VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ MY LY
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ MY LY
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG BÌNH
Ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 838.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ KHÁNH MINH
HÀ NỘI, năm
81 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận văn Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác Giả Luận Văn
Trần Thị My Ly
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN ............................................................... 7
1.1 Khái niệm, mục đích, nguyên tắc, đặc điểm, vai trò của phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh niên ................................................................................... 7
1.2 Các yếu tố cấu thành phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ................ 14
1.3 Điều kiện bảo đảm việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên .................................................................................................................. 24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO THANH NIÊN TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH ...................................... 28
2.1 Những yếu tố tác động đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh niên trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ........................................................ 28
2.2 Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................... 34
2.3 Đánh giá thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tại tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................... 47
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH ............................................................ 54
3.1 Quan điểm nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên tỉnh Quảng Bình ...................................................................................... 54
3.2 Giải pháp nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên tỉnh Quảng Bình ...................................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PBGDPL : Phổ biến, giáo dục pháp luật
HĐND : Hội đồng nhân dân
PHCTPBGDPL : Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình thanh niên tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật 32
2.2 Số liệu điều tra người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật 33
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
PBGDPL luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống, là một bộ phận
không thể tách rời với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Trong việc thực hiện pháp luật, PBGDPL là giai đoạn đầu tiên, là công cụ để
đưa pháp luật đến gần hơn với nhân dân. Muốn pháp luật đi vào đời sống xã
hội, ngoài yêu cầu bảo đảm tính đồng bộ, tính thống nhất, khả thi, phù hợp
của quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, việc
PBGDPL còn nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của mọi
công dân, đặc là tầng lớp thanh niên.
Thanh niên luôn có vai trò đặc biệt quan trọng, là nguồn lực trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, bên cạnh nhiều thanh niên có lý
tưởng sống, ước mơ, hoài bão tốt đẹp, có trách nhiệm với gia đình và xã hội
thì vẫn còn nhiều đối tượng còn thiếu bản lĩnh, đua đòi, ham thưởng thụ, để
các thế lực thù địch, phản động lôi kéo, kích động... làm ảnh hưởng xấu đến
tình hình an ninh chính trị trên địa bàn, gây hoang mang trong quần chúng
nhân dân.
Ngoài ra, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường khiến một bộ phận
thanh niên có lối sống thực dụng, buông thả, bản lĩnh chính trị non kém, lập
trường dao động, ngại tham gia các hoạt động có ích cho xã hội, thiếu tự
tin...Đáng quan tâm là những thông tin phản động, văn hóa đồi trụy ngày càng
nhiều tác động tiêu cực đến tâm trạng, đạo đức, tư tưởng, lối sống của nhiều
thanh niên khiến họ rơi vào các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật. Đặc biệt,
trong thời gian qua, tình trạng vi phạm pháp luật trong thanh niên ngày càng
gia tăng.
Một trong những nguyên nhân của việc vi phạm pháp luật ở thanh niên
2
ngày càng gia tăng trước hết là do thiếu hiểu biết về pháp luật; vốn sống và
hiểu biết xã hội của thanh niên còn hạn hẹp; khả năng tiếp thu thông tin nhanh
nhưng ít chọc lọc, dễ bị lợi dung, lôi kéo. Mặt khác, một số thanh niên thất
nghiệp, khó khăn, chưa có việc làm; còn có quá trình hội nhập giao lưu kinh
tế - văn hóa - xã hội không ngừng được tăng cường những chưa có sự chuẩn
bị kỹ lưỡng về mọi mặt gây nên tác động xấu đến lối sống của một bộ phận
thanh niên trong việc chấp hành pháp luật. Những vấn đề nêu trên đang trở
nên bức xúc, đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp, các ngành, mỗi
gia đình và toàn xã hội trong nhiệm vụ PBGDPL cho thanh niên.
Trong những năm gần đây, cùng với cả nước, tỉnh Quảng Bình đã và
đang huy động toàn bộ sức mạnh hệ thống chính trị vào cuộc để triển khai và
thực hiện tốt các luật của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, các đề án của
Thủ tướng Chính phủ về tuyên truyền giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên.
Qua quá trình triển khai, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định; các
cơ quan chuyên môn, các phòng, ban và các tổ chức chính trị - xã hội đã tích
cực, chủ động triển khai một cách đồng bộ đã góp phần nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho thanh niên.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy ý thức pháp luật của một bộ phận thanh niên
vẫn còn chưa cao, biểu hiện như: hiểu biết pháp luật còn hạn chế, thiếu sự tôn
trọng pháp luật, còn có vi phạm pháp luật...Điều này xuất phát từ nhiều
nguyên nhân trong đó có nguyên nhân từ phía phổ biến, giáo dục pháp luật
cho thanh niên chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn. Vì vậy, để có thể đạt
được những kết quả như mong muốn, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
cho thanh niên cần nhận được sự quan tâm, đầu tư và tham gia tích cực, chủ
động của toàn xã hội. Những hoạt động phục vụ công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh niên cần được lên kế hoạch rõ ràng, và kết quả của công
tác chính là ý thức, hành động theo pháp luật của thanh niên.
Với những lý do trên, đề tài luận văn “Phổ biến, giáo dục pháp luật cho
3
thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” được chọn để nghiên cứu nhằm làm
rõ thêm cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc hoàn thiện phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh niên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
PBGDPL là một vấn đề mang tính cấp thiết của nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Đây là vấn đề có rất nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Hiện nay, rất nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ, tiến sĩ, tạp chí...đề
cập đến vấn đề PBGDPL.
Trước hết là “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật
trong công cuộc đổi mới”, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994, mã số 92-98-
223-ĐT, của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; tiếp theo là
cuốn sách “Bàn về giáo dục pháp luật” của Trần Ngọc Đường và Dương
Thanh Mai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Cuốn sách này đã đưa ra
khái niệm của giáo dục pháp luật, ngoài ra cũng nghiên cứu về đối tượng, vai
trò, chủ thể, phương pháp giáo dục, làm rõ mục đích của việc giáo dục từ đó
làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu. Bên cạnh đó là luận án tiến sĩ của
Dương Thanh Mai (1996), “Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước
ta - Thực trạng và giải pháp”. Tác giả đã đi sâu phân tích công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật ở nước ta; đặc biệt là trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, đây là khâu đầu
tiên rất quan trọng trong hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối giữa hoạt
động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật. Luận văn thạc sĩ “Một số vấn
đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay” năm 1997 của Hồ Quốc
Dũng.
Bài đăng trên tạp chí “Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật
trong tình hình mới” của Hồ Việt Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
4
9/2000; “Giáo dục pháp luật cho đồng bào người Chăm ở thành phố Ninh
Thuận hiện nay” năm 2005 của Đinh Thị Hoa; “Giáo dục pháp luật góp phần
nâng cao ý thức và nghĩa vụ tuân thủ pháp luật” của Tống Đức Thảo, tạp chí
Lý luận chính trị, số 10/2006 nghiên cứu vai trò tác động của giáo dục pháp
luật đối với việc hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp dân
cư đồng thời nêu những đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật; “Giáo dục
pháp luật đối với cư dân nông thôn đồng bằng sông Cửu Long” năm 2008 của
Nguyễn Tiến Hải; “Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho
công nhân tại các doanh nghiệp ở Thành phố Đồng Tháp giai đoạn hiện nay”
năm 2012 của Nguyễn Thị Thu Ba; “ Phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình – thực trạng và giải pháp” năm 2013
của Dương Thị Thu Hiền; “Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên ở đô
thị - từ thực tiễn thành phố Hà Nội” năm 2016 của Trần Thị Bích Hạnh.
Các công trình khoa học trên đã cho thấy nhiều tác giả nghiên cứu, tiếp
cận và giải quyết những vấn đề liên quan đến PBGDPL dưới những góc độ
khác nhau. Do vậy, việc chọn đề tài nghiên cứu này mang cả ý nghĩa lý luận
và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động PBGDPL đối với thanh
niên nói chung và tại Quảng Bình nói riêng. Để thực hiện luận văn, tác giả
tiếp thu một cách có chọn lọc nghiên cứu của một số công trình khoa học liên
quan đến đề tài. Đây cũng là lý do để đề tài này được lựa chọn bởi không
trùng lặp với các công trình liên quan được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên, đề tài đánh giá thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tại
tỉnh Quảng Bình để từ đó có cơ sở đề xuất những giải pháp nâng cao chất
lượng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
- Phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật
cho thanh niên trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta.
- Phân tích thực trạng việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh tại
tỉnh Quảng Bình trong những năm gần đây qua đó rút ra những hạn chế cần
khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế đó.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh niên Quảng Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến,
giáo dục pháp luật cho thanh niên Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh niên tỉnh Quảng Bình.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh niên tỉnh Quảng Bình từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn đó là dựa trên Chủ nghĩa Mác Lê-nin; tư
tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà
nước. Bên cạnh đó, các quan điểm của các tác giả cũng được kế thừa và
phát huy.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu để làm sáng
6
tỏ, trong đó tập trung một số phương pháp sau: Phương pháp khảo cứu tài
liệu, phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần vào hệ thống hoá cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Về thực tiễn: Các khuyến nghị của luận văn có giá trị tham khảo trong
thực tế hoàn thiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên.
- Đề tài còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên
cứu liên quan sau này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, thì đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh niên.
Chương 2: Thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tại
tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng phổ biến, giáo
dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO THANH NIÊN
1.1 Khái niệm, mục đích, nguyên tắc, đặc điểm, vai trò của phổ biến,
giáo dục pháp luật cho thanh niên
1.1.1 Khái niệm thanh niên
Việt Nam là một trong những quốc gia có dân số trẻ. Thanh niên so với
tổng dân số chiếm tỷ lệ cao, nếu như có thể giáo dục, bồi dưỡng, dạy dỗ tốt
thì sẽ trở thành những người có ích cho Tổ quốc. Hiện nay, nhiều tác giả đã
đưa ra các khái niệm khác nhau về thanh niên tùy theo quan điểm của mỗi
người, các góc độ để đánh giá. Thanh niên là khái niệm dùng để chỉ một lớp
người trong xã hội ở một độ tuổi xác định, đang phát triển về cả thể chất, tinh
thần và tư duy, lý tưởng. Thanh niên không phải là một giai cấp nhưng bị chi
phối bởi những mối quan hệ giai cấp, quan hệ xã hội, lối sống của cộng đồng
trong xã hội. Bởi vậy, thanh niên đóng vai trò không nhỏ trong xã hội. Thanh
niên là nguồn nhân lực có vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, là một trong những yếu tố chủ chốt đối với tương lai của cả
quốc gia, lực lượng này phải trải qua nhiều gian nan, vất vả về cả vật chất và
tinh thần đóng góp một phần không nhỏ đối với vận mệnh đất nước. Thanh
niên là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong mọi mặt của đời sống hằng
ngày cũng như trong các lĩnh vực khoa học, có nhiều quan niệm khác nhau về
thanh niên.
Dưới góc độ sinh học thì các nhà nghiên cứu coi thanh niên là một giai
đoạn trong quá trình phát triển của cơ thể, vì trong giai đoạn này, về mặt thể
lực, trí tuệ, sinh lý đều có sự thay đổi rõ rệt. Thanh niên là độ tuổi sung sức
nhất về thể chất.
8
Thanh niên là giai đoạn chuyển từ ý thức, tư duy theo khuynh hướng lệ
thuộc vào gia đình, nhà trường và xã hội, sang giai đoạn tự ý thức, nhận thức
được về thái độ, hành vi, tư tưởng.
