Luận văn Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình

1 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH ĐỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, Năm 2018 2 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH ĐỨC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI TRẺ EM VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH QUẢNG BÌNH Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 834.04.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI

pdf89 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN THỊ TÂM HÀ NỘI, Năm 2018 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, trong đó đối tượng trẻ em dân tộc thiểu số được đặt lên hàng đầu. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em (1990), Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được Nhà nước Việt Nam ban hành năm 1991, đến ngày 05/4/2016 Quốc hội khóa XIII đã thông qua và thay thế Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em thành Luật trẻ em có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2017. Luật trẻ em có quy định về việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em không phân biệt tín ngưỡng, dân tộc và đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số. Trong giai đoạn 2011-2016, Chính phủ ban hành 03 nghị định, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 05 chương trình, kế hoạch về bảo vệ, chăm sóc trẻ em với mục tiêu phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em dân tộc thiểu số thuộc nhóm có nguy cơ cao rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Tuy vậy, theo tổ chức Save The Children, dù chính phủ và các tổ chức xã hội đã cố gắng nhưng sự bất bình đẳng giữa trẻ em thành thị với nông thôn và dân tộc thiểu số vẫn tồn tại. Các báo cáo của UNICEF tại Việt Nam cho thấy, đa phần bố mẹ người dân tộc thiểu số thực sự gặp khó khăn trong việc tiếp cận y học hiện đại và cứ bám theo những thói quen lạc hậu trong chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Bên cạnh đó, ở những vùng sâu vùng xa việc đi lại còn khó khăn nên việc tiếp cận dịch vụ y tế còn nhiều vấn đề bất cập. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi ở Việt Nam luôn nằm ở mức cao so với thế giới và nhóm trẻ vùng dân tộc thiểu số chiếm phần lớn. Cũng như các tỉnh, thành phố trong cả nước, Quảng Bình đang đối mặt với việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có việc chăm sóc hỗ trợ trẻ em ở vùng dân tộc thiểu số đang được đặc biệt chú trọng, xem đây là một phần giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của các huyện vùng núi cao và toàn tỉnh nói chung. Tỉnh Quảng Bình có hai dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn: dân tộc Bru-Vân Kiều và dân tộc Chứt, với 5.607 hộ, 24.499 nhân khẩu, chiếm khoảng 2,3% dân số của tỉnh. Dân tộc Bru - Vân Kiều gồm 4 nhóm: Vân Kiều, Khùa, Ma Coong, Trì. Dân tộc Chứt gồm 5 nhóm: 4 Sách, Mày, Rục, A Rem, Mã Liềng. Các dân tộc thiểu số còn lại với số dân không nhiều như: Thổ, Mường, Tày, Thái, Pa cô... Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình sinh sống chủ yếu ở các xã vùng sâu, biên giới, nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội hết sức khó khăn [39]. Năm 2017, theo điều tra, khảo sát của Ban Dân tộc tỉnh, các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số về tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống thì có 68 cặp tảo hôn trong số 308 cặp kết hôn tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 26,30%, tăng 5,89%. Một số xã có tỷ lệ tảo hôn cao như Thượng Hoá (Minh Hóa) chiếm 41,18%, Kim Thuỷ (Lệ Thủy) chiếm 77,42% [21]. Trong những năm gần đây, nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển giữa vùng DTTS, miền núi và các vùng khác trong tỉnh, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 3310/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS và miền núi tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2017-2020. Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình cũng đưa ra đề án 498 “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015- 2025”. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Lương Cương (trưởng phòng Tuyên Truyền và Địa Bàn, Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình) thì tình trạng tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại, đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh vẫn còn trẻ 13 tuổi bị ép tảo hôn [7]. Qua đó có thể thấy hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có một đề án hay chính sách bảo trợ riêng biệt, hoàn thiện cho đối tượng là trẻ em thuộc vùng dân tộc thiểu số. Các chính sách đưa ra chỉ là lồng ghép, thiếu toàn diện nên chưa giải quyết được các vấn đề về giáo dục, y tế hay nạn tảo hôn cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Quảng Bình. Từ tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính sách công nhằm đánh giá đúng thực trạng chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số Quảng Bình, đưa ra giải pháp khắc phục các hạn chế, phát huy những mặt thuận lợi để nâng cao hiệu quả trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về vấn đề bảo trợ trẻ em đang 5 được các cơ quan ban ngành và các cấp địa phương quan tâm. Trong quá trình tìm hiểu, tác giả nhận thấy có nhiều bài viết trên tạp chí, sách báo, các đề tài khoa học hay công trình nghiên cứu về việc bảo vệ trẻ em. Dưới đây là một số bài viết có liên quan đến đề tài: - Ấn phẩm “Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: Đánh giá pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam”, Bộ Lao động thương binh xã hội và UNICEF, Hà Nội, 2009. Tài liệu đã nghiên cứu một cách hệ thống pháp luật, chính sách bảo trợ trẻ em ở Việt Nam một cách toàn diện, góp phần định hướng cho người nghiên cứu. Việc tham gia kí kết Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em được xem là một bước ngoặt lớn trong công cuộc bảo vệ trẻ em ở Việt Nam. Chính phủ đã đưa ra nhiều nghị định, chính sách, chương trình và ban hành luật trẻ em nhằm bảo vệ trẻ em toàn diện. Bài viết đặt những văn bản quy phạm pháp luật trong mối tương quan với Công ước Quốc tế vầ Quyền trẻ em và tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề bảo trợ trẻ em. Thông qua tài liệu, chúng ta cũng xác định điểm khác nhau giữa pháp luật Việt Nam và quốc tế, dự báo những diễn biến mới trên thế giới về việc xây dựng các chính sách bảo vệ trẻ em. - Năm 2014, Bộ Lao động, thương binh và xã hội và Tổng cục Thống kê Việt Nam cho ra đời cuốn “Điều tra quốc gia về lao động trẻ em – Các kết quả chính” dựa trên Chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO-IPEC) của Tổ chức Lao động Quốc tế. Tác phẩm đã góp phần cho việc thực hiện mục tiêu toàn cầu hóa về xóa bỏ các hình thực lao động ở trẻ em theo chương trình hành động quốc gia năm 2016 thông qua việc cung cấp dữ liệu về lao động trẻ em. Bài tham luận “Vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh” của Mai Thị Quế trong Hội thảo khoa học: Chất lượng cuộc sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh kinh tế hiện nay (2012) do Viện Nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đã đề cập đến thực trạng chăm sóc, bảo vệ trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ, đồng thời tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những tồn tại còn mắc phải. Bên cạnh đó, tác giả đã đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách bảo 6 vệ, chăm sóc trẻ em của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung. - Tác giả Lê Thị Oanh trong bài viết chuyên đề “Một số giải pháp cho trẻ lang thang trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” đã mạnh dạn đưa ra nhận định: trẻ em lang thang chính là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, là một thực tế khách quan của xã hội hiện đại ngày nay.Tình trạng này khiến các em không đáp ứng đầy đủ những nhu cầu thiết yếu, gây ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình hình thành nhân cách và phát triển toàn diện của trẻ. Chính vì vậy, trẻ em chính là đối tượng cần nhận được sự quan tâm, chăm sóc thường xuyên từ gia đình, nhà trường và xã hội. Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang chính là bảo đảm quyền được chăm sóc cơ bản của trẻ. Mặt khác, đây còn là hình thức bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản lí xã hội về trẻ em và giúp ổn định tình hình xã hội, góp phần phát triển đất nước. Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang chính là bảo đảm quyền được chăm sóc cơ bản của trẻ. Mặt khác, đây còn là hình thức bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản lí xã hội về trẻ em và giúp ổn định tình hình xã hội, góp phần phát triển đất nước. Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang là việc bảo đảm quyền được chăm sóc giúp đỡ đặc biệt của trẻ. Mặt khác còn góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội đất nước, và nhằm bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản lí xã hội về trẻ em. - Nguyễn Hữu Quân (2013), “Hoạt động thực hiện chính sách trợ giúp xã hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong hệ thống an sinh xã hội tại Huyện Ngọc Hồi – Huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Công tác xã hội, Đại học khoa học xã hội và nhân văn. Luận văn đã rà soát, đánh giá các chính sách trợ giúp trẻ em và nghiên cứu thực trạng hoạt động thực hiện chính sách trợ giúp tập trung vào 2 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: trẻ em nghèo và trẻ em khuyết tật trên địa bàn huyện Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. - Trong cuốn sách “Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020” các tác giả đã tổng hợp các quan điểm về ASXH, nguyên tắc xây dựng hệ thống ASXH, đề ra các mục tiêu phát triển ASXH đến năm 2020, trong đó đề ra mục tiêu phát triển trợ giúp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối với trợ giúp xã hội thường xuyên: “Nâng cao hiệu quả công tác Chương trình xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng dần mức trợ cấp thường xuyên phù 7 hợp với khả năng ngân sách nhà nước”, đối với cứu trợ đột xuất: “đảm bảo người dân khi gặp rủi ro, thiên tai, bão lụt, bị chết người, mất tài sản được hỗ trợ kịp thời để vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất, việc làm, đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống”. Và đề ra các định hướng trong phát triển chính sách. - Trong giáo trình nhập môn An sinh xã hội của Nguyễn Hải Hữu chủ biên (2007), Xây dựng và hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên của tác giả Nguyễn Ngọc Toản (2011), Nhóm tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Đặng Kim Chung, Lưu Quang Tuấn, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Đặng Thị Hà Thu (2013)Phát triển hệ thống an sinh xã hội đến năm 2020, đã nêu những lý luận về an sinh xã hội; những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về chính sách an sinh xã hội nói chung và chính sách bảo trợ xã hội nói riêng, phương pháp tiếp cận, hệ thống thực thi, điểm mạnh, điểm hạn chế của chính sách bảo trợ xã hội hiện hành và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên ở Việt Nam; Bên cạnh đó còn có một số bài viết nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành như: “Thành công và bất cập trong thực hiện chính sách bảo trợ xã hội thường xuyên (2012)” của tác giả Nguyễn Đức Chiện; “Những bước tiến quan trọng trong công tác bảo trợ xã hội (2014)”, “Định hướng đổi mới chính sách bảo trợ xã hội trong thời gian tới (2015)” của Nguyễn Văn Hồi. Nhìn chung các bài viết đã chỉ ra được những thành quả nổi bật của công tác xã hội và chị ra được định hướng cho tương lai. Nhưng các tác phẩm chưa đi sâu hay lấy bảo trợ trẻ em làm đối tượng nghiên cứu chính. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên, về phần lí luận chỉ mới đề cập đến lý luận đến an sinh xã hội, trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng, những định hướng giải quyết các vấn đề an sinh xã hội trong xu thế toàn cầu hóa, định hướng về điều chỉnh chính sách bảo trợ xã hội, chưa đề cập đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách bảo trợ xã hội, kết quả đánh giá việc thực hiện chính sách trợ giúp thường xuyên chỉ mới thực hiện ở thời điểm năm 2010 trở về trước. Trực tiếp bàn về thực trạng đời sống và chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình, có thể kể đến những công trình sau: - Thanh Hà (2017), Quảng Bình cải thiện, nâng cao điều kiện sống cho đồng 8 bào dân tộc thiểu số và miền núi, đã cho thấy một bức tranh sáng về đời sống của người dân vùng cao, trong đó có người dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình. Đáng chú ý, bài viết đã chỉ ra được tính tích cực, chủ động của chính quyền địa phương trong việc triển khai, thực hiện chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. - Nguyễn Lương Cương (2018), Kết quả điều tra tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Thượng Trạch, một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thông qua những số liệu điều tra đáng tin cậy, bài báo đã nêu lên thực trạng đáng buồn về tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết của đồng bào dân tộc thiểu sốở các bản Cà Roòng I, Cà Roòng II, Bản Nịu, bản Ban, bản Khe Rung, bản Bụt, bản 51 và bản Chăm Pu, xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Từ đó, bài báo đã đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên trong thời gian tới. - Thanh Hoa (2018), Báo động tình trạng tảo hôn tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, một lần nữa, cùng với Nguyễn Lương Cương, đã cho thấy hiện tượng xã hội nhức nhối của người dân tộc thiểu số mà nguyên nhân là sự trói buộc của các hủ tục không dễ gì dứt bỏ. Chăm sóc và phát triển trẻ em chính là đầu tư và phát triển đất nước nói chung, địa phương nói riêng. Hiện nay chính phủ, xã hội đều ý thức được tầm quan trọng của lớp trẻ với tương lai của đất nước. Chính vì vậy đã và đang có rất nhiều chương trình, chính sách chăm sóc và giáo dục trẻ. Trong thời gian qua, Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đến vấn đề bảo vệ trẻ em bằng những văn bản quy phạm páp luật nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai thực hiện của các cơ quan ban ngành trực thuộc, liên quan như: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 2004); Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010; Chương trình hành động quốc gia đấu tranh phòng, chống mại dâm giai đoạn 2006-2010; Chương trình Hành động quốc gia về phòng, chống buôn bán người; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch hành động Quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2014-2020; Chương trình 9 phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em giai đoạn 2016-2020. “Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015” đã thể hiện được những nỗ lực vượt bậc của các địa phương trong việc xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em, đặc biệt theo báo cáo thì chương trình đã thành công trong việc “kết nối dịch vụ bảo vệ trẻ em liên tục; việc triển khai thí điểm các hoạt động cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em cũng được nhiều địa phương quan tâm” [3, tr.8]. UNICEF trong báo cáo “Tình hình trẻ em tại Việt Nam năm 2010” nhận định rằng:“Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy các hoạt động chăm sóc dựa vào cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Việt Nam đã đưa vào thực thi các chính sách quốc gia nhằm khuyến khích và hỗ trợ các gia đình” [75, tr.214]. Vào năm 2015, UNICEF thực hiện “Báo cáo tình hình trẻ em thế giới năm 2015” tại Việt Nam. Sau khi thực hiện chương trình với chủ đề “Hình dung mới về tương lai: Đổi mới sáng tạo cho mọi trẻ em” Việt Nam đạt được một số tựu trong công tác bảo đảm các quyền của trẻ em, nhất là việc nâng cao chất lượng sống của trẻ. Đồng thời, báo cáo cũng kêu gọi cộng đồng chung tay đưa ra những ý tưởng, giải pháp để xóa bỏ dứt điểm các vấn đề nổi bật mà trẻ em đang gặp phải. Đồng thời, báo cáo cũng kêu gọi cộng đồng chung tay đưa ra những ý tưởng, giải pháp để xóa bỏ dứt điểm các vấn đề nổi bật mà trẻ em đang gặp phải.Báo cáo cũng kêu gọi cộng đồng cùng chung tay đưa ra những ý tưởng mới, các giải pháp mới để đối phó với các vấn đề nổi cộm mà trẻ em đang phải đối mặt. Ngày 22/4, tại Hà Nội, Ủy ban Dân tộc phối hợp với Tổ chức UNICEF tại Việt Nam tổ chức Hội thảo: “Đề xuất giải pháp, chính sách hỗ trợ chăm sóc trẻ em dân tộc thiểu số từ 0-5 tuổi”. Ủy ban Dân tộc đã trình Chính phủ Nghị quyết:“ Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực các DTTS giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2030”, nhằm phát triển thể lực, trí lực, nâng cao ý thức xã hội và kỹ năng sống cho trẻ em dân tộc thiểu số - nguồn nhân lực tương lai của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ủy ban Dân tộc nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng chăm sóc trẻ em giai đoạn đầu đời từ 0-5 tuổi, đây là giai đoạn đặc biệt quan trọng, không chỉ 10 phát triển thể lực mà còn phát triển trí tuệ, sự sáng tạo trong mỗi con người. Vì vậy, Hội thảo lần này nhằm đánh giá toàn diện các chính sách về chăm sóc, bảo vệ trẻ em cũng như rà soát các chính sách đã thực hiện và đề xuất giải pháp chăm sóc, hỗ trợ trẻ em trong thời gian tới [17]. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có một chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số dành riêng phù hợp với điều kiện dân cư, văn hóa hay cơ sở, hạ tầng của từng địa phương. Năm 2014, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội cho ra đời cuốn sách Cẩm nang công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; bình đẳng giới và phòng chống bạo lực gia đình dành cho cán bộ xã, phường, thị trấn”, nhằm hướng dẫn cho cán bộ các cấp địa phương thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây là một công trình có tính thiết thực cho các cán bộ chuyên trách. Cuốn cẩm nang gồm 2 phần , 4 chương đã đi sâu vòa công tác thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; bình đẳng giới và chống bạo lực gia đình. Đồng thời, cuốn cẩm nang cũng dành hẳn 1 chương cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, cuốn sách chưa có chương mục nào dành riêng cho trẻ dân tộc thiểu số là những trẻ em chịu nhiều thiệt thòi và có nguy cơ cao rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Trong khi đó tại Quảng Bình, ý thức được nguy cơ cao trẻ em dân tộc thiểu số trở thành trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt Ủy ban nhân dân tỉnh mà trực tiếp là Ban dân tộc đã thực hiện đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025”(Đề án 498) trên địa bàn toàn tỉnh. Theo Minh Tiến thuộc Ban dân tộc của tỉnh Quảng Bình, “Toàn tỉnh có 68 cặp tảo hôn trong số 308 cặp kết hôn tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 26,30%, tăng 5,89% so với năm 2016. Một số xã có tỷ lệ tảo hôn cao như Thượng Hoá (Minh Hóa) chiếm 41,18%, Kim Thuỷ (Lệ Thủy) chiếm 77,42%” [50]. Tuy nhiên đây mới chỉ là một khía cạnh trong vấn đề bảo trợ trẻ em. Trẻ em dân tộc thiểu số Quảng Bình chưa có một chính sách, chương trình phát triển toàn diện. Vào năm 2017, “Sở Lao động – Thương binh và xã hội đã phối hợp với Tổ chức Plan Quảng Bình tổ chức truyền thông về phòng ngừa trẻ em kết hôn sớm, kết hôn cận huyết thống tại địa bàn huyện Minh Hóa, Quảng Ninh và Lệ Thủy” [73], chương trình chỉ gói gọn trong công tác truyền thông ở một số địa bàn trên toàn 11 tỉnh. Và thực sự chưa mang lại hiệu quả chính sách lâu dài cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Như vậy, hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Bình vẫn chưa có một chính sách bảo trợ trẻ em một cách toàn diện và lấy bảo trợ trẻ em làm đối tượng nghiên cứu chính. Có chăng chỉ là một vài lĩnh vực như tảo hôn mà trẻ em là những nạn nhân chính, còn các vấn đề về giáo dục, phát triển toàn diện cho trẻ thì hầu như chưa có. Nhằm đi sâu vào chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở địa phương Quảng Bình, tiếp nối cơ sở thì các đề tài đi trước và tổng hợp, hệ thống chính sách của nhà nước đối với vấn đề bảo trợ trẻ em đặc biệt là trẻ vùng dân tộc thiểu số Quảng Bình. Đề tài “Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Quảng Bình”hi vọng sẽ xóa dần khoảng cách chênh lệch về chất lượng sống của trẻ em dân tộc thiểu số với trẻ em thành phố, góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số và góp phần phát triển đời sống người dân nơi đây, tạo tiền đề cho sự phát triển của địa phương trong tương lai. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình, đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số một cách hiệu quả nhất. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. - Tìm hiểu, phân tích đánh giá về thực trạng quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình. - Đưa ra một số chính sách, mô hình tổ chức nhằm tạo điều kiện để trẻ em dân tộc thiểu số cũng được hưởng các quyền lợi một cách công bằng. Đồng thời, đề xuất, kiến nghị, giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đề ra và thực hiện chính sách bảo trợ cho em đối với dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình tỉnh Quảng Bình. 12 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về đối tượng: nghiên cứu một số khía cạnh của chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số Quảng Bình. Cụ thể là nội dung văn bản chính sách pháp luật; nhân lực đề ra và thực hiện chính sách; đối tượng thừa hưởng chính sách; nghiệp vụ hành chính công trong chính sách bảo trợ cho em đối với dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Bình.v.v... - Phạm vi về thời gian: Tổng hợp báo cáo và tình hình thực tiễn từ năm 2012 đến năm 2017, giải pháp thực hiện đến 2020. - Phạm vi về nội dung nghiên cứu: các hoạt động thuộc lĩnh vực hành chính công trong việc đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số dựa trên thực tiễn cơ sở trên bàn tỉnh Quảng Bình. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trước hết, luận văn được hoàn thành dựa trên quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lenin để nhìn nhận, đánh giá đối tượng là chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình. Khi tiếp cận vấn đề, tiến hành nghiên cứu tác giả không xem xét chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là thành tố tồn tại độc lập, mà đặt trong đặc điểm dân tộc, bối cảnh của địa phương; dưới sự tác động của các mối quan hệ gia đình, nhà trường, xã hội; mối quan hệ bổ trợ với các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Đồng thời luận văn dựa trên tư tưởng của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách bảo trợ trẻ em, chính sách dân tộc, chính sách phát triển văn hoá trong bối cảnh phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên 13 cứu chính được sử dụng là phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia. a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Tổng hợp, phân tích các số liệu từ các báo cáo cơ sở, ấn phẩm, tài liệu, luận văn... có liên quan đến vấn đề Chính sách công trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. - Nghiên cứu các hồ sơ lưu trữ tại Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình nhằm nghiên cứu các chính sách dành cho đồng bào thiểu số nói chung và trẻ em nói riêng mà tỉnh, huyện đã thực hiện nhằm nghiên cứu và đánh giá thực trạng chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình b) Phương pháp thảo luận nhóm Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm lần lượt với các thành phần tham gia là: cán bộ chính sách huyện; trẻ em dân tộc thiểu số; các cặp vợ chồng dân tộc thiểu số. Trong buổi thảo luận về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình, dựa vào thành phần tham gia mà tôi đưa ra hướng thảo luận phù hợp để lấy được thông tin đa chiều, khách quan về: việc thực hiện chính sách bảo trợ; nhu cầu mà trẻ mong muốn và tác động của chính sách với trẻ; vai trò của phụ huynh, gia đình trong việc thực hiện chính sách. Sau khi nhận được các ý kiến đa chiều, tôi tiến hành phân tích tổng hợp. Phương pháp này giúp quá trình nghiên cứu diễn ra khách quan, có góc nhìn đa chiều và giúp nhìn nhận, đánh giá đối tượng một cách toàn diện. c) Phương pháp phỏng vấn sâu Đồng bào dân tộc thiểu số phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao của 5 huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Lệ Thủy, Quảng Ninh. Dựa vào đặc điểm địa bàn, trong quá trình nghiên cứu tôi tiến hành phỏng vấn sâu cho 3 nhóm đối tượng: (1) Phỏng vấn cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện: về thực trạng, thuận lợi, khó khăn và đề xuất kiến nghị về công tác quản lý, thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; (2) Phỏng vấn cán bộ cơ sở về những khó khăn trrong quá trình thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và đề xuất kiến nghị; (3) Phỏng vấn trẻ em và người đại 14 diện hộ gia đình về đánh giá hiệu quả chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Mẫu phỏng vấn được phân bố cụ thể như sau: Phỏng vấn cán bộ quản lý (18 người): cấp tỉnh 3 người; cấp huyện 15 người (3 người/ huyện). Phỏng vấn cán bộ cơ sở (30 người):  Huyện Minh Hóa 6 người: chia đều 3 xã Thượng Hóa, Hóa Sơn, Hóa Tiến.  Huyện Tuyên Hóa 6 người: chia đều 3 xã Lâm Hóa, Lê Hóa, Sơn Hóa.  Huyện Bố Trạch 6 người: chia đều 3 xã Thượng Trạch, Tân Trạch, Sơn Trạch.  Huyện Lệ Thủy 6 người: chia đều 3 xã Kim Thủy, Lâm Thủy, Ngân Thủy.  Huyện Quảng Ninh 6 người: chia đều 3 xã Trường Sơn, Trường Xuân - Phỏng vấn trẻ em (30 trẻ) và người đại diện hộ gia đình (30người)  Huyện Minh Hóa 12 người: chia đều 3 xã Thượng Hóa, Hóa Sơn, Hóa Tiến.  Huyện Tuyên Hóa 12 người: chia đều 3 xã Lâm Hóa, Lê Hóa, Sơn Hóa.  Huyện Bố Trạch 12 người: chia đều 3 xã Thượng Trạch, Tân Trạch, Sơn Trạch.  Huyện Lệ Thủy 12 người: chia đều 3 xã Kim Thủy, Lâm Thủy, Ngân Thủy.  Huyện Quảng Ninh 12 người: chia đều 3 xã Trường Sơn, Trường Xuân. d) Phương pháp phỏng vấn chuyên gia - Phỏng vấn ý kiến chuyên gia về ngành hành chính công để giải đáp nguyên nhân các vấn đề tồn tại trong việc đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. - Phỏng vấn ý kiến chuyên gia luật về quyền lợi trẻ em cần được hưởng và phương thức thực hiện phù hợp với đối tượng trẻ vùng dân tộc thiểu số. - Phỏng vấn ý kiến chuyên gia dân tộc học để nắm rõ phong tục tập quán dân tộc thiểu số trên địa bàn Quảng Bình để đưa ra các chính sách phù hợp vừa đảm bảo quyền trẻ em vừa không gây tác động tiêu cực đến truyền thống văn hóa của người dân. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận 15 Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về chính sách bảo trợ trẻ em người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá làm rõ hơn hệ thống quản lý nhà nước về hành chính công đối với vấn đề này để hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, chính sách, cơ chế, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hành chính công từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực tiễn quản lý chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, giúp nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, cán bộ cơ sở trực tiếp làm việc tại địa bàn với trẻ em vùng dân tộc thiểu số về vai trò của chính sách bảo trợ trẻ em. Tác giả hi vọng, những phát hiện mới của để tài nghiên cứu sẽ làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý trong việc đề ra cơ chế chính sách phù hợp với và xây dựng các chương trình chiến lược bảo vệ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo thiết thực cho các nhà nghiên cứu, quản lý chính sách công xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách về vấn đề bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số. Đây cũng là tài liệu mang tính thực tế cao cho sinh viển, nghiên cứu sinh ngành chính sách công tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số; Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình; Chương 3: Mục tiêu, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình 16 17 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ TRẺ EM ĐỐI VỚI DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1. Một số khái niệm công cụ 1.1.1. Khái niệm chính sách công Theo tiến trình lịch sử, những quan tâm đầu tiên về chính sách công xuất hiện cùng với sự ra đời của nền dân chủ Hy Lạp, nhưng khoa học chính sách chỉ mới nổi lên từ giữa thế kỷ XIX, lúc mà khoa học chính trị bắt đầu chuyển trọng tâm nghiên cứu từ triết học - chính trị sang nghiên cứu các thể chế, cơ cấu tổ chức nhà nước, thái độ và hành vi ứng xử của các tổ chức và các cá nhân với nhau trong hoạt động kinh tế, xã hội. Nhiều nhà khoa học trong thời kỳ này đã đi sâu nghiên cứu về các chuẩn mực giá trị hoặc hành vi của chính phủ với mục đích lựa chọn nội dung, phương thức hoạt động nhằm thoả mãn các nhu cầu của đời sống nhân dân. Những tư tưởng mới này là nguyên nhân gây ra các cuộc tranh luận gay gắt về vai trò của nhà nước, về quyền và nghĩa vụ của công dân và nhà nước. Đồng thời, sau các cuộc chiến tranh thuộc địa, hàng loạt các nước bị tàn phá có nhu cầu cơ cấu lại nhà nước của mình, các thể chế quốc tế mới cũng được thiết lập đã dẫn đến sự ra đời của một cách tiếp cận mới về công bằng, bình đẳng, về việc tìm kiếm các giá trị và biện pháp phát triển kinh tế - xã hội. Bối cảnh đặc biệt này làm nảy sinh một số cách tiếp cận mới về khoa học chính sách. Một số cách t...nh; Kế hoạch cung cấp nguyên liệu (nhiên liệu, vật liệu, tài liệu); Kế hoạch thời gian; Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đưa chính sách bảo vệ trẻ em vào cuộc sống. 31 Bên cạnh đó, bản kế hoạch thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số cần có thêm: nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực hiện chính sách; nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước và cán bộ công chức tham gia tổ chức điều hành chính sách; biện pháp, giải pháp khen thưởng, kỷ luật đối với cá nhân, tập thể thực hiện. Cần lập kế hoạch thực hiện chính sách tốt để tránh điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện. 1.2.2.3. Phổ biến tuyên truyền thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Tiến hành phổ biến, tuyên truyền chính sách giúp các đối tượng thụ hưởng chính sách, gia đình, nhà trường và cộng đồng hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách bảo vệ trẻ em. Đồng thời, công tác tuyên truyền còn giúp các cơ quan ban ngành, các cán bộ công chức và các tổ chức xã hội có trách nhiệm thực thi chính sách được ý thức tầm quan trọng, tính chất cũng như quy mô của chính sách đối với trẻ em nói chung và trẻ em dân tộc thiểu số nói riêng. Cần đưa ra kế hoạch tuyên truyền chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số với nhiều hoạt động khác nhau như: Tổ chức các chiến dịch truyền thông bảo vệ trẻ em nhằm tạo mối quan tâm, thúc đẩy sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ trẻ em dân tộc thiểu số; xây dựng các chương trình, sáng tạo sản phẩm truyền thông về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số cho các kênh truyên thông đại chúng như loa đài, ti vi hay treo biển truyền thông; tổ chức tư vấn, trực tiếp tới từng đối tượng thông qua các cuộc thi, diễn đàn, hội nghị, sinh hoạt ngoại khóa...; thành lập các câu lạc bộ tại cộng đồng, trường học để trẻ có điều kiện tham gia tìm hiểu về bảo vệ trẻ em. Việc bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số cần có sự tham gia góp sức của gia đình, nhà trường, xã hội và chính trẻ em. 1.2.2.4. Phân công phối hợp thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Trong tổ chức và thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số thì phối hợp thực hiện chính sách có ý nghĩa quan trọng tác động đến hiệu quả thực hiện chính sách. Để tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em dân tộc thiểu số hiệu quả cần tiến hành phối hợp một cách chặt chẽ, có sự phân công rõ ràng, hợp lý giữa các cơ 32 quan quản lý từ cấp Trung ương đến cấp địa phương và có sự hợp tác với các cơ quan ban ngành liên quan. Việc phân công nhiệm vụ chi tiết và trách nhiệm cụ thể với các cơ quan ban ngành liên quan sẽ tránh việc chồng chéo trong quá trình thực hiện. Tiến hành phân công công việc cụ thể, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các ban ngành trong quá trình thực hiện chính sách sẽ phát huy được những nhân tố tích cực, giúp việc thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao. Để khai thác tối đa nguồn nhân lực, thể hiện tính khoa học và chuyên môn hóa, khi phân công nhiệm vụ cần dựa vào khả năng, trình độ chuyên môn của từng cán bộ cũng như thế mạnh của tổ chức. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều 4: “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng đứng đầu, giương cao ngọn cơ lãnh đạo từ cấp Nhà nước tới cấp cơ sở, trong mọi lĩnh vực xã hội, với toàn thể các tổ chức trong và ngoài nước cũng như các cá nhân thông qua nghị quyết và chỉ thị. Đảng cũng luôn theo dõi, giám sát việc thực hiện của các đối tượng qua các báo cáo tổng kết và thành quả thực tiễn. Từ buổi đầu, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn nhận được sự quan tâm của Đảng. Tháng 6/2000, chỉ thị 55/CT-TW về việc “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em” đã được ban hành. Đảng thể hiện mong muốn cải thiện nhận thức của cộng đồng và kêu gọi hành động vì trẻ em diễn ra trong toàn xã hội, tiên phong là các Chi bộ Đảng cấp cơ sở. Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao mọi hoạt động của Nhà nước. Theo Luật tổ chức Quốc Hội sửa đổi năm 2007 có 5 Ủy ban sau có chức năng liên quan đến quyền trẻ em là: Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng; Ủy ban Các vấn đề xã hội; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính và Ngân sách; Ủy ban Pháp luật. Cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước là Chính phủ Việt Nam, đây là cơ quan hành pháp cấp cao nhất làm việc cho Quốc Hội. Thủ tướng đứng đầu chính phủ, có thẩm quyền ban hành Nghị định, Quyết định, Pháp lệnh đối với cấp cở sở, có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Hỗ trợ 33 cho Thủ tướng là Bộ trưởng các ban ngành có quyền ban hành các Quyết định và Thông tư hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật. Các bộ ban ngành liên quan đến quyền trẻ em bao gồm: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH), Bộ Y tế (Bộ YT); Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VH-TT&DL), Bộ Công an (Bộ CA), Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT), Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TNMT), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT), Bộ Tài chính (Bộ TC), Ủy ban Dân tộc (UBDT), ổng cục thống kê (TCTK) Dựa vào quyền hạn, trách nhiệm mà Chính phủ giao phó, Ủy ban nhân dân cấp cơ sở tiến hành thực hiện quyền trẻ em theo các cấp. 1.2.2.5. Duy trì thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Duy trì thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là làm cho chính sách được tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Thực tiễn cho thấy khi tiến hành thực hiện thường gặp phải một số khó khăn mà nhà hoạch định chính sách không lường hết được. Nguyên nhân thường do sự thay đổi môi trường áp dụng so với thời điểm ban hành chính sách. Vì vậy để tăng tỷ lệ thành công, các cơ quan quản lý cấp trung ương về trẻ em cấp thường sử dụng công cụ quản lý tác động tạo môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách. Nhà nước có quyền yêu cấu các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội có trách nhiệm tham gia bảo vệ trẻ em, đây cũng là hình thức phát huy quyền làm chủ, thể hiện tính dân chủ xã hội. Thực hiện yêu cầu, các chính sách của nhà nước chính là thể hiện quyền làm chủ, là trách nhiệm của mỗi các nhân, tạo tiền đề để chính bản thân họ tham gia công tác xã hội, phổ biến chính sách trong toàn xã hội. 1.2.2.6. Điều chỉnh chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Điều chỉnh chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số nhằm mục đích phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế của đất nước. Khác với quy định là cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh bổ sung chính sách, thực tế việc điều chỉnh cơ chế và biện pháp chính sách diễn ra khá linh hoạt tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước về 34 trẻ em từng địa phương có thể dựa trên tình hình kinh tế xã hội địa phương mình mà chủ động điều chỉnh cơ chế chính sách cho phù hợp, tuy nhiên không được làm thay đổi mục tiêu cần đạt. 1.2.2.7. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Để thực hiện tốt chính chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số cần tăng cường công tác kiểm tra thực hiện chính sách, đánh giá tiến độ và kết quả thực hiện chương trình, đề án như: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015. Kiểm tra việc chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành cơ quan cấpTrung ương đối với việc thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em của cơ quan ban ngành cấp cơ sở, đồng thời xem xét sự phối hợp của các ban, ngành tại địa phương trong quá trình thực hiện. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện ra sai phạm sẽ , kiến quyết xử lý nghiêm nhằm đảm bảo chính sách bảo vệ trẻ em được thực hiện đúng theo mục tiêu, không phân biệt đối tượng vi phạm là cấp trung ương hay cơ sở, là người lãnh đạo hay cán bộ chuyên trách, tất cả đều phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình. 1.2.2.8. Đánh giá tổng kết việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Cùng với việc xây dựng và triển khai thực hiện thì đánh giá chính sách là một khâu không thể thiếu của quy trình chính sách. Đánh giá chính sách công dựa vào các tiêu chí cụ thể: sự phù hợp, tính hiệu quả, hiệu suất và tác động của chính sách... để cải thiện những điều bất cập trong quá tình thực hiện chính sách, xây dựng và thực hiện chính sách trong tương lai. Đánh giá chính sách công đã trờ thành thông lệ để nhóm, tổ chức thực hiện các quyết định và hành động liên quan đến đánh giá quá trình, kết quả thực thi chính sách. Như vậy, đánh giá việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là cách kiểm định mục tiêu chính sách đã được triển khai có hiệu quả hay không nhờ vào cách đánh giá của các tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị xã hội trong và ngoài nước, các cơ quan bao chí và chính các đối tượng thụ hưởng trực tiếp. 35 Đánh giá tổng kết trong tổ chức thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số còn là xem xét về chỉ đạo điều hành và chấp hành chính sách của các cá nhân, cơ quan ban ngành có liên quan. Đây cũng là lúc xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số có nhận được sự hưởng ứng, ý thức chấp hành chính sách của các tổ chức, cá nhân, gia đình và nhà trường và toàn xã hội. 1.2.3. Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Chủ thể trong thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số đó là các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp (Quốc hội, Hội đồng nhân dân), các cơ quan thuộc hệ thống hành pháp (Chính phủ và UBND các cấp) và các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp (Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân). Trách nhiệm thực hiện của các chủ thể trên cụ thể như sau: Theo Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2007 thì các cơ quan của Quốc hội gồm có Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội, Hội đồng Dân tộc và 9 Ủy ban trong đó có 5 Ủy ban sau có các chức năng liên quan tới quyền trẻ em: + Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng: thẩm tra các dự án luật về các vấn đề thuộc lĩnh vực trẻ em, chịu trách nhiệm giám sát việc thi hành luật của Chính phủ và việc thực hiện các chính sách của Chính phủ. + Ủy ban Các vấn đề Xã hội: thẩm tra các dự luật về các lĩnh vực trẻ em như Luật Bình đẳng giới và Luật Phòng chống Bạo lực Gia đình... + Ủy ban Kinh tế: xem xét và giám sát các Chương trình của Chính phủ, việc thực hiện các luật và các văn bản pháp quy trong lĩnh vực quản lý tiền tệ và kinh tế. + Ủy ban Tài chính và Ngân sách: xem xét các dự toán, phân bổ ngân sách, giám sát và quyết toán Ngân sách Nhà nước. + Ủy Ban Pháp luật: thẩm tra dự án luật liên quan đến bảo vệ quyền trẻ Các cơ quan quan trọng thuộc hệ thống hành pháp liên quan cụ thể là: + Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH): có chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực việc làm, dạy nghề, lao động, lương và trợ cấp, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, bảo trợ xã hội, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, bình đẳng 36 giới, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn xã hội trên toàn quốc; Bộ cũng có trách nhiệm quản lý nhà nước về các dịch vụ công thuộc lĩnh vực của Bộ. Bộ LĐ-TB&XH có vai trò trách nhiệm hàng đầu trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam. + Bộ Y tế (Bộ YT): quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, y tế điều trị và dự phòng, và tất cả các dịch vụ công do Bộ quản lý. Bộ Y tế chịu trách nhiệm cải thiện chất lượng các dịch vụ y tế nhằm đảm bảo trẻ em được chăm sóc đầy đủ về mặt sức khỏe từ khi mới sinh ra cho đến khi trở thành người lớn, và quan tâm đặc biệt tới trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Theo Nghị định 188/2007/NĐ-CP ngày 27/12/2007, Bộ Y tế đã được giao thêm nhiệm vụ quản lý về các vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình, vốn thuộc trách nhiệm của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em trước kia. + Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT): trách nhiệm hàng đầu của Bộ GD-ĐT là xây dựng các chương trình và chính sách nhằm đảm bảo quyền được học tập của trẻ em, thông qua các chính sách và phương pháp giáo dục nhằm hỗ trợ trẻ em bị thiệt thòi để các em có thể hòa nhập với hệ thống giáo dục; và xác định rõ công tác cải cách chương trình giáo dục, sách giáo khoa, chương trình học, đào tạo cho giáo viên. + Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VH-TT&DL): chịu trách nhiệm điều phối quá trình xây dựng chính sách và chương trình nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực trong gia đình; xây dựng và phát triển khái niệm “gia đình văn hóa”; tổ chức việc thu thập và lưu trữ thông tin liên quan tới gia đình, và đưa ra các hướng dẫn và xem xét những kinh nghiệm thực tế trong quá trình mở rộng các “gia đình văn hóa”; và giáo dục cộng đồng về phong cách sống và cách ứng xử trong gia đình truyền thống của Việt Nam. Các vấn đề liên quan tới gia đình vốn là trách nhiệm của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em trước kia, nay do Bộ VH-TT&DL đảm nhận + Bộ Công an (Bộ CA): chịu trách nhiệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm các quyền trẻ em, giáo dục và cải tạo thanh thiếu niên làm trái pháp luật. + Bộ Tư pháp: quản lý nhà nước trong lĩnh vực soạn thảo và thực thi các văn bản pháp lý; kiểm tra các văn bản pháp lý; phố biến và giáo dục các văn bản pháp lý; cung cấp trợ giúp pháp lý cho trẻ em; quản lý hoạt động cho nhận con nuôi (trong nước và nước ngoài); định hướng nhận thức và giáo dục về pháp luật bảo vệ trẻ em. 37 + Bộ Kế hoạch Đầu tư (Bộ KH&ĐT): quản lý nhà nước trong lĩnh vực lập kế hoạch và đầu tư, bao gồm cả công tác cố vấn toàn diện cho các chiến lược, chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, Bộ KH&ĐT chịu trách nhiệm đối với các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm và dài hạn; và huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội. + Bộ Tài chính (Bộ TC): hướng dẫn các Bộ ngành khác và các Ủy ban nhân dân lập dự toán ngân sách hàng năm và dài hạn dành cho trẻ em, và đề xuất các chính sách nhằm huy động nguồn lực tài chính để phục vụ các hoạt động vì quyền trẻ em. + Ủy ban Dân tộc (UBDT) tham mưu về các vấn đề dân tộc thiểu số, phối hợp với các Bộ ngành và các cơ quan khác xây dựng và thực hiện các chính sách, chiến lược, kế hoạch và chương trình hành động liên quan tới các vấn đề dân tộc thiểu số; Ủy ban cũng là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia dành cho các xã đặc biệt khó khăn ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi trong giai đoạn 2006 – 2010 (chương trình 135 giai đoạn II). + Tổng cục Thống kê (TCTK): có chức năng thống kê quốc gia và quản lý hoạt động thống kê của các Bộ ngành. Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã chịu trách nhiệm phân bổ nguồn tài chính, quản lý các cơ sở ban ngành cấp cơ sở tại địa phương. Đơn vị thực hiện trực tiếp các chính sách về bảo vệ trẻ em chính là các sở ban ngành liên quan, cơ quan chuyên trách tại địa phương. 