhiều địa phương tuy gắn với
mục tiêu giảm nghèo nhưng lại thường trùng lặp với hộ nghèo gây nên sự
chồng chéo nguồn lực trợ giúp. Do vậy, việc xác định đối tượng cũng như chi
trả cũng còn nhiều bất cập. Hình thức trợ giúp thường xuyên chưa được lượng
hóa, do đó khó có thể đánh giá đúng hiệu quả của chương trình. Nhiều đối
tượng vẫn chưa được biết thông tin về chính sách này. Các mô hình chăm sóc
đối tượng dựa vào cộng đồng chưa phát triển
- Trợ giúp xã hội đột xuất (không thường xuyên) do diện che phủ thấp,
lại không kịp thời nên phạm vi trợ giúp còn hẹp, tập trung chủ yếu cho đối
tượng bị rủi ro thiên tai, chưa bao gồm các đối tượng chịu những rủi ro kinh
tế và xã hội. Mức trợ cấp đột xuất còn quá thấp, chưa bù đắp được quá 1/5
thiệt hại của hộ gia đình. Khó khăn hiện nay là cơ sở dữ liệu quản lý thiên tai
không đầy đủ, thiếu tin cậy do không xác định được chính xác đối tượng và
tiêu chí được hưởng trợ cấp. Vấn đề này làm hạn chế tính khách quan và công
bằng cho việc xây dựng các phương án trợ giúp qua các cấp.
Tiểu kết Chương 2
Quá trình tổ chức thực hiện chính sách BTXH đều phải dựa vào các
chủ thể thực hiện chính sách trong đó quan trọng là công chức/người lao động
thực thi chính sách và dựa vào tình hình phát triển kinh tế-xã hội ở địa
phương. Quận Hải Châu luôn xác định thực hiện đảm bảo chính sách BTXH
là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả hệ thống chính trị, quận đã tập trung
nhiều giải pháp khắc phục những tồn tại trong thực hiện chính sách BTXH,
qua đó đã đạt được một số kết quả quan trọng: trong 3 năm từ 2015 đến năm
2017, toàn quận đã có 17.838 đối tượng thụ hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng
với tổng số tiền trên 81 tỷ đồng; trong đó có 14.375 đối tượng được cấp thẻ
BHYT. Các chế độ khác cũng được quan tâm thực hiện như: hỗ trợ Tết
nguyên đán 286.320 kg gạo cho 19.088 nhân khẩu (trị giá 3,5 tỷ đồng), hỗ trợ
46
kinh phí mai táng cho 840 đối tượng BTXH với số tiền 4,6 tỷ đồngđưa nội
dung của chính sách BTXH vào trong cuộc sống.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách BTXH trên địa bàn quận Hải
Châu trong thời gian qua vẫn tồn tại một số hạn chế: Công tác tuyên truyền
các chủ trương, chính sách của nhà nước về chính sách BTXH cho người dân
chưa được sâu rộng; một số chính sách trong quá trình tổ chức thực thi có
phần chậm trễ, chưa kịp thời theo quy định; công tác kiểm tra giám sát chưa
được tổ chức thực hiện nhằm tìm ra những thiếu sót để khắc phục trong quá
trình tổ chức thực hiện...
47
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ XÃ HỘI Ở
QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
3.1. Căn cứ, dự báo tình hình, quan điểm, định hướng, mục tiêu
thực hiện giải pháp chính sách bảo trợ xã hội
3.1.1. Căn cứ, dự báo tình hình biến động của môi trường, kinh tế,
xã hội trong thời gian đến
Cùng với xu thế phát triển của xã hội và quá trình chuyển đổi sang kinh
tế thị trường diễn ra ngày càng nhanh và hội nhập quốc tế càng sâu rộng thì
các nguy cơ, rủi ro kinh tế và xã hội ngày càng có xu hướng tăng, như: khủng
hoảng kinh tế toàn cầu, vấn đề già hoá dân số; tác động của biến đổi khí hậu,
tình hình thiên tai và nhiều vấn đề xã hội khác làm gia tăng số đối tượng cần
trợ giúp xã hội.
