VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------- -------
HÀ THỊ LAN PHƯƠNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG PHONG KIẾN VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN THẾ KỶ XIX
Ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số : 9 38 01 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương
HÀ NỘI - 2019
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Pháp luật tố tụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam
c
151 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 428 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận văn Pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào thì pháp luật tố
tụng luôn có tầm quan trọng đặc biệt để thiết lập một thể chế quyền lực tư pháp nhằm
bảo vệ nhà nước, bảo vệ chế độ chính trị xã hội, duy trì công lý, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân và những giá trị nhân văn của nhân loại.
Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050,
Nhà nước Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp năm 2013, những chính sách chung từ
các kỳ đại hội Đảng, các Nghị quyết của Hội nghị trung ương, hoạch định cho nền tư
pháp và Tòa án trách nhiệm cải tổ toàn diện, từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức,
kiểm soát và quản lý chặt chẽ hoạt động tố tụng. Tất cả đều nhằm hướng tới mục tiêu
đảm bảo công lý, công bằng, an toàn, an ninh và an sinh xã hội, không chỉ trong nước
mà cả ở trong khu vực và trên trường quốc tế. Trong báo cáo chính trị, Đại hội Đảng lần
thứ XII đã khẳng định:“Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp,
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”[1, tr.114]. Nhìn lại
hơn ba mươi năm cải cách, đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, pháp luật tố tụng
nói riêng và hệ thống tư pháp nói chung ở Việt Nam đến nay vẫn bộc lộ nhiều điểm bất
cập, hạn chế. Thực trạng oan sai trong hoạt động truy tố, điều tra, xét xử làm cho người
dân khó tin tưởng vào cán cân công lý, điều đó đặt ra cho ngành Tòa án và các cơ quan
tiến hành tố tụng trách nhiệm phải có một kế hoạch cải tổ lâu dài, sâu sắc và triệt để.
Thực hiện các nhiệm vụ trên, bên cạnh việc nghiên cứu các mô hình tố tụng tiến bộ của
các nhà nước trong khu vực và trên thế giới cũng cần phải có các công trình nghiên cứu
chuyên sâu về pháp luật tố tụng truyền thống ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử. Trên
cơ sở đó tìm ra những ưu điểm, tiến bộ cần kế thừa cũng như những nhược điểm, hạn
chế cần khắc phục; tìm ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp mới cho quá trình
thiết kế, kiến tạo nền tư pháp tiến bộ hiện đại, hội nhập văn minh, tôn trọng quyền dân
tộc, quyền quốc gia và quyền con người, tạo lập sự bình yên cho xã hội.
Dưới góc nhìn lịch sử tư pháp, Việt Nam sở hữu những di sản cổ luật tiến bộ đặc
sắc so với các nhà nước khác cùng thời, nhưng trên thực tế nguồn tư liệu lưu trữ và các
công trình nghiên cứu về cổ luật nói chung, về tố tụng trong cổ luật nói riêng còn nhiều
hạn chế. Tra cứu hầu hết các tàng thư, thư viện, danh mục các công trình khoa học
nghiên cứu về pháp luật tố tụng trong thời kỳ quân chủ phong kiến vẫn còn rất nhiều
khoảng trống. Phan Huy Chú từng nghiên cứu về hệ thống pháp luật truyền thống Việt
Nam, ông rất nuối tiếc cho sự mất mát những di sản văn hóa pháp luật của dân tộc. Ông
đã than rằng:“Sách điển chương pháp chế của cả một triều đại làm khuôn phép đời đời
mà mất mát như thế, thực có đáng tiếc không?”[11, tr.65]. Trần Trọng Kim thì cho
151
rằng: đó là ngôi nhà cổ rất đẹp, lâu ngày không ai sang sửa, bụi đã phủ mờ. Tác giả Vũ
Văn Mẫu đã viết: cổ luật Việt Nam là linh hồn trí não người xưa kết đúc lại cho thế hệ
chúng ta qua bao lớp phế hưng của lịch sử [35; 123; 131].
Theo thời gian và theo dòng lịch sử, những giá trị pháp lý truyền thống và phong
tục tập quán được phản ánh trong những quy phạm pháp luật cũng như thực tiễn ứng
dụng dường như vẫn đang tồn tại trong xã hội của chúng ta. Đó là pháp luật truyền
thống về hành chính quan chế, quân sự an ninh, đất đai tài sản, gia đình và hôn nhân,
dân sự và thừa kế, hương hỏa điền sản, tôn giáo và tín ngưỡng tâm linh. Truyền thống
pháp luật còn đó nhưng các công trình nghiên cứu chuyên sâu thì hầu như vẫn còn để
ngỏ. Muốn hoạch định được tương lai thì cần hiểu sâu về quá khứ. Đó là nguyên lý tất
yếu của tính kế thừa biện chứng và sự phát triển của sự vật hiện tượng khách quan.
Trong tiến trình hội nhập và phát triển, việc tìm hiểu và phát huy được những giá trị của
di sản pháp lý cha ông, trân trọng giữ gìn bảo lưu truyền thống pháp luật nhân văn của
dân tộc luôn là vấn đề thiết yếu của khoa học Việt Nam.
Với những lý do trên và mong muốn góp phần xây dựng nền tư pháp chuyên
nghiệp và chuẩn mực nhằm mục đích bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, nghiên
cứu sinh đã lựa chọn đề tài:“Pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XIX” làm luận án tiến sỹ luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1 . Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua nghiên cứu quá trình hình thành phát triển, hình thức và nội dung của
pháp luật tố tụng PKVN từ thế kỷ XV – XIX, luận án làm sáng tỏ những thành tựu, giá
trị và khả năng tiếp thu, ứng dụng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật tố tụng và cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Thứ nhất, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước, khu vực và quốc
tế về pháp luật tố tụng quân chủ phong kiến Việt Nam. Từ đó chỉ ra những vấn đề đã
được nghiên cứu và những vấn đề còn bỏ ngỏ cần tiếp tục bổ sung.
Thứ hai, những vấn đề lý luận và lịch sử về pháp luật tố tụng của nhà nước quân
chủ phong kiến Việt Nam thế kỷ XV - XIX.
Thứ ba, nghiên cứu pháp luật tố tụng của các triều đại Lê Trịnh Nguyễn thông
qua các Bộ luật, Hội điển, Điển chế và các ghi chép trong chính sử. Nghiên cứu những
quy định về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, trình tự và thủ tục tố tụng, quy trình xét xử các
vụ án và giải quyết các vụ việc kiện tụng trong hoạt động tư pháp của nhà nước quân
chủ PKVN. Tiếp cận những nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng như: khởi kiện, thụ
lý, khảo cung, xét xử, thi hành án, về xác định sự thật của vụ án, về oan sai, về bảo vệ
nhân mạng, trách nhiệm của quan án; phân loại tố tụng theo“loại vụ việc” nguyên tắc
“Tôn quân quyền” tập quyền song hành với phân quyền và tản quyền trong quản lý nhà
nước về lĩnh vực tư pháp.
152
Thứ tư, đánh giá được những giá trị lịch sử và đương đại, những tiến bộ và
những hạn chế trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng của nhà nước phong
kiến. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp trong việc tiếp thu, kế thừa và phát triển những
thành tựu của pháp luật tố tụng truyền thống, vận dụng sáng tạo và phù hợp trong cải
cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận án tập trung nghiên cứu các quan điểm khoa học về pháp luật tố tụng, nội
dung của pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX và quan
điểm tiếp nhận pháp luật truyền thống trong xây dựng pháp luật đương đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về thời gian, đề tài nghiên cứu về pháp luật tố tụng của nhà nước quân chủ Việt
Nam từ thế kỷ XV đến XIX (1428 – 1884). Chủ yếu là thời Lê Sơ (1428 – 1527), thời
Lê Trịnh (1599 – 1786) và triều Nguyễn (1802 – 1884). Về không gian: đề tài nghiên
cứu chuyên sâu về pháp luật tố tụng trong việc quản lý nhà nước về tư pháp căn cứ theo
vùng lãnh thổ Việt Nam, từ miền Bắc thời Lê đến cả Bắc Nam trong triều Nguyễn,
đồng thời mở rộng so sánh thêm ở một số nước trong khu vực và thế giới.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận của luận án
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, luật học, sử học, kinh tế học, chính trị học, hành chính học và
logic học. Sử dụng phương pháp luận nghiên cứu kết hợp lịch sử so sánh (comparative
History), luật học so sánh (comparative Law) với tính kế thừa và phát triển.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án đã sử dụng những phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã
hội và những phương pháp nghiên cứu đặc thù trong nghiên cứu khoa học pháp lý như:
Phương pháp thống kê: được sử dụng trong luận án nhằm tập hợp, đánh giá tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp tố tụng, các
văn bản pháp luật và nguồn sử liệu của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Phương pháp hệ thống hóa: được sử dụng nhằm nhận diện và đánh giá cơ cấu tổ
chức hoạt động của cơ quan tố tụng trong mối liên hệ với tổ chức nhà nước PKVN. Sử
dụng phương pháp cấu trúc hệ thống để nghiên cứu kỹ thuật lập pháp, nghiên cứu về
trình tự thủ tục tố tụng, mối quan hệ giữa pháp luật tố tụng với các lĩnh vực pháp luật
khác, vị trí vai trò của pháp luật tố tụng trong hệ thống pháp luật chung.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: được sử dụng trong luận án nhằm nghiên cứu,
luận giải về các nội dung liên quan đến chủ đề luận án. Kết hợp phương pháp quy nạp,
diễn dịch, phân tích, chứng minh, giải thích, nhận xét đánh giá các chế định về tố tụng,
các quy định, chế tài áp dụng trong hoạt động xét xử và thi hành án.
Phương pháp luật học so sánh: được sử dụng trong luận án để làm sáng tỏ hệ
153
thống cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, vấn đề thời hiệu, thời hạn, chứng cứ,
chứng minh, sự chuyển đổi thể chế và quy trình tố tụng qua các giai đoạn lịch sử.
Phương pháp xã hội học pháp luật: được sử dụng trong luận án nhằm khảo xét
thực tiễn lịch sử pháp luật tố tụng trong xã hội phong kiến. Nghiên cứu một số bản án
được ghi lại trong chính sử và dấu ấn của nó trong tâm thức dân tộc.
Phương pháp trao đổi, tọa đàm: sử dụng để trao đổi trên diễn đàn tạp chí khoa
học chuyên ngành, liên ngành và các hội thảo.
Phương pháp logic và lịch sử: được sử dụng chủ yếu trong luận án nhằm nhận
diện đặc điểm, tiến trình phát triển của pháp luật tố tụng qua các triều đại.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp khái quát, mô hình hóa các cơ quan
hành chính tư pháp; tiếp cận văn bản học để nghiên cứu các bộ luật cổ; hồi cố, hậu suy
phục dựng lại bối cảnh lịch sử quá khứ để phân tích, suy xét, lập luận vấn đề; phương
pháp định lượng, định tính, kết hợp với thống kê, phân loại các điều luật để đánh giá về
số lượng, qua đó nhận thấy rõ nội dung, bản chất của vấn đề cần nghiên cứu theo
nguyên lý lượng đổi chất đổi. Bên cạnh đó là phương pháp đồng đại, lịch đại, nghĩa là
đặt các sự vật hiện tượng, vấn đề cùng loại trong tính logic của thời gian để thấy được
tính vượt trước hoặc chậm trễ của pháp luật qua các thời kỳ. Luận án dựa trên cách tiếp
cận liên ngành, đa ngành khoa học xã hội để nghiên cứu và luận giải về pháp luật tố
tụng trong bức tranh tổng thể của xã hội Việt Nam thế kỷ XV – XIX.
5. Những đóng góp mới về nghiên cứu khoa học của luận án
Những đóng góp về lý luận của Luận án
- Thứ nhất, Luận án đã nhận diện và làm rõ những vấn đề lý luận và lịch sử về
pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam thời Lê Trịnh Nguyễn cả dưới góc độ
tổng quát và chuyên ngành.
- Thứ hai, Trên cơ sở đó chỉ ra mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị, tư
tưởng và phong tục tập quán đến pháp luật tố tụng; luận giải vị trí vai trò, những
nguyên tắc, đặc điểm, bản chất, mục tiêu, tính phổ biến và những điểm đặc thù
của pháp luật tố tụng thời quân chủ PKVN. Nghiên cứu so sánh cho thấy, Việt
Nam là một trong những quốc gia xây dựng bộ luật chuyên ngành về tố tụng đầu
tiên ở khu vực châu Á và thế giới.
Những đóng góp về thực tiễn của Luận án
- Thứ nhất, Luận án trình bày bức tranh tổng thể, nghiên cứu khá toàn diện, hệ
thống và chuyên sâu về hình thức, thủ tục, nội dung và thành tựu cơ bản của pháp luật
tố tụng phong kiến Việt Nam trong thực tiễn lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX.
- Thứ hai, Luận án làm sáng tỏ một số nội dung về tính dân tộc đặc sắc, phân tích
tính độc đáo, tiến bộ của một số chế định như: thẩm quyền và trình tự tố tụng, thủ tục tố
tụng, quy trình tố tụng, hoạt động và giám sát tố tụng, phân loại vụ việc trong tố tụng,
án lệ và các tiền lệ tư pháp, phạt tiền và chuộc hình phạt bằng tiền, chế độ Công đồng
Đình nghị, Thu thẩm và cơ chế liên ngành Tam pháp ty. Luận án đã nhận diện và phân
154
tích tính đặc thù của thể chế quyền lực tư pháp thời Lê Sơ – Lê Thánh Tông, Lê Trịnh
và triều Nguyễn trong nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam ở giai đoạn có nhiều
biến động lịch sử thế kỷ XV - XIX.