Thanh niên dưới góc độ kinh tế học là nguồn nhân lực không thể thiếu
trong đội ngũ lao động và sản xuất. Bên cạnh đó, thanh niên cũng là bộ phận
quan trọng cấu thành lực lượng sản xuất, sự năng động, nhạy bén, ham học
hỏi, sáng tạo, gắn bó mật thiết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Dưới góc độ luật học, Luật Thanh niên tại Điều 1 quy định “Thanh niên
là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” [31, tr.1]. Theo
quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 thì phổ biến, giáo
dục pháp luật là hoạt động truyền đạt thông tin, nội dung pháp luật. Theo
quan niệm quốc tế thì thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi.
Như vậy, khái niệm thanh niên dùng để chỉ một lớp người trong xã hội
với độ tuổi từ đủ 16 đến 30 tuổi, đang ở trong giai đoạn chuyển tiếp về nhận
thức cũng như tư duy, là lực lượng có vai trò không thể thiếu đối với các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh....trong đời sống xã hội.
1.1.2 Khái niệm, mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên
Theo từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng năm 1997) thì "Phổ biến là làm
cho đông đảo mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền
đạt trực tiếp hay thông qua hình thức nào đó” [41, tr. 3]
Phổ biến pháp luật vừa mang ý nghĩa xã hội, vừa mang ý nghĩa nhân
văn, pháp luật ban hành phải được phổ biến công khai đến tất cả các đối
tượng mới đem lại hiệu quả cao. Ngoài ra, phổ biến pháp luật còn mang tính
tác nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho những đối tượng cụ thể để hiểu
rõ các quy định của pháp luật, từ đó thực hiện đúng pháp luật. Trong thực
9
tiễn, thông qua các buổi tọa đàm, tập huấn, các cuộc hội thảo có lồng ghếp
phổ biến pháp luật.
Theo Từ điển từ và ngữ Hán – Việt "Giáo dục là quá trình hoạt động có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người
những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng
tham gia mọi mặt của đời sống xã hội" [36, tr. 3]
Theo Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ Phổ biến giáo dục pháp luật thì: “Giáo
dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức
pháp luật cho đối tượng và bằng nhiều cách (thuyết phục, nêu gương, ám
thị...) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý
thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng”
[34, tr. 7]
Phổ biến và giáo dục pháp luật đều nhằm nâng cao nhận thức của người
dân, tuy nhiên, giáo dục pháp luật có nội dung rộng hơn, phương thức tiến
hành chặt chẽ hơn, có đối tượng xác định.
Khái niệm giáo dục pháp luật được các tác giả thống nhất trong các tài
liệu khoa học về pháp luật ở nước ta như sau: Giáo dục pháp luật là một hoạt
động có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của chủ thể giáo dục thông qua
các hình thức, phương pháp khác nhau tác động lên đối tượng giáo dục một
cách có hệ thống nhằm hình thành ở họ một cách bền vững tri thức pháp lý, ý
thức pháp luật, tình cảm, niềm tin và hành vi phù hợp với pháp luật hiện
hành, xây dựng lối sống theo pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu Phổ biến, giáo dục pháp luật theo
nghĩa rộng là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn
phục vụ cho việc thực hiện phổ biến giáo dục pháp luật, đó là xây dựng
chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật; triển khai chương trình,
kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật thông qua việc áp dụng các hình thức,
10
biện pháp phổ biến giáo dục pháp luật; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết,
tổng kết việc thực hiện chương trình, kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật.
Nghĩa hẹp của Phổ biến, giáo dục pháp luật là: chuyển tải nội dung, ý nghĩa
của quy phạm pháp luật đến đối tượng cần tác động nhằm giúp họ hiểu và
làm theo pháp luật, dần hình thành ở họ ý thức và tư duy pháp luật, có thái
độ, hành vi đúng pháp luật.
* Mục đích của việc PBGDPL cho thanh niên
Mọi hình thức phổ biến, giáo dục một khi được áp dụng đều vì mục đích
nâng cao ý thức, trách nhiệm của công dân. Sống trong một xã hội có trật tự
kỷ cương, việc PBGDPL trang bị cho mỗi cá nhân không chỉ về tri thức
chuyên môn mà còn bồi dưỡng tình cảm, thái độ, hành vi ứng xử. Xác định
mục đích PBGDPL có ý nghĩa về cả lý luận và thực tiễn.
Trước hết, là nâng cao hiểu biết pháp luật cho thanh niên, đây được coi
là mục đích đầu tiên, không thể thiếu trong PBGDPL. Thanh niên đa phần có
sự nhận thức về xã hội chưa nhiều, bên cạnh đó pháp luật không phải lúc nào
cũng được mọi người biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và chấp hành
nghiêm chỉnh. Muốn pháp luật đi vào thực tiễn thì các quy định của pháp luật
phải được dân biết đến, dân hiểu, có như vậy thì bản chất của pháp luật mới
thể hiện rõ.
Việc quan tâm, tìm hiểu, nắm bắt hay nghiên cứu về pháp luật của nhân
dân đa số chỉ xuất phát từ nhu cầu phục vụ trực tiếp cho công việc, nhưng
những đối tượng này số lượng chưa nhiều.Với trình độ dân trí còn chưa cao ở
nước ta, đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thì việc tiếp cận với
pháp luật của đông đảo quần chúng nhân dân còn nhiều hạn chế. PBGDPL
chính là phương tiện truyền tải những nội dung, quy định, những đổi mới của
pháp luật cho người dân biết, từ đó nắm bắt kịp thời và chấp hành nghiêm
chỉnh, tiết kiệm thời gian và công sức cho việc tự tìm hiểu cũng như nâng cao
hiểu biết pháp luật cho nhân dân.
11
Hai là, PBGDPL hình thành lòng tin vào pháp luật của thanh niên. Pháp
luật không thể có ý nghĩa thực tiễn khi nhân dân không tin tưởng vào những
quy định được ban hành, chỉ khi họ tin tưởng, họ mới nghiêm chỉnh thực hiện.
Việc xây dựng pháp luật là để bảo vệ cho lợi ích của nhân dân, của cộng
đồng, bảo đảm công bằng, dân chủ, văn minh. Để tạo niềm tin cho người dân
cần kết hợp nhiều yếu tố, trong đó PBGDPL là một trong những yếu tố đóng
vai trò quan trọng nhằm giúp nhân dân hiểu biết pháp luật, quy trình áp dụng
pháp luật, những khó khăn khi thực hiện pháp luật cũng như những ưu điểm,
hạn chế trong việc xây dựng pháp luật. Thiếu lòng tin đối với pháp luật có thể
khiến hành vi của con người lệch khỏi chuẩn mực pháp luật, trong khi đó,
pháp luật không phải lúc nào cũng thỏa mãn lợi ích của tất cả mọi người, vì
vậy chính những hạn chế trong các quy định của pháp luật càng tạo nên sự
cần thiết của PBGDPL để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình ủng hộ
pháp luật. Có như vậy mới tạo niềm tin đối với pháp luật của đông đảo quần
chúng nhân dân trong xã hội.
Ba là, hình thành ở đối tượng thái độ, cách cư xử, hành vi xử sự theo pháp
luật. Tóm lại, mọi kết quả của PBGDPL đều phải được thể hiện ở hành vi ứng
xử của mỗi cá nhân, là nền tảng cơ bản hình thành nhân cách của con người.
Bốn là, hình thành nên ý thức pháp luật cơ bản và bền chặt đối với toàn
dân. PBGDPL bao gồm tuyên truyền các quy định của pháp luật đang có hiệu
lực, ủng hộ các hành vi thực hiện đúng pháp luật, đồng thời lên án các hành vi
sai trái, vi phạm pháp luật, tạo tâm lý đồng tình, ủng hộ trong nhân dân. Cần
thực hiện PBGDPL cho nhân dân thường xuyên, kịp thời, chặt chẽ, rộng rãi,
có như vậy mới nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
Ngoài ra, PBGDPL nâng cao còn sự hiểu biết của con người đối với các quy
định pháp luật, các hiện tượng pháp luật xảy ra trong đời sống hằng ngày, từ đó
góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
12
Giữa các mục đích đều có quan hệ qua lại thống nhất chặt chẽ, tác động
lẫn nhau. Bởi vậy, thỏa mãn cả ba mục đích này thì PBGDPL sẽ đem lại hiệu
quả cao, không chỉ là yếu tố tác động từ bên ngoài mà còn tác động đến tư
duy, tư tưởng và trở thành nội tâm của mỗi người. Đây là một trong những
yêu cầu quan trọng mà PBGDPL nói chung và PBGDPL cho thanh thiếu niên
nói riêng phải đáp ứng được.
1.1.3 Đặc điểm của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên
Thứ nhất, PBGDPL cho thanh niên là PBGDPL cho tầng lớp trẻ, là
nguồn nhân lực tương lai của đất nước và phải đào tạo ở các bậc học khác
nhau. Do vậy, chủ thể PBGDPL cần dựa trên đặc trưng này để đưa ra phương
pháp phổ biến, giáo dục phù hợp. Đối với đối tượng là thanh niên thì có sự đa
dạng về trình độ văn hóa, nghề nghiệp, độ tuổi, môi trường sống...Điều này
đòi hỏi nhu cầu thông tin, kiến thức pháp luật với mỗi đối tượng sẽ khác nhau.
Chính vì vậy, trong quá trình PBGDPL phải có sự sàng lọc, phân loại đối
tượng để cung cấp những thông tin pháp luật phù hợp.
Thứ hai, PBGDPL đối với thanh niên có mối liên hệ chặt chẽ với công
tác xây dựng, thực hiện pháp luật.
Quá trình đưa pháp luật đến với đời sống không thể thiếu hoạt động
PBGDPL, đây là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Không phải
lúc nào pháp luật cũng được mọi người biết đến, ủng hộ hay chấp hành
nghiêm chỉnh. Bản chất của pháp luật là phản ánh ý chí, nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nhân dân nhưng nếu không được nhân dân biết đến thì
cũng không có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy, PBGDPL là phương tiện
truyền tải những thông tin, những nội dung và quy định của pháp luật với
thanh niên, giúp cho thanh niên hiểu biết, nắm bắt kịp thời, có hiệu quả. Từ đó
thanh niên có thể nhận thức đúng đắn để tránh vi phạm pháp luật, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật bởi thanh niên là lứa tuổi đang phát triển, chưa có
nhận thức chín chắn, dễ bị dụ dỗ, lôi kéo vào con đường phạm pháp.
13
Thứ ba, PBGDPL đối với thanh niên đòi hỏi phải sử dụng các phương
pháp, hình thức phù hợp với trình độ dân trí, văn hóa, sự phát triển của khoa
học công nghệ, đặc điểm về nhận thức, tư duy, lối sống, của thanh niên.
Hiện nay, với môi trường sống năng động, khoa học công nghệ phát triển
thì chủ thể PBGDPL cho thanh niên cần rèn luyện họ trở thành những con
người phát triển toàn diện về mọi mặt, có kiến thức về pháp luật và tinh thần
trách nhiệm đối với xã hội. Bên cạnh những phương pháp truyền thống thì cần
tăng cường áp dụng những phương pháp hiện đại, có sử dụng công nghệ để
nâng cao hiệu quả, dễ tiếp thu, tác động nhanh vào nhận thức của thanh niên.
1.1.4 Vai trò của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên
V.I. Lê – nin đã nhấn mạnh: “ Luật là biện pháp chính trị, là chính trị”.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là công tác quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động
của các tổ chức, cá nhân, đây là trách nhiệm của Đảng và toàn dân, đòi hỏi có
sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức; là một trong những mắt xích không thể
thiếu để mọi người đều ý thức, hành động, cư xử theo pháp luật, theo đường
lối của Đảng. Muốn pháp luật được chuyển tải, thấm nhuần vào đời sống nhân
dân thì cân PBGDPL. Hoạt động PBGDPL góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhiệm vụ xây dựng
pháp luật và đưa pháp luật vào đời sống phải được thực hiện song song.