Chính sách phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng và của quận Hải
Châu đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững khi các mục tiêu đó
được thực hiện thì các hoạt động BTXH của quận cũng được quan tâm đúng
mức như mở rộng diện đối tượng, định mức hỗ trợ, các mô hình trợ giúp. Dự
báo đến năm 2025, số đối tượng thuộc diện được trợ cấp thường xuyên tăng
lên trên 3 triệu người. Vì vậy cần đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách an
sinh xã hội và bảo trợ xã hội đồng bộ, bao phủ và đủ sức làm tốt vai trò phòng
ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân.
3.1.2. Quan điểm thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
Quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội
nói chung và chính sách trợ giúp xã hội nói riêng được thể hiện ở Nghị quyết
48
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: “Tạo bước tiến rõ rệt về thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo,
cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân” và Nghị quyết số 15-
NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số
vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 cũng nhấn mạnh: “Nâng cao
hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với
hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù
hợp với khả năng ngân sách Nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp
với điều kiện kinh tế-xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được
hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng
cố, nâng cấp hệ thống cơ sở trợ giúp xã hội, phát triển mô hình chăm sóc
người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu
vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ em mồ
côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão”.
Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2020 nhằm đảm
bảo mọi người dân có mức sống trung bình, không rơi vào tình trạng bần
cùngkhi phải đối mặt với các rủi ro, bất trắc. Với mục tiêu đến năm 2020, hệ
thống bảo trợ xã hội sẽ che phủ khắp toàn dân, hướng vào mục tiêu quyền con
người, đặc biệt là quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xửvà bảo vệ các
nhóm yếu thế trong xã hội.
Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành
Chương trình hành động số 19-CTr/TU ngày 29/10/2012 với quan điểm chỉ đạo:
(i) Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người có công cách mạng và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị
và toàn xã hội.
(ii) Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với
49
tình hình phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực
của thành phố trong từng giai đoạn; ưu tiên người có công, người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
(iii) Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ
giữa nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư, bảo đảm bền
vững, công bằng.
(iv) Cơ quan quản lý nhà nước các cấp bảo đảm thực hiện chính sách
ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện
chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích các tổ chức,
doanh nghiệp và người dân tham gia; đồng thời, tạo điều kiện để người dân
nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.
(v) Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm
trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn
thành phố.
3.1.3. Định hướng thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 70/NQ-CP ngày 1/11/2012 về chương trình hành động về chính sách
xã hội giai đoạn 2012 – 2020 với những nội dung cơ bản sau:
- Một là, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách an
sinh xã hội; đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện an sinh xã hội. Bảo đảm an
sinh xã hội cho mọi người dân (ưu tiên cho người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số và người có hoàn cảnh khó khăn)phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
- Hai là, nhà nước giữ vai trò trụ cột, khuyến khích đẩy mạnh xã hội
hóa huy động nguồn lực thực hiện chính sách an sinh xã hội; khuyến khích sự
tham gia của khu vực tư nhân vào cung cấp các dịch vụ an sinh xã hội.
- Ba là, đổi mới công tác trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất.
50
Củng cố, nâng cấp hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội. Phát triển các mô hình
chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Phát triển mạng lưới
các cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội.
- Bốn là, sử dụng phương pháp tiếp cận xây dựng chính sách trợ giúp
xã hội dựa trên nhân tố lấy người dân làm trung tâm.
Căn cứ Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 1/11/2012 của Chính phủ về
chương trình hành động về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020, Bộ LĐ-
TB&XH đã đề ra quan điểm để tổ chức thực hiện:
(i) Đối tượng và phạm vi của trợ giúp không chỉ là người khó khăn về
thực phẩm, mà rộng hơn là bao gồm cả người dân có vấn đề về tâm lý, tình
cảm, bị bạo lực, bạo hành và các vấn đề khác.
(ii) Bảo đảm nguyên tắc thực thi chính sách trợ giúp xã hội công bằng,
minh bạch,đúng đối tượng, kịp thời và hiệu quả.