- Thứ ba, Luận án chỉ ra những giá trị lịch sử và đương đại cũng như một số giải
pháp tiếp thu kế thừa các giá trị đó trong quá trình hoàn thiện pháp luật tố tụng, cải cách
tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ bảo hộ quyền công dân và quyền con
người ở Việt Nam, khu vực và thế giới.
Pháp luật tố tụng PKVN thế kỷ XV - XIX có nhiều thành tựu đáng để nghiên
cứu và suy ngẫm. Kết quả nghiên cứu cho thấy pháp luật tố tụng ứng dụng trong giai
đoạn lịch sử thế kỷ XV – XIX và có giá trị tham khảo cho quá trình cải cách tư pháp
trong thời đại mới. Tiếp thu những giá trị của pháp luật tố tụng truyền thống trên tinh
thần chỉnh hợp có chọn lọc những yếu tố tiến bộ của pháp luật tố tụng, đó là yêu cầu và
trách nhiệm của khoa học pháp lý trong thực tiễn xã hội hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án làm sáng tỏ thực tiễn lập pháp, giá trị pháp lý của pháp luật tố tụng
truyền thống, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm về lập pháp, xây dựng văn bản
pháp luật và áp dụng pháp luật tố tụng trong hoạt động tư pháp xét xử, đề ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng. Luận án cũng gợi mở hướng nghiên cứu một số văn
bản pháp luật thời Lê, Hội điển và Châu bản triều Nguyễn, so sánh với pháp luật tố tụng
thời thuộc Pháp và Việt Nam Cộng hòa để tìm ra giá trị và bài học cho đương thời.
7. Kết cấu của luận án
Nội dung của luận án ngoài lời cảm ơn, cam đoan, bảng ký hiệu viết tắt, mở đầu,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, gồm có 4 chương như sau:
Chương một: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chương hai: Nhận diện về lý luận và lịch sử pháp luật tố tụng PKVN
Chương ba: Những quy định pháp luật tố tụng PKVN thế kỷ XV – XIX
Chương bốn: Giá trị lịch sử và đương đại của pháp luật tố tụng PKVN trong quá
trình cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay
155
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái lược về tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu đề tài pháp luật tố tụng ở trong nước
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng PKVN thế
kỷ XV – XIX song chưa mang tính tổng thể và vẫn còn nhiều khoảng trống.
Căn cứ vào các nguồn tư liệu, có thể chia thành 2 nhóm chính: (i) nhóm các công
trình nghiên cứu chung về lý luận và lịch sử pháp luật Việt Nam thời phong kiến có liên
quan đến lĩnh vực tố tụng; (ii) nhóm các công trình nghiên cứu chuyên ngành về pháp
luật tố tụng ở Việt Nam thế kỷ XV - XIX. Các công trình nghiên cứu chủ yếu hai Bộ
luật pháp điển là QTHL triều Lê và HVLL triều Nguyễn. Có thể khái lược một số tác
giả và công trình tiêu biểu sau đây.
Nghiên cứu chung về lý luận & lịch sử pháp luật tố tụng PKVN
Tiếp cận dưới góc độ lý luận và lịch sử về pháp luật tố tụng PKVN có thể nhìn từ
góc độ tổng quát đến chuyên ngành. Trong tổng thể của bộ máy nhà nước, từ cơ sở kinh
tế xã hội tư tưởng chính trị pháp lý đến quá trình hình thành phát triển, từ tổ chức bộ
máy đến các quy phạm, chế định điều luật, từ khái niệm, quan niệm đến vị trí, vai trò,
nguyên tắc, đặc điểm, bản chất pháp luật tố tụng, tất cả đều nằm trong sự vận động
chung của chính thể quân chủ qua các giai đoạn lịch sử. Nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ và
hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề này. Tuy vậy,
cũng có thể tiếp thu kế thừa những kết quả nghiên cứu từ các công trình tiêu biểu sau:
Lịch triều Hiến chương loại chí (1819) của học giả Phan Huy Chú được coi là
công trình “Quốc chí” bách khoa thư nghiên cứu những giá trị cơ bản nhất của một thể
chế nhà nước trong đó có nội dung về kinh tế, chính trị, quân sự và pháp luật triều Lê.
Các mục như Dư địa chí, Nhân vật chí, Quan chức chí, Quốc dụng chí, Hình luật chí,
Binh chế chí, cho chúng ta cách nhìn tổng diện về cơ sở của chế độ hành chính tư pháp
PKVN. Nội dung pháp luật tố tụng từ năm 1625 đến năm 1765 và bộ QTKTĐL năm
1777 đã được tác giả Phan Huy Chú khảo lược, đánh giá. Theo đó “Các mục luật văn
gồm có hơn 700 điều, thật rất rõ ràng đầy đủ, dùng để nêu thể lệ xét xử, thích hợp với
dân tình, cân nhắc và thêm bớt, cho nên đủ để đối phó với các trạng thái biến hóa của
đời sống và ngăn ngừa người dân vi phạm. Để cho những người cầm nắm pháp luật,
gặp việc thì chước lượng theo đó mà xét nặng nhẹ, định thêm bớt.” [10, tr.389]. “Các
Lệ xét kiện chuẩn định năm Đinh Dậu đời Cảnh Hưng năm 1777, tham chước quy thức
các triều, hoạch định thống nhất rõ ràng, điều mục tỷ mỷ, không bỏ sót gì, người xét xử
sẵn có Luật thường để quyết định, có Lệ thường để thích ứng, nếu noi theo cẩn thận thì
dứt được tệ gian, bớt được hình ngục, mực thước không thể bỏ qua được”[10, tr. 407]
[9;11]. Với công trình này, có thể tìm hiểu về cơ sở và quá trình hình thành phát triển,
vị trí vai trò, đặc điểm và mối quan hệ của pháp luật tố tụng trong tổng thể pháp luật và
156
bộ máy nhà nước, về quan chế công vụ tư pháp, về tuyển bổ, giám sát, khảo khóa quan
lại hành chính quân sự tư pháp, về thẩm quyền tố tụng tối cao của vua và chúa.
Quốc triều Luật Lệ toát yếu (1919) do Tổng tài Cao Xuân Dục biên tập. Đây là
cuốn lược giản bộ HVLL triều Nguyễn, là tài liệu để nghiên cứu và đào tạo tại trường
Cao đẳng Luật Đông Dương thời thuộc Pháp, trong đó có phần pháp luật tố tụng và một
số văn bản bổ sung qua các triều vua Minh Mệnh, Tự Đức [59, tr.34, 218 - 227]. Đây là
công trình giúp cho người nghiên cứu hiểu cơ bản về pháp luật triều Nguyễn.
“Pháp chế sử”(1967) của Vũ Quốc Thông có thể được coi là công trình nghiên
cứu tiêu biểu nhất về chính thể quân chủ và tổ chức hành chính tư pháp PKVN. Học giả
Vũ Quốc Thông đã khảo cứu về hoạt động tố tụng trong mối quan hệ thống nhất với bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, theo cơ cấu hành chính xã thôn tự trị.
Công trình cho chúng ta cách nhìn khoa học về tổ chức hệ thống tư pháp xét xử xuất
phát từ chế độ chính trị, chế độ hành chính thông qua các định chế pháp lý. Trong đó
nội dung gồm 3 phần: phần 1, về chế độ chính trị, chính thể quân chủ qua các thời kỳ từ
968 đến 1945, bao gồm tổ chức chính quyền trung ương và địa phương; phần 2, về chế
độ hành chính, quản lý nền hành chính trung ương và địa phương theo mô hình xã thôn
tự trị với cơ cấu hội đồng hàng tỉnh, hội đồng thành phố; phần 3 về chế độ tư pháp với
cách thức tổ chức các pháp đình. Đây là công trình nghiên cứu khá hiếm hoi dưới góc
độ luật học về chính thể quân chủ và bộ máy nhà nước, trong đó có hệ thống hành chính
tư pháp xét xử. Chính vì vậy nên cho dù khá giản lược nhưng đây là cách tiếp cận khoa
học và toàn diện về thể chế tư pháp trong bộ máy nhà nước thời quân chủ phong kiến,
trong đó hành chính, tư pháp là một bộ phận quan trọng của thể chế chính trị, quân sự
theo hình thức quân chủ tập quyền [209, tr.5 -13]. Qua nghiên cứu, tác giả có thể nhận
định với một số luận điểm như sau:
Một là, công trình đã có những nghiên cứu cơ bản về chính thể quân chủ và vị trí
của nhà vua trong hệ thống hành chính tư pháp. Nhà nước quân chủ phong kiến có quan
niệm về thế quyền và thần quyền. Về thế quyền, nhà vua ban hành ra luật pháp, là vị thủ
lĩnh cao cấp nhất của nền hành chính quốc gia. Nhà vua cũng đồng thời là vị Thẩm
phán tối cao có quyền xét xử và ra phán quyết cuối cùng. Về thần quyền, theo lý thuyết
thân dân, khoan thư sức dân, yên dân, kính thiên ái dân [209, tr.366 - 376]. Nhà vua là
chủ tế lễ đàn Xã tắc và điện Kính thiên thời Lê cũng như tế lễ ở Đàn Nam Giao thời
Nguyễn. Nhà vua cũng có quyền cho phép quốc dân lập đình đền chùa tông miếu hoặc
ngăn cấm như chính sách kiểm soát Phật giáo, cấm đạo Gia tô.
Hai là, công trình đã có những nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và thẩm quyền xét xử
trong hoạt động tố tụng. Học giả Vũ Quốc Thông tiếp cận chủ yếu từ hai góc độ: (i)
Cách tổ chức các pháp đình; (ii) Thẩm quyền và luật pháp áp dụng trước các pháp đình;
Theo tác giả, “cho đến khi nước Pháp đặt nền bảo hộ, nhà nước thực dân phong kiến
vẫn không áp dụng nguyên tắc phân quyền trong nền hành chính tư pháp” [209, tr.376 -
396]. Vũ Quốc Thông đã nhận định về pháp luật tố tụng từ sau năm 1649 rằng:“Không
157
những cách tổ chức pháp đình được ấn định rõ ràng mà cả các thể thức tố tụng như là
cách thức đệ đơn kiện, cách thức điều tra và xét xử các vụ tranh tụng, cách thức kháng
tố các bản án cũng đã được quy định một cách rất minh bạch.”[209, tr. 375]. Tuy
nhiên, triều Nguyễn lại chưa thể xây dựng được một bộ luật chuyên sâu về tố tụng như
QTKTĐL triều Lê – Trịnh.
Ưu điểm lớn nhất trong công trình Pháp chế sử Việt Nam của Vũ Quốc Thông là
có tầm nhìn tổng quát về các định chế pháp lý dưới góc độ luật học để tiếp cận hệ thống
tư pháp từ tổ chức bộ máy đến chức năng, thẩm quyền và các thủ tục tố tụng. Tuy
nhiên, các vấn đề trên cần nghiên cứu ở góc độ liên ngành quản lý hành chính quân sự
tư pháp trong hoạt động tố tụng. Các nguyên tắc hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền tư pháp điều chỉnh hoạt động tố tụng được Vũ Quốc Thông đề cập tuy còn sơ
lược, nhiều nội dung chưa chuyên sâu, chưa đầy đủ và toàn diện nhưng cách đặt vấn đề
của ông là rất khoa học.
GS.Vũ Văn Mẫu (1972 – 1975) có nhiều công trình nghiên cứu đại cương về chế
độ hành chính và tư pháp trong bộ QTHL và QTKTĐL thời Lê. Một số cuốn sách đã
được xuất bản như:“Cổ luật Việt Nam lược khảo”,“Cổ luật Việt Nam thông khảo”,“Cổ
luật Việt Nam và tư pháp sử”,“Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng” [145-149].
Các công trình nghiên cứu của GS.Vũ Văn Mẫu có tính chuyên sâu và đầy đủ nhất về
pháp luật phong kiến Việt Nam. Trong đó tác giả đi sâu chủ yếu ba ngành luật cơ bản là
dân sự, hôn nhân gia đình và hình sự; nghiên cứu về chế độ tư pháp, Tòa án và pháp
luật tố tụng trong các cuốn sách này có dung lượng hạn chế [146, tr.227- 266].
Công trình nghiên cứu “Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử Diễn giảng”(1974)
trong đó có phần“Đại cương về tổ chức tư pháp và tố tụng trong cổ luật” của GS.Vũ
Văn Mẫu [146, tr.227 - 265]. Nội dung tiếp cận về pháp luật tố tụng PKVN theo hai vấn
đề: Thứ nhất, là hệ thống Tòa án trong cổ luật gồm “cơ quan thoả xử, hệ thống các cơ
quan tài phán và sự kiểm soát các cơ quan tài phán”; Thứ hai, về thủ tục tố tụng, chủ
yếu tiếp cận về thụ lý việc kiện, thẩm vấn và phân xử. Tác giả đánh giá rất cao bộ
QTKTĐL và cho rằng: nếu như những quy định về chứng thư, chúc thư, vấn đề tài sản
vợ chồng, thừa kế, hương hỏa, của QTHL trong hệ thống luật pháp triều Lê là điều tân
kỳ thứ nhất, thì nội dung tân kỳ thứ hai của cổ luật VN thuộc về bộ QTKTĐL. Ông đã
có những nghiên cứu về QTKTĐL và thấy rõ sự tiến bộ về kỹ thuật pháp lý, thể hiện sự
phân biệt tương đối rõ ràng giữa luật nội dung và luật thủ tục trong pháp luật tố
tụng.“Trong lịch sử cổ pháp Á Châu, đây là bộ luật duy nhất về thủ tục tố tụng và tổ
chức các nha môn xử án. Điều này chứng tỏ rằng trong cựu pháp, nhà làm luật Việt
Nam đã ý thức được đầu tiên về sự phân biệt các luật pháp về nội dung và các luật
pháp liên quan đến thủ tục”[146, tr. 265]. Về sự phân biệt này, đến cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, ở Âu Mỹ, với sự phát triển của ngành Quốc tế tư pháp, các luật gia mới
nhận định rõ tầm quan trọng của vấn đề này trong các tranh chấp. Bởi nếu như luật nội
dung còn nhiều xung đột cần tranh tụng thì luật thủ tục đã phần nào có sự đồng
158
thuận.“Điều ấy càng làm tôn rõ những nét tân kỳ độc đáo của sự quy định về thủ tục tố
tụng trong pháp chế triều Lê” [146, tr.265]. “Đại cương về tổ chức tư pháp và tố tụng
trong cổ luật” của GS.Vũ Văn Mẫu có cách tiếp cận khoa học, với tầm nhìn tổng thể khi
đánh giá cổ luật Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả chủ yếu ở tầm khái quát nên cần tiếp
cận chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện và cụ thể hơn.