1.3. Đặc điểm và vai trò của chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số bên cạnh các đặc điểm chung của các chính sách bảo trợ trẻ em nói chung còn các đặc trưng riêng biệt: Thứ nhất, đây là một trong những chính sách cần nhiều sự kết hợp của các bộ, ban ngành trong quá trình thực hiện nhất. Thứ hai, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là chính sách có nhiều bản chỉnh sửa theo đặc điểm văn hóa từng dân tộc và đặc điểm vùng miền. 38 Cuối cùng, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số còn khá mới mẻ so với nhiều chính sách khác nên đang trong quá trình hình thành và hoàn thiện. Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn trong việc đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số nhưng nhà nước luôn xem đây là một trong những chính sách đóng vai trò quan trọng. Đối với trẻ em dân tộc thiểu số, đây chính là chính sách riêng biệt, thống nhất từ trước đến nay đặt các em làm đối tượng chính, giúp các em có điều kiện phát triển toàn diện. Đối với tộc người, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số không chỉ giúp họ giải quyết vấn đề chăm sóc trẻ em trong thời điểm hiện tại mà còn tạo ra một tương lai tươi sáng cho cá nhân các em và tộc người nói chung. Góp phần đưa chỉ số phát triển của tộc người tăng lên. Đối với địa phương, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là một phần hỗ trợ ngân sách phát triển xã hội, là nền tảng cho phát triển kinh tế, xã hội lâu dài. Đồng thời, đây cũng là một trong những chính sách giúp địa phương xóa bỏ hủ tục, phát triển văn hóa, tiến kịp xã hội đương thời. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số - Yếu tố bên trong: Hệ thống luật pháp, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay được quy định cụ thể trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và trong các bộ luật liên quan. Chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở nước ta được thể hiện dưới dạng Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng chính phủ và các văn bản khác thuộc thẩm quyền của Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Mặc dù vậy, hệ thống chính sách bảo vệ trẻ em ở Việt Nam còn mỏng, có nhiều nội dung lại chưa quy định cụ thể, chi tiết; việc thực hiện gặp nhiều khó khăn do thiếu những biện pháp bảo đảm, sự chênh lệch chính sách với điều kiện thực tế... Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định việc đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số có hiệu quả hay không. Các cán bộ 39 chuyên trách trong việc đề ra chính sách cần vững về pháp luật, quyền trẻ em và đặc biệt là văn hóa tộc người hay địa bàn thực hiện chính sách. Đối với cán bộ thực hiện chính sách cần sự kết hợp của nhiều bộ phận, nhiều khâu và đặc biệt là khả năng nắm bắt địa bàn, tình hình trẻ em dân tộc thiểu số. Có thể nói cần nhân lực không chỉ đông đảo về lương và đạt chuẩn về chất không chỉ giỏi về kiến thức chuyên môn và còn có kinh nghiệm thực tiễn. - Yếu tố bên ngoài: Môi trường xã hội là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. Luôn luôn muốn dành những điều tốt nhất cho trẻ, chính quyền các cấp, gia đình, nhà trường và xã hội cần đảm bảodđáp ứng đầy đủ các nhu cầu chính đáng của trẻ, đảm bảo các quyền lợi thiết yếu và tạo ra một môi trường lành mạnh nơi trẻ có thể tự do phát huy hết năng lặc bản thân. Môi trường xã hội còn được thể hiện trên các yếu tố thành phần đó là trật tự an toàn xã hội. Nếu môi trường cộng đồng tộc người nói riêng và xã hội nơi các em sinh sống phát triển tốt và toàn diện về mọi mặt thì trẻ em vùng dân tộc thiểu số cũng sẽ được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục đầy đủ và phát triển tốt. Môi trường gia đình và cộng đồng có vai trò rất lớn đến sự phát triển của trẻ em dân tộc thiểu số. Xã hội hỗn loạn đồng nghĩa với việc môi trường phát triển của trẻ bị tổn hại, tăng nguy cơ trẻ bị xâm hại, ngược đãi và tiềm ẩn khả năng trẻ trở thành những người phạm tội rất cao. Nếu một gia đình không thuận hòa, bấp bênh về kinh tế và một cộng đồng yếu kém là môi trường chứa nhiều nguy cơ rủi ro gây tổn hại cho trẻ em dân tộc thiểu số, những đối tượng dễ bị tổn thương. Bên cạnh gìn giữ một gia đình hạnh phúc, tạo môi trường êm ấm cho trẻ phát triền thifgia đình cần nhận thức rõ về bảo vệ trẻ em, hiểu biết về chính sách về bảo vệ trẻ em, để thực hiện đầy đủ quyền lợi mà trẻ cần được nhận.Văn hóa truyền thống tộc người, đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nội dung, quá trình thực hiện chính sách.Một chính sách có kinh phí cao đến mấy, quy mô lớn đến bao nhiêu mà vấp phải truyền thống của tộc người thì tính khả thi rất thấp. Việc năm rõ văn hóa truyền thống tộc người sẽ giúp nhìn nhận được các vấn đề tồn tại trong việc chăm sóc trẻ em của đồng bào dân tộc thiểu số, tìm được các giải pháp phù hợp nhằm 40 mang lại hiệu quả cao nhất. Tiểu kết Chương 1 Trẻ em là mối quan tâm lớn nhất của các gia đình, là niềm hi vọng, mầm non tương lai của Việt Nam. Trẻ em là đối tượng nhận được sự chăm sóc, giáo dục từ gia đình và nhà trường và sự bảo vệ của toàn xã hội. Chính sách bảo trợ trẻ em nói chung và trẻ em dân tộc thiểu số nói riêng là bộ khung vững chắc cho các chương trình hành động diễn ra đạt hiệu quả cao và đúng với quy định của pháp luật. Việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số sẽ góp phần giải quyết sự chênh lệch kinh tế, xã hội của miền núi cao và vùng đồng bằng của các địa phương, đồng thời làm tiền đề phát triển trình độ, cuộc sốngcho các dân tộc thiểu số về lâu dài. Nội dung chương 1 là hệ thống những lý luận cơ bản về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số, xoay quanh vấn đề: khái niệm, đặc điểm, nội dung; cách tiếp cận và phương pháp thực hiện; yếu tố ảnh hưởng. Đó là cơ sở lý luận cho việc đánh giá thực trạng và đề ra các giải pháp nâng cao công tác quản lý, thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. 41 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ TRẺ EM ĐỐI VỚIDÂN TỘC THIỂU SỐ Ở QUẢNG BÌNH 2.1. Các yếu tố tác động đến chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình 2.1.1. Đặc điểm dân tộc thiểu số ở Quảng Bình Theo “Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác 6 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2017” của Ban dân tộc Quảng Bình:“dân số đồng bào dân tộc thiểu số toàn tỉnh Quảng Bình hiện có khoảng73.059 hộ với 290.443 khẩu, trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số có 5.842 hộ, 24.499 khẩu, trong đó Dân tộc Bru-Vân kiều có 4.089 hộ với 17.323 khẩu (chiếm 71% dân số dân tộc thiểu số); Dân tộc Chứt có 1.591 hộ 6.417 khẩu (chiếm 26% dân số dân tộc thiểu số). Ngoài ra còn có 162 hộ 759 khẩu thuộc thành phần các dân tộc thiểu số khác như: Thái, Mường, Thổ, Tày, Nùng , Pa cô, Ca rai (chiếm 3% dân số các dân tộc thiểu số). Trong đó, chủ yếu là dân tộc thiểu số tại chỗ, chiếm trên 95% tổng dân số các dân tộc thiểu số và không có các tín đồ tôn giáo hoạt động trên địa bàn. Tổng số hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số 4.671 hộ, chiếm 79,96% hộ đồng bào dân tộc thiểu số; số hộ cận nghèo là 529 hộ, chiếm 9,06% hộ đồng bào dân tộc thiểu số.” [68]. Nhìn chung, tại Quảng Bình các dân tộc thiểu số so với vùng khác có những đặc điểm khác biệt, đặc trưng. Từ đó, tạo nên nét riêng trong sinh hoạt hàng ngày cũng như lĩnh vực giáo dục, chăm sóc trẻ em. Thứ nhất, đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình có dân số không nhiều. Số người dân tộc thiểu số chỉ chiếm 2,3% dân số toàn tỉnh Quảng Bình. Đây là một con số khá ít ỏi so với các vùng khác trong cả nước. Trong đó có những tộc người dân số chỉ vài trăm người như A rem, Rục... Thứ hai, các dân tộc thiểu số Quảng Bình phân chia thành nhiều nhóm tộc người. Điển hình như dân tộc Bru - Vân kiều phân thành 4 tộc người là Vân kiều, Khùa, Ma Coong, Trì; dân tộc Chứt chia thành 5 tộc người là Sách, Rục, A rem, Mã liềng, Mày. Thứ ba, hầu hết các dân tộc thiểu số Quảng Bình sinh sống chủ yếu ở các xã 42 vùng sâu, biên giới, nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội hết sức khó khăn. Theo Trang thông tin điện tử Ban Dân Tộc Quảng Bình: Địa bàn cư trú của dân tộc Chứt thuộc một số xã miền núi, vùng cao của các huyện Bố Trạch, Tuyên Hoá, Minh Hoá, trong đó: - Tộc người Sách: Địa bàn cư trú chủ yếu ở các xã vùng cao của huyện Minh Hoá và sống rải rác ở một số xã miền núi của huyện Tuyên Hoá, Bố Trạch. Ở huyện Minh Hoá: Tộc người Sách cư trú tập trung theo cộng đồng ở các xã Thượng Hoá (bản Phú Minh, Yên Hợp), Hoá Sơn (bản Hoá Lương, Lương Năng), ngoài ra người Sách sống xen ghép với dân tộc Kinh ở các xã: Hoá Tiến, Hoá Hợp, Hoá Thanh, Dân Hoá, Trung Hoá, Hồng Hoá, Xuân Hoá, Thị trấn Quy Đạt... Ở huyện Tuyên Hoá: Tộc người Sách sống xen cư với dân tộc Kinh ở các xã: Lâm Hoá, Sơn Hoá, Lê Hoá, Thanh Hoá, Thị trấn Đồng Lê. Ở huyện Bố Trạch: Tộc người Sách sống xen cư với các dân tộc khác ở các xã: Thượng Trạch, Tân Trạch. - Tộc người Rục cư trú theo cộng đồng, chủ yếu là ở xã Thượng Hoá, huyện Minh Hoá. - Tộc người A Rem cư trú chủ yếu ở 2 bản thuộc xã Tân Trạch, Thượng Trạch huyện Bố Trạch. - Tộc người Mày cư trú ở 11 thôn bản thuộc các xã Dân Hoá, Hoá Tiến, Hoá Thanh, Thượng Hoá huyện Minh Hoá. - Tộc người Mã Liềng cư trú theo cộng đồng ở 6 bản thuộc các xã Trọng Hoá (huyện Minh Hoá), Thanh Hoá, Lâm Hoá (huyện Tuyên Hoá). Địa bàn cư trú của dân tộc Bru - Vân Kiều thuộc các xã vùng cao của huyện Lệ Thuỷ, Quảng Ninh, Bố Trạch và Minh Hoá. - Tộc người Vân Kiều: Địa bàn cư trú chủ yếu ở các xã vùng cao của huyện Lệ Thuỷ, Quảng Ninh và sống rải rác ở một số xã miền núi, vùng cao của huyện Bố Trạch. Ở huyện Lệ Thuỷ: Người Vân Kiều cư trú tập trung theo cộng đồng ở các xã Kim Thuỷ (10 bản), Lâm Thuỷ (6 bản), Ngân Thuỷ (5 bản). Ở huyện Quảng Ninh: Người Vân Kiều sinh sống theo cộng đồng ở các xã: Trường Sơn (15 bản), Trường Xuân (5 bản). 