(iii) Đổi mới cơ chế và phương thức quản lý, vận hành các cơ sở bảo
trợ xã hội từ nuôi dưỡng sang cung cấp các dịch vụ phòng ngừa, trợ giúp,
chăm sóc nuôi dưỡng đối tượng tại gia đình, cộng đồng; trường hợp đưa đối
tượng vào cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc, nuôi dưỡng là giải pháp khẩn cấp,
tạm thời trong giai đoạn nhất định.
(iv) Sử dụng phương pháp tiếp cận xây dựng chính sách trợ giúp xã hội
dựa trên nhân tố lấy người dân làm trung tâm,bảo đảm quyền con người; đa
tầng, linh hoạt dựa trên mức sống tối thiểu của người dân.
3.1.4. Mục tiêu thực hiện chính sách bảo trợ xã hội
Thực hiện Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2012 của
Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 15-NQ/TW ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 -
2020; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 488/QĐ-TTG ngày
51
14/4/2017 về phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hộigiai đoạn
2016 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030” với các mục tiêu sau:
3.1.4.1. Mục tiêu giai đoạn 2017 - 2020
(i) 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; mở
rộng người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, không có lương hưu và trợ cấp
của nhà nước sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số được
hưởng trợ cấp xã hội.
(ii) 50% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ
trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 10% đối tượng được
cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.
3.1.4.2. Mục tiêu giai đoạn 2021 - 2025
(i) 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; nâng
mức trợ cấp xã hội hàng tháng; có chính sách trợ giúp đối với trẻ em dưới 36
tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó
khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; tiếp tục mở rộng
diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội được hưởng
trợ cấp xã hội.
(ii) 70% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ
trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 30% đối tượng được
cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.
3.1.4.3. Tầm nhìn đến năm 2030
(i) 100% đối tượng gặp khó khăn đột xuất được trợ giúp kịp thời; mở
rộng diện người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội của
nhà nước, trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai thuộc hộ nghèo, cận
nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn được hưởng trợ cấp xã hội; mức trợ cấp xã
hội điều chỉnh phù hợp với khả năng của ngân sách và xu hướng quốc tế.
(ii) 90% người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ
52
trợ giúp xã hội phù hợp với nhu cầu, trong đó tối thiểu 50% đối tượng được
cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội toàn diện.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XXI (nhiệm
kỳ 2015-2020) đã nhấn mạnh quan điểm, mục tiêu của công tác an sinh xã
hội: Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5
không”, “3 có”, Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của Ban Thường vụ
Thành uỷ và các chính sách BTXH đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất
lượng cuộc sống của nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi Người
có công với cách mạng; duy trì 100% xã, phường làm tốt công tác thương
binh - liệt sĩ, 100% gia đình chính sách của thành phố có nhà ở ổn định, có
mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư địa phương nơi cư trú.
Bên cạnh việc tổ chức thực hiện các mục tiêu mà trung ương, thành phố
đưa ra, quận Hải Châu đề ra nhiệm vụ tập trung:
- Tiếp tục chú trọng phát huy hiệu quả và huy động mọi nguồn lực thực
hiện các chương trình an sinh, trong đó tập trung cho công tác giảm nghèo.
- Tiếp tục khảo sát nhu cầu học nghề, nhu cầu việc làm của người lao
động để có biện pháp giải quyết cụ thể. Phấn đấu 100% nhà hộ nghèo hư
hỏng nặng, xuống cấp được hỗ trợ xây mới, sữa chữa nhà ở. Tạo điều kiện
cho tất cả hộ nghèo, hộ cận nghèo, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, khuyết tật
và trẻ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được tiếp cận với các chính sách trợ
giúp và các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Phấn đấu 13 phường đạt chuẩn “Phường phù hợp với trẻ em”. Tuyên
truyền, giáo dục gắn với phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội. Triển
khai thực hiện tốt các chính sách bảo trợ xã hội trên địa bàn quận.
- Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, đẩy mạnh phong trào
“Đền ơn đáp nghĩa”, vận động toàn dân tham gia các hoạt động “Đền ơn đáp
nghĩa”, chăm sóc người có công; hỗ trợ đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm cho
53
con em gia đình chính sách; đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, nhân đạo tạo
điều kiện thuận lợi để các đối tượng xã hội hòa nhập cộng đồng.