Học giả Nguyễn Quang Quýnh với cuốn“Dân luật tổng quát” và “Hình luật tổng
quát” (1972) cũng có một phần về giới thiệu chung về pháp luật phong kiến và phân
tích một số thành tựu cơ bản của cổ luật Việt Nam [195, tr. 5- 12] [196].
Năm 1968, nhà luật học Đinh Gia Trinh và các nhà sử học có cuốn sách nghiên
cứu chung về lịch sử nhà nước và pháp luật dưới nhan đề“Sơ thảo lịch sử Nhà nước và
Pháp quyền Việt Nam”. Nội dung về pháp luật tố tụng phong kiến trong công trình này
nghiên cứu mang tính khái quát và chưa đi sâu phân tích các Bộ luật, Hội điển và các
văn bản pháp luật tố tụng [217].
GS. Lê Thị Sơn chủ biên cuốn“Quốc triều hình luật - Lịch sử hình thành, nội
dung và giá trị”(2004). Công trình nghiên cứu toàn diện về bộ QTHL từ cơ sở kinh tế,
chính trị, xã hội, quá trình hình thành, nội dung các lĩnh vực về quan chế, hình sự, dân
sự, đất đai, thừa kế, hôn nhân gia đình và tố tụng phong kiến Việt Nam dưới góc nhìn
của cấu trúc pháp luật đương đại. Trong chuyên khảo có bài viết về Pháp luật tố tụng
của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn [197]. TS.Trương Quang Vinh chủ biên cuốn chuyên
khảo“Tội phạm và hình phạt trong HVLL” (2008) chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ
pháp luật hình sự về tội phạm và hình phạt trong HVLL, đồng thời đưa ra nhận xét
chung về đường lối xử lý đối với tội phạm trong pháp luật triều Nguyễn [208]. Cuốn
sách“Quốc triều Hình luật, những giá trị lịch sử và đương đại góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam“(2008) dựa trên các bài viết tại Hội thảo về QTHL tại
Thanh Hóa do Bộ Tư pháp chủ trì theo chủ đề “QTHL, những giá trị lịch sử và đương
đại”, trong đó có hai nội dung nghiên cứu về pháp luật tố tụng trong bộ QTHL triều Lê
[190, tr. 381, 404].
Ngoài ra, nhiều học giả cũng có các công trình nghiên cứu như Bùi Xuân Đính
(1998) với “Lệ làng phép nước”,“Hương ước và quản lý làng xã”[79; 80]. Lê Đức Tiết
(1998, 2010) nghiên cứu về “Hương ước lệ làng”, về “Luật Hồng Đức” [215; 216].
Đinh Khắc Thuân (2006) chủ biên công trình biên dịch và nghiên cứu về các bản
Hương ước được lưu tại viện Hán Nôm với tiêu đề “Tục lệ cổ truyền làng xã Việt
Nam”[211]. Ngô Đức Thịnh (2014) với cuốn biên khảo “Luật tục trong đời sống các
tộc người ở Việt Nam” [208]. Đây là những công trình nghiên cứu hướng đến việc nhận
thức sâu hơn những giá trị của luật tập quán trong đời sống sinh hoạt của xã hội cộng
đồng, đặc biệt là các vùng đồng bào dân tộc miền núi. Việc giải quyết các tranh chấp
theo luật tục, hương ước và tính hiệu quả của phong tục tập quán cũng được các tác giả
đề cập đến. Đây là một hướng nghiên cứu kết hợp giữa luật nước với lệ làng, đặc biệt là
luật tục của các dân tộc miền núi với những giá trị bền vững của pháp luật cộng đồng.
159
Khoa Pháp luật Hành chính Nhà nước Đại học Luật Hà Nội có hai đề tài. Thứ
nhất là “Giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước trong nhà nước phong kiến Việt
Nam – Những suy ngẫm và bài học cho hôm nay" (2012)[117]. Thứ hai là“Chế độ trách
nhiệm công vụ ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử”(2017) [118]. Các bài viết tạp chí
tiêu biểu như Trương Hữu Quýnh (1995 [194 GS.TSKH Vũ Minh Giang [92]. GS.TS.
Hoàng Thị Kim Quế [189]. Đào Trí Úc - Lê Minh Thông (1999)“Sự tiếp nhận các giá
trị pháp lý phương Đông và phương Tây đối với sự phát triển các tư tưởng pháp lý Việt
Nam”[223]. GS.Thái Vĩnh Thắng (2003) [204]. PGS.TS. Nguyễn Thị Việt Hương và
TS. Lê Thị Hương về“Nhu cầu tích hợp các giá trị truyền thống trong mô hình nhà
nước pháp quyền Việt Nam”(2004) [109]. Ngô Văn Hưởng (2010) Tư tưởng kết hợp
Đức trị và Pháp trị trong đường lối trị nước của triều đại Lê Sơ và ý nghĩa lịch sử [77;
79; 80] [110; 131; 144; 152; 155; 157; 161; 173; 213; 223; 31].
PGS. TS.Nguyễn Thị Việt Hương với chủ đề “Thiết chế chính trị pháp lý làng xã
Việt Nam”(2001 [108]. Bùi Thị Phương Thúy (2009), Tư tưởng Đức trị và Pháp trị
trong Quốc triều Hình luật [212]. TS.Trương Vĩnh Khang (2015) về“Thiết chế chính trị
pháp lý Việt Nam thời Lê Sơ (1428 – 1527) và các giá trị của nó” trong đó có đề cập
đến vấn đề tố tụng trong bộ QTHL thời Lê [115]. Một số nội dung về pháp luật tố tụng
phong kiến Việt Nam cũng được trình bày khái lược trong các giáo trình“Lịch sử Nhà
nước và Pháp luật Việt Nam” của Vũ Thị Phụng (1990); Đào tạo từ xa Đại học Huế
(1998); Viện Đại học mở (2013); Đại học Huế (2016 - 2019); Đại học Luật TP Hồ Chí
Minh (2013 - 2019). Giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội (2002 – 2017) [93].
Giáo trình khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội (2017 - 2019) [220].
Qua việc tổng hợp khái quát những kết quả nghiên cứu trên cho thấy, có thể tiếp
thu những công trình đi trước về chính thể quân chủ, bộ máy hành chính tư pháp, cơ sở
kinh tế xã hội, cơ sở tư tưởng chính trị pháp lý, tư tưởng đức trị pháp trị, về luật tục,
hương ước, lệ làng. Tuy nhiên, đi sâu vào lý luận và lịch sử chuyên ngành về pháp luật
tố tụng PKVN thì vẫn còn rất sơ lược và dường như là vấn đề còn để ngỏ.
Nghiên cứu chuyên về hình thức và nội dung pháp luật tố tụng PKVN
Công trình nghiên cứu thứ nhất:“Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế
kỷ XV – XVIII” (1994) thuộc dự án tài trợ của Toyota Nhật Bản, GS. Đào Trí Úc làm
chủ biên, trong đó có bài viết của nhà nghiên cứu Phạm Điềm về “Pháp luật tố Tụng”
[165, tr.245- 262]. Đây là công trình nghiên cứu tương đối chuyên sâu về pháp luật tố
tụng triều Lê, về các tư liệu bộ QTHL và QTKTĐL, trong đó đề cập hai nội dung: Thứ
nhất, thẩm quyền và trình tự tiến hành tố tụng theo cơ cấu chính quyền các cấp: cấp xã,
cấp huyện phủ, các trấn ty ở xứ; kiểm soát án từ 3 cấp và hàng năm; Thứ hai: thủ tục tố
tụng: tương đối cụ thể gồm thụ lý việc kiện (đơn kiện và đơn tố cáo, sự thụ lý); thẩm
vấn (sự đòi hỏi nhân chứng và đương sự, sự tra khảo); sự phân xử (nơi xử án, thời hạn
xử án, phương pháp xử án). Tác giả nhận định “Pháp luật tố tụng triều Lê đã đạt được
nhiều thành tựu”. M... các luật gia nghiên cứu tiếp cận
sơ lược trên cơ sở các khảo cứu các Bộ luật, Bộ Hội điển, Điển chế, các văn bản quy
phạm pháp luật, tập hợp Thư tịch và trong các Bộ sử biên niên. Mặc dù đã có những
thành công nhất định, nhưng nếu xét một cách tổng thể thì pháp luật tố tụng trong giai
đoạn từ thời Lê sang thời Nguyễn còn nhiều nội dung vẫn còn để ngỏ. Một số văn bản
pháp luật tố tụng thời Lê Thánh Tông và Lê Trịnh chưa được nghiên cứu hệ thống
chuyên sâu, những đánh giá nhận định chưa khái quát, nội dung còn mâu thuẫn, chưa
thống nhất, chưa có sự so sánh giữa thời Lê với thời Nguyễn.
Thực tiễn cho thấy pháp luật tố tụng và án từ là một thành tố quan trọng đặc biệt
trong chính thể quân chủ, cho dù nhìn dưới góc độ chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội,
gia đình hay nhân sinh. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, từ những nghiên cứu tổng quan
có thể nhận thấy hoạt động lập pháp về lĩnh vực tố tụng trong chính thể quân chủ của
nhà nước phong kiến Việt Nam đạt khá nhiều thành tựu.
Để nhận diện được khách quan toàn diện về nền cổ luật truyền thống kết nối với
đương đại theo nguyên lý “ôn cố nhi tri tân” rất cần có công trình nghiên cứu sâu hơn
về chủ đề “Pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX” theo
góc nhìn phổ rộng, nhận diện đầy đủ về lịch sử pháp luật tố tụng. Tìm hiểu về quan niệm
khái niệm, về cơ sở lý luận và thực tiễn của đời sống pháp luật tố tụng trong bức tranh
tổng thể xã hội, trong bối cảnh lịch sử trong nước và khu vực, trong trình độ kinh tế,
chính trị của thể chế phong kiến quân chủ chuyên chế.
170
Chương 2
NHẬN DIỆN VỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG PHONG
KIẾN VIỆT NAM THẾ KỶ XV – XIX
2.1. Những vấn đề lý luận về pháp luật tố tụng PKVN thế kỷ XV - XIX
2.1.1. Những vấn đề lý luận chung về pháp luật tố tụng
2.1.1.1. Sơ lược lịch sử pháp luật tố tụng
Lịch sử loài người từ xa xưa đã manh nha hình thành quan niệm cơ bản về hoạt
động tố tụng. Khi đó, vai trò quan tòa thường là các vị thủ lĩnh, các tù trưởng, tộc
trưởng, các vị vua chúa của các thị tộc, bộ lạc của nhà nước sơ khai. Bước sang thời kỳ
cổ trung đại, các nhà nước ở phương Đông như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung
Quốc, các nước Trung Đông, Đông Á, Đông Nam Á dần hình thành nhà nước quân chủ
và hệ thống pháp luật thành văn để củng cố quyền lực chuyên chế với nguyên tắc quân
quyền tối cao thuộc về các Pharaon, các Calipha, các tăng lữ, giáo chủ, nhà vua, vương
hầu, lãnh chúa. Họ đồng thời là nhà cầm quyền, quan tòa, thủ lĩnh quân sự tối cao, có
đặc quyền đẳng cấp quý tộc theo nguyên tắc tôn quân cha truyền con nối.
Khác với loại hình nhà nước quân chủ chuyên chế phương Đông là nền cộng hòa
Hy Lạp và La Mã cổ đại. Điển hình là nền cộng hòa dân chủ chủ nô Athens, nơi mà các
công dân có tài sản được định giá bằng các medin lương thực, họ có quyền tham gia
chính quyền, bầu cử và được nói lên tiếng nói của mình. Tổ chức nhà nước thành lập
hội đồng công dân, hội đồng tướng lĩnh, hội đồng quan chấp chính và đã có Hội đồng
xét xử công khai [132, 171]. Những quy định về tố tụng thời cổ trung đại đã xuất hiện
trong các văn bản pháp luật như bộ luật Hammourabi, Luật Manou, Luật Salic, Đỉnh
hình, Trúc Hình, Cửu chương luật. Luật Dracon và Luật La Mã đã đặt nền tảng giá trị
công lý của con người về tính mạng và quyền tài sản cũng như đảm bảo giá trị của khế
ước trong giao dịch dân sự, hợp đồng thương mại và phân chia di sản thừa kế trong gia
đình. Tố tụng thời trung cổ ở Tây Âu bị chi phối bởi nhiều thế lực cát cứ phân quyền,
trong đó có sự đối trọng quyền lực chính trị, tố tụng xét xử giữa nhà thờ, tăng lữ, nhà
vua và lãnh chúa. Trong thời kỳ này, các chế tài được áp dụng cũng không kém phần
man rợ. Nhà nước phong kiến ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam đã hình
thành và phát triển trải qua hàng nghìn năm với sự ra đời của pháp luật tố tụng đã phần
nào đảm bảo chức năng và giá trị của nền tư pháp trong bảo vệ nhà nước, xã hội, con
người và tài sản, gia tộc và cộng đồng.