43 Ở huyện Bố Trạch: Người Vân Kiều cư trú tập trung theo cộng đồng ở các xã, thị trấn, như: Sơn Trạch (1 bản), Tân Trạch (1 bản), Thị trấn Nông trường Việt Trung (1 bản), ngoài ra có một số hộ xen cư với các tộc người khác ở Thượng Trạch, Tân Trạch, huyện Bố Trạch là điểm dừng chân cuối cùng của người Vân Kiều từ Nam ra Bắc. - Tộc người Ma Coong: Đồng bào cư trú theo cộng đồng ở xã Thượng Trạch (18 bản) và một bộ phận sống xen cư với người A Rem ở Tân Trạch, huyện Bố Trạch. - Tộc người Khùa: Đồng bào cư trú chủ yếu ở xã Dân Hoá (8 bản), Trọng Hoá (15 bản) của huyện Minh Hoá, một số hộ xen cư với dân tộc khác ở xã Thanh Hoá, huyện Tuyên Hoá. Bản thuộc xã Tân Trạch, Thượng Trạch huyện Bố Trạch. - Tộc người Trì: địa bàn cư trú ở xã Thượng Trạch (bản Cờ Đỏ, Nồng Mới, Troi) của huyện Bố Trạch. Địa bàn cư trú của 9 dân tộc, tộc người dân tộc thiểu số khác: Thổ, Mường, Tày, Êđê, Thái, Pacô, Giẻ Triêng, Cao Lan, Krai chủ yếu ở các huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá, Quảng Ninh, Lệ Thuỷ. Thứ tư, tình hình kinh tế của các dân tộc thiểu số Quảng Bình khá lạc hậu và trì trệ. Dân tộc Chứt chủ yếu canh tác nương rẫy và duy trì hái lượm, săn bắt. Về cơ bản các tộc người của dân tộc Chứt đã thoát khỏi cuộc sống săn bắt và hái lượm, tuy nhiên với nền kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc, nên hái lượm còn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của đồng bào.Người Bru - Vân Kiều sống chủ yếu nhờ làm nương rẫy và ruộng nước. Nông nghiệp là hoạt động sản xuất chính, đị bàn sản xuất là nương rẫy nên hiệu quả kinh tế đem lại không cao. Kỹ thuật canh tác nương rẫy vẫn chủ yếu là “phát, đốt, cốt, trỉa" với công cụ sản xuất thô sơ nên năng suất thấp. Hoạt động khai thác các nguồn lợi từ rừng như săn bắt, đánh cá, thu hái các loại rau, củ, quả là nguồn cung cấp thức ăn hết sức quan trọng. Chính vì vậy, tại Quảng Bình hộ nghèo chiếm đến 79,96% số hộ dân tộc thiểu số. Cuối cùng, bên cạnh bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp lâu đời, ngày nay ở các dân tộc thiểu số Quảng Bình vẫn còn tồn tại tình trạng tảo hôn. Theo ông Nguyễn Lương Cương, thuộc Ban Dân Tộc tỉnh Quảng Bình: “công tác điều tra tiến hành ở 3 cụm bản tập trung: Cụm trung tâm xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch gồm bản Cà Roòng I, bản Cà Roòng II, Bản Nịu; Cụm phía Đông xã gồm bản Ban và bản 44 Khe Rung; Cụm phía Tây gồm bản Bụt, bản 51 và bản Chăm Pu. Kết quả cho thấy có 56 cặp tảo hôn (chiếm 35,67% đối tượng điều tra), trong đó người chống tảo hôn là 25, người vợ tảo hôn là 31. Nữ kết hôn sớm nhất ở tuổi 13”. [12] Từ những đặc điểm trên có thể thấy, dân tộc thiểu số Quảng Bình không chỉ ít mà còn phân bố rải rác ở các vùng núi cao hiểm trở, gây khó khăn cho việc tiếp cận, phát triển kinh tế, giáo dục và đời sống thường ngày. Bên cạnh đó, các hủ tục cũng là một rào cản lớn cho cán bộ nơi đây khi tiếp xúc, thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em. 2.1.2. Cơ sở vật chất, hạ tầng vùng dân tộc thiểu số ở Quảng Bình 2.1.2.1. Cơ sở vật chất, hạ tầng từ chương trình 135 Quảng Bình là tỉnh có 64 xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc miền núi, với diện tích 6.649km2, chiếm trên 3/4 diện tích tự nhiên của tỉnh. Trong những năm qua, nhờ thực hiện tốt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 135), diện mạo vùng dân tộc và miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới đã có những chuyển biến tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được cải thiện, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng khang trang... Những kết quả to lớn đó đã góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế của các địa phương trên địa bàn tỉnh. Giai đoạn 2012 – 2015, Quảng Bình có 44 xã và 27 thôn đặc biệt khó khăn được thụ hưởng Chương trình 135. Tổng số hộ nghèo thuộc đồng bào dân tộc thiểu số là 4.302 hộ, chiếm 76,89%; hộ cận nghèo là 493 hộ, chiếm 8,81% /hộ đồng bào dân tộc thiểu số.Tổng nguồn vốn đầu tư hỗ trợ cho Chương trình là 226.389 triệu đồng. Thông qua nguồn vốn, tỉnh đã tập trung hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm; giống cây trồng vật nuôi; xây dựng mô hình sản xuất; mua sắm thiết bị máy móc, công cụ sản xuất, chế biến sản phẩm và đầu tư vào 254 công trình trên địa bàn 44 xã, 27 thôn đặc biệt khó khăn, trong đó có 18 công trình khởi công mới, 236 công trình chuyển tiếp... Giai đoạn 2016 – 2020, toàn tỉnh có 40 xã và 27 thôn được thụ hưởng Chương trình 135 theo Quyết định 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn 2... trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. - Nguyên nhân chủ quan: + Một số cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng tính cấp thiết của công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số trong tình hình mới. Sự chỉ đạo trong hoạt động Xây dựng xã phường phù hợp trẻ em chưa đạt kế hoạch (121/131 xã đăng ký đạt tiêu chuẩn). 74 + Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, gia đình, nhà trường và xã hội chưa được chặt chẽ, thiếu đồng bộ nên hiệu quả bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số chưa cao. Nhiều gia đình chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em. + Đội ngũ cán bộ làm công tác trẻ em cấp xã thường xuyên thay đổi, kiêm nhiệm và chưa được tập huấn đầy đủ về công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số; cộng tác viên, tình nguyện viên làm công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu sốở thôn, bản chỉ có 05/159 xã, phường, thị trấn nên việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động Bảo vệ, chăm sóc trẻ em, tổng hợp số liệu và nắm tình hình trẻ em ở cơ sở còn gặp nhiều khó khăn; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số chưa thường xuyên. + Nguồn lực xã hội và ngân sách Nhà nước dành cho sự nghiệp bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số còn hạn chế. Thậm chí, trong những năm gần đây, nguồn ngân sách đó còn giảm so với các năm trước, năm 2016 là 9,444 tỷ đồng, thấp hơn 3,94 tỷ đồng so với năm 2014 (13,414 tỷ đồng). Bên cạnh đó, qua quá trình điều tra, tìm hiểu nghiên cứu, tác giả nhận thấy ở Quảng Bình hiện chưa có một chính sách riêng biệt, dài hạn nào để bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số. Hầu hết các chương trình thường là lồng ghép trong các chính sách dân tộc, phát triển kinh tế, xã hội hay bảo vệ trẻ em nói chung trên địa bàn tỉnh. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến còn tồn tại nhiều hạn chế trong công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình. 75 Tiểu kết Chương 2 Trẻ em dân tộc thiểu số chiếm một lượng không lớn trong tổng số dân Quảng Bình nhưng lại đóng vai trò quan trọng và không thể thiếu trong kết cấu dân số nói chung và trẻ em Quảng Bình nói riêng. Vốn là đối tượng trẻ em phải chịu nhiều thiệt thòi về vật chất cũng như các vấn đề chăm sóc sức khỏe, văn hóa giáo dục do điều kiện tự nhiên đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng vật chất nghèo nàn, kinh tế lạc hậu... trẻ em dân tộc thiểu số Quảng Bình cần được chăm sóc, bảo vệ và thực hiện các chính sách bảo trợ cần thiết. Trong những năm qua, thực hiện theo đường lối của Đảng và Nhà nước, UBND tỉnh Quảng Bình đã giao nhiệm vụ cho các ban ngành liên quan phối hợp, thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số mang lại nhiều hiệu quả tích cực cho trẻ em dân tộc thiểu số địa phương và cũng là bàn đạp hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu sổ được chính quyền các cấp ở Quảng Bình thực hiện theo mô hình, phương pháp chung kết hợp với tính sáng tạo theo thực tế địa phương đã đem lại những hiệu quả nhất định trên mọi mặt: giáo dục, y tế, văn hóa, kinh phí đầu tư và hoạch định chính sách. Những kết quả đạt được tuy không phải là nhiều, còn thấp hơn so với tình hình chung của cả nước và các vùng lân cận, nhưng nhìn chung đây đã là một bước tiến đáng kể trong lĩnh vực chính sách công của tỉnh Quảng Bình cũng như vấn đề bảo trợ trẻ em nói chung tại địa phương. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, các cán bộ chuyên trách vẫn đang cố gắng khắc phục nhằm đạt hiệu quả cao trong thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. Cùng với việc bám sát tình hình thực tế, các cán bộ, cơ quan ban ngành đã có những biện pháp, định hướng cụ thể cho sự phát triển, hiệu quả lâu dài của chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình. 76 CHƯƠNG 3 MỤC TIÊU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ TRẺ EM ĐỐI VỚI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở QUẢNG BÌNH 3.1. Mục tiêu Trong “Báo cáo Kết quả thực hiện công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em năm 2017và kế hoạch hoạt động năm 2018”, Sở lao động và thương binh xã hội Quảng Bình đã đưa ra những mục tiêu về chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình trong thời gian tới. 3.1.1. Mục tiêu chung Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo cơ hội cho mọi trẻ em vùng cao nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đều được bảo vệ, chăm sóc. Trẻ cần được chăm sóc dưới các hình thức khác nhau và thực hiện quyền cơ bản của trẻ em; cung cấp các dịch vụ bảo vệ trẻ em; phấn đấu thực hiện đạt các chỉ tiêu liên quan đến Bảo vệ, chăm sóc trẻ em đối với dân tộc thiểu số, nhất là trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt sớm ổn định cuộc sống, tạo cơ hội để thực hiện quyền cơ bản của trẻ em, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về cơ hội phát triển giữa trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số với trẻ em ở thành phố, miền xuôi. 3.1.2. Mục tiêu cụ thể Có 82,4% số xã, phường được công nhận đạt tiêu chuẩn xã, phường phù hợp với trẻ em, tạo môi trường cho trẻ em được phát triển an toàn, toàn diện. Điều này rất có ý nghĩa với các trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số vì hiện nay địa bàn sinh sống của các em vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu hụt về mặt vật chất, cơ sở hạ tầng và cả nhân lực. 3.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình Từ những vấn đề về chính sách trên tác giả nhận thấy chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình cần hướng đến một số giải pháp cơ bản sau: 77 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo trợ trẻ em Muốn có một môi trường luật pháp đầy đủ, tạo thuận lời cho việc thực thi chính sách bảo trợ trẻ em, cần: hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan; tạo môi trường xã hội thân thiện với trẻ em; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; thực hiện đầy đủ công ước quốc tế về quyền trẻ em; đào tạo lớp cán bộ chuyên trahcs giỏi về chuyên môn, có kinh nghiệm địa bàn. Việc thực thi chính sách bảo vệ trẻ em phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách, pháp luật; nguồn lực kinh tế nắm vai trò trọng yếu trong quá trình thực hiện chính sách nhưng nguồn lực con người mới chính là nhân tố quyết định thành bại. Nguồn nhân lực có trình độ từ khâu đề ra chính sách, kế hoạch đến việc thực hiện sẽ mang lại hiệu quả cao cho việc bảo vệ trẻ em. Đặc biệt, chỉ có cán bộ chuyên trách giàu kinh nghiệm mới có thể giúp giải quyết được các vấn đề liên quan đến trẻ em mà gia đình chưa thể làm được. Vần đề bảo vệ trẻ em ở nước ta còn quy định ở rất nhiều điều luật liên quan khác như : Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao động, Bộ luật hình sự. Trong đó: Luật hôn nhân và gia đình có quy định liên quan đến quyền phụ nữ và trẻ em; Luật lao động Việt Nam có Chương XI nói về lao động chưa thành niên; Bộ Luật hình sự năm 1999 có những quy định để bảo vệ trẻ em khỏi tội phạm hay đối với trẻ em phạm tội. Bên dưới Luật còn có nhiều chính sách của Nhà nước có liên quan đến bảo vệ trẻ em được thể hiện dưới dạng Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản khác thuộc thẩm quyền của các bộ ngành và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Hiện nay vấn đề xác định độ tuổi trẻ em vẫn chưa được thống nhất giữa các văn bản hiện hành, gây khó khăn cho việc đề ra chính sách cũng như nghiên cứu. Thậm chí ở cùng một độ tuổi nhưng ở văn bản này được coi là trẻ em, ở văn bản khác đã thành người lớn, dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Ví dụ như, theo Luật BVCSGDTE, trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi, Luật Hôn nhân và gia đình xác định độ tuổi con nuôi là từ 15 tuổi trở xuống, Bộ Luật hình sự năm 1999 quy định người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bộ Luật lao động lại quy định người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi và khái niệm trẻ em được hiểu là người chưa đủ 15 tuổi. Do vậy 78 cần sớm xác định thống nhất độ tuổi trẻ em trong hệ thống pháp luật nước ta theo hướng phù hợp với luật pháp quốc tế là dưới 18 tuổi. Cần sớm có một cột mốc chung giành cho việc xác định độ tuổi của trẻ. 3.2.2. Tăng cường sự quản lý nhà nước