Thứ nhất, PBGDPL giúp hình thành ý thức pháp luật và đạo đức cho thanh
niên, tăng cường sự hiểu biết pháp luật. Các quy phạm pháp luật được xây dựng
dựa trên nền tảng các nguyên tắc đạo đức. Do vậy mà pháp luật bảo vệ và phát
triển đạo đức. Giáo dục đạo đức tạo những tiền đề căn bản để xây dựng sự tôn
trọng đối với pháp luật ở công dân, ngược lại, giáo dục pháp luật tạo ra khả năng
thiết lập trong đời sống thực tiễn thường ngày những nguyên tắc đạo đức.
PBGDPL đối với thanh niên giúp cho thanh niên có tri thức pháp lý, tình
cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng
14
quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do
của mỗi người; phòng ngừa có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật của
thanh niên. PBGDPL cho thanh niên góp phần nâng cao ý thức pháp luật, văn
hoá pháp lý của thanh niên.
PBGDPL cho thanh niên nhằm xây dựng cho thanh niên tư duy về pháp
luật, tin vào pháp luật, ý thức được việc sống và làm theo pháp luật, hiểu biết
sâu sắc hơn các sự kiện pháp luật trong đời sống.
Thứ hai, PBGDPL cho thanh niên góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
Đây là vai trò hết sức quan trọng của PBGDPL cho thanh niên. Pháp luật
là công cụ để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Một khi thanh niên đã tin vào
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, thì việc quản lý nhà nước sẽ dễ
dàng hơn, phát huy tối đa hiệu quả của mỗi cơ quan, tổ chức thực thi pháp
luật và quyền tự do, dân chủ của mỗi cá nhân.
Có thể nói, PBGDPL với nhiều kiểu tác động khác nhau nhằm nâng
cao trình độ nhận thức về pháp luật, tư duy và lý tưởng pháp lý của toàn thể
quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, PBGDPL là nền tảng cho việc quản lý xã
hội của bộ máy nhà nước, bài trừ những hành vi vi phạm, chống phá xã hội
chủ nghĩa.
1.2 Các yếu tố cấu thành phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên
1.2.1 Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên
Trong khoa học pháp lý, chủ thể PBGDPL là những cá nhân, tổ chức
theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào hoạt động PBGDPL nhằm thực hiện các mục đích của giáo dục
pháp luật.
Khoản 1 Điều 3 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định
“Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị,
15
trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt” [29, tr. 1]. Trong giai đoạn hiện nay,
PBGDPL cho thanh niên là trách nhiệm của các cấp bộ Đảng, của các cơ quan
trong bộ máy Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần
chúng, của mỗi cá nhân... Tuy nhiên, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân làm công tác PBGDPL, chủ thể giáo
dục pháp luật thường được chia thành hai loại là chủ thể chuyên nghiệp và
chủ thể không chuyên nghiệp.
Chủ thể chuyên nghiệp là loại chủ thể quan trọng và chủ yếu, là những
người có chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý chủ yếu, trực tiếp và
thường xuyên thực hiện công tác giáo dục pháp luật. Chủ thể chuyên nghiệp
bao gồm các tổ chức và cá nhân như: các Hội đồng PHCTPBGDPL; các trung
tâm tư vấn pháp luật; trung tâm trợ giúp pháp lý; các bộ phận chuyên trách
công tác phổ biến giáo dục pháp luật thuộc ngành Tư pháp; các báo cáo viên,
tuyên truyền viên pháp luật ở các cơ quan Đảng, các cơ quan Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế các
giảng viên pháp luật, giáo viên giáo dục công dân; các phóng viên, biên tập
viên chuyên trang, chuyên mục pháp luật ở các cơ quan Báo - Đài - Tạp chí
Chủ thể giáo dục pháp luật không chuyên nghiệp thường là những cá
nhân, tổ chức kiêm nhiệm, đảm nhận nhiệm vụ chính là chuyên môn nghiệp vụ
của họ, PBGDPL chỉ là lồng ghép vào các hoạt động phục vụ công việc chính
của họ, chủ thể này rất đa dạng. Bên cạnh đó, có sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa con người với con người, khi người này thực hiện tốt pháp luật, có ý
thức chấp hành các quy định của pháp luật dẫn đến ảnh hưởng đến những
người xung quanh cũng học tập và làm theo pháp luật. Riêng đối với đối
tượng thanh niên thì Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có vai trò nòng
cốt trong hoạt động PBGDPL.
16
* Chủ thể của phổ biến, giáo dục pháp luật cần có các điều kiện sau:
Một...c pháp luật. Do đó, với đòi hỏi quản lý xã hội
theo pháp luật, pháp luật phải được nhận thức như là một chuẩn mực chủ yếu
của đời sống xã hội thì việc hình thành cho được tình cảm, thiện cảm với pháp
luật, mong muốn tìm hiểu pháp luật có ý nghĩa quan trọng bởi nó nói lên sự
thành công hay thất bại của công tác PBGDPL nói chung và PBGDPL cho
thanh niên ở Quảng Bình nói riêng. Thông qua khảo sát thực tế bằng tin bài
của các báo, đài... có thể thấy nhiều thanh niên thấy được sự cần thiết phải
học pháp luật. Bên cạnh đó, cũng có nhiều trường hợp dù được trang bị kiến
thức đầy đủ về pháp luật nhưng khi tìm hiểu sự quan tầm tìm đọc của thanh
niên đối với các văn bản pháp luật có tính phổ biến nhất định thì mức độ đó
lại rất thấp.
Bảng 2.1 Tình hình thanh niên tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật
Đơn vị: %
Tiêu chí điều tra Học sinh Sinh viên
Tìm đọc Hiến pháp 15 46
Tìm đọc Bộ luật Hình sự 8,3 12
Tìm đọc Bộ luật Tố tụng Hình sự 6 20
Tìm đọc Luật Hôn nhân gia đình 4 32
TÌm đọc các Luật, Pháp lệnh khác 7,3 17
Nguồn: Số liệu điều tra của Sở Tư pháp Quảng Bình
Tỉ lệ thanh niên tìm hiểu về pháp luật còn thấp, đặc biệt là học sinh. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế trên, nhưng nguyên nhân rõ ràng nhất là
33
ngay cả đội ngũ giáo viên, giảng viên làm công tác giáo dục pháp luật cũng ít
quan tâm, tìm hiểu các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực thi pháp luật. Từ
đó dẫn đến nội dung bài giảng không phong phú, khó gần gũi với thực tế, nên
khó để thuyết phục và tạo niềm tin với người học.
Bảng 2.2 Số liệu điều tra người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Đơn vị: %
Tiêu chí điều tra
Giáo viên
phổ thông
Giảng viên
đại học
Tìm hiểu Hiến pháp 57 65
Tìm hiểu Bộ luật Hình sự 14,3 59
Tìm hiểu Bộ luật Tố tụng Hình sự 13 45
Tìm hiểu Luật Hôn nhân gia đình 42 60
Tìm hiểu các Luật, Pháp lệnh khác 16,7 25
Tìm đọc các báo pháp luật và đời sống 61,5 63
Nguồn: Số liệu điều tra của Sở Tư pháp Quảng Bình
Đây là một thực trạng đáng báo động và cần có biện pháp khắc phục để
nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật của thanh niên. Một khi chủ thể làm
công tác PBGDPL mà không có kiến thức pháp luật vững vàng thì khó có thể
tạo được lòng tin cho đối tượng được giáo dục.
Thứ ba là căn cứ vào thực tiễn chấp hành pháp luật. Đối với việc thực
hiện một hành vi hợp pháp thì về mặt hiểu biết, ý thức pháp luật của cá nhân
có thể được biểu hiện ở các trường hợp: Có thể hiểu biết pháp luật, nhận thức
đầy đủ về hành vi đó; do thói quen; do ảnh hưởng của môi trường; sợ bị pháp
luật trừng phạt. Có thể thấy hiểu biết pháp luật để không làm những việc pháp
luật cấm, để hành động phù hợp với các quy định của pháp luật. Đây là một
trong những căn cứ quan trọng nói lên thực trạng hiểu biết pháp luật của loại
đối tượng này.
34
Ở Quảng Bình, với sự quan tâm chăm sóc của gia đình, nhà trường, xã
hội, nhiều thanh niên học hành chăm chỉ, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện phẩm
chất, chấp hành nội quy, quy chế học tập. Đây là kết quả của việc giáo dục
toàn diện cả về chuyên môn, đạo đức, chính trị, xã hội của nhà trường, gia
đình, xã hội. Tuy nhiên vẫn còn một số thanh niên có thái độ thờ ơ, không
quan tâm đến pháp luật, thiếu hiểu biết, có biểu hiện vi phạm quy chế, nội quy
nhà trường, thậm chí vi phạm pháp luật.
Tóm lại, dựa trên các căn cứ và sự phân tích trên có thể thấy sự hiểu biết
pháp luật ngày càng đầy đủ dù vẫn còn ở mức độ nhất định, chưa thực sự thấu
đáo hết mọi nội dung của các ngành luật. Trên cơ sở lượng kiến thức pháp
luật được trang bị thông qua những chương trình PBGDPL, thanh niên có thể
nhận thức được sự cần thiết của pháp luật đối với bản thân, gia đình, xã hội. Ở
một chừng mực nào đó, để cho những hiểu biết pháp luật của thanh niên thấm
sâu vào trí có, trở thành tình cảm bền vững, thái độ tích cự đối với pháp luật ở
mọi thanh niên thì phải có những biện pháp lớn, toàn diện hơn, hiệu quả hơn
từ phía Nhà nước, từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân làm công tác PBGDPL và
cả từ phía gia đình.
2.2 Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình
2.2.1 Chủ thể thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên
trên địa bản tỉnh Quảng Bình
Với tinh thần huy động toàn bộ lực lượng cho công tác PBGDPL, đến
nay chủ thể làm công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh đã được củng cố, ngày
càng đi lên về cả số lượng lẫn chất lượng. Theo báo cáo tổng kết 5 năm thực
hiện Đề án tăng cường công tác PBGDPL cho thanh thiếu niên giai đoạn
2013-2017 của UBND tỉnh, chủ thể thực hiện công tác PBGDPL cho thanh
niên Quảng Bình bao gồm Hội đồng PHCTPBGDPL, các cán bộ công chức tư
pháp các cấp, tổ hòa giải, giáo viên, giảng viên...
35
Hội đồng PHCTPBGDPL gồm: Đại diện lãnh đạo UBND tỉnh; đại diện
lãnh đạo các ngành như: Tư pháp, Công an, Đài Truyền thanh tỉnh, Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh...Tất cả đều có trình độ từ cử nhân trở
lên. Nhờ vậy mà công tác PBGDPL được triển khai rộng khắp thông qua hoạt
động của Hội đồng PHCTPBGDPL các cấp. Hoạt động theo mô hình này, lần
đầu tiên, công tác PBGDPL đã huy động được sự tham gia đông đảo của các
cơ quan, ban, ngành, đoàn thể; phát huy được tính xã hội hoá, thu hút dược
nhiều nguồn lực trong xã hội tham gia. Sự tồn tại của Hội đồng cùng hiệu quả
hoạt động của nó đã và đang được khẳng định. Thời gian qua, các ngành, địa
phương đã tăng cường tuyên truyền, kịp thời phổ biến các văn bản pháp luật
mới ban hành, liên quan thiết thực đến nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị
và đời sống của cán bộ, nhân dân.
Hiện nay, toàn tỉnh có 396 công chức tư pháp các cấp, trong đó có 182
công chức trực tiếp thực hiện công tác quản lý nhà nước về PBGDPL; 67
công chức pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh.