Nghiên cứu khái niệm nhà nước pháp luật phong kiến ở cả phương Đông và
phương Tây đều cho thấy đặc điểm chung nhất là Feodalite -“Phong hầu kiến địa”:
Nhà nước pháp luật phong kiến bảo vệ chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền và lợi ích
của các lãnh chúa cát cứ, trong đó xác định mối quan hệ chủ yếu là giữa giai cấp địa
chủ, quý tộc, vua chúa, lãnh chúa và nông dân tá điền cày thuê. Giai cấp thống trị nắm
quyền sở hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất, bóc lột tầng lớp nông dân và người làm thuê
171
thông qua việc quản lý đất đai, phương tiện tạo ra sản phẩm nuôi sống xã hội, để thu
thuế và bóc lột sức lao động.
Nghiên cứu về pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến cũng xuất phát điểm
bắt đầu từ việc nghiên cứu nhà nước và chế độ phong kiến. Pháp luật tố tụng của nhà
nước phong kiến Việt Nam về cơ bản là đã thực hiện được những mục tiêu bảo vệ chính
thể nhà nước, đảm bảo trật tự an ninh xã hội, bảo vệ con người về tính mạng, tài sản và
danh dự. Pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam cũng đã có những bước phát triển đáng
kể, góp phần xây dựng nhà nước pháp luật trong thế kỷ XV – XIX và có ảnh hưởng lâu
dài trong tiến trình lịch sử.
2.1.1.2. Quan niệm, khái niệm về pháp luật tố tụng
Pháp luật tố tụng hình thành từ những nhu cầu của xã hội, khi nảy sinh những
tranh chấp, những hành vi có tính chất gây nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi cần phải có sự
phán xử công bằng thông qua các thủ tục nhất định. Trong pháp luật PKVN, không có
định nghĩa khái niệm về “pháp luật tố tụng” mà chỉ có khái niệm về luật lệ “Khám
tụng” (tra khám kiện tụng), “Bộ vong” (truy bắt), “Từ tụng” (đơn từ kiện tụng), “Chư
cung” (khảo cung), “Đoán ngục” (xử đoán, quản ngục) và “Luật hình về sự phán quyết
bản án” (luật tố tụng xét xử).
Nghiên cứu về khái niệm “tố tụng”, từ điển Hán Việt giải thích:“Tố là báo, là nói
ra, tố cáo; Tụng là kiện cáo, tranh cãi đúng sai” [221, tr.545]. Từ điển Việt Pháp cũng
có nghĩa tương tự: là tố cáo (acccuser, dénoncer), tố tụng, kiện tụng, vụ kiện, tranh cãi,
tranh kiện (procès, plaider, cause, contester, litige) [86, tr.771-1003-1113]. Theo từ điển
Anh Việt thì: tố tụng là kiện tụng, tranh tụng, tranh chấp, cửa kiện (law litigate) theo
nghĩa là hầu toà, dự phiên tòa; kiện cáo, tranh chấp trước toà; là quá trình tố tụng bằng
thủ tục pháp lý, trát đòi, lệnh toà (process) [172, tr.126]. So sánh những nội dung liên
quan đến tố tụng được giải thích một cách ngắn gọn nhất qua các từ điển để hiểu được
phần nào sự phân biệt của hệ thống tố tụng theo quan điểm của phương Đông và
phương Tây. Nếu như phương Đông trong hoạt động xét xử chủ yếu dựa trên hồ sơ thủ
tục quan án xét hỏi tại tòa thì phương Tây hướng vào tranh tụng của các bên trước toà.
Thủ tục tố tụng của các nhà nước phương Đông thường được quyết định bởi quyền cao
nhất của nhà vua thì ở phương Tây ngoài nhà vua, còn phải chịu sự chi phối của Hội
đồng thẩm phán, Tòa án Giáo hội Thiên chúa, Tòa Lãnh chúa, Chính quyền tự quản
thành phố, Bồi thẩm đoàn và tổ chức Luật sư. Nhìn tổng thể, pháp luật tố tụng ở các
nước phương Đông tính độc quyền chuyên chế cao hơn ở các nước phương Tây.
Định hình quan niệm pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng của nhà
nước phong kiến Việt Nam từ xưa đến nay, về cách hiểu cũng không hoàn toàn đồng
nhất. Các triều đại thường coi trọng mục đích của việc ban hành pháp luật là củng cố
chính quyền, xử lý vi phạm, hướng tới an dân, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội.
Trong quan niệm của người Trung Hoa thời cổ đại, pháp luật âm thanh căn bản của
cuộc sống, là nhịp điệu của đoàn quân hành tiến, là “Đạo pháp trừ tà khúc”
172
[137,160,161]. Với Đại Việt, từ thời nhà Lý, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu,
quan lại câu nệ luật văn có từ trước, xét xử quá đáng. Năm 1042, Lý Thái Tôn sai quan
Trung Thư biên soạn bộ Hình thư của triều đại, sách làm xong vua xuống chiếu ban
hành.“Từ đó phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, dân lấy làm tiện dụng”[23, tr.263].
Vua Lê Thánh Tông năm 1464 từng khẳng định:“Pháp luật là phép công của nhà nước,
ta cùng các ngươi đều phải theo, các ngươi nên nhớ lấy” [24, tr.401]. Vua Hiển Tông,
năm Cảnh hưng thứ 38 (1777) sửa định điều lệ xét xử kiện tụng, ban chỉ dụ
rằng:“Những điều lệ về kiện tụng, đặt làm định pháp, biên soạn thành sách, chỉ bảo rõ
ràng nhất định, ban xuống cho các nha môn tuân hành, theo đúng điều lệ, cốt làm cho
chính sự công bằng, kiện tụng đúng phép, dân được thịnh vượng yên vui, để xứng đáng
chức vụ” [10, tr.303]. Đến triều Nguyễn, Hoàng đế Gia Long cũng đặc biệt coi trọng
việc ban hành luật pháp, xử lý vi phạm:“Thánh nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp
để xử tội, dùng đạo đức để giáo hóa họ, hai điều ấy không thiên bên nào bỏ bên
nào”[31, tr.1-3]. Minh Mệnh là người đề cao Pháp trị trong tính ứng dụng thực hành
[51; 52; 53]. Theo đó, có thể nhận thấy, pháp luật tố tụng là bộ phận của pháp luật
chung để xử lý vi phạm, hướng tới công bằng xã hội.
Các luật gia Việt Nam Cộng hòa quan niệm về pháp luật chung và pháp luật tố
tụng có tính linh hoạt và khái quát cao hơn. Theo Vũ Văn Mẫu:''Pháp luật là những
điều mà loài người đã đặt ra để chi phối các hoạt động của mình trong một quốc gia.
Luật pháp luôn luôn uyển chuyển để thích nghi vào các điều kiện xã hội, bao gồm tất cả
các điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, tục lệ, kinh tế, xã hội, con người" [148,
tr.24]. Nguyễn Quang Quýnh thì cho rằng: “Pháp luật là tất cả những qui tắc có tính
cách cưỡng chế qui định sự tổ chức xã hội và chi phối tương quan giữa những phần tử
trong xã hội. Những qui tắc này ấn định những điều cá nhân có thể hay có quyền làm
những điều pháp luật cho phép và không được làm những điều bị pháp luật cấm đoán”
[195, tr.3]. Theo đó“Công pháp tụng là một kỷ luật pháp lý biệt lập khảo sát các tranh
tụng công pháp và các giải pháp tài phán nội dung của các pháp đình công pháp”. “Tư
pháp tụng là chế tài pháp lý khảo sát các tranh tụng tư pháp và các tài phán nội dung
của các pháp đình tư pháp”[81,tr.15]. Pháp luật tố tụng VNCH có tính cách thiên về
quy trình và thủ tục tranh tụng, toàn bộ quá trình đều mang màu sắc chính trị.
Theo Leopold Wenger, nhà nghiên cứu người Áo, trong cuốn“Pháp luật về thủ
tục tố tụng dân sự”, Ông cho rằng:“Pháp luật tố tụng là một thuật ngữ dùng để mô tả
một tập hợp các quy tắc về hoạt động tố tụng của Tòa án được pháp luật cho phép tiến
hành để giải quyết các sự kiện xảy ra trước khi, trong khi và sau xét xử. Nó được áp
dụng trong việc giải quyết vụ án hình sự và các vụ việc dân sự, hành chính. Mục đích
của hoạt động tố tụng là để chắc chắn rằng tất cả các trường hợp đưa ra Tòa án được
giải quyết một cách công bằng và nhất quán”[242, tr. 440].
Trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Tố tụng Dân sự và Tố tụng Hành chính, pháp
luật tố tụng được định nghĩa là: Toàn bộ hoạt động của Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện
173
kiểm sát, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các bên, cá nhân, pháp
nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, cũng như trình tự, thủ
tục pháp luật quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý, xét xử, giải quyết vụ án và thi
hành bản án, quyết định của Tòa án để bảo vệ con người, tài sản và công lý [7; 8; 116].
Như vậy pháp luật và pháp luật tố tụng xưa nay đều được coi là phép công bằng
mà mọi chủ thể phải tuân hành, phù hợp hài hòa với điều kiện lịch sử, phong tục tập
quán, nhằm đạt tới mục tiêu bình ổn xã hội và vì con người. Khi đi sâu nghiên cứu bản
chất, nguyên tắc, đặc điểm pháp luật tố tụng từ nhà nước quân chủ đến đương đại, có
thể khái quát quan niệm, khái niệm như sau:
Pháp luật tố tụng là tập hợp những quy định mang tính nguyên tắc về toàn bộ quá
trình hoạt động tố tụng, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục, quy trình nhất định
để xét xử các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hành chính, quân sự hoặc giải quyết các vụ
việc tranh chấp khác giữa các bên nhằm bảo vệ con người và tài sản, bảo vệ nhà nước
và xã hội cộng đồng, hướng đến công lý, công bằng, ổn định và phát triển.
Trong lịch sử, pháp luật tố tụng là những quy tắc định khung cho hành vi của các
chủ thể trong quá trình xử lý một vụ án mà các bên đều phải tuân thủ. Các quy định đối
với bên nguyên, bên bị, bên tòa và các bên có liên quan đều phải tuân theo luật nội dung
và các luật về hình thức và thủ tục. Công lý và công bằng, khách quan và đồng thuận,
hài hòa và phát triển bền vững là mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng.
Thực ra việc phân tách khái niệm pháp luật tố tụng chỉ có ý nghĩa về lý luận, còn
trong thực tế, pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng, đều bắt nguồn từ cuộc
sống xã hội. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở về với cuộc sống thực tiễn, để bảo vệ con người
trên mọi phương diện. Liên quan đến khái niệm pháp luật tố tụng, cần tìm hiểu những
khái niệm khác có liên quan như thẩm quyền tố tụng, thủ tục tố tụng, trình tự tố tụng,
quy trình tố tụng, hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng.
2.1.1.3. Một số khái niệm khác có liên quan đến tố tụng pháp
Thẩm quyền tố tụng: Thẩm quyền tố tụng là quyền hạn được nhà nước, nhà vua
trao cho một số chức sắc đảm nhận các hoạt động tố tụng. Cụ thể như, thẩm quyền xét
xử được thực hiện bởi quyền tài phán của Tòa án về một vụ án hay một vụ việc nào đó
trong một đơn vị địa lý. Mỗi hình thức nhà nước hoặc mỗi quốc gia đều có các quy định
về thẩm quyền tố tụng khác nhau. Các quan phải thực hiện đúng chức trách của mình và
phải làm đúng pháp luật. Ví dụ, trong Hoàng triều quan chế triều Lê quy định: Ở trung
ương,“Ngự sử án sát để hặc tâu các quan làm việc sai trái, soi xét ẩn khuất cho dân”
“Hình khoa xem xét công việc xử án của Hình bộ phải trái như thế nào”[24, tr. 452-
454]. Ở địa phương, theo điều 672 – QTHL quy định: “Nhân dân trong lộ, trong huyện
có việc tranh kiện nhau, việc rất nhỏ đến kiện ở xã quan; việc nhỏ đến kiện ở huyện
quan; việc trung bình đến kiện ở quan phủ lộ; còn việc lớn thì phải đến kinh thành; các
quan kể trên phải xét xử cho công bằng đúng pháp luật. Có thể nhận thấy, thẩm quyền
174
tố tụng được quy định cụ thể trong luật và các điều lệ. Thẩm quyền tố tụng là quy định
của pháp luật về giới hạn tính quyền lực trong hoạt động tố tụng, trong đó có sự phân
công phân cấp về quyền hạn và nghĩa vụ, chức trách thực thi pháp luật tố tụng theo
từng lĩnh vực hoặc theo một loại vụ việc cụ thể, theo cấp hành chính hoặc từng khu vực
địa lý. Thẩm quyền tố tụng được xác định tương ứng với chức vụ và tước phẩm của
quan lại trong bộ máy công quyền. Đó là những việc được phép làm và không được
phép làm của các chủ thể là quan lại trong nha môn hành chính tư pháp.
Thẩm quyền tố tụng thường gắn với người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến
hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là các quan lại có năng lực, trình độ được nhà
nước trao quyền thực hiện các nhiệm vụ và phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi
của mình. Cơ quan tiến hành tố tụng là hệ thống bộ máy quyền lực công được thiết lập
có thẩm quyền thực thi các nhiệm vụ trong hoạt động tố tụng theo quy định pháp luật.
Cơ quan tiến hành tố tụng có quyền ban hành và thi hành bản án, các quyết định có hiệu
lực pháp lý buộc các chủ thể có liên quan phải chấp hành. Gắn với các hoạt động tố
tụng là các thủ tục và quy trình tố tụng.