- Tiếp tục lãnh đạo hiệu quả các giải pháp về giảm nghèo, phấn đấu
hoàn thành đạt và vượt chỉ tiêu trong từng giai đoạn theo chuẩn của thành
phố” [18].
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo
trợ xã hội
3.2.1. Nâng cao năng lực các chủ thể bảo trợ xã hội
Việc nâng cao năng lực thị trường cho người nghèo, biến họ thành chủ
thể chủ động và tích cực trong phát triển kinh tế là rất cần thiết. Thực hiện
nhất quán quan điểm phát huy hiệu quả nguồn lực, chương trình giảm nghèo
chưa được lồng ghép với các chương trình mục tiêu quốc gia. Cần tạo cơ hội
cho người nghèo tiếp cận thuận lợi và với chi phí thấp các dịch vụ xã hội có
chất lượng nhằm giảm nguy cơ cho người nghèo khi gặp rủi ro do thiên tai, do
sự tác động của các cú sốc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, lạm phát, tăng giá,
cũng như những bất trắc trong cuộc sống (đau ốm, bệnh tật, tai nạn...). Tạo cơ
hội ưu tiên cho người nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận các dịch vụ
giáo dục, đào tạo, dạy nghề, tạo việc làm, khám chữa bệnh, nhà ở, nước sạch,
văn hóa, thông tin... thông qua thực hiện lồng ghép với các chương trình mục
tiêu quốc gia.
Với những tồn tại trên, để tháo gỡ được những hạn chế trong việc thực
hiện chính sách BTXH thì việc nâng cao năng lực tổ chức thực hiện cần tập
trung:
(i) Cấp ủy Đảng cần nắm rõ chủ trương, chính quyền cần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhằm đạt được mục tiêu của chính sách;
(ii) Công chức phụ trách BTXH ở quận, công chức/người lao động phụ
trách lĩnh vực LĐ-TB&XH ở phường được đào tạo đúng chuyên môn, nắm
54
vững các chủ trương, chính sách BTXH của Đảng và nhà nước, thường xuyên
bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực tổ chức thực
hiện chính sách BTXH, đảm bảo đủ năng lực tổ chức thực hiện, theo dõi,
giám sát, tổng hợp, đánh giá trong quá trình thực hiện chính sách BTXH,
tham mưu các giải pháp tổ chức thực hiện chính sách đảm bảo theo yêu cầu
đã đề ra.
3.2.2. Phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức, cá nhân tham gia
thực hiện chính sách bảo trợ xã hội tại cộng đồng
Giải quyết vấn đề bảo trợ xã hội trong điều kiện kinh tế-xã hội hiện nay
nếu chỉ dựa vào ngân sách sẽ không thể nào đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy,
việc phát huy sức mạnh tổng hợp dựa trên sự đồng thuận cao của xã hội là điều
cần thiết. Trong những năm qua, các chương trình “5 không, 3 có” của thành phố
đã nhận được sự đồng thuận cao của người dân. Tuy nhiên, trong thực tế thực
hiện vẫn chủ yếu là việc của “nhà nước” chứ người dân chưa thật sự xem là việc
của cộng đồng. Để làm cho việc thực hiện các chính sách này thật sự là phong
trào sâu rộng trong cộng đồng, cần chú ý các biện pháp sau:
- Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trong nhân dân, làm
cho tinh thần tương thân tương ái, tinh thần cộng đồng phải được nâng cao
và vững chắc.
- Để thực hiện chính sách có hiệu quả thì người dân cần nắm đầy đủ
thông tin về chính sách bảo trợ xã hội, về đối tượng, về mức trợ cấp và các
thủ tục cần thiết để thụ hưởng chính sách. Vì vậy, cần phải tiếp tục đẩy mạnh
công tác truyên truyền các chính sách BTXH để người dân được biết và được
tiếp cận chính sách.
- Phát huy vai trò của UBMTTQ và các hội đoàn thể chính trị-xã hội,
các tổ chức xã hội (Ban đại diện Người cao tuổi, Hội Người khuyết tật) trong
công tác tuyên truyền, vận động, giám sát thực thi chính sách qua đó bảo vệ
55
quyền lợi đối với đối tượng BTXH cũng như hội viên của tổ chức mình.