Đội ngũ báo cáo viên cũng đóng vai trò quan trọng trong công việc tăng
cường công tác PBGDPL tại địa bàn tỉnh. Hiện có 119 báo cáo viên cấp tỉnh;
167 báo cáo viên cấp huyện và 1.715 tuyên truyền viên pháp luật cấp xãbáo
cáo viên các cấp, tất cả đều bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định tại
Thông tư số 18/2010/TT-BTP ngày 05/11/2010 của Bộ Tư pháp quy định về
báo cáo viên pháp luật.
Ngoài ra, lực lượng làm công tác PBGDPL tại các huyện, xã còn có
1.348 tổ hòa giải với 9.006 hòa giải viên. Số hòa giải viên có trình độ học vấn
cao đang ngày càng tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, không thể không kể đến
245 giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân, đây cũng là một lực lượng
tích cực trong công tác tham gia PBGDPL cho thanh niên.
Có thể nói, đội ngũ làm công tác PBGDPL tại tỉnh Quảng Bình ngày
càng được quan tâm, phát triển về số lượng và nâng cao trình độ chuyên môn
36
nghiệp vụ. Việc huy động được đông đảo lực lượng các ban, ngành, đoàn thể,
các báo cáo viên, tuyên truyền viên, hòa giải viên...tham gia PBGDPL đã đem
lại hiệu quả đáng kể trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống, phát huy được
sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác PBGDPL. Tuy nhiên, vẫn
còn một số Phòng Tư pháp mỏng về số lượng, cán bộ đảm nhận nhiều công
việc nên không thể chuyên tâm cho việc PBGDPL. Mặt khác, trình độ và khả
năng truyền đạt của Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật còn nhiều hạn
chế, kiến thức về pháp luậtcòn hạn hẹp. Mặc dù ngành Tư pháp đã tích cực
phối hợp với các ngành trong việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ
PBGDPL cho lực lượng này song chưa thường xuyên, chưa đạt được hiệu quả
cao. Về chế độ thù lao cho Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật hiện
nay còn phụ thuộc vào điều kiện của từng ngành, từng địa phương, do vậy
chưa khuyến khích, động viên, tác động mạnh đối với họ.
2.2.2 Nội dung và đối tượng của phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh niên tỉnh Quảng Bình
Nội dung của PBGDPL cho thanh niên gắn với từng nhóm đối tượng,
phù hợp với nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội tại địa bàn và yêu cầu của từng
ngành, cơ quan, đơn vị. Hiện nay, nội dung PBGDPL tại tỉnh Quảng Bình tập
trung vào các nhóm cơ bản:
Nhóm các văn bản pháp luật có tác động trực tiếp, liên quan thiết thực
đến đời sống của người dân Quảng Bình gồm các văn bản luật, văn bản dưới
luật, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh, huyện
ban hành. Nhóm nội dung này được triển khai tuyên truyền, phổ biến một
cách thường xuyên, ổn định.
Thứ hai là nhóm các văn bản pháp luật vừa mới được cơ quan có thẩm
quyền ban hành sắp có hiệu lực hoặc vừa có hiệu lực. Nhóm này được triển
khai trên cơ sở kế hoạch của UBND tỉnh, huyện. Hình thức đó là mở hội nghị
triển khai từ tỉnh, huyện, đến xã, thôn, từ cán bộ cốt cán đến toàn thể cán bộ
37
và nhân dân; sau đó tùy thuộc điều kiện từng vùng để thực hiện tuyên truyền,
phổ biến cho phù hợp.
Thứ ba là nhóm các văn bản đặc thù gắn với từng ngành cụ thể. Đối với nhóm
này ngoài các cơ quan có chức năng phổ biến thì còn có vai trò rất quan trọng của
các cơ quan chuyên môn.Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các ngành đã trực
tiếp giải thích các quy định gắn với ngành mình cho nhân dân hiểu.
Nội dung PBGDPL được truyền đạt có hiệu quả khi phù hợp với từng
điều kiện và từng loại đối tượng:
2.2.2.1 Đối tượng thanh niên là đội ngũ cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức là lực lượng quan trọng đang trực tiếp nắm giữ và
thực thi chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước các cấp. Những người này
thường xuyên tiếp với các đối tượng quần chúng nhân dân nên cần được trang
bị những kiến thức pháp luật. Hằng năm, UBND tỉnh đã luôn đưa ra các đề
án, biện pháp PBGDPL đối với cán bộ, công chức là thanh niên, giữ vai trò
chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đoàn thể chú trọng việc PBGDPL cho
các cá nhân làm việc tại cơ quan về: Bộ Luật lao động; Luật giao thông, Luật
về phòng chống tham nhũng, Luật Bảo hiểm xã hội...Đặc biệt là những luật
gắn liền với công việc của cá nhân. Một số điển hình thực hiện tốt PBGDPL
cho cán bộ, công chức như sau:
Đoàn Thanh niên tỉnh xác định phổ biến giáo dục pháp luật là một trong
những nội dung quan trọng, những năm qua các cấp bộ đoàn đã chú trọng tới
công tác phổ biến giáo dục pháp luật tới toàn thể cán bộ, đoàn viên thanh niên
nhằm tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành pháp
luật của cán bộ, đoàn viên và thanh niên qua đó vận động cán bộ, đoàn viên
thanh niên thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước. Riêng trong năm 2017 các
cấp bộ đoàn đã phổ biến giáo dục pháp luật đến 125.650 lượt thanh
niên.Trong phổ biến giáo dục chủ trương chính sách nghị quyết của Đảng,
38
Nhà nước là 63.254, tuyên truyền phổ biến pháp luật, tư vấn pháp luật và trợ
giúp pháp luật là 62.396 lượt. Cung cấp trên 120 băng đĩa đã tuyên truyền về
phòng chống ma túy, mại dâm. Phát hành tài liệu có các nội dung về kiến thức
pháp luật phổ biến tới các chi đoàn, tờ rơi tuyên truyền hỏi đáp về luật hôn
nhân và gia đình.
Tỉnh đoàn đã chỉ đạo tổ chức các hoạt động tuyên truyền phổ biến giáo
dục phòng chống ma túy với nhiều hình thức, nội dung thiết thực góp phần
nâng cao được nhận thức của đoàn viên, thanh niên về tác hại của ma túy như:
văn nghệ, tiểu phẩm truyền thông, chống ma túy với chủ đề “Tuổi trẻ Quảng
Bình nói không với ma túy”. Ngoài ra còn lồng ghép nội dung tuyên truyền
các kiến thức về phòng chống ma túy trong các buổi sinh hoạt chi đoàn, cấp
phát trên tờ rơi qua đó tạo sự chuyển biến về nhận thức cho cán bộ đoàn viên
thanh niên về tác hại của ma túy.
Sở Tư pháp đã tổ chức 35 hội nghị, lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật cho trên 4.230 lượt người tham dự; cấp phát 14.500 cuốn sổ tay
pháp luật; in ấn và phát hành 3000 cuốn tài liệu về hòa giải, 24.822 các tài
liệu khác; thực hiện 10 chuyên mục Pháp luật và Đời sống.
Trong năm 2017, Sở Giáo dục tỉnh Quảng Bình phối hợp với Sở Tư pháp
mở 02 lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật cho trên
150 cán bộ, giáo viên của các trường, đơn vị giáo dục như: Lãnh đạo các
Phòng Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm
Giáo dục hướng nghiệp Tổng hợp, Trưởng Trung cấp chuyên nghiệp và Cao
đẳng trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình.
2.2.2.2 Thanh niên là học sinh, sinh viên
Học sinh, sinh viên là những người trẻ tuổi, tư duy đang phát triển, là
chủ nhân tương lai của đất nước nên cần chú trọng bồi dưỡng, dạy dỗ để họ
nâng cao kiến thức, hiểu biết về pháp luật, sống có ước mơ, có trách nhiệm.
39
Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong các trường học cũng được đặc
biệt coi trọng. Trong 5 năm qua, Hội đồng PHCTPBGDPL tỉnh thường xuyên
phối hợp với các cơ sở giáo dục trên địa bàn toàn tỉnh tổ chức 3.157 cuộc họp,
hội nghị, chào cờ đầu tuần cho hơn 530.000 lượt người và đại diện lãnh đạo
Phòng Giáo dục – Đào tạo cấp huyện, ban giám hiệu, giáo viên và học sinh,
sinh viên; triển khai kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và trợ
giúp pháp lý miễn phí cho học sinh; xây dựng và triển khai chương trình giáo
dục pháp luật lồng ghép với môn học giáo dục công dân và các hoạt động
ngoại khóa.
Kế hoạch số 2292/KH-UBND ngày 05/12/2017 được ban hành quy định
về thực hiện công tác PBGDPL đến năm 2021 trên địa bàn tỉnh. Bảo đảm
100% cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục, giáo dục nghề nghiệp tổ chức
phổ biến, thông tin rộng rãi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực
tiếp đến nhà trường, nhà giáo, người học, cán bộ quản lý, người lao động;
hàng năm có từ 80% trở lên báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp
luật, giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giảng viên dạy kiến thức, môn
học, học phần về pháp luật được cung cấp, cập nhật thông tin, tài liệu pháp
luật, tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cần thiết để tham gia PBGDPL; 100%
nhà trường đều triển khai PBGDPL theo chương trình giáo dục chính khóa,
hoạt động ngoại khóa, có giáo viên, giảng viên dạy môn giáo dục công dân,
môn học, học phần về pháp luật theo quy định.
Bên cạnh đó, Kế hoạch cũng nhằm rà soát, hoàn thiện nội dung chương
trình, giáo trình, sách giáo khoa..., đưa nội dung phòng, chống tham nhũng
vào chương trình, giáo trình môn học pháp luật...Chú trọng khuyến khích, huy
động nguồn lực xã hội tham gia PBGDPL, tham gia tư vấn, hỗ trợ pháp lý,
cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật miễn phí trong nhà trường.
Các trường học, học sinh, sinh viên phải cam kết thực hiện trật tự an toàn
giao thông, phòng chống các tệ nạn xã hội; các trường học và các cơ sở giáo
40
dục và đào tạo triển khai thực hiện tốt công tác tuyên truyền tháng cao điểm
an toàn giao thông, phòng chống ma tuý; Chỉ đạo 100% các đơn vị xây dựng
và duy trì tủ sách pháp luật; Tổ chức nhiều cuộc thi như tìm hiểu Luật phòng,
chống ma tuý và các tệ nạn xã hội, an toàn giao thông...không chỉ dành cho
học sinh, sinh viên mà cả giáo viên, giảng viên.
2.2.2.3 Đối tượng người lao động là thanh niên trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình
Lực lượng lao động bao gồm người trực tiếp sản xuất, làm việc và người
quản lý, sử dụng những đối tượng trên. Thời gian qua, Liên đoàn lao động
tỉnh chủ động phối hợp với Sở Tư pháp và các ngành có liên quan để tổ chức
PBGDPL cho người lao động trong các doanh nghiệp đồng thời chỉ đạo các
doanh nghiệp chủ động triển khai PBGDPL cho người lao động tại doanh
nghiệp mình. Những văn bản pháp luật được phổ biến cho người lao động và
người sử dụng lao động như: Bộ luật lao động, Luật doanh nghiệp, Luật
phòng chống ma tuý, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm thất nghiệp...Liên
đoàn Lao động tỉnh trong hai năm gần đây đã tổ chức 57 cuộc tư vấn pháp
luật về lao động cho 1.800 công nhân các doanh nghiệp.
Ngoài ra, 27.000 tờ rơi đã được phát hành. Trong đó, các tờ rơi đều có
nội dung phổ biến, giáo dục về các quy định của bộ luật lao động, các tranh
chấp trong làm việc tại doanh nghiệp...