Thủ tục tố tụng: Thủ tục tố tụng là những quy định về điều kiện và các bước
tiến hành thực hiện trước, trong và sau một phiên tòa xét xử bao gồm các quy định về
hành trình của một vụ án từ khởi kiện, đơn từ, thụ lý, khảo cung, chứng cứ, chứng
minh, án phí và nhiều vấn đề khác. Thủ tục tố tụng chuẩn mực sẽ giúp cho các bên
tham gia quy trình tố tụng theo đúng luật định, để giúp các bên có thể yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp hoặc chứng minh có tội hay vô tội thông qua chứng cứ, chứng
minh, thẩm vấn, xét hỏi và cuối cùng ra phán quyết bằng một bản án. Nhìn rộng hơn
thủ tục tố tụng còn được thể hiện ở các bước trong quá trình xét xử, thủ tục về thời hạn,
thời hiệu, thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, chung thẩm, tái thẩm và các “thủ
tục tố tụng đặc biệt” của nhà nước và các cơ quan chuyên biệt. Trong thời phong kiến,
tại triều đình thủ tục tố tụng đặc biệt còn được thể hiện trong hoạt động của các cơ
quan, cơ chế như: Tôn nhân phủ, Cẩm y vệ, Đình úy ty, Ngự sử đài, Đô sát viện, Tam
pháp ty, Đình nghị, Thu thẩm, Kinh lược. Quyền và nghĩa vụ thực hiện các hoạt động tố
tụng thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, các bên tham
gia đều có nghĩa vụ tuân thủ toàn bộ quy trình và thủ tục tố tụng theo đúng luật pháp.
Thủ tục tố tụng trong luật pháp PKVN được quy định rất nghiêm cẩn và chặt chẽ. Còn
thực tiễn áp dụng thì cũng tùy thời và còn phụ thuộc vào quyền lực tư pháp tối cao,
quyết định của vua chúa, tể tướng, các quan đại thần và tứ trụ triều đình [54;55;56;58].
Như vậy, thủ tục tố tụng là những quy định của pháp luật về điều kiện hình thức,
nội dung và các bước tiến hành, các đầu việc phải làm trước, trong và sau một phiên
tòa. Là những quy định chuẩn về khởi kiện, thụ lý, điều tra, xét xử và thi hành án theo
một trình tự nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Đó là những quy định pháp luật về các đầu việc buộc phải tuân thủ trong toàn bộ
quy trình từ khởi tố, đến xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm; về thời
175
hạn thời hiệu, về cách thức lập văn bản, thu thập bảo quản chứng cứ, tang vật, tài sản,
quy định về nghi thức, các bước tại phiên tòa, các chế định điều chỉnh hành vi và trình
tự hoạt động xét xử nhằm thực thi quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia hoạt
động tố tụng.
Hoạt động tố tụng: Khi nhìn trực diện vào pháp luật tố tụng trong cấu trúc và vận
hành, có thể nhận thấy trọng tâm của toàn bộ quy trình tố tụng là những hoạt động tố
tụng. Trong hoạt động tố tụng có sự liên quan chủ yếu của các bên: cơ quan tiến hành tố
tụng; người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng. Trong lịch sử, luật tố tụng La Mã
cho rằng tố tụng chủ yếu là việc phân xử giữa ba bên: bên nguyên đơn, bên bị đơn và
bên thứ ba là tòa án; còn được gọi là “đệ tam nhân” gồm: bên nguyên, bên bị và trọng
tài. Hoạt động tố tụng theo Luật tố tụng La mã cũng phân chia làm ba loại: Thứ nhất,
theo nghi thức tuyên thệ (Legis actio); Thứ hai, theo các bên yêu cầu, quan chấp chính
chỉ dẫn và quan tòa xử án (Formula); Thứ ba, theo phán xét của Thẩm phán chuyên
nghiệp dựa trên uy quyền và nhân danh Hoàng đế để thi hành công lý (Cognitio). Do
đó, về lý thuyết, hoạt động tố tụng được thực hiện dựa trên những chế định về thẩm
quyền của các chủ thể tiến hành tố tụng. Các bên tham gia đều phải tuân thủ những quy
định pháp luật và quyết định của quan tòa [140, tr.208-231] [150; 151]. Trong pháp luật
PKVN, hoạt động tố tụng gắn với các Nha môn xử án, chủ thể tiến hành là Hình quan,
có quyền thụ lý, xét hỏi, “định tội lượng hình”. “Ngục quan” có quyền quản lý việc
giam giữ, áp ngục giám, công sai giám là các chức danh, chức vụ quan ty, có thẩm
quyền dẫn giải tội phạm, thi hành việc công tại các cơ quan nhà nước. Các thành phần
tham gia hoạt động tố tụng còn có các đương sự như: người làm chứng, người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan, các tội nhân, tù nhân, tội phạm, tù phạm, người bị hại [57,
tr.219 -244] [58]. Như vậy, hoạt động tố tụng từ xưa đến nay vẫn có nhiều điểm tương
đồng. Điểm khác biệt cơ bản là mục tiêu, phương pháp, quy mô, phương tiện và kỹ
năng thực hiện quy trình tố tụng.
Như vậy, hoạt động tố tụng là việc thực hiện nhiệm vụ trong toàn bộ quá trình vận
hành tố tụng của cơ quan tư pháp tòa án và các bên tham gia nhằm giải quyết xung đột
về quyền và lợi ích giữa các bên tham gia tố tụng, thực hiện việc khởi tố, điều tra, thụ lý
và xét xử tại phiên tòa để đưa ra một bản án phù hợp, có tính cưỡng chế, đảm bảo công
lý, công bằng ổn định nền kinh tế, chính trị và xã hội.
Thẩm quyền tố tụng, thủ tục tố tụng và hoạt động tố tụng là những khái niệm quan
trọng của pháp luật tố tụng, được thực hiện theo một trình tự, quy trình luật định.
Trình tự, quy trình và quá trình tố tụng: Trình tự tố tụng được hiểu là thứ tự, trật
tự, các bước tiến hành của cả tiến trình vụ án. Quy trình tố tụng là những quy định
chuẩn mực mang tính định khung cho cả quá trình với những nguyên tắc buộc phải tuân
thủ và diễn tiến toàn diện tất yếu của vụ án. Thủ tục, trình tự, quy trình, quá trình có
điểm tương đồng là về toàn bộ diễn trình từ đầu đến cuối của vụ việc tố tụng. Điểm
khác là trình tự nhấn mạnh các bước tiến hành theo trật tự, theo thủ tục chặt chẽ, không
176
bỏ qua một khâu nào. Quy trình là toàn bộ những quy định bắt buộc, mang tính nguyên
tắc phải chấp hành tuân theo trong toàn bộ chuỗi vận hành của vụ án. Quá trình tố tụng
là toàn bộ diễn tiến của vụ án từ đầu đến cuối. Khái niệm thủ tục tố tụng có liên quan
chặt chẽ với trình tự tố tụng, quy trình tố tụng và quá trình tố tụng. Trong đó các bên
tham gia chủ yếu là bên nguyên, bên bị, bên tòa; các chủ thể, khách thể và các bên có
liên quan, các thủ tục về hình thức và nội dung, song trọng tâm vẫn là những hoạt động
có liên quan đến giải quyết vụ việc, vụ án công minh, khách quan, toàn diện và nhằm
hướng đến công bằng, công lý, ổn định và hài hòa xã hội [54;55;56;58].
Qua việc đối chiếu, so sánh, phân biệt các khái niệm nêu trên, có thể khái quát
chung về quan niệm, quan điểm về pháp luật tố tụng của nhà nước quân chủ phong kiến
Việt Nam như sau: Pháp luật tố tụng của nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam là
những quy định pháp luật, các điều luật, điều lệ, lệnh, lệ về thẩm quyền, thủ tục và trình
tự tố tụng, được nhà vua ban hành và thống nhất áp dụng theo một quy trình nhất định,
nhằm bảo vệ nhà nước, xã hội, con người và tài sản. Sự phân biệt khái niệm chủ yếu
mang tính học thuật còn pháp luật tố tụng từ mục đích đến chức năng, từ hình thức, nội
dung đến hiệu quả tố tụng là một chỉnh thể thống nhất. Pháp luật tố tụng từ quy phạm
đến thực hành là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ thể chế nhà nước và pháp luật quân
chủ thần quyền. Trong sự tiếp cận của đề tài, pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam
được hiểu ở nghĩa rộng nhất. Bao hàm toàn bộ những vấn đề có liên quan đến hệ thống
tư pháp tố tụng từ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, thể chế tố tụng,
đến nguyên tắc, đặc điểm, hiệu lực và giá trị. Từ tố tụng quân sự đến dân sự, từ tố tụng
quan chức, Hoàng gia đến dân thường. Sự phân biệt đẳng cấp trong tố tụng có thể là
một đặc tính chung của pháp luật tố tụng thời quân chủ PKVN.
Trong luận án này, khái niệm PKVN được dùng tương đương với chính thể quân
chủ Việt Nam. Trong một số trường hợp được sử dụng đầy đủ là chính thể quân chủ
PKVN, bởi lẽ chính thể quân chủ là nói đến chế độ chính trị, thể chế chính trị, đứng đầu
là một vị quân vương, quyền lực được thiết lập theo nguyên tắc huyết thống; còn PKVN
là nói đến bản chất của cả một chế độ lấy sở hữu đất đai và nền kinh tế nông nghiệp
trọng nông làm nền tảng, kinh tế công thương thị trường bị kiềm chế, kiểm soát, độc
quyền. Ở đây cũng cần phân biệt giữa phong kiến phương Đông và phong kiến Phương
Tây với những đặc trưng phổ biến và đặc thù riêng biệt. Đặc trưng phổ biến là sở hữu tư
về đất đai của địa chủ, lãnh chúa quý tộc; còn đặc thù thì ở phương Đông, quyền sở hữu
tối cao của nhà vua bao trùm lên mọi hình thức sở hữu, sở hữu kép theo tầng và điều đó
được bảo đảm bởi thế chế nhà nước và pháp luật. Còn việc sử dụng khái niệm “quân
chủ phong kiến” là để phân biệt với quân chủ chủ nô thời cổ đại, quân chủ chuyên chế,
quân chủ hạn chế, quân chủ quý tộc, quân chủ lập hiến, quân chủ nghị viện và nền cộng
hòa phong kiến ở Tây Âu với vai trò của thị dân đấu tranh với các thế lực lãnh chúa,
nhà vua, nhà thờ và sự thỏa hiệp của các bên trong cách mạng tư sản. Trong sự trải
nghiệm của thực tiễn, có thể nền quân chủ nghị viện bầu phiếu sẽ cho chúng ta lời giải
177
về một thể chế tối ưu trong lịch sử pháp quyền nói chung và tư pháp tố tụng nói riêng
trong thời đại mới.
2.1.2. Vị trí vai trò của pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam
Ngay từ thời xa xưa, pháp luật tố tụng đã có vị trí quan trọng trong xã hội cộng
đồng nhằm trừng trị vi phạm, bảo vệ con người về tính mạng tài sản danh dự. Pháp luật
tố tụng ở phần đầu bộ luật, thường là định hướng, mục tiêu, nguyên tắc xử lý khi vi
phạm; trình bày ở phần cuối bộ luật là cách thức, quy trình và những chế định nhằm bảo
đảm việc xử lý vi phạm là khách quan đúng đắn; quan tòa và sự đảm bảo đưa luật đến
công lý cuộc sống.
Vị trí của pháp luật tố tụng PKVN thể hiện trong cấu trúc của hai bộ luật hiến
chương là QTHL và HVLL. Phần đầu Danh lệ có giá trị như phần chung với những
nguyên tắc cơ bản. Phần cuối là các thủ tục tố tụng, những quy định đối với các bên
tham gia tố tụng nhằm đảm bảo việc xử lý vi phạm luật nội dung được đúng đắn, ngay
chính. Luật tố tụng là công cụ bảo vệ pháp luật, phòng ngừa vi phạm, xử phạt tội lỗi,
khắc phục hậu quả và đem lại công lý cho tổng thể xã hội. Như vậy luật tố tụng luôn đi
song hành với luật nội dung như hình với bóng, đảm trách việc đảm bảo tính tôn
nghiêm của luật nội dung, xử lý và khắc phục hậu quả khi có vi phạm. Nhà nước phong
kiến Việt Nam đã nhận thấy vị trí vai trò rất quan trọng của việc ban hành pháp luật tố
tụng trong tính chuyên ngành.Thực tế khách quan xã hội ổn định, kinh tế phát triển, chế
độ chính trị vững mạnh, kỷ luật nghiêm minh đã chứng minh vai trò của pháp luật tố
tụng trong thời kỳ này[57][58].
Vai trò của pháp luật tố tụng PKVN là định chế quan trọng đặc biệt đối với xã
hội, nhà nước, cá nhân, gia đình và cộng đồng. Là cơ chế bảo vệ sự tôn nghiêm của
pháp luật trong xây dựng và thực thi pháp luật và có những ý nghĩa giá trị như sau:
Thứ nhất: Đáp ứng nhu cầu tất yếu trong việc giải quyết các tranh chấp xã hội
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội, để xây dựng và phân cấp quyền lực,
xây dựng chế tài thông qua công cụ pháp luật, luật tố tụng được ban hành nhằm mục
tiêu kiểm soát các bên, xử lý vi phạm và khắc phục hậu quả. Đối với việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội, mỗi nền văn hóa; thiết
chế chính trị khác nhau thiết lập nên những quy tắc, thủ tục tố tụng khác nhau. Pháp
luật tố tụng thời kỳ này đề cao trách nhiệm công vụ trong quản lý xã hội, đảm bảo tính
khách quan trong việc thiết lập trật tự xã hội, xây dựng cơ chế giám sát hoạt động xét
xử, cơ chế giám sát vi phạm pháp luật không chỉ đối với người dân mà cả đối với các
quan lại và có các chế tài áp dụng tương đối cụ thể, khắt khe nhằm hạn chế sự lạm
quyền trong hoạt động tố tụng [24-26][31-34][58].