của chính quyền địa phương, sự thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện của cả hệ thống chính trị trong thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình - Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp của các ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và cộng đồng trong việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo vệ và chăm sóc trẻ em trong tình hình mới. - Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật được xem là công cụ hành chính hữu dụng nhất, được hình thành từ hộ máy tổ chức cán bộ tham gia hoạch định chính sách từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. Đồng thời, đối với các đối tượng buôn bán trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em, Nhà nước có các quy định, mệnh lệnh để kiểm soát, xử phạt hành chính, xử lý trách nhiệm hình sự phù hợp, đúng người, đúng tội nhằm tạo môi trường lành mạnh cho trẻ phát triển. - Hoàn thiện bộ máy tổ chức, dội ngũ cán bộ làm công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở các cấp; tăng cường phối hợp liên ngành các cấp; nêu cáo vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trong công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số nhằm phát huy các nguồn lực và cũng là phù hợp với hoàn cảnh của Quảng Bình hiện nay. Hiện nay, tỉnh Quảng Bình thường xuyên tiến hành giám sát, đôn đốc việc chấp hành pháp luật, chính sách liên quan đến trẻ em vùng dân tộc thiểu số dối với cán bộ chuyên trách và các đối tượng liên quan trực tiếp. - Các cấp địa phương cần quan tâm bố trí nguồn lực cho công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. Phân cấp rõ trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực hiện, bảo đảm điều kiện cho các hoạt động bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tại địa phương. Tiếp tục nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, tình nguyện viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp; từng bước chuyên nghiệp 79 hóa mạng lưới tổ chức và đội ngũ cán bộ công tác xã hội làm việc với trẻ em; mở rộng mạng lưới cộng tác viên bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở cấp thôn, bản. + Tiến hành phân cấp cán bộ quản lý cho địa phương, mở chương trình đào tạo kỹ năng cho cán bộ khi làm việc trực tiếp với gia đình, trẻ em tại cộng đồng để đảm bảo việc nắm bắt tình hình, nhằm giải quyết các vấn đề bất cập một cách nhanh chón, đảm bảo quyền lợi của trẻ em. + Cần lên kế hoạch và chương trình cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành chính sách công phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc trẻ em. - Ưu tiên đào tạo cho cán bộ cơ sở kỹ năng thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin; kỹ năng lập kế hoạch và tham mưu các chính sách chỉ đạo, điều hành thực hiện việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em tại địa phương. Cán bộ địa phương trực tiếp tham gia thực hiện chính sách cần được bồi dưỡng kĩ năng xây dựng, quản lý dự án bảo trợ trẻ em với các kỹ năng cụ thể như: theo dõi, giám sát các chỉ số; phân tích tình hình; phát hiện những vấn đề nảy sinh từ cộng đồng... tạo cơ sở thực tiễn tham mưu cho các cấp ủy Đảng và Chính quyền, từ đó có giải pháp phù hợp với thực tế địa phương, tránh quan liêu, lý thuyết, rời xa thực tế. Đội ngũ trực tiếp làm công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em cần được đào tạo, kĩ năng thông tin giáo dục truyền thông trong quá trình thực hiện chính sách, mỗi cán bộ là một kênh truyền thông. Đồng thờiđội ngũ cán bộ tham gia hệ thống các dịch vụ xã hội liên quan đến gia đình và trẻ em dân tộc thiểu số cũng cần được nâng cao hiểu biết về chính sách bảo trợ trẻ em của nhà nước và trở thành một tuyên truyền viên đắc lực. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực truyền thông và hiểu rõ về chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em để có đủ năng lực tìm hiểu, tổ chức thực hiện hoạt động thông tin – giáo dục – truyền thông – tư vấn. - Hiện nay, các cấp chính quyền địa phương đang được đề cao và đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chính sách phát triển kinh – xã hội, chính sách bảo trợ trẻ em không phải là ngoại lệ. Bên cạnh việc phát triển kinh tế xã hội địa phương, cần chú trọng đến việc thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em, áp dụng phù hợ dựa trên tình hình của chính địa phương mình. Lãnh đạo địa phương cần ý thức được tầm quan trọng của chính sách bảo trợ 80 trẻ em đối với đồng bào dân tộc thiều số và đưa các mục tiêu, kết quả của quá trình thực thi chính sách vào bản kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thường kỳ hàng năm, hàng quý của địa phương. Trong việc chỉ đạo, lồng ghép các hoạt động phải quán triệt quan điểm vùng, miền, khu vực. Các biện pháp chính để rút ngăn sự khác biệt giữa các khu vực là kết hợp phân bổ ngân sách với hỗ trợ kỹ thuật, giáo dục và khen thưởng thích hợp. Khi xây dựng mục tiêu phải căn cứ vào mức phấn đấu chung của cả tỉnh mà đặt nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương mình. - Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tực phát huy vai trò đi đầu của mình với các các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương trong công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. Việc bảo trợ trẻ em cần có sự phối hợp liên ngành từ cấp trung ương đến cấp cơ sở; thực hiện việc thành lập tổ chức phối hợp liên ngành các cấp trong vấn đề bảo trợ trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số. - Hoàn thành các số liệu cần thiết về trẻ em dân tộc thiểu số, hệ thống đánh giá cơ bản về quyền trẻ em; đào tạo đội ngũ có đủ năng lực, đủ tâm và tầm làm công tác phân tích, tham mưu, đề xuất về các vấn đề từ thực tiến đại phương với lý luận đặt ra; song song với đó tìm ra cách thức liên hệ phù hợp, nhuần nguyễn giữa các ban ngành nhằm đảm bảo sự thông suốt về hoạt động, truyền tải thông tin giữa các cơ quan, tổ chức. - Dựa trên chiến lược truyền thông được hình thành từ sự đóng góp tích cực của cơ quan ban ngành các cấp, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nước, dư luận xã hội đã quan tâm hơn đến công tác thưc hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình, đặc biệt là lên án các hủ tục như tảo hôn ảnh hưởng đến sự phát triển của bé gái. 3.2.3. Tăng cường hoạt động truyền thông, giáo dục về chính sách bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình - Các cán bộ và cơ quan chuyên trách cần tránh thụ động trong việc huy động nguồn lực và cần sử dụng có hiệu quả chúng để có thể thực hiện được các chương trình đặt ra cho nhiệm vụ bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số. 81 Với giải pháp này, cần áp dụng cả hai công cụ truyền thông trực tiếp và gián tiếp: thực hiện chiến dịch truyền thông thồn qua đài báo; các chương trình tuyên truyền, tư vấn trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng, gia đình và cộng đồng dân cư. - Đẩy mạnh công tác truyền thông qua việc thưc hiện đường lối của Đảng, pháp luật nhà nước đối với bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, nâng cao nhận thức của các cán bộ chuyên trách liên quan từ cấp trung ương đến địa phương ở tất cả các ban ngành, đặc biệt để người dân và chính đối tượng thụ hưởng hiểu được ý nghĩa của chiến lược bảo vệ và chăm sóc trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số. Các chương trình truyền thông theo tháng, quý, năm như: “Tháng Hành động vì trẻ em”, “Ngày gia đình”, “Năm gia đình và trẻ em”, được phát động và thực hiện thường kỳ, tạo được ý thức cho người dân thông qua các chiến dịch vận động, các buổi tạo đàm, các hội thi... Ngoài ra, việc tạo chuyên trang về vấn đề bảo vệ trẻ em trên báo, hay cho ra đời sản phẩm truyền thông mẫu về bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng cần được tiến hành song song. Đặc biệt, cần nâng cao khả năng tham gia của chính trẻ em trong quá trình truyền thông chính sách bảo vệ chính mình, thực hiện quyền được tham gia của trẻ và mang lại hiệu ứng truyền thông chân thật. - Truyền thông – giáo dục đang dần trở thành một mạng lưới trong hệ thống dịch vụ xã hội. Bên cạnh kiến thức sách vở, truyền thông – giáo dục đi sau vào việc hướng dẫn kĩ năng sống nói chung, kĩ năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em dân tộc thiểu số nói riêng cho gia đình và cộng đồng nhằm giảm chi phí mà thu lại được hiệu quả cao. Các dịch vụ truyền thông - giáo dục chiều sâu được quan tâm, sử dụng phương pháp phù hợp để mục tiêu bảo vệ và chăm sóc trẻ em của Nhà nước và mỗi địa phương trở thành nhu cầu của mỗi cá nhân, gia đình và toàn cộng đồng. Đa dạng hóa các loại hình và phương pháp Việc tiếp cận đối tượng để giáo dục và cung cấp kiến thức về bảo vệ và chăm sóc trẻ em cần được thực hiện dưới nhiều loại hình và phương pháp khác nhau dựa trên đặc điểm của đối tượng và địa bàn cư trú. - Tập trung cải thiện chất lượng của các loại hình truyền thông chính sách bảo trợ trẻ em đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng: thứ nhất đề cao sự thú vị và giải trí; thứ hai mang tính đổi mới; thứ ba dược xây dựng trên cơ sở có sự tham gia nhiều hơn của trẻ em. 82 - Đề cao sự tham gia trực tiếp của trẻ em trong việc thực hiện và quản lý truyền thông. Kết hợp nghiệp vụ sư phạm cần thiết cho từng đối tượng với các phương pháp tiếp cận truyền thống của truyền thông từ trước đến nay. Phát triển, mở rộng quy mô phong trào phong trào toàn xã hội bảo trợ cho đối tượng là trẻ em chịu thiệt thòi vùng sâu vùng xa. - Cần tiến hành kết hợp các nguồn lực trong và ngoài địa phương trong việc truyền thông giáo dục, tư vấn bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đồng thời cần xây dựng một cơ chế phù hợp với các mối quan hệ lồng ghép và tình hình địa phương. Cần kêu gọi tinh thần tự giác tham gia của người dân ngay từ bước đầu lựa chọn giải pháp, đến thúc đẩy tiến độ và duy trì kết quả. Trong quá trình thực hiện cần tránh tư tưởng cục bộ địa phương, rời xa cộng đồng, ỷ lại vào Nhà nước và các nguồn hỗ trợ khác. Đặc biệt, truyền thông cần đến tận các cá nhận, hộ gia đình để tránh việc đùn đẩy trách nhiệm bảo vệ và chăm sóc trẻ em cho xã hội. Dựa vào kênh truyền thông sẵn có, phát huy hết năng lực từ trước đến nay của chúng, đồng thời đề cao ý tưởng sáng tạo trong quá trình thực hiện công tác truyền thông. - Xây dựng các kênh thông tin, các chương trình chuyên sâu nhiều khía cạnh liên quan đến trẻ em. Kết hợp sản phẩm truyền thống với cách thức truyền thông giáo dục hiện đại trong việc tổng hợp, tuyên truyền và thực hiện nội dung chính sách. 3.2.4. Tăng cường xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình - Đẩy mạnh công tác xã hội hóa công tác bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình theo hướng nâng cao trách nhiệm của gia đình và nhà trường, cộng đồng dân cư và các tổ chức chính trị xã hội. Có hai công cụ cơ bản để thực hiện giải pháp bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số đó là: tổ chức dựa vào cộng đồng; kết hợp với các tổ chức chính trị xã hội. Các cơ quan chuyên trách luôn khuyến khích các cá nhân, tập thể đóng góp sức người, sức của cho các hoạt động của trẻ em. Đây chính là xã hội hóa vấn đề bảo trợ trẻ em, nhà nước và nhân dân cùng làm. - Lấy loại