2.2.2.4 Các đối tượng khác
Bên cạnh những đối tượng chủ yếu trên còn có những người không có
việc làm, người đã từng vi phạm pháp luật... Đoàn Thanh niên tỉnh phối hợp
với cơ quan công an bồi dưỡng, giáo dục, thay đổi tư duy, lối sống của các
phạm nhân, dạy họ làm việc, lao động, tạo nền tảng cho các phạm nhân có thể
hòa nhập với cộng đồng sau khi hết thời hạn chấp hành án phạt. Tổ chức các
buổi giao lưu để phạm nhân cởi mở, ổn định tâm lý, giáo dục pháp luật cho
41
các phạm nhân để thấm nhuần vào tư tưởng của họ, đánh thức trách nhiệm
công dân trong họ.
Sở Tư pháp - Thường trực Hội đồng PHCTPBGDPL đã biên soạn, in
và phát hành tài liệu hỏi - đáp pháp luật để phát hành đến thanh niên tại địa
bàn, triển khai công tác trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối
tượng khó khăn.
2.2.3 Hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
niên tỉnh Quảng Bình
Các hình thức PBGDPL được lựa chọn và áp dụng khá phong phú, đa
dạng, bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa hình thức PBGDPL truyền thống và
những hình thức PBGDPL mới đang được áp dụng có hiệu quả trong thực
tiễn phù hợp với từng đối tượng thanh niên, phù hợp với đặc điểm, điều kiện
ở mỗi vùng từng đó là:
2.2.3.1 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua tuyên truyền miệng
Đây là một hình thức tuyên truyền mà người nói trực tiếp nói với người
nghe về lĩnh vực pháp luật, trong đó chủ yếu là phổ biến, giới thiệu các quy
định pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghe. Tuyên
truyền miệng được sử dụng rộng rãi bởi dễ thực hiện, không phụ thuộc vào
thời gian, không gian..., đó là các buổi tọa đàm, hội thảo, lớp tập huấn... Trong
đó, ngoài việc trao đổi về nghiệp vụ, còn đưa các kiến thức về pháp luật vào để
các thành viên có cơ hội học tập. Hình thức này áp dụng được ở mọi địa
phương của tỉnh. Trong năm 5 qua, Hội đồng PBGDPL đã tổ chức và lồng
ghép tổ chức trên 131.440 hội nghị, lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật cho hơn 8.600.000 lượt người, trong đó hơn 6.000.000 lượt thanh niên.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng,
công tác tuyên truyền miệng vẫn giữ vai trò quan trọng bởi có thể thực hiện ở
mọi lúc, mọi nơi, đưa pháp luật đến với thanh niên trong mọi hoàn cảnh mà
không phụ thuộc vào công cụ, thời gian, không gian.
42
2.2.3.2 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng
Lợi thế của hình thức này trong giai đoạn hiện nay là phổ cập, nhanh
chóng, kịp thời, rộng khắp, hấp dẫn và có đông đảo bạn đọc, khán thính giả.
Do vậy, tỉnh đã duy trì và tiếp tục đẩy mạnh PBGDPL cho thanh niên qua
Đài phát thanh và Truyền hình. Đặc biệt, công tác tuyên truyền trên hệ thống
phát thanh tại các xã, thị trấn, thành phố được quan tâm, duy trì và tăng thời
lượng phát thanh đối với các văn bản pháp luật mới ban hành thực hiện trên
23.767 chương trình PBGDPL trên đài phát thanh xã; thực hiện chuyên mục
"Pháp luật và đời sống". Bên cạnh đó, UBND các xã đã sử dụng đĩa tuyên
truyền các văn bản luật do sở Tư pháp cung cấp để phát hàng ngày trên hệ
thống loa truyền thanh. Trong thời gian qua, hàng nghìn băng đĩa đã được sử
dụng để phát trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
2.2.3.3 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các cuộc thi tìm hiểu
pháp luật
Thi tìm hiểu pháp luật cũng là một hình thức có hiệu quả mà tỉnh Quảng
Bình đã áp dụng khá thành công trong thời gian qua. Hằng năm, toàn tỉnh đã
tổ chức, phát động 32 cuộc thi tìm hiểu pháp luật bao gồm cả thi viết, vấn
đáp, bằng loại hình sân khấu hóa. Thực tế cho thấy thi tìm hiểu pháp luật
thông qua loại hình sân khấu hóa luôn đem lại kết quả cao, tiêu biểu như các
cuộc thi Hòa giải viên giỏi, Hộ tịch viên giỏi, Tuyên truyền viên pháp luật
giỏi, Công chức Tư pháp-hộ tịch giỏi, tìm hiểu pháp luật về thuế, tìm hiểu
pháp luật về an toàn giao thông...Các cuộc thi đã tập trung vào các chủ đề
thiết thực mà người dân đang quan tâm.
Thi tìm hiểu pháp luật là hình thức PBGDPL cần sự dầu tư kinh phí
không lớn nhưng bằng nhiều loại hình hấp dẫn, dễ dàng mở rộng phạm vi đối
tượng tuyên truyền nên thu hút nhiều người tham gia. Qua các cuộc thi, người
43
dân tìm hiểu pháp luật một cách hào hứng, phấn khởi. Bằng hình thức này,
các quy định pháp luật sẽ dễ dàng đi vào đời sống, phát huy hiệu quả tốt
hơn.Đây vừa là yêu cầu, vừa là đòi hỏi, cũng là vai trò của cuộc thi tìm hiểu
pháp luật mà người làm công tác PBGDPL tại Quảng Bình hướng đến.
2.2.3.4 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt câu lạc bộ
pháp luật
Dựa trên tình hình thực tế mỗi địa phương và nhu cầu tìm hiểu pháp luật
của các đối tượng khác nhau mà trên địa bàn tỉnh đã thành lập các câu lạc bộ
pháp luật như Câu lạc bộ pháp luật, Câu lạc bộ nông dân với pháp luật, Câu
lạc bộ thanh niên với pháp luật, Câu lạc bộ phụ nữ với pháp luật, Câu lạc bộ
trợ giúp pháp lý, Câu lạc bộ pháp luật và đời sống...Đến nay toàn tỉnh đã có
347câu lạc bộ pháp luật và câu lạc bộ sinh hoạt có nội dung liên quan đến
pháp luật với gần 1.800 hội viên. Hầu hết các câu lạc bộ đều thu hút sự tham
gia nhiệt tình, trách nhiệm của các thành viên và nhận được sự ủng hộ mạnh
mẽ của các cấp ủy, chính quyền. Một số phương thức sinh hoạt mà các câu lạc
bộ tỉnh Quảng Bình thường thực hiện trong thời gian qua đó là: tổ chức các
buổi nói chuyện, tọa đàm chuyên đề về pháp luật; thi tìm hiểu pháp luật, hái
hoa dân chủ; biểu diễn văn hóa, văn nghệ có nội dung pháp luật...Từ những
hoạt động đó, những kiến thức pháp luật đến gần với các hội viên nói riêng và
với quần chúng nhân dân toàn tỉnh nói chung.
2.2.3.5 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động hòa giải cơ sở
Căn cứ vào Luật Hòa giải ở cơ sở số 35/2013/QH13, các tổ hòa giải
được sắp xếp lại, ngày càng được củng cố và kiện toàn về mặt tổ chức và chất
lượng. Luật hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh ta đã tác động tích cực trong đời
sống xã hội, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho hoạt động hoà giải ở cơ
sở đi vào nền nếp, thống nhất và hoạt động có hiệu quả. Mạng lưới tổ hoà giải
không ngừng được củng cố, mở rộng ở khắp các làng, bản, thôn, xóm, tiểu
44
khu, khu phố và các cụm dân cư, thu hút được nhiều thành phần, nhiều lực
lượng tham gia như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội
Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân và những người có uy tín,
đủ năng lực được lựa chọn...
Hiện nay, Quảng Bình đã thành lập được 1.348 tổ hòa giải, trong đó số
hòa giải viên lên đến 9.006 người. Các tổ hoà giải được cơ cấu đầy đủ thành
phần như: Bí thư chi bộ, Trưởng thôn, già làng, trưởng bản, Trưởng ban Mặt
trận, Hội Nông dân, Phụ nữ, Cựu chiến binh và những người có uy tín, đủ
năng lực được lựa chọn...Ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thành viên
tổ hoà giải còn có người dân tộc thiểu số. Mỗi tổ hòa giải có từ 5-7 tổ viên, đa
số có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên, trong đó có 136 hòa giải
viên có trình độ chuyên môn luật. Trong ba năm qua, các tổ hòa giải, hoà giải
viên trên địa bàn tỉnh đã tiến hành thụ lý 6.865 vụ việc, trong đó hòa giải
thành 5.958 vụ việc, đạt tỷ lệ 86,8%; hòa giải không thành 750 vụ việc...
Thông qua hoạt động hòa giải đã góp phần duy trì, củng cố sự đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phát huy đạo lý, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật trong cộng đồng dân cư.
2.2.3.6 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý
Thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý bằng các loại hình như: tư vấn
pháp luật, trợ giúp pháp lý lưu động...thì trong những năm gần đây, người làm
công tác trợ giúp pháp lý trên địa bàn đã phổ biến, giáo dục cho người được
trợ giúp pháp lý, giúp họ nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật để có hành vi
phù hợp. Hoạt động trợ giúp pháp lý tại tỉnh Quảng Bình có các đặc điểm sau:
Chủ thể thực hiện chủ yếu là cán bộ, cộng tác viên trung tâm trợ giúp
pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình; cán bộ chi nhánh Trợ giúp pháp lý đặt tại
huyện; thành viên Hội đồng PHCTPBGDPL; cán bộ phòng Tư pháp; thành
viên câu lạc bộ trợ giúp pháp lý tại các xã...
45
Đối tượng được trợ giúp pháp lý là một con người cụ thể, phần lớn là
những người có hoàn cảnh khó khăn, trình độ dân trí thấp, khả năng giao tiếp
hạn chế; người có công với cách mạng.
Thời gian qua, hoạt động trợ giúp pháp lý ngày càng được chú trọng,đến
nay, trung tâm trợ giúp pháp lý đã có trụ sở làm việc riêng, 5 chi nhánh đặt tại
các huyện với 29 biên chế công chức, viên chức, người lao động, trong đó có
11 trợ giúp viên pháp lý. Ngoài ra, trung tâm đã ký hợp đồng cộng tác với 190
cộng tác viên; có 10 tổ chức hành nghề luật sư đăng ký tham gia trợ giúp pháp
lý; 58/159 xã, phường, thị trấn thành lập câu lạc bộ trợ giúp pháp lý. Từ khi
thành lập đến nay, hơn 35.000 vụ việc trong đó gần 2.000 vụ việc tham gia tố
tụng với đủ cung bậc, tính chất, mức độ gắn với những hoàn cảnh, số phận
khác nhau đã được những người làm công tác trợ giúp pháp lý chia sẻ, đồng
hành, giúp đỡ, bảo vệ; 159 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh không nơi
nào không có dấu chân những người trợ giúp pháp lý...
Một số lĩnh vực pháp luật phổ biển thường được trợ giúp pháp lý đó là:
Dân sự, Đất đai, Môi trường, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chế độ chính
sách...PBGDPL thông qua trợ giúp pháp lý giúp người dân trong tỉnh thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, đưa ra các giải
pháp, phương hướng giải quyết những vướng mắc pháp luật để người dân ứng
xử phù hợp với pháp luật, biết sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp khi bị xâm hại.
2.2.3.7 Phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xây dựng tủ
sách pháp luật
Tủ sách là một kênh thông tin quan trọng nên từ khi có Quyết định số
1067/QĐ-TTg ngày 25/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án
xây dựng và quản lý tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn, UBND tỉnh
Quảng Bình đã ban hành Chỉ thị số 08/1999/CT-UB ngày 17/02/1999 về việc
46
xây dựng, quản lý, khai thác và sử dụng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn tỉnh.