Thứ hai: Pháp luật tố tụng bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong xã hội
Quyền của chủ thể trong xã hội phong kiến được pháp luật đảm bảo về người,
nhà ở, giấy tờ, đất đai, tài sản, không ai có quyền xâm phạm.
178
Trong tố tụng hình sự, người bị cáo buộc được hưởng quyền xét xử nhanh chóng
và bình đẳng trước tòa. Theo quy định pháp luật tố tụng, các cơ quan tố tụng phải khách
quan khi tham gia xét xử. Chế tài áp dụng không phải chỉ với người tham gia tố tụng
mà còn áp dụng với cả người tiến hành tố tụng. Ở đây, trong quá trình tố tụng, pháp luật
quy định người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng thẩm quyền.
Thông lệ 23 – QTKTĐL qui định:“Các Nha môn trong ngoài coi việc khám xét,
nhận đơn phúc cáo hoặc phúc khiếu, trước tiên phải tra văn án lần trước, chiểu theo
văn án đó, luận theo Lệ nào trong lúc tra xét mới được bắt bên bị, không được căn cứ
vào lời cáo mà tự tiện gom xét đầu cuối luận bác đi„[55, tr.718]. Điều 670 – QTHL quy
định:“Các quan xét án, phải theo tờ cáo trạng mà xét hỏi, nếu ra ngoài tờ cáo trạng,
tìm việc khác để buộc tội người, thì xử là cố ý bắt tội người„[57, tr 228].
Như vậy, để bảo vệ quyền của các chủ thể, trong quá trình tố tụng, điều quan
trọng là tất cả mọi người đều được đối xử bình đẳng, các bên đều được thể hiện quan
điểm của chính mình. Mọi chứng cứ đều được quan tòa xem xét cân nhắc để lập cáo
trạng xét hỏi. Dù hoạt động tố tụng thời kỳ này tuy có tính áp đặt nhưng vấn đề quan
trọng là các điều luật đều quy định một cách rõ ràng và công bằng trong xét xử, chứng
cứ về nhân chứng, vật chứng đều được đặt lên hàng đầu. Pháp luật tố tụng thời kỳ này
đã đạt được những yêu cầu này.
Thứ ba: Pháp luật tố tụng là công cụ xây dựng và củng cố quyền lực quân chủ
Pháp luật tố tụng thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị phong
kiến tập quyền. Pháp luật tố tụng là phương tiện chủ yếu và hữu hiệu nhất để điều chỉnh
các quan hệ cơ bản giữa các chủ thể để nhằm đạt được lợi ích của giai cấp cầm quyền
trong xã hội phong kiến. Đối với nhà nước phong kiến, một mặt pháp luật khẳng định
quyền cai trị tối cao của nhà vua. Mặt khác, ban hành các điều luật điều chỉnh trật tự xã
hội, nhằm mục đích giúp cơ quan hành chính do quan lại cai quản hết sức phụng sự cho
triều đình [Điều 411 – QTHL & Điều 223 – HVLL] [Chương vi chế QTHL và Luật về
quan lại trong HVLL].
Thứ tư: Thể hiện giá trị đạo đức nhân văn, tôn trọng phong tục tập quán
Tuy bản chất là nhà nước tập quyền, quyền tối thượng thuộc về nhà vua. Nhà
nước luôn bảo đảm quyền và lợi ích của hoàng tộc nhưng khi xây dựng Bộ luật tố tụng
để điều chỉnh các hoạt động của xã hội thì các giá trị đạo đức đều được đặt ra rất rõ
ràng. Pháp luật thời kỳ này đảm bảo pháp trị kết hợp đức trị, trên cơ sở tôn trọng hương
ước lệ làng, phong tục, tập quán, thực hiện kết hợp lợi ích của cá nhân với gia đình và
cộng đồng làng xã [Hộ hôn, Điền sản, Điều (284 – 400) - QTHL][71 - HĐTCT]. Nhìn
tổng thể PLPKVN dù được thiết kế dựa trên thành tựu pháp luật Trung Quốc song vẫn
mang tính dân tộc sâu sắc, thể hiện lối sống gia đình ân ..., mang
lại thành quả trong quản lý nhà nước và xã hội. Hiện nay, cơ quan kiểm soát hoạt động
tố tụng chưa thực sự trở thành một tổ chức quyền lực của Tòa án tối cao để thực hiện
nghiêm cẩn chức năng nhiệm vụ của mình. Các Tòa án cấp huyện, tỉnh, thành phố đều
chưa có quy trình kiểm tra, kiểm soát hồ sơ án và hoạt động tố tụng theo định kỳ. Chính
vì thế, giải pháp kiểm soát việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp tố tụng, áp dụng
các chế tài thưởng phạt nghiêm minh là giải pháp thứ tư cần phải đặt ra đối với tất cả
các triều đại và Việt Nam đương đại.
4.3.5. Giải pháp trong việc đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm và sử dụng
nhân sự trong cơ quan tư pháp tố tụng
Cơ quan tố tụng là công cụ thực thi đảm bảo sự minh chính của pháp luật. Hoạt
động của cơ quan tố tụng hội tụ tất cả các khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, vật chất, tinh thần, tôn giáo, lễ nghi, cá nhân, gia đình, thể nhân, pháp nhân,
tổ chức, hiệp hội và chiếm ưu thế trong hoạt động quản lý nhà nước bằng công cụ trấn
áp, tước đoạt và bảo hộ công dân, cả trong và ngoài nước. Trong xã hội phong kiến,
việc trao quyền của nhà vua đối với các quan chức đã tạo nên bậc thang xã hội. Giới
quan lại vừa có chức sắc vừa có quyền, tiền, bổng lộc của triều đình và thuộc đẳng cấp
cao quý trong xã hội, cho nên, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng nhân sự trong cơ
quan công quyền và nha môn tố tụng được quy định hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt.
Để khẳng định vị thế của mình, nhà vua, người đứng đầu nhà nước phong kiến
đã xây dựng bộ máy quyền lực công làm sao vừa tinh gọn, vừa hoạt động hiệu quả,
nhưng không thể lộng quyền làm ảnh hưởng đến vương quyền thiên mệnh và nguyên lý
thân dân. Trong các Bộ luật PKVN, một mặt quản lý nhân sự trong bộ máy tố tụng bằng
thưởng phạt phân minh, được công khai quy định trong luật và công bố rộng rãi toàn xã
hội, mặt khác, thực hiện chặt chẽ trong việc tuyển chọn người tham gia vào bộ máy
quyền lực, thực sự tuân thủ pháp luật và trung thành với nhà vua, có nhiệm vụ bảo vệ
sự nghiêm minh của pháp luật, loại bỏ hiện tượng và hành vi trái pháp luật.
Để sử dụng người hiền tài trong cơ quan tố tụng, ngay từ khâu thi cử, tuyển
chọn, nhà nước phong kiến đã thực hiện sàng lọc rất kỹ càng. Vua Lê Thánh Tông định
ra thể lệ Khoa cử: kể từ năm 1468, tổ chức thi Hương ở các đạo, thi Hội, thi Đình ở
Kinh đô, cứ 3 năm một kỳ thi đại khoa để chọn tiến sỹ bổ nhiệm làm quan. Ngoài ra,
291
còn có quy chế Bảo cử bổ sung cho Khoa cử; bổ dụng theo khóa trình, khảo khoá làm
căn cứ thăng bổ giáng phạt quan chức; giảm thải những quan lại hèn kém, không có đạo
đức, không làm được việc. Trong triều Nguyễn, thực hiện rất nghiêm các quy định Hồi
tỵ, Lưu quan. Ngoài khoa cử, nhà nước PKVN còn thực hiện tiến cử, tự tiến cử, nạp
tiền thóc, mở Ân khoa, Chế khoa, thi Võ cử. Đây là hình thức lựa chọn trực tiếp những
người có thực tài đức ra làm quan giúp nước.
Trong chính sách tuyển cử, căn cứ vào các quy định pháp luật, cho thấy, nhà
nước PKVN rất khách quan trong việc lựa chọn nhân sự. Theo Đại Việt sử ký toàn thư
(1498) “các Nha môn trong ngoài, nếu có ai liêm khiết, có tài, trung thực đáng khen
thưởng sẽ cất nhắc”[24, tr. 453]. Các Bộ luật quy định chặt chẽ về khoa cử, như trong
QTHL, việc quan chấm thi nếu có người nhà thì không được tham gia, nếu người thi
mượn người làm hộ bài thi, hoặc giấu sách vở mang vào trường thi thì đều bị xử phạt
nghiêm minh (Điều 98, 99, 100 – QTHL). Trong hoạt động tố tụng, các chức quan chấp
pháp nghiêm chỉnh, tuân thủ pháp luật, với nguyên tắc “Dụng công thủ pháp, chí công
vô tư” trong hoạt động xét xử. Một mặt, hoàn thành mọi công việc được đảm trách, mặt
khác chấp hành hoạt động kiểm soát của các cấp có thẩm quyền, thực hiện khảo khóa,
soát tụng hàng năm, do đó, hạn chế các hành vi làm trái pháp luật [9, tr.488] [10, tr.161]
[84, tr.122, 206]. Chế độ thưởng phạt nghiêm minh phải đi cùng với “Chế độ đãi ngộ
xứng đáng”. Đóng góp cả cuộc đời cho lợi ích quốc gia nhưng sự trả công không đầy đủ
thì thực lại là bất công của công lý tự nhiên.
Từ những kinh nghiệm và thành quả xây dựng áp dụng và thực thi pháp luật của
nhà nước phong kiến, trong tình hình mới, giải pháp trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm
và sử dụng nhân sự trong cơ quan tố tụng hiện nay cần phải có sự lựa chọn thật khoa
học và bài bản, biết vận dụng phát huy những thành quả tiến bộ, có như vậy mới đáp
ứng được sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự vươn lên mạnh mẽ của xã hội hiện đại.
Đây là giải pháp thứ năm trong công cuộc quản lý nhà nước, ổn định chính trị và phát
triển kinh tế. Chế độ công vụ tư pháp thời đại 4.0 sẽ có sự chuyển đổi về kỹ thuật pháp
lý song những vấn đề cơ bản về tố tụng thì luôn cần có sự nối kết từ truyền thống đến
đương đại và tương lai. Đào tạo, tuyển bổ, đãi ngộ và xử phạt trong chế độ công vụ tư
pháp chuẩn là những giải pháp giá trị cốt yếu của cổ luật cần được phát huy, phát triển.
4.3.6. Giải pháp xây dựng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các
chủ thể công quyền trong hoạt động tố tụng
Quyền tư pháp là vấn đề quan trọng cần phân định để đáp ứng tiến trình phát
triển đi lên của xã hội hiện đại văn minh vì con người. Quyền tư pháp là quyền lực nhà
nước được trao cho các cơ quan tố tụng, thực hiện các quyền công tố, điều tra, thụ lý,
quyền xét xử, kháng án, thi hành án, quyền sử dụng Lệ án.
Trở lại vấn đề khi nghiên cứu pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến, đối
chiếu trong QTKTĐL, cho thấy, dù Bộ luật còn chưa định ra các khái niệm định nghĩa
lý luận, mà đi ngay vào các quy định cụ thể nhưng nhìn khái quát tổng thể đều thấy
quyền tư pháp được thể hiện rất rõ ràng, trong từng điều khoản, từng quy phạm, chế
292
định. Xét về cấu trúc điều luật, các quyền được đặt ra cho các chủ thể đã được định
hình, phân biệt và lựa chọn rất rõ ràng, tất cả đều quy định gọn trong một Bộ luật. Chỉ
có một vấn đề khác, đó là, đặc điểm của nhà nước phong kiến là chế độ chính trị quân
chủ chuyên chế, cho nên, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp xét cho cùng, đều
thuộc về nhà vua, về “Tứ trụ triều đình” và “Hội đồng đình thần”. Vậy thì, giải pháp
xây dựng quyền tư pháp trong hoạt động tố tụng sẽ là gì?
Về quyền công tố, cơ quan tố tụng có quyền quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tòa
án có quyền thụ lý tất cả các đơn khiếu kiện để giải quyết tranh chấp theo đúng quy
định của pháp luật. Sẽ không có bất cứ cơ quan, tổ chức, đảng phái nào được quyền can
thiệp. Viện kiểm sát và Tòa án có vai trò độc lập với các ngành quyền lực còn lại là
điều quan trọng nhất của một nhà nước dân chủ. Song nó vẫn phải đảm bảo sự thống
nhất, đồng bộ, logic; đảm bảo các quy trình tố tụng và hướng đến mục đích bảo vệ xã
hội. Điểm lợi thế của tố tụng pháp đương đại là có thể sử dụng ngay lập tức một cỗ máy
tư pháp đủ sức mạnh để tìm ra sự thật, truy nguyên các chứng cứ chứng minh, tìm ra
các văn bản, nhân chứng vật chứng,..Khoa học đã giúp cho nền tư pháp dân chủ dân
quyền hoạt động hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn, chuyên nghiệp hơn. Theo đó nghĩa vụ
trách nhiệm của viện Công tố (viện Kiểm sát) và Tòa án được xác lập, vận hành, giám
sát, huy động lực lượng nhanh chóng xác minh, chứng minh, bảo vệ nhà nước, xã hội
cộng đồng hiệu quả, chính xác [81; 82].