3.2.3. Cải cách hành chính trong thực thi chính sách bảo trợ xã hội
Thực hiện rà soát Bộ thủ tục hành chính (trong lĩnh vực BTXH) thuộc
thẩm quyền giải quyết của UBND quận và UBND phường, trong đó đề xuất
thay đổi về cơ sở pháp lý, trình tự thực hiện thủ tục hành chính, đề xuất bổ
sung, loại bỏ những thủ tục không cần thiết.
Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả và ổn định trong hoạt động của
phần mềm “Một cửa, Một cửa liên thông”. Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý điều hành công việc, áp dụng dịch vụ công
trực tuyến đối với một số thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của
UBND quận.
Nhanh chóng hoàn thiện xây dựng và đưa vào áp dụng phần mềm quản
lý đối tượng nghèo và bảo trợ xã hội để theo dõi trong giải quyết chế độ đối
với đối tượng BTXH từ khi tiếp nhận thủ tục, giải quyết công nhận chế độ,
quản lý đối tượng trong thực hiện các chính sách trợ cấp thường xuyên, cấp
thẻ BHYT, thôi hưởng trợ cấp, thực hiện chính sách hỗ trợ mai táng.
Trong thời gian tới xem xét triển khai việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ
BTXH theo mô hình dịch vụ công trực tuyến; theo đó đối tượng có thể ngồi
tại nhà tải các biểu mẫu và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu và gửi
nộp hồ sơ trực tuyến qua mạng đến UBND phường để được giải quyết trợ
cấp. Mô hình này tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng, nhất là đối tượng
khuyết tật, người cao tuổi,...trong việc đi lại làm hồ sơ, đồng thời minh bạch,
công khai trong việc giải quyết hồ sơ và giảm tải áp lực giấy tờ công việc đối
với cơ quan hành chính khi thụ lý, giải quyết hồ sơ.
3.2.4. Giải pháp về nguồn lực tài chính
Để phát huy và huy động tốt các nguồn lực thực hiện an sinh xã hội và
bảo trợ xã hội, không thể trông mong vào nguồn lực bao cấp của nhà nước,
56
vốn dĩ có hạn. Cần phát huy những nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, đẩy
mạnh công tác xã hội hóa nhằm thu hút rộng rãi các nguồn lực trong và ngoài
nước từ cá nhân, các tổ chức xã hội. Nhà nước cần khuyến khích tư nhân, cá
nhân, chủ sử dụng lao động, doanh nghiệp, tổ chức cộng đồng cùng tham gia,
phát triển các hình thức tự nguyện, cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội bền vững
không vì mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo cuộc sống an toàn cho mọi người dân
Việt Nam.
Kinh phí tổ chức thực hiện chính sách BTXH ở quận Hải Châu là từ
nguồn kinh phí ngân sách nhà nước, tuy nhiên mức trợ cấp đối tượng
hưởng còn thấp so với mặt bằng chung xã hội. Vì vậy, để khai thác các
nguồn lực trong cộng đồng nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách nhà nước,
cần khai thác nguồn lực của các doanh nghiệp, cá nhân, các tổ chức quốc
tế.
Đảm bảo nguồn kinh phí cho công tác tổ chức thực hiện BTXH để quận
và phường tổ chức họp xét duyệt đối tượng trợ cấp xã hội, thẩm định hồ sơ,
kiểm tra, giám sát công tác chi trả chế độ trợ giúp thường xuyên.
3.2.5. Nâng cao năng lực các tổ chức cung ứng dịch vụ chính sách
bảo trợ xã hội
Tổ chức tuyên truyền, tập huấn nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ
cán bộ bưu điện trực tiếp làm công tác chi trả trợ cấp BTXH để họ nắm rõ
được chủ trương, những nội dung cơ bản của chính sách BTXH để hỗ trợ,
chia sẻ, giúp đỡ và thực hiện việc chi trả đến các đối tượng một cách kịp thời.
3.2.6. Dân chủ công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_hien_chinh_sach_bao_tro_xa_hoi_tu_thuc_tien_qu.pdf