Đến nay, toàn tỉnh có trên 2.375 tủ sách pháp luật, trong đó có 820 tủ
sách ở xã, phường, thị trấn; 1.555 tủ sách pháp luật ở cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp, trường học, thư viện. Để nâng cao chất lượng hoạt động của tủ sách
pháp luật trên địa bàn tỉnh, tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh,
cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn, doanh nghiệp Nhà nước do UBND
tỉnh làm chủ sở hữu, UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng cường thông
tin, truyền thông nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và nhân
dân về vị trí, vai trò của tủ sách pháp luật trong phổ biến, giáo dục và thực hiện
dân chủ ở cơ sở. Ngoài ra, còn gắn hoạt động khai thác của tủ sách pháp luật với
hưởng ứng Ngày sách Việt Nam 21/4, phong trào “Nhà nhà đọc sách, người
người đọc sách” để khơi dậy văn hóa đọc trong nhân dân, đặc biệt là thanh niên;
bố trí kinh phí từ ngân sách Nhà nước, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đóng
góp kinh phí xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật.
Với chất lượng của các tủ sách pháp luật được nâng cao, quy chế khai
thác hợp lý, khoa học đã tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân dễ dàng tiếp
cận với hệ thống các văn bản pháp luật. Từ đó tạo thói quen cho nhân dân nói
chung và thanh niên nói riêng tìm hiểu pháp luật.
2.2.3.8 Cung cấp các tài liệu
Hình thức này đang dần được chú trọng. Hiện nay, các loại tài liệu đang
ngày càng cải thiện về chất lượng. Nội dung của tài liệu bao gồm các quy
định pháp luật mới, các quy định gắn bó thiết thực với đời sống, kiến thức
nghiệp vụ...Cụ thể như các chuyên đề pháp luật về lĩnh vực dân sự; hình sự;
hôn nhân gia đình; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống HIV/AIDS...Bên
cạnh sách hỏi đáp, sách chuyên đề, sổ tay nghiệp vụ, sổ tay pháp luật, còn có
nhiều loại tài liệu khác như băng tiếng, băng hình, trong đó thu băng các cuộc
47
nói cuyện về pháp luật, xây dựng phóng sự, tiểu phẩm pháp luật...Ngoài ra,
còn có các tài liệu mang tính trực quan như pa-nô, áp-phích, tranh cổ động,
khẩu hiệu, tờ tin ảnh, băng rôn về chủ đề pháp luật được sử dụng khá nhiều,
phổ biến hơn cả là trong thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị, kinh tế, văn
hoá lớn.
2.3 Đánh giá thực trạng phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên
tại tỉnh Quảng Bình
2.3.1 Ưu điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình
Đối tượng phổ biến giáo dục pháp luật đã bao gồm đầy đủ tất cả thanh
niên ở Quảng Bình từ thanh niên là cán bộ, công chức đến thanh niên là đối
tượng vi phạm pháp luật đã hoàn lương. Mỗi đối tượng thanh niên đều được
phổ biến các văn bản pháp luật phù hợp với đối tượng đó. Thông qua việc
PBGDPL, thanh niên được tìm hiểu, học tập pháp luật thuận lợi, kịp thời hơn;
nhận thức pháp luật của thanh niên có chuyển biến rõ nét. Ở nhiều nơi trên địa
bàn Quảng Bình, tình hình khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, sai pháp
luật có chiều hướng giảm. Việc giáo dục pháp luật được triển khai ở các cấp
học, trình độ đào tạo; ở hầu hết các cơ sở giáo dục, đào tạo thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân, giúp người học có kiến thức cơ bản về pháp luật, phù hợp
với từng đối tượng.
Các nội dung dùng để truyền đạt tới nhân dân đều đúng quy định pháp
luật, thể hiện đúng tinh thần pháp luật. Từ đó toàn tỉnh đã lấy tiêu chí đặc điểm
địa bàn nông thôn và đối tượng thanh niên làm cơ sở để xây dựng và triển khai
kế hoạch PBGDPL, gắn PBGDPL với thực tiễn chấp hành pháp luật.
Hình thức PBGDPL cho thanh niên trên địa bàn ngày càng phong phú,
đa dạng. Để đạt hiệu quả cao trong PBGDPL thì tỉnh đã có sự lựa chọn các
hình thức phù hợp với từng đối tượng thanh niên nhất định.Bên cạnh các hình
48
thức PBGDPL truyền thống thì các hình thức, biện pháp PBGDPLmới được
vận dụng sáng tạo, linh hoạt.
Đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL cho thanh niên ngày càng được
tăng cường về số lượng cũng như chất lượng, thường xuyên tham gia các lớp ...ệc ban hành các chương trình, kế hoạch PBGDPL; các tiêu chuẩn,
quy định về chuyên môn, nghiệp vụ, quy tắc nghề nghiệp PBGDPL; ban hành
Bộ các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác của Bộ Tư pháp. Sở Tư pháp cần
kiểm tra, rà soát để tham mưu, đề xuất với cơ quan nhà nước hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về PBGDPL nói chung và chú trọng
PBGDPL cho thanh niên tại địa bàn, chế độ, chính sách đối với Hội đồng
PHCTPBGDPL tỉnh, huyện, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, hòa
giải viên.
Ngoài ra, HĐND tỉnh ban hành nghị quyết, thông qua ngân sách cần
thiết; xây dựng nghi quyết về chế độ thù lao đối với đội ngũ cán bộ làm công
tác PBGDPL cho thanh niên, đặc biệt là tuyên truyền viên, hòa giải viên, báo
cáo viên. UBND tỉnh cần ban hành chương trình, đề án, kế hoạch PBGDPL
cho thanh niên trong phạm vi thẩm quyền. Đề án đưa ra phải phù hợp với
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
UBND các cấp phải có sự chỉ đạo thường xuyên, kịp thời PBGDPL.
Bên cạnh đó, vai trò của Hội đồng PHCTPBGDPL tỉnh cũng rất quan
trọng. Hội đồng phổ biến phối hợp PBGDPL tỉnh có nhiệm vụ tư vấn cho Ủy
ban nhần dân tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh về việc xây dựng chương trình, kế
hoạch về PBGDPL. Gắn PBGDPL với nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội,
bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, với xây dựng và thực thi
pháp luật, cải cách thủ tục hành chính ở địa phương.
59
3.2.2 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp đối với phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên
tỉnh Quảng Bình
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy đối với công tác phổ
biến, giáo dục tại tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới cần thực hiện các nội
dung sau:
Thứ nhất, cần đổi mới nhận thức của một số cấp ủy, lãnh đạo về vị trí,
vai trò của thanh niên và công tác PBGDPL cho thanh niên trong giai đoạn
hiện nay. Sự quan tâm, tham gia tích cực, chủ động của toàn xã hội, đặc biết
là của các cấp ủy, lãnh đạo địa phương trong công tác PBGDPL đối với thanh
niên và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện công tác này có ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác. Các hoạt động cần được tiến hành triệt
để, trung thực, khách quan, có chương trình cụ thể, và hiệu quả đạt được phải
được xem xét thông qua thực tiễn chấp hành pháp luật của thanh niên.
Thứ hai, phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng trong công tác PBGDPL
cho thanh niên.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, các
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương giữ vai trò đặc biệt quan trọng góp
phần đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước vào cuộc sống. Do đó muốn PBGDPL cho thanh niên có hiệu quả cao
thì phải tăng cường tăng cường sự lãnh đạo, của các cấp ủy, chính quyền đối
với công tác. Trách nhiệm của các cấp ủy đảng tỉnh Quảng Bình là chỉ đạo sát
sao việc thực hiện PBBGDPL. Với mỗi giai đoạn cần xây dựng kế hoạch,
chương trình PBGDPL cho mỗi cấp, ngành, cơ quan, địa phương.
Cấp ủy Đảng phải xác định được lực lượng đảng viên là lực lượng nòng
cốt trong công tác PBGDPL ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua việc
quán triệt đường lối, chương trình hành động, các cấp ủy Đảng nhấn mạnh
yêu cầu đối với từng cán bộ, đảng viên phải xác định việc tìm hiểu, học tập
60
pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, cũng là một trong những tiêu chí đánh
giá cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa phương đối
với công tác PBGDPL đối với thanh niên.
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.Nhiệm vụ đặt ra là
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo hoạt động PBGDPL cho thanh niên. HĐND không chỉ chú
trọng việc ban hành Nghị quyết mà còn phải lãnh đạo, chỉ tốt PBGDPL,
đưa pháp luật vào cuộc sống, coi đây là một phần không thể thiếu trong
nghị quyết về các phương hướng bảo đảm thi hành hiến pháp, pháp luật.
Mặt khác, HĐND cũng cần giám sát đối với công tác PBGDPL đối với
thanh niên tại địa phương mình.
UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Hằng năm, xây dựng
văn bản chỉ đạo, điều hành về hoạt động PBGDPL đối với thanh niên cụ thể
từng quý, từng tháng phù hợp với các quy định của cơ quan nhà nước cấp trên
và điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở địa phương. Chỉ đạo, hướng dẫn cơ
quan, tổ chức, đơn vị triển khai thực hiện Đề án. Muốn thực hiện tốt PBGDPL
cho thanh niên cân xây dựng kế hoạch cụ thể, trong đó lựa chọn được nội
dung chính xác, hình thức thu hút, phù hợp, và kinh phí cho hoạt động này.
Định kỳ 6 tháng hoặc một năm, Uỷ ban nhân dân các cấp nhất cần kiểm tra,
tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm và khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập
thể có thành tích xuất sắc trong PBGDPL ở địa phương.
Hội đồng PHCTPBGDPL là tổ chức phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các
ban ngành, đoàn thể. Hội đồng có nhiệm vụ đề ra chương trình, kế hoạch
PBGDPL hằng năm, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các đơn vị thực hiện nhiệm vụ.
Các cơ quan, đoàn thể cần hướng dẫn từng phòng, ban thực hiện và làm
theo pháp luật, nâng cao vốn kiến thức, hiểu biết về pháp luật, trở thành công
61
dân có trách nhiệm. Tạo điều kiện cho tổ chức Đoàn ở cơ sở nâng cao năng
lực, chất lượng cán bộ Đoàn tham gia hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
đối với thanhniên.
Thứ tư, phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh trong công tác chỉ đạo hoạt động PBGDPL. Kết
hợp các buổi sinh hoạt đoàn, hội, phong trào thanh niên với nội dung
PBGDPL.
3.2.3 Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện phổ biến, giáo dục
pháp luật
Thứ nhất, Hội đồng PHCTPBGDPL thực hiện nhiệm vụ đổi mới nội
dung, hình thức PBGDPL, chú trọng chất lượng, hiệu quả đạt được; hướng
dẫn xây dựng lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên; kịp thời tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện PBGDPL.
Thứ hai, cần kết hợp phổ biến với giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho thanh niên; đổi mới, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL phù hợp với đặc
điểm, nhu cầu của thanh niên; tăng cường hoạt động PBGDPL trên các
phương tiện thông tin đại chúng; thường xuyên cập nhật, đăng tin bài có nội
dung phổ biến, giáo dục trên Báo, Đài, hệ thống phát thanh...
Câu lạc bộ pháp luật cũng là một trong những hình thức không thể thiếu
nhằm phát huy hiệu quả công tác PBGDPL. Nâng cao hiệu quả hoạt động của
các câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, lồng ghép nội dung pháp luật vào sinh hoạt
câu lạc bộ, thường xuyên đổi mới nội dung sung hoạt pháp luật theo chuyên
đề, trao đổi, giải đáp những thắc mắc, tình huống pháp luật thực tế.
Đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo pháp luật cần có sự phân công, phân
cấp công việc rõ ràng, cụ thể để đội ngũ giảng viêng chuyên tâm vào công việc
của mình. Đồng thời, các cơ sở giáo dục cần xây dựng chơ chế thu thập thông tin
phản hồi từ người học để có thể đánh giá đúng chất lượng, hiểu quả của công tác
giáo dục pháp luật, từ đó tìm ra nguyên nhân của thành công cũng như hạn chế,
62
để kế thừa và phát huy những kết quả tốt, đồng thời khắc phục những tồn tại.
Hội đồng PBGDPL tích cực, chủ động, theo sát yêu cầu, đòi hỏi của
công tác PBGDPL, chứ không chỉ làm qua loa theo hình thức.
Mặt khác, cần bố trí nguồn kinh phí hợp lý từ ngân sách kinh phú thường
xuyên được cấp hằng năm để hỗ trợ thực hiện công tác PBGDPL; thường
xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác
PBGDPL cho thanh niên trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, HĐND các huyện, thị xã quyết định các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu qua công tácPBGDPL cho thanh niên trong phạm vi quyền hạn của
mình; phân bổ dự toán ngân sách địa phương. Đồng thời, UBND huyện bảo
đảm các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức, PBGDPL đối với cán bộ, công
chức trực tiếp quản lý.
3.2.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình
Đội ngũ làm công tác PBGDPL đóng vai trò quyết định chất lượng của
PBGDPL cho thanh niên; các chủ trương, chính sách đều thông qua chủ thể
này mà đến với tầng lớp nhân dân lao động, trong đó có thanh niên. Trình độ
chuyên môn và tư duy, phẩm chất chính trị của chủ thể thực hiện PBGDPL
tác động rất lớn đến kết quả của công tác. Công tác giáo dục pháp luật không
thể có hiệu quả cao khi mà hiểu biết pháp luật và kỹ năng truyền đạt của đội
ngũ cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật thấp. Điều này đồng nghĩa với
việc đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật vừa là chủ thể giáo dục
pháp luật, nhưng đồng thời chính họ cũng lại là đối tượng cần được giáo dục
pháp luật. Từ sự phân tích trên, đặc biệt là từ thực trạng công tác PBGDPL
đối với thanh niên tỉnh Quảng Bình trong những năm vừa qua cho thấy sự cần
thiết phải nâng cao hơn nữa trình độ, năng lực, đạo đức và phẩm chất chính trị
của đội ngũ tiến hành hoạt động PBGDPL cho thanh niên.
63
Cán bộ PBGDPL là chủ thể của mọi hoạt động, do đó xây dựng được
một đội ngũ cán bộ am hiểu sâu sắc về chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh chính
trị vững vàng, nhiệu tình với cách mạng sẽ mang lại hiệu quả cao cho công
tác này trong thời kỳ đổi mới đất nước. Công việc này phải đáp ứng được hai
yêu cầu, đó là có đủ lực lượng đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL cho
thanh niên với các hình thức, phương pháp khác nhau và lực lượng này phải
được đào tạo một cách chuyên nghiệp để có trình độ, kiến thức chính trị, xã
hội, pháp luật cần thiết cũng như kỹ năng sư phạm, phương pháp hiệu quả
nhất. Vì vậy, cần bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn cập nhật những nội dung kiến
thức pháp luật mới nhằm nâng cao năng lực cho chủ thể thực hiện PBGDPL
đối với thanh niên.
Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ cho giáo viên, giảng viên dạy các môn liên quan đến pháp luật,
tuyên truyền viên, báo cáo viên, hòa giải viên theo định kỳ và các cán bộ
Đoàn thanh niên tham gia PBGDPL cho thanh niên.
Các Sở, Ban, ngành, đoàn thể, UBND các cấp cần tổ chức các buổi nói
chuyện, giải đáp thắc mắc liên quan đến vấn đề pháp lý, bồi dưỡng, trang bị
kiến thức cho lực lượng thực thi hoạt động, các giáo viên, các cán bộ do địa
phương đó quản lý.
Hàng năm Sở Tư pháp (cơ quan thường trực của Hội đồng
PHCTPBGDPL) cần phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương trong
toàn tỉnh tổ chức các cuộc thi báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật giỏi
về một nội dung pháp luật cụ thể như Luật đất đai, Luật hôn nhân và gia đình,
Luật lao động, Luật khiếu nại tố cáo nhằm nâng cao trình độ năng lực cho
đội ngũ này.
Có thể thấy ý thức chấp hành pháp luật của người dân nói chung và
thanh niên nói riêng hiện nay còn thấp, mức độ hiểu biết và tự giác chấp hành
64
pháp luật của cá nhân, tổ chức chưa cao. Ðiều đáng nói là không chỉ người
dân bình thường vì trình độ hiểu biết pháp luật kém dẫn đến ý thức tuân thủ
pháp luật không cao mà ngay cả những thanh niên có trình độ học vấn cao
nhưng ý thức tuân thủ pháp luật cũng không cao. Vấn đề đặt ra là phải làm gì
và làm như thế nào để nâng cao ý thức tôn trọng và tuân thủ luật pháp cho
thanh niên.
Ðiều dễ nhận thấy ở xã hội ta là người dân luôn nhìn vào thái độ ứng xử
của đội ngũ cán bộ để làm căn cứ cho thái độ ứng xử của mình trong những
hoàn cảnh tương tự. Trong việc tôn trọng và tuân thủ luật pháp cũng vậy. Do
đó, cần kết hợp cả trang bị chuyên môn, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ song
song với việc hình thành ý thức chấp hành tốt pháp luật ăn sâu vào lối sống
của chủ thể thực hiện công tác, có như vậy thì thanh niên mới nhìn vào đó để
làm theo.
3.2.5 Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục
pháp luật đối với thanh niên tỉnh Quảng Bình
Nhược điểm lớn nhất trong công tác PBGDPL nói chung và đối với
thanh niên nói riêng là nặng về lý thuyết. Việc đổi mới, hoàn thiện nội dung
giáo dục pháp luật đối với thanh niên Quảng Bình là biện pháp trọng tâm
nhằm nâng cao hiệu quả của PBGDPL cho thanh niên. Bởi nội dung
PBGDPL vừa quyết định lý tưởng, nhận thức của thanh niên, vừa ảnh hưởng
đến hoạt động bồi dưỡng, giảng dạy pháp luật, giáo dục pháp luật. Mặt khác
nội dung phải được xây dựng sao cho mục đích của giáo dục pháp luật trở
thành hiện thực, phải mang tính thiết thực, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Có thể thấy rằng việc nâng cao chất lượng nội dung PBGDPL cho thanh niên
không thể thực hiện vội vàng mà cần có một quá trình xây dựng và áp dụng,
đòi hỏi đầu tư về thời gian, tiền bạc, về trí tuệ.
Để đổi mới nội dung phổ biến giáo dục, pháp luật đối với thanh niên trên
65
địa bàn tỉnh Quảng Bình cần thực hiện theo từng nhóm đối tượng. Nhóm đối
tượng dễ bị lôi kéo, dễ vi phạm pháp luật cần được đặc biệt chú trọng. Nhóm
đối tượng này gồm những thanh niên hạn chế về kiến thức pháp luật, hoặc do
hoàn cảnh đưa đây như bố mẹ ly dị, bố mẹ phạm tội dân đến con cái bất mãn,
buông thả bản thân. Các tổ chức, cá nhân tùy theo nhiệm vụ được phân công
để tiến hành hoạt động PBGDPL cho thanh niên theo các nhóm đối tượng.
Nội dung PBGDPL đối với thanh niên phải dễ hiểu, rõ ràng, cụ thể cho từng
nhóm đối tượng. Ngoài ra còn phải với hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế,
công ăn việc làm, tâm sinh lý của từng cá nhân để lựa chọn những văn bản
pháp luật phù hợp đối với thanh niên.
Tăng các loại tài liệu cần thiết, tìm hiểu những phương pháp có sức hút,
thú vị, xây dựng tủ sách pháp luật, các câu lạc bộ pháp lý cho thanh niên.
Sở Tư pháp phối hợp với các tổ chức có liên quan phát hành các tài liệu
pháp luật phù hợp với từng địa phương, từng loại đối tượng, từng công việc
khác nhau.
Muốn PBGDPL đem lại hiệu quả như mong đợi thì cần kết hợp cải thiện
toàn diện về cả nội dung lẫn phương pháp giáo dục. Các phương thức
PBGDPL đối với thanh niên tại địa bàn phải tạo được sức hút, sử dụng những
hình thức dễ thực hiện, hiệu quả cao; bồi dưỡng chuyên môn cho cán bộ, công
chức, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, cung cấp tài liệu cần thiết; viết
báo về pháp luật, đăng trên các diễn đàn, phương tiện thông tin đại chúng
dành cho thanh niên. Tổ chức hoạt động về thanh niên với an toàn giao thông.
. “Ngày pháp luật” đã được nhiều đơn vị triển khai dưới nhiều hình thức như:
Tổ chức học tập, quán triệt văn bản pháp luật; tọa đàm, giao lưu, nghiên cứu
tài liệu tại tủ sách pháp luật ở các đại đội; qua phương tiện thông tin đại
chúng; lồng ghép việc phổ biến văn bản pháp luật với một số nội dung sinh
hoạt khác dưới hình thức “sân khấu hóa”. Chính vì vậy, hoạt động này nên
66
được phát triển thêm. Nhưng cần lưu ý rằng khi áp dụng hoạt động này cần
điều chỉnh cho phù hợp với từng địa phương mới có thể phát huy tối đa hiệu
quả của nó.
Cần phát huy hình thức PBGDPL đối với thanh niên thông qua việc
tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin của Đoàn. Trên cổng
thông tin điện tử của Tỉnh đoàn, trên loa phát thanh cũng nên đưa các quy
định của pháp luật vào. Ngoài ra, các buổi tập huấn, bồi dưỡng cũng có vai trò
không kém phần quan trọng. Để hoạt động tập huấn đạt hiệu quả cao thì với
mỗi buổi, cần phải xác định nội dung cụ thể, thay đổi luân phiên nhằm tạo hứng
khởi cho các đối tượng.
Để nâng cao hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật, ngoài việc
đổi mới nội dung và hình thức, còn phải đổi mới cách thức tiến hành PBGDPL,
trong đó cần chú ý đến việc xã hội hoá PBGDPL, kết hợp PBGDPL với tổ chức
thực hiện pháp luật, kết hợp giáo dục pháp luật với các loại hình giáo dục khác.
Trước hết là đẩy mạnh “xã hội hoá” PBGDPL đối với thanh niên tỉnh
Quảng Bình: phải tạo ra cộng đồng trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị,
các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị dân cư, gia đình và của
mọi công dân đối với PBGDPL (xã hội hóa về chủ thể), nội dung và hình thức
PBGDPL phải bắt nguồn từ nhu cầu, lợi ích và đặc điểm của từng đối tượng,
từng vùng và của toàn xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
PBGDPL là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của tổ chức Đảng,
các tổ chức chính trị - xã hội... Trách nhiệm của từng cơ quan đều do pháp
luật quy định. Đồng thời theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 thì mọi công dân phải có trách nhiệm hiểu biết pháp luật
và tuân thủ pháp luật. Vì vậy, mà đối tượng của hoạt động cũng chính là chủ
thể và ngược lại.
Dựa trên nhu cầu thực tiễn xã hội, từ đặc điểm chung của cả nước, từng
địa phương, từng chủ thể, từng nhóm nhân khẩu chịu tác động, mỗi một thời
67
kỳ mà xác định nội dung, phương pháp phù hợp. Chỉ có thể hiện được nguyện
vọng của xã hội thì PBGDPL mới lay động tiềm thức của mỗi cá nhân, khiễn
mỗi một thành viên của xã hội đi theo pháp luật, từ đó đạt được hiệu quả cao
trong công tác PBGDPL.