Về quyền của cơ quan điều tra, cần thiết lập cơ chế ba bên trong quá trình điều
tra nhằm đảm bảo tính khách quan, kịp thời, chính xác, kiềm chế, đối trọng trong điều
hành quyền lực tư pháp. Cấp trên cấp dưới, cấp kiểm soát độc lập, cấp kiểm soát có
trình độ chuyên môn sâu rộng. Cơ chế “Đệ tam nhân” - Tam quyền luôn có khả năng
cao để chống lại sự tha hóa và độc quyền về quyền lực hành chính, kinh tế, quân sự, tư
pháp nói chung và tố tụng nói riêng. Việc trao thêm quyền cho Tòa án trong sự đối
trọng với cơ quan Công tố kiểm sát và cơ quan Điều tra là một cơ chế khá ưu việt để
kiểm soát phòng ngừa, tránh án oan sai do cơ quan điều tra lập hồ sơ chứng cứ bằng
biện pháp bạo lực (giả cung, lừa cung, dối cung, ép cung, nhục hình cung) [90]. Trong
quá trình đó, kết hợp sự tham gia của tổ chức Luật sư, với các bên có liên quan, của các
tổ chức truyền thông và xã hội dân sự. Phán quyết một vụ việc tố tụng cũng cần phải có
“tầm nhìn tổng diện”, tổng quan, tổng thể, hữu cơ, biện chứng nhiều chiều. Quá trình
điều tra luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quy trình tố tụng. Sai lầm điều tra
có thể dẫn đến sai lầm chứng cứ, chứng minh buộc hoặc gỡ tội nên thủ tục tranh tụng
trước tòa và quyền của Luật sư sẽ phần nào giúp cho đương sự, bị can, bị cáo, các bên
và Thẩm phán thẩm định vụ việc công minh, để khi kết luận ra phán quyết định tội,
lượng hình phải chắc chắn về tính khách quan của con đường công lý cho mọi người.
Về quyền xét xử, Thẩm phán và tất cả các bên trong phiên tòa xét xử đều có
quyền thực hiện vai trò của mình, trong đó, quan trọng nhất là quyền kết tội và quyền
được gỡ tội theo một quy trình được quy định trong luật. Các quyền khác cũng như
vậy,“cho dù những mối quan hệ của ngành tư pháp như thế nào với lập pháp và hành
293
pháp, thì hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới người ta đều dựa vào tư pháp để giải
thích pháp luật và để buộc hai ngành kia phải chịu trách nhiệm trước pháp luật cũng
như phải tuân thủ các điều khoản của Hiến pháp”. Quyền tư pháp cũng không chỉ dừng
ở xét xử mà còn cần phải giám sát quyền hành pháp và cả lập pháp, quyền tuyên bố vi
hiến và làm vô hiệu những VBQPPL có nguy cơ ảnh hưởng đến dân tộc, quốc gia, lợi
ích công cộng; Tòa án có quyền đưa những chủ thể cấp cao vào tầm kiểm soát quyền
lực và nếu vi phạm thì cũng cần phải có một cơ chế đủ sức mạnh về quyền lực tư pháp
để xét xử và kết tội. Cơ chế này trong lịch sử được trao cho Ngự sử đài, Đô sát viện,
Tam pháp ty, Đình nghị, triều đình Hội đồng tranh biện và phán quyết, Chánh đường
phủ chúa, Chính dinh của chúa Nguyễn,..Xây dựng và đảm bảo quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm trong mọi hoạt động của cơ quan tố tụng bên cạnh các quy trình, tổ chức thì chủ
thể con người, đào tạo bổ dụng, tâm và tài vẫn đóng vai trò quyết định.
Qua đó, định ra giải pháp xây dựng quyền tư pháp trong hoạt động tố tụng là rất cần
thiết để làm tăng giá trị hiệu lực của các văn bản pháp luật trong thực tiễn áp dụng, đưa
hoạt động tố tụng vào đúng quy trình, bảo đảm quyền được bảo vệ của công dân trong mọi
hoàn cảnh, đề cao quyền con người, quyền được bảo hộ cả trong nước và quốc tế. Đây
cũng là giải pháp thứ sáu trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
4.3.7. Giải pháp thiết kế “Phân loại tố tụng theo vụ việc” chuyên nghiệp
Đây cũng là vấn đề đã được luận giải ở các phần trên, chương 3, mục 3.5. Khi
nghiên cứu về“Phân loại tố tụng theo vụ việc”, có thể nhận thấy tính cẩn trọng, sâu sắc,
chi tiết và khoa học của cấu trúc pháp luật tố tụng PKVN. Từ nội dung pháp luật tố tụng
trong Danh lệ, Đấu tụng, Bộ vong, Đoán ngục của QTHL, cùng với 4 văn bản Điển chế
về tố tụng thời Lê Thánh Tông và Lê Trịnh, cùng với Luật Hình về sự phán quyết bản
án trong HVLL, đã để lại cho thế hệ chúng ta những thành tựu pháp lý đặc sắc về tư
pháp tố tụng. Ví dụ, thủ tục tố tụng về án về nhân mạng, đánh người, trộm cướp, lừa
đảo; thủ tục tố tụng án về gia đình, hôn nhân, người già, trẻ em; thủ tục tố tụng án về tài
chính ngân hàng, thông tin, mạng Internet; thủ tục tố tụng án về đất đai, chia thừa kế,
hương hỏa, thờ cúng; thủ tục tố tụng án có yếu tố nước ngoài, dẫn độ, hợp tác điều tra;
Những giá trị này có thể sẽ được các Luật gia Việt Nam nghiên cứu, thiết kế xây
dựng và nó còn có giá trị cho việc hoạch định chiến lược trong tương lai của luật tố
tụng Việt Nam, kể cả trong khu vực và toàn cầu. Ví dụ như pháp luật tố tụng trong lĩnh
vực công pháp, ngân hàng, tiền ảo, tội phạm mạng, lĩnh vực hàng không, hàng hải, thể
thao, trẻ vị thành niên, cờ bạc, trộm cướp, lừa đảo, đất đai, tài chính, thuế, bảo hiểm y
tếTính chuyên sâu, chuyên nghiệp là một xu hướng tất yếu của quy trình tố tụng
tương lai, kết nối luật nội dung, luật hình thức và thủ tục; giữa điều chỉnh, vi phạm, xử
lý hành chính, xử lý dân sự, hình sự và cơ chế “hoán đổi chế tài bằng tiền” đối với một
số loại tội hình sự nhẹ hoặc các tội có liên quan đến tiền tệ, tài chính và tài sản, có thể
nghiên cứu cho phép chuộc hình phạt bằng tiền đối với một số loại tội phạm không quá
nghiêm trọng. Để có thể so sánh với pháp luật tố tụng ngày nay và để có thể nhận diện
rõ hơn giá trị của cách phân loại tố tụng chuyên sâu theo các loại vụ việc, tác giả đã
294
khái lược các Lệ kiện theo ba lĩnh vực tố tụng chuyên ngành hình sự, tố tụng dân sự, tố
tụng hành chính và quan chế.
Phân loại tố tụng theo vụ việc chuyên sâu trong một số lĩnh vực quan trọng không
chỉ có ý nghĩa về giáo dục đào tạo nguồn lực, xây dựng thiết chế tố tụng chuyên ngành
trong nước mà còn có ý nghĩa trong hợp tác về tư pháp với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Cần có những thống kê, tổng kết án từ hàng năm để đưa ra thông số từ
hiện trạng xã hội, để phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm; từng bước chuyên
nghiệp hóa quy trình tố tụng.
Thực tiễn án từ cho chúng ta nhiều điều suy ngẫm về toàn cảnh bức tranh pháp
luật tố tụng PKVN. Đồng thời cũng cho thế hệ chúng ta bài học kinh nghiệm về những
hạn chế của nền quân chủ chuyên chế và ưu điểm của thể chế chính trị cộng hòa dân
chủ. Nghiên cứu so sánh về án từ trong lịch sử trong sự phân loại theo vụ việc có thể
cho chúng ta cách nhìn đúng đắn và sâu sắc hơn về những biến động của chính trị, kinh
tế, văn hóa & xã hội trong hành trình phá án cũng như trước và phía sau bản án. Qua đó
làm rõ hơn những yêu cầu cấp thiết của cuộc sống để điều chỉnh hoạt động lập pháp cho
kịp thời và phù hợp với thời thế mới.
Công việc lưu trữ án từ chuyên ngành là một yêu cầu quan trọng và thực sự cần
thiết. Đó là những tư liệu thực sự cần thiết cho ngành khoa học tự nhiên xã hội công
nghệ nhân văn và khoa học pháp lý nhân văn nghiên cứu về tụng đình ở Việt Nam. Nó
cũng có thể giúp cho các Thẩm phán cẩn trọng hơn và ý thức sâu sắc hơn về trách
nhiệm của mình khi ra phán quyết trước số phận con người và nhân sinh.
Đây có thể là những giá trị quan trọng để chúng ta tham khảo một cách thiết kế hệ
thống tư pháp tố tụng chuyên nghiệp, thống nhất và hiệu quả. Một thể chế tư pháp
chuyên nghiệp đủ sức để bảo vệ quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền khi
nhà cầm quyền có đủ tài năng và minh chính.
4.3.8. Các giải pháp trên cần được xây dựng thống nhất, áp dụng đồng bộ phù
hợp trong quá trình cải cách tư pháp, từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam
Nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020:“Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [2]. Đó là mục tiêu cần đặt ra để
xây dựng nhà nước pháp quyền, lấy hoạt động xét xử làm chủ đạo thực hiện thành công
quá trình cải cách tư pháp.
Khi nghiên cứu các giải pháp ở trên, cho thấy, đây là những vấn đề mang tính
thời sự, cần thiết và quan trọng trong cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Vấn đề đặt ra là, trong “Chiến lược cải cách tư pháp” đang được triển khai một
cách sâu rộng ở Việt Nam hiện nay thì việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp mới là
rất cần thiết, mang lại những quan điểm và xu hướng tiến bộ, xúc tiến những cải cách
trong hoạt động tư pháp tố tụng, đó là việc làm hết sức thiết thực và có ý nghĩa về mặt
295
lý luận cũng như thực tiễn. Từng bước đưa nhánh quyền Tư pháp mạnh lên, sánh ngang
và có thể kiểm soát được nhánh quyền Lập pháp và Hành pháp. Tạo lập sự tôn nghiêm
của nhà nước pháp luật, lành mạnh hóa bộ máy công quyền, tạo niềm tin vào công lý và
phát triển cho cá nhân, gia đình, thể nhân pháp nhân, tổ chức hiệp hội, dân tộc và quốc
gia, khu vực và quốc tế. Công lý trong hòa bình là mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngay từ tác phẩm đầu tay của người “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Cho dù chế độ
thực dân cũ mới đã sụp đổ nhưng thế lực “Thực dân Công nghệ” “Thực dân Thương
mại” đang hình thành. Cái vòi Bạch tuộc đang vươn xa trên thế giới. Nền chính trị quân
sự tư pháp Việt Nam không chỉ bảo hộ công dân Việt Nam trong nước mà còn phải có
trách nhiệm bảo vệ trên toàn cầu. Việc thành lập Trường Đại học Tòa án (Học viện Tòa
án) đặt dưới sự điều hành của “Hội đồng thẩm phán tối cao” với sự tài trợ của nhà nước
và Hiệp hội Tòa án Hàn Quốc là một bước đi ban đầu tiến bộ. Tuy nhiên, cần có một kế
hoạch chiến lược cho đào tạo chuyên sâu và để cạnh tranh tố tụng khu vực và toàn cầu.
Cũng có thể tuyển chọn sinh viên theo nhiều cấp độ, theo mục tiêu đào tạo đáp ứng yêu
cầu của thời đại 4.0 Công nghệ IOT, tuyển bổ chuyên gia đầu ngành, liên thông nghiệp
vụ và liên ngành trong quản trị tư pháp.
Đặc biệt trong bối cảnh cải cách tư pháp tập trung vào trọng tâm là đổi mới hoạt
động xét xử nên cần trang bị ý thức hệ tư tưởng pháp quyền cho các chủ thể, thực hiện
song song giữa hoạt động tố tụng xét xử và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động đó. Để
làm trong sạch tổ chức bộ máy tố tụng thì vấn đề nhân sự chủ chốt trong việc tuyển
dụng, bổ nhiệm và sử dụng nhân sự là rất quan trọng. Đồng thời, lập Hội đồng Hiến
pháp để kiểm soát hoạt động áp dụng pháp luật theo đúng quy định của Hiến pháp. Từ
đó phát huy quyền tư pháp trong lĩnh vực thực thi pháp luật, nhất là trong hoạt động xét
xử, đảm bảo tranh tụng trước tòa cần phải được thực hiện một cách toàn diện, công
bằng và khách quan. Nâng cao chất lượng xét xử đồng bộ với đề cao quyền con người,
đảm bảo mục tiêu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm 2020 và những năm sau nữa,
để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Sự kết hợp Đông Tây trong“Lệ án”, thủ tục“Tranh tụng”, quyền im lặng, quyền
tự bào chữa, sự hỗ trợ pháp lý của“Luật sư” mở rộng cho các bên và các chủ thể tham
gia trong quá trình tố tụng chuyên sâu chuyên nghiệp sẽ tạo lập niềm tin tâm lý, hy
vọng công lý. Một cơ chế tốt cho hệ thống tư pháp Việt Nam trong quá trình cải cách,
đáp ứng yêu cầu của nền dân chủ pháp quyền, hội nhập, sáng tạo và cơ động. Từng
bước kiến thiết nền tư pháp trong thể chế Cộng hòa, chuyên nghiệp, chuyên sâu, nhân
văn, vì con người và chủ quyền dân tộc. Bản án về tranh chấp chủ quyền biển Đông của
Philippin, bản án Đoàn Thị Hương tại Malaysia, vụ án Đặng Lê Nguyên Vũ và Trung
Nguyên, những tranh chấp thương mại và các cuộc đàm phán quốc gia, liên quốc gia;
Nền tư pháp tố tụng trong thời đại mới luôn cần những giải pháp tối ưu cho hòa bình
nhân loại và sự bảo vệ, bảo đảm và bảo hộ cho các quốc gia dân tộc và con người.