hình công lập làm nòng cốt,tăng cường phát triển hệ thống các cơ sở chăm sóc sức khỏe củ trẻ tại thôn bản, xây dựng các trường nội trú, bán trú cho trẻ 83 em dân tộc thiểu số các cấp, tạo cơ hội cho các em được chăm sóc hỗ trợ về thể chất và phát triển tri thức. - Nhà nước phân về các cơ quản chủ quản quyền quản lý và hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức liên quan đến trẻ em như: Hội Bảo vệ quyền trẻ em, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi... - Trong tương lai, các cơ quan quản lý nên thay đổi tư duy lâu năm, hướng tới hỗ trợ cho Hội Bảo vệ quyền trẻ em các cấp chính sách, kinh tế để mua các dịch vụ tiên tiến trong vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em từ các tổ chức trong và ngoài nước. - Các cơ quan ban ngành của tỉnh Quảng Bình, đặc biệt là bộ Lao động, thương binh và xã hội cần chủ động xây dựng kế hoạch hành động ngắn hạn và dài hạn. Kế hoạch thực thi chính sách bảo trợ trẻ em sẽ làm tiền đề, cơ sở cho mọi hoạt động, đồng thời kêu gọi các mạnh thường quân và các tổ chức trong, ngoài nước thực hiện công tác bảo trợ trẻ em trên địa bàn tỉnh. - Các Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em đều được tỉnh Quảng Bình thực hiện và đạt kết quả bước đầu. Bên cạnh đó tỉnh còn thực hiên và các Công ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước kí kết và tiến hành hợp tác với các địa phương và tổ chức về các vấn đề trẻ em với chiến lược phát triển lâu dài. - Chủ động, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế đa phương, song phương và phi chính phủ để tranh thủ học hỏi kĩ thuật, kinh nghiệm, các nguồn lực phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp bảo vệ trẻ em; Xây dựng các mô hình bảo vệ, chăm sóc trẻ em dân tộc thiểu số. Chủ động tham gia và tổ chức các sự kiện quốc tế và khu vực về bảo vệ, chăm sóc trẻ em dân tộc thiểu số. Thời gian gần đây, việc Việt Nam hợp tác với các tổ chức quốc tế như UNICEF, ILO, WHO, Save the Children, Plan, World Vision, ChildFund..., đã giúp tỉnh Quảng Bình huy động nguồn lực trong việc xây dựng và thực hiện chăm sóc và bảo vệ trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 3.2.5. Xây dựng và triển khai các chương trình, đề án, chính sách cho giai đoạn 2016 – 2020 tại tỉnh Quảng Bình Hiện nay, Quảng Bình đang tích cực triển khai các chương trình cho trẻ em như: Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em; Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ 84 em; Chương trình xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; Chương trình thúc đẩy quyền tham gia của trẻ em; Chương trình phòng, chống bạo lực đối với trẻ em; Chương trình phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em... Các chương trình, đề án, mô hình và hoạt động trọng tâm: + Tuyền truyền, phổ biến Luật trẻ em và Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em. Tỉnh Quảng Bình tiếp tục tăng cường các giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em theo Chỉ thị 18/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.. + Chỉ đạo các địa phương thực hiện tốt Chương trình hành động vì trẻ em 2012 - 2020; Chương trình quốc gia Bảo vệ trẻ em 2016 - 2020; xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em năm 2018; Kế hoạch Phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ em; tổ chức hoạt động trong các ngày lễ, tết cho trẻ em vui vẽ, an toàn; tiếp tục cập nhật phần mềm quản lý theo dõi trẻ em cấp xã và chỉ đạo hoạt động tốt. + Tham mưu UBND tỉnh bố trí kinh phí cho công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh năm 2018, hỗ trợ thêm kinh phí cho Chương trình xây dựng xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em và Chương trình Phòng chống tai nạn thương tích trẻ em để triển khai các hoạt động được tốt hơn. + Hướng dẫn các ban, ngành, địa phương, cơ sở tổ chức các hoạt động nhân Tháng Hành động vì trẻ em 2018, ngày Quốc tế Thiếu nhi và Tết trung thu... Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền về phòng chống bạo lực, xâm hại, tai nạn thương tích, đuối nước trẻ em. + Vận động các tổ chức, cá nhân từ thiện trong và ngoài nước để huy động nguồn lực giúp đỡ trẻ em đồng bào dân tộc thiểu số; tiếp tục chỉ đạo triển khai tốt các hoạt động của Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh như: vận động quỹ, thăm và tặng quà cho trẻ em đặc biệt khó khăn; tiếp nhận và thực hiện tốt các dự án để giúp đỡ trẻ em trên địa bàn tỉnh. Dự kiến kinh phí hoạt động: Dự kiến kinh phí hoạt động cho công tác Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong năm 2018 là 11,6 tỷ đồng, trong đó: + Ngân sách Trung ương: 900 triệu đồng; + Ngân sách địa phương: 1,7 tỷ đồng; 85 + Huy động từ cộng đồng: 3,5 tỷ đồng; + Huy động từ các nhà từ thiện trong và ngoài nước: 5,5 tỷ đồng. Nguồn kinh phí này sẽ được tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng về mảng y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao cho các em nhỏ thuộc dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa. Tiểu kết Chương 3 Để cho mọi trẻ em vùng cao nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đều được bảo vệ, chăm sóc. Trẻ em cần được chăm sóc dưới các hình thức khác nhau và thực hiện quyền cơ bản của trẻ em; cung cấp các dịch vụ bảo vệ trẻ em theo các mục tiêu đã đưa ra. Để đạt được các mục tiêu ấy trong quá trình thực hiện chính sách chăm sóc trẻ em vùng dân tộc thiểu số cần có những nhóm giải pháp đồng bộ, thiết thực ngay từ khâu xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách phát luật tới công tác triển khai thực hiện vàgiám sát kết quả thực hiện các chính sách chăm sóc trẻ em mà luận văn đã đưa ra. 86 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đề tài “Thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình” được thực hiện trong khoảng thời gian 08 tháng từ tháng 1/2018 đến tháng 8/2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nhằm mục đích nghiên cứu lý luận và thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số, từ đó đề xuất nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Sau quá trình nghiên cứu và thực địa, tác giả rút ra một số kết luận: Thứ nhất, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số là một lĩnh vực còn mới mẻ đối với ngành chính sách công Việt Nam nói chung. Nó đòi hỏi sự kết hợp giữa nhiều cơ quan ban ngành trong quá trình đưa ra và triển khai thực hiện chính sách. Thứ hai, thực trạng địa bàn Quảng Bình gặp nhiều khó khăn về sơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật hay văn hóa tộc người phức tạp khiến cho việc thực hiện chính sách gặp nhiều khó khăn, bất lợi. Thứ ba, tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua đã năng động tỏng việc kêu gọi kinh phí và bước đầu đạt được những thành quả nhất định trong việc triển khai chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số: về y tế tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm mạnh; về giáo dục nâng cao đầu tư cho các trường dân tộc nội trú nâng số trẻ đến trường tăng cao so với các năm trước; về cơ sở hạ tầng nhiều tuyến đường giao thông được dầu tư, trường học, trạm y tế được xây dựng; nhiều chương trình văn hóa, bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại, bóc lột được thực hiện dưới sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội. Thứ tư, nguồn nhân lực thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số Quảng Bình đang gặp nhiều khó khăn. Mặc dù đã được UBND tỉnh đầu tư thu hút nhân tài, nâng cao tình độ chuyên môn nhưng do địa bàn rộng, cán bộ mỏng lại phải phụ trách nhiều công việc, mang tính kiêm nhiệm thiếu tính chuyên trách nên vấn đề nhân sự, mắt xích quan trọng trong chính sách công đang gặp nhiều vấn đề cần được giải quyết. Cuối cùng, tỉnh Quảng Bình luôn đề cao tầm quan trọng của trẻ em đặc biệt là trẻ em miền núi cao nên đã đưa ra mục tiêu cụ thể nhằm khắc phục các khó khăn còn tồn tại, nhằm tiến tới thu hẹp khoảng cách chất lượng đời sống, giáo dục của trẻ em vùng đồng bằng thành phố với trẻ em dân tộc thiểu số vùng cao. Thông qua việc đi sâu, tìm hiểu nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình, tác giả có một kiến nghị nhằm 87 nâng cao hiệu quả thực hiện như sau: Thứ nhất, về quy trình thực hiện chính sách. Quảng Bình đang thực hiện mô hình từ trên xuống kết hợp từ dưới lên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn xuất hiện việc các cấp thôn, xã báo cáo sai tình hình thực tế. Chính vì vậy cần có một quy trình rõ rang kèm theo phân công trách nhiệm, xử phạt hợp lý. Thứ hai, nhân lực thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình hiện nay hầu như chưa có một cán bộ chuyên trách nào. Cần quy hoạch lại nhân sự, phân công chuyên trách rõ rang, trách kiêm nhiệm nhiều gây phân tán, làm việc hời hợt thiếu tập trung. Đồng thời cần tổ chức đào tạo, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ thực hiện chính sách theo các cấp và có sự phối hợp của đầy đủ các ban ngành. Cuối cùng, vấn đề kinh phí thực hiện chính sách đang có xu hướng suy giảm qua các năm. Ngân sách thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số luôn yêu cầu ở mức cao. Việc kinh phí giảm dần sẽ ảnh hưởng lớn đến các các chương trình dài hạn. Chính vì vậy bên cạnh nguồn kinh phí từ nhà nước cấp cho, chính quyền nên năng động kêu gọi các nhà tài trợ. Tất nhiên phải dựa trên đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Đặc biệt cần thực hiện chi tiêu hiệu quả nguồn ngân sách, tránh tình trạng hao hụt hoặc thực hiện những chương trình kém hiệu quả, kinh phí cao. Về mặt nghiên cứu khoa học, đề tài hi vọng góp một phần tư liệu cho ngành nghiên cứu Chính sách công còn đang mới mẻ ở Việt Nam nói chung. Đặc biệt, đây là nguồn cung cấp tài liệu cho việc tìm hiểu về khái niệm, quy trình, cách thức, kết quả thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số ở Quảng Bình dành cho các cán bộ chuyên trách. Mặc dù thời gian nghiên cứu chưa nhiều, kinh nghiệm nghiên cứu còn mới và đây cũng là một vấn đề mới mẻ, tải liệu hạn chế, chủ yếu dựa vào thực địa và tìm hiểu thực tế, tác giả vẫn hi vọng đây sẽ là bước đầu, nền tảng để phát triển đề tài ở quy mô lớn hơn, đi sâu nghiên cứu hơn. Trẻ em chính là tương lai của địa phương, đất nước và toàn nhân loại. Việc thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em chính là đầu tư cho tương lai của đất nước. Riêng đối với trẻ em dân tộc thiểu số, chính sách bảo trợ cho đối tượng này mặc dù còn chưa nhiều hoặc lồng ghép trong các chương trình khác nhưng đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi vùng 88 sâu, vùng xa. Với Quảng Bình, chính sách bảo trợ trẻ em đối với dân tộc thiểu số còn là một bước đệm giúp phát triển kinh tế vùng núi cao, thể hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân và góp phần rút ngắn khoảng cách kinh tế - xã hội giữa miền xuôi và miền ngược. Hy vọng với đề tài nghiên cứu này, tác giả có thể góp phần giúp ngành chính sách công của Quảng Bình khắc phụ hạn chế, Sở Lao động – Thương binh và xã hội nơi tác giả công tác có thể đưa ra nhiều chính sách phù hợp, thực hiện mang lại hiệu quả cho trẻ em dân tộc thiểu số.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_thuc_hien_chinh_sach_bao_tro_doi_voi_tre_em_vung_da.pdf
Tài liệu liên quan