Ngoài ra, để lôi cuốn các chủ thể khác tham gia tích cực vào hoạt động
PBGDPL, phải đổi mới phương thức PBGDPL theo hướng gắn PBGDPL với
việc tổ chức thực hiện pháp luật; phát huy hiệu quả của pháp luật trong cuộc
sống, tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, củng cố niềm tin của mọi người
vào giá trị công bằng và dân chủ của pháp luật bởi có lòng tin vào pháp luật
thì sẽ thôi thúc con người đến với pháp luật, nảy sinh nhu cầu tự tìm hiểu
pháp luật. Mặt khác, phải chọn lọc những nội dung, hình thức thích hợp hơn
để nhiều chủ thể tham gia, nhất là các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp,
gia đình và mọi người dân. Tùy theo từng điều kiện, giai đoạn mà đổi mới các
hình thức khác nhau. Việc đổi mới hình thức phải linh hoạt, sáng tạo, biết đan
xen, kết hợp.
Như vậy, trong quá trình PBGDPL cần phải kết hợp các hình thức,
phương pháp khác nhau một cách chặt chẽ, lựa chọn nội dung phù hợp nhằm
phát huy tối đa hiệu quả của công tác.
3.2.6 Tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm triển
khai phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh niên tỉnh Quảng Bình
Để PBGDPL cho thanh niên đạt hiệu quả cần bảo đảm kinh phí cần thiết
bởi đây là hoạt động lâu dài. Trong những năm qua, nguồn kinh phí cho hoạt
động PBGDPL đối với thanh niên chủ yếu từ ngân sách nhà nước do HĐND
tỉnh xem xét quyết định. Mặc dù đã có sự cải thiện về cơ sở vật chất, phương
tiện, kinh phí cũng được tăng lên. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ, chưa theo
kịp các địa phương khác. Đối với hoạt động PBGDPL đối với thanh niên ở
quận và cơ sở sự đầu tư kinh phí cho hoạt động này chưa đáp ứng yêu cầu,
68
chưa có sự quan tâm thỏa đáng đối với đội ngũ làm công tác PBGDPL; việc
đầu tư cho tủ sách pháp luật còn hạn chế, các đầu sách còn thiếu chưa đáp
ứng được nhu cầu tìm đọc của nhân dân. Số lượng tài liệu về pháp luật để
cung cấp cho thanh niên chưa cao, hệ thống loa đài còn bị rè, ảnh hưởng đến
chất lượng âm thanh, dẫn tới việc thanh niên không thể nắm được toàn bộ
những nội dung được phổ biến. Vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật trong thời gian qua vẫn còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hiệu quả, chất
lượng chưa được như mong muốn.
Việc đầu tư ngân sách và huy động kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau
có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả PBGDPL cho thanh niên. Thông tư số
63/2005/TT-BTC ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn về lập dự toán
kinh phí PBGDPL được ban hành nhằm quy định về kinh phí thực hiện công
tác, tạo điều kiện phát huy hiệu quả của công tác.
Phương tiện làm việc tối thiểu cần phải được bảo đảm cho các cơ quan,
ban ngành và cán bộ làm công tác giáo dục pháp luật, luôn bổ sung những đầu
sách cần thiết cho tủ sách pháp luật ở cơ sở để có thể khai thác, sử dung một
cách có hiệu quả thiết thực, bảo đảm chế độ thù lao, cung cấp các tài liệu,
sách báo, đề cương đầy đủ cho đội ngũ làm công tác PBGDPL.
Ngoài ra, chế độ thù lao ổn định, đầy đủ cho các báo cáo viên, tuyên
truyền viên, hòa giải viên cũng tác động tích cực đến khả năng thực hiện
nhiệm vụ của họ, là sự khuyến khích, động viên họ tận tâm với công tác.
Tiểu kết Chương 3
Dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện phổ biến giáo
dục pháp luật cho thanh niên nói chung, thanh niên tỉnh Quảng Bình nói
riêng, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phổ
biến giáo dục pháp luật cho thanh niên tại địa bàn như sau: (1) xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về PBGDPL cho
69
thanh niên tỉnh Quảng Bình; (2) tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý,
điều hành của chính quyền các cấp đối với PBGDPL cho thanh niên tỉnh
Quảng Bình; (3) chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện PBGDPL; (4) nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực PBGDPL cho thanh niên tỉnh Quảng Bình; (5)
đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL đối với thanh niên tỉnh
Quảng Bình ; (6) tăng cường kinh phí, cơ sở vật chất và điều kiện bảo đảm
triển khai PBGDPL đối với thanh niên tỉnh Quảng Bình.
70
KẾT LUẬN
Hiện nay, trong thời kỳ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới
đất nước, xâ dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân, hoạt động PBGDPL có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mỗi cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bản thân đều cần hiểu biết về pháp luật. Do đó, việc xây dựng
được một hệ thống pháp luật đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội là
việc khó, nhưng bảo đảm cho pháp luật đi vào cuộc sống để phát huy hiệu lực
còn khó khăn, gian khổ nhiều hơn. Có thể thấy rằng, PBGDPL là công việc
quan trọng trong quy trình tổ chức thực thi pháp luật, là cầu nối đưa pháp luật
vào cuộc sống. Mục đích của PBGDPL là làm cho mỗi cá nhân, cộng đồng,
đặc biệt là thanh niên không chỉ nắm vững kiến thức pháp luật mà còn hiểu và
chấp hành pháp luật.
PBGDPL nhằm làm cho toàn bộ công dân hiểu rõ, hiểu đúng tinh thần
pháp luật và nội dung pháp luật, đây là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. PBGDPL đối với thanh niên nói chung và thanh niên
tỉnh Quảng Bình nói riêng là công tác rất cần thiết để hình thành ý thức sống
và làm theo pháp luật cho thanh niên. Trong phạm vi luận văn, những kết quả
nghiên cứu mà đề tài tìm hiểu được đó là:
Dưới góc độ lý luận, chương 1 của luận văn đã giải quyết những nội
dung sau: đưa ra khái niệm, đặc điểm thanh niên, từ đó xác định rõ vị trí, vai
trò của thanh niên trong quản lý nhà nước. Luận văn đã làm rõ khái niệm, đặc
điểm, vai trò tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với thanh niên.
Luận văn phân tích các yếu tố cấu thành của tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật đối với thanh niên ở những góc độ sau: chủ thể, đối tượng, nội
dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối
với thanh niên.
71
Trên cơ sở khái quát vị trí địa lý, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng
Bình và xác định thực trạng thanh niên Quảng Bình, chương 2 luận văn đã
đánh giá thực trạng PBGDPL đối với thanh niên Quảng Bình. Từ đó chỉ ra
những ưu điểm cũng như những hạn chế về tổ chức và đội ngũ nhân sự làm
công tác PBGDPL, về nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL...đối với
thanh niên Quảng Bình và nguyên nhân của hạn chế trên.
Chương 3 luận văn đã xác định các quan điểm nâng cao chất lượng
PBGDPL đối với thanh niên. Từ đó, luận văn đã đưa ra các giải pháp để khắc
phục những hạn chế cũng như nâng cao chất lượng PBGDPL đối với thanh niên.
Với những kết quả nghiên cứu trên sẽ đóng góp một phần vào khoa học
lý luận cũng như hoạt động thực tiễn của PBGDPL đối với thanh niên Quảng
Bình nói riêng và thanh niên Việt Nam nói chung.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Anh, Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh, https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tiep-tuc-nang-
cao-hieu-qua-cong-tac-pho-bien-giao-duc-phap-luat-tren-dia-ban-
tinh.htm, 22/12/2017.
2. Bộ Tư pháp (2002), Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Đại từ điển Tiếng Việt (1998), Nxb Văn hoá thể thao.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Ngọc Đường (1998), Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, Luận án Phó tiến sĩ luật, Matcơva.
10. Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp
luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Trần Thị Bích Hạnh (2016), Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên
ở đô thị - từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính.
12. Dương Thị Thu Hiền (2013), Phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình – thực trạng và giải pháp, Luận văn
thạc sĩ Luật học.
13. Phạm Văn Hiển (2002), Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật ở thành phố Cần Thơ, thực trạng và giải pháp, Luận văn Đại học
chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
14. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước - Pháp luật
(1999), Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị
của nước ta hiện nay, Đề tài khoa hoc cấp bộ, 1997 - 1999, Hà Nội.
15. Hoàng Văn Hảo (1986), Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân-
Đại hội VIII những tìm tòi và đổi mới, Trung tâm Thông tin tư liệu, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
16. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2006), Giáo trình Lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ,
Đặc sản tuyên truyền pháp luật số 8/2012
18. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2014, tỉnh Quảng Bình.
19. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2015, tỉnh Quảng Bình.
20. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2016, tỉnh Quảng Bình.
21. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Báo cáo về kết
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2017, tỉnh Quảng Bình.
22. Nguyễn Duy Lãm (28/6/2015) – Vụ trưởng Vụ Phổ biến, giáo dục pháp
luật, Bộ Tư pháp, Sự cần thiết và những quan điểm chỉ đạo xây dựng luật
phổ biến, giáo dục pháp luật .
23. Trần Phúc Lộc (2010), Giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên ở thành phố
Hà Nội hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học.
24. Minh Huyền, Kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và việc thực
hiện Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2018,
https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/kiem-tra-cong-tac-pho-bien-giao-
duc-phap-luat-va-viec-thuc-hien-luat-hoa-giai-o-co-so-nam-2018.htm,
31/5/2018.
25. Phúc Huy, Tiếp tục thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên
giai đoạn 2010-2015” đến năm 2020,
https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/tiep-tuc-thuc-hien-de-an-
%E2%80%9Ctang-cuo%CC%80ng-cong-ta%CC%81c-pho%CC%89-
bie%CC%81n-gia%CC%81o-du%CC%A3c-pha%CC%81p-
lua%CC%A3t-nha%CC%80m-nang-c.htm, 27/2/2018.
26. Chính phủ (2013), Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật phổ biến, giáo dục pháp luật.
27. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội (2012), Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
30. Quốc hội (2013), Luật Hòa giải ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội (2005), Luật Thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Quốc Sửu ( 2011), Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa việt nam “ Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2011.
33. Hoàng Thị Kim Quế (2003), "Bàn về ý thức pháp luật", Tạp chí Luật học,
(1), tr.43-44.
34. Sổ tay Hướng dẫn nghiệp vụ Phổ biến pháp luật.
35. Lâm Thành Sơn (2003), Tăng cường giáo dục pháp luật ở thành phố Bạc
Liêu trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Đại học chính trị, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
36. Từ điển Từ và ngữ Hán – Việt.
37. Hoàng Trung Thành (2004), Giáo dục pháp luật cho nông dân Thái Bình
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
38. Thủ tướng chính phủ (2010), Quyết định về việc xây dựng, quản lý, khai
thác Tủ sách pháp luật.
39. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2018), Kế hoạch thực hiện đề án
“Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức
pháp luật cho thanh, thiếu niên” năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
40. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1995), Một số vấn dề lý luận và thực
tiễn về giáo dục pháp luật trong công tác đổi mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
41. Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Tiếng
Việt, Đà Nẵng
42. Vụ phổ biến pháp luật - Bộ Tư pháp (1997), Một số vấn đề về phổ biến,
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
43. Nguyễn Tất Viễn - Vụ trưởng Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, “Một số
biện pháp tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong tình hình
mới”, Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_pho_bien_giao_duc_phap_luat_cho_thanh_nien_tu_thuc.pdf