Những xung đột về chủng tộc, dân tộc, quốc gia; xung đột về lợi ích, danh dự,
quyền và nghĩa vụ; xung đột ba bên hay nhiều bên; tất cả xung đột đều cần phải đưa ra
296
những biện pháp giải quyết ôn hòa nhất và có lợi ích nhất. Con đường “Khế ước xã
hội” và “Tòa án nhân văn” là con đường hòa bình và văn minh để loài người đi tìm
công bằng xã hội. Để khiến cho công lý như ánh mặt trời soi tỏ đến nhân gian, đến tận
dân đen, tận cùng thế giới, cho cả người sống và đã chết, cho con người và cả tự nhiên.
Con đường công lý đó đã được đặt ra từ Bộ Luật Hammourabi của vùng Lưỡng Hà cổ
đại “để công lý như ánh mặt trời soi tỏ đến dân đen”(1760 TCN) và nó cũng gần như ý
tưởng của Nguyễn Trãi ở Đại Việt thế kỷ XV: “Hòa bình là gốc của Nhạc, thanh âm là
văn của Nhạc, xin bệ hạ yêu nuôi muôn dân để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận
buồn than. Như thế mới không làm mất đi cái gốc của Nhạc”[24, tr.336]. Còn vua Gia
Long thì mong luật pháp được thực thi bởi quan chức thanh liêm để “Khiến cho Bộ luật
như mặt trời mặt trăng không còn chỗ nào bị che khuất nữa” và những điều nghiêm trị
sáng như ánh chớp, vang động như sấm sét không thể sai phạm. Công lý chính là con
đường của đạo đức nhân sinh cho cá nhân, gia đình, cộng đồng và nhân loại.
Những giải pháp ở trên là một số trong rất nhiều giải pháp cần đặt ra trong tiến
trình hoàn thiện pháp luật tố tụng hiện nay, được đúc rút từ việc nghiên cứu thành quả
tiến bộ của pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến. Nhưng để đánh giá toàn diện
những giá trị của các Bộ luật của nhà nước phong kiến về ưu điểm tiến bộ cũng như
những tồn tại thì cũng cần phải tiếp tục nghiên cứu kỹ càng hơn nữa.
Dự báo, hội nhập và định hướng phát triển mô hình tố tụng trong tương lai
Thứ nhất, đào tạo nguồn nhân lực sử dụng thành thạo ngôn ngữ quốc tế và các quốc
gia trên thế giới. Bên cạnh các quốc gia Âu Mỹ cần bổ sung khu vực Asean, Trung
Đông và châu Phi. Kết hợp mô hình xét hỏi thẩm vấn với tranh tụng hài hòa. Huy động các
lực lượng tham gia tụng theo nguyên tắc và cơ chế 3 bên (bên nguyên, bên bị, bên Tòa), 3
cấp (sơ thẩm và 2 phúc thẩm), 3 tầng (kiểm soát, giám đốc, thanh tra). Kết nối theo hệ
thống dọc và ngang, thống nhất, liên thông, liên ngành, liên kết. Hỗ trợ trong toàn bộ quy
trình tố tụng, hướng đến sự hài hòa bình yên cho cá nhân, gia đình, thể nhân, pháp nhân,
nhân chủng, dân tộc, quốc gia, xã hội và cộng đồng khu vực và nhân loại.
Thứ hai, liên kết đào tạo nhân sự trong chuyên ngành tư pháp tài chính ngân hàng,
thương mại điện tử, tổ chức tư pháp liên quốc gia sử dụng cảnh sát, thẩm phán, luật sư mang
nhiều quốc tịch. Nguyên tắc là bảo vệ người Việt Nam, bảo vệ Pháp nhân và các tổ chức của
Việt Nam trên phạm vi toàn cầu. Thiết lập hệ thống thông tin, lý lịch tư pháp, hộ khẩu, mã
hóa, bảo mật, bảo hộ công dân trong suốt cuộc đời, dữ liệu này do Bộ Công an quản lý.
Thứ ba, tôn trọng tính độc lập của hệ thống tư pháp, tòa án, bảo đảm quyền của luật sư
trong các loại hình tố tụng. Hình thành mô hình Án lệ song cùng với xây dựng luật pháp
điển, các bản Án mẫu cần được kiểm duyệt và đảm bảo tính thống nhất trong so sánh và áp
dụng tương tự. Tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia như Anh – Mỹ là các nước có hệ
thống án lệ lâu đời. Suy cho cùng là cần đem luật đến với cuộc sống, đến với dân một cách
hiệu quả nhất, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa các bên và tạo nên sự phát triển.
297
Kết luận chương 4
Cả quá trình lịch sử từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX với sự ra đời của các Bộ luật,
Hội điển, Điển chế mang lại những thành tựu của pháp luật tố tụng trong quản lý nhà
nước phong kiến. Không chỉ có giá trị về mặt lập pháp, giá trị về chính trị, kinh tế, văn
hóa, khoa học mà còn khẳng định trình độ quản lý hành chính nhà nước một cách hoàn
chỉnh. Dù có những hạn chế nhất định nhưng những giá trị pháp lý về lý luận và thực
tiễn trong xây dựng pháp luật tố tụng của nhà nước phong kiến Việt Nam đã được các
nhà nước sau này thừa nhận và nghiên cứu áp dụng.
Để tăng cường vai trò của mình, nhà nước luôn có xu hướng thâu tóm quyền lực.
Theo quy luật phát triển xã hội thì bất cứ ở đâu có quyền lực là ở đó xuất hiện xu thế
lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để đảm bảo các
quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm quyền của các chủ thể
nắm giữ quyền lực thì phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền. Cách tốt nhất để
chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý. Muốn giới hạn quyền
thì trước hết phải phân công quyền lực, và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực chỉ
được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật.
Chính vì vậy, mục đích đưa ra các giải pháp trên, một mặt đề cao vai trò của cơ
quan quyền lực, đề cao ý thức pháp luật và hoạt động áp dụng pháp luật. Mặt khác, thực
hiện phân quyền trong cơ quan quyền lực nhà nước, thực hiện kiểm soát, quản lý chặt
chẽ mọi hoạt động chấp pháp và kiểm soát những cá nhân được nhà nước trao quyền
thông qua các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời đề cao quyền tư pháp trong quản lý
nhà nước nói chung và hoạt động tố tụng nói riêng.
298
KẾT LUẬN CHUNG
1. Nghiên cứu việc xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng của nhà nước phong
kiến Việt Nam thế kỷ XV - XIX cho chúng ta thấy những thành công trong lập pháp về
phương pháp luận, lịch sử phát triển, bản chất, nguyên tắc, đặc điểm của hoạt động tố
tụng. Những giá trị pháp lý về nội dung, thẩm quyền, trình tự, thủ tục của hoạt động xét
xử. Những thành tựu, hạn chế trong việc áp dụng và thực thi pháp luật. Những giải pháp
cần tiếp thu, kế thừa và phát triển. Những kinh nghiệm xây dựng ý thức hệ tư tưởng lập
pháp, nội hàm và cấu trúc cơ bản của các điều luật trong việc soạn thảo các định chế,
quy phạm cụ thể của Bộ luật. Do đó, việc vận dụng các thành quả tiến bộ trong lập pháp
của nhà nước phong kiến Việt Nam để đáp ứng nhu cầu phát triển, kiến tạo xã hội mới
tốt đẹp là thực sự cần thiết.
2. Có thể thấy rằng, pháp luật tố tụng của nhà nước quân chủ phong kiến Việt
Nam thế kỷ XV - XIX, mặc dù không phải là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhất,
nhưng cũng có thể được coi là thành công nhất trong giai đoạn lịch sử thời đó, trong khi
khu vực và trên thế giới chưa có một nhà nước phong kiến nào có được một Bộ luật tố
tụng chuyên biệt. Cho dù bộ máy quyền lực mang tính tập quyền, những điều luật điều
chỉnh và xử phạt còn hà khắc, nhưng đã thể hiện tư tưởng lập pháp tiến bộ, đưa pháp
luật vào quản lý cơ quan nhà nước và toàn xã hội, một trong những thành công đó là
pháp luật về tố tụng trong cả luật Hiến chương và luật chuyên ngành. Do tầm quan
trọng đặc biệt của pháp luật tố tụng trong xây dựng và quản lý đất nước, cùng với tiến
trình phát triển của lịch sử, các thể chế nhà nước đều chú trọng hàng đầu việc xây dựng
hệ thống pháp luật trong đó có lĩnh vực tố tụng. Trên cơ sở những nguyên lý, quy tắc và
định hướng cơ bản, pháp luật tố tụng truyền thống đã tạo lập được những định chế, quy
phạm phù hợp, đảm bảo tính công minh, hợp lý, công lý và hiệu quả trong xét xử.
3. Đối với giá trị của các Bộ luật quân chủ phong kiến Việt Nam, khi nghiên
cứu, mặc dù có những cản trở về ngôn ngữ, ngữ pháp, tính xác thực của các văn bản
dịch, nhưng những giá trị về lập pháp, hành pháp, tư pháp của việc sử dụng văn bản
pháp luật để điều chỉnh và quản trị các quan hệ về nhà nước, xã hội, cá nhân và gia đình
thì không thể phủ nhận. Các nhà lập pháp hiện nay sẽ cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến
việc sử dụng những kinh nghiệm truyền thống dân tộc trong thiết kế pháp luật, các cách
dự liệu cần có trong những phương án giải quyết vụ việc, các giải pháp đặt ra trong tiến
trình vận hành và áp dụng pháp luật, những giá trị về nền tư pháp nhân văn đóng góp
cho hoạt động tố tụng và sự biến đổi những giá trị đó để xây dựng và áp dụng pháp luật
trong giai đoạn hiện nay cho phù hợp và hiệu quả.
4. Mục đích tham khảo, đối chiếu và sử dụng nguồn tư liệu lịch sử trong việc xây
dựng pháp luật hiện nay, song cùng với việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các
nước trên thế giới trong thực tiễn xây dựng hệ thống pháp luật ở Việt Nam, đó chính là
nhằm mang lại thành quả trong hoạt động lập pháp, đảm bảo tính hệ thống và tính định
299
hướng trong mục tiêu của dân tộc và thời đại, từng bước góp phần vào thành công trong
cải cách tư pháp, quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp hướng đến quyền con người.
5. Trong quá trình nghiên cứu và so sánh, chúng ta thấy nếu công tác xây dựng
và ban hành những văn bản pháp luật mới và sửa đổi văn bản pháp luật hiện hành nhằm
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế chưa thể đạt được
những mục tiêu đề ra thì việc nghiên cứu và vận dụng thành quả của pháp luật quân chủ
phong kiến càng trở nên quan trọng, cần thiết và có giá trị lâu dài bền vững.
Việc phát hiện thêm các văn bản Điển chế pháp luật về tố tụng thời Lê Thánh
Tông, bổ sung trong thời Lê Trịnh đã đưa lại cho nền pháp luật về hình thức thủ tục
phong kiến Việt Nam thêm những thành tựu mới. Điều này càng khẳng định những đánh
giá khách quan của các học giả phương Tây trong cuốn Almanach: ngay từ thế kỷ XV,
khi châu Âu còn chìm trong đêm trường trung cổ, luật pháp của lãnh chúa và nhà thờ còn
ngự trị thì ở Việt Nam và Trung Hoa đã có những bộ luật điển chế mà những tiến bộ của
nó làm ngạc nhiên các nhà nghiên cứu phương Tây. Điều này cũng đã được học giả Vũ
Văn Mẫu khẳng định trong bản dịch Hồng Đức thiện chính thư:“Đó là linh hồn trí não
người xưa kết đúc cho chúng ta qua bao lớp phế hưng của lịch sử”. Nhìn lại quá khứ,
nhìn ra thế giới, sửa lại chính mình, định hướng tương lai. Cội nguồn gốc rễ gia đình,
dòng tộc, dân tộc luôn là hành trang tất yếu cho công cuộc kiến tạo tương lai,“ôn cố nhi
tri tân”chưa bao giờ là bài học xưa cũ. Pháp luật truyền thống không chỉ có ý nghĩa đối
với nhà nước xã hội phong kiến thời đó, mà còn có ý nghĩa và bài học kinh nghiệm quý
báu trong việc xây dựng hệ thống pháp luật đương thời. Đặc biệt trong công tác lập
pháp, hành pháp, tư pháp, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh, hòa bình, tiến bộ và phát triển vì “dân tộc độc
lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng mong ước.
Pháp luật tố tụng không những bảo vệ lẽ công bằng thông qua các thủ tục pháp
lý mà còn xây dựng những cơ chế thực thi quyền lực tư pháp thông qua hoạt động của
hệ thống Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án và các tổ chức
chính trị xã hội nghề nghiệp. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, pháp luật tố
tụng từng bước được sửa định cụ thể hơn nhằm xây dựng những quy phạm pháp luật
chuẩn mực về nội dung, trình tự và thủ tục tố tụng đối với các vụ án hình sự, dân sự,
hành chính, kinh tế, thương mại, tài chính, lao động, đất đai, đảm bảo sự công bằng và
tính nghiêm minh của pháp luật, từng bước cải cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp
quyền theo xu hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, tiến bộ, hội nhập và phát triển./.
300
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_to_tung_phong_kien_viet_nam_tu_the_ky_xv.pdf