VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH HOÀNG
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
A VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN XUÂN TRỌNG
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM
XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào kh
74 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 379 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận văn Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRẦN XUÂN TRỌNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chƣơng 1. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP
ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH .................................................................. 6
1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán
bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh .................................................. 6
1.2. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức
cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh ......................................... 17
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI
VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỈNH BẮC NINH ................................................................................ 23
2.1. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những kết quả đạt được ................... 23
2.2. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế ................................................................................... 33
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM
XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH ................................................................. 43
3.1. Đổi mới nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ chức
cán bộ ................................................................................................ 43
3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ
chức cán bộ ....................................................................................... 47
KẾT LUẬN .......................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 64
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BHXH : Bảo hiểm xã hội
2. BHYT : Bảo hiểm y tế
3. HĐND : Hội đồng nhân dân
4. HĐLĐ : Hợp đồng lao động
5. HTCT : Hệ thống chính trị
6. UBND : Uỷ ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định công tác tổ chức cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Nói cách khác, đây là khâu trọng yếu trong hoạt động của
Đảng, đóng vai trò quyết định sự thành công của cách mạng. Công tác cán
bộ được hợp thành bởi nhiều bước có tính chất liên hoàn, đan xen nhau như:
đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử
dụng cán bộ. Việc chuẩn bị đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của Nhà nước ta không thể tách rời chiến lược cán bộ và xây dựng
quy hoạch cán bộ. Đường lối cán bộ có mục đích phù hợp với đường lối
chính trị và phải đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của quốc gia.
Sinh thời, chủ tích Hồ Chí Minh đã từng ghi nhận: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc Đặc biệt là trong hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí
Minh lại càng nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức, đủ tài,
vừa hồng vừa chuyên để có thể hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là kim chỉ nam
cho sự nghiệp cách mạng của nước ta. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là
nhân tố vô cùng quan trọng của bộ máy Đảng, Nhà nước, Nhân dân, “là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành.
Tiếp thu tư tưởng đó, trong sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ
nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt nói riêng một cách đồng bộ, toàn
diện; coi đây là một trong những vấn đề mấu chốt, là điều kiện quyết định
sự thành bại của cách mạng. Như vậy, công tác cán bộ có vị trí hết sức quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo.
2
Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển sâu rộng, đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng, đưa Việt Nam vững bước
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song thời cơ, nguy
cơ, thách thức luôn đan xen nhau trong một thế giới hội nhập phức tạp. Hơn
lúc nào hết, đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước có vai trò
quan trọng cho sự ổn định, phát triển của đất nước và cả hệ thống chính trị.
Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách và nỗ lực xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhưng còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải
nghiên cứu để có những giải pháp thực hiện có hiệu quả.
Thấm nhuần tư tưởng đó, trong những năm qua, các cấp ủy Đảng
thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ. Công tác tổ chức cán bộ của Bảo hiểm xã hội Bắc
Ninh bên cạnh những ưu điểm vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Những hạn
chế này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Thực tiễn
trên đòi hỏi các cấp ủy Đảng cần đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo, chỉ đạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ để họ thực
sự phát huy vai trò, năng lực, tiên phong trong việc vận dụng chủ trương,
đường lối của Đảng vào thực tiễn công tác, góp phần thúc đẩy nền kinh tế -
xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc
Ninh” làm nội dung nghiên cứu của luận văn
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác tổ chức cán bộ là một nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, vì thế nên trong những năm vừa qua đã có không ít các
công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác cán bộ cũng như các giải
pháp nhằm đổi mới, nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này.
3
Các công trình được thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức và góc độ tiếp
cận. Có thể kể đến một số công trình như: cuốn sách “Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (của Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân
Sầm, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2002); cuốn sách “Công tác cán bộ trong
quân đội, quá trình hình thành và phát triển: Biên niên sự kiện và tư liệu
(1975 - 1990)” (của nhiều tác giả, Nxb Quân đội nhân dân, năm ...); cuốn
sách “Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 -
2000)” (của Nguyễn Hữu Tri chủ biên, và Nguyễn Thị Phương Hồng, Nxb
Chính trị quốc gia, năm 2005); cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ” (của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, năm
2007); cuốn sách “Xây dựng, chỉnh đốn, củng cố tổ chức Đảng dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới” (của nhiều tác giả, Nxb
Thanh niên, năm 2010); cuốn sách“Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước” (của nhiều tác giả, Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2013); bài viết “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ góc nhìn
chuỗi kết quả và chỉ số đánh giá” (của Đoàn Văn Dũng, Tạp chí lý luận
chính trị, số 4 – 2014); và nhiều công trình khác.
Những công trình trên đã đi sâu phân tích các quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về công tác cán bộ, nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với công tác này. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu về công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: trên cơ sở làm sáng tỏ nội dung và
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh
về công tác tổ chức cán bộ; thực trạng lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo
hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác cán bộ (những kết quả đạt được,
4
những hạn chế, khó khăn); luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ
chức cán bộ.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo
hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ.
- Phân tích thực trạng lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội
tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ (những kết quả đạt được, những
hạn chế, khó khăn).
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp
ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ chức cán bộ.
Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là Bảo hiểm xã hội ở địa bàn
tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp lịch sử, logic, phân tích,
tổng hợp. Ngoài ra còn có một số phương pháp khác được vận dụng như:
thống kê, đối chiếu, so sánh... Những phương pháp này sẽ được vận dụng
phù hợp trong từng vấn đề nghiên cứu tại luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Cung cấp thêm những tư liệu về nội dung và phương thức lãnh đạo
của các ấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ nói trong Bảo hiểm xã hội tỉnh
Bắc Ninh.
- Góp phần chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ
chức cán bộ.
5
- Đề xuất được những giải pháp phù hợp và có tính ứng dụng cao
nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh
Bắc Ninh về công tác cán bộ
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Chương 2: Thực trạng lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ
chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
6
Chƣơng 1
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ
TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH
1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ
chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh
Trước khi phân tích nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh , chúng ta cần xác
định nội hàm của khái niệm cán bộ và công tác tổ chức cán bộ.
Cán bộ được hiểu bao gồm cả công chức, viên chức, người làm
việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị, người làm việc các doanh
nghiệp nhà nước, người làm việc các đơn vị sự nghiệp công lập. Như
vậy, cán bộ Việt Nam có các đặc điểm như sau.
Thứ nhất, cán bộ là người được tuyển chọn thông qua chế độ bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm cán bộ. Đó là những người được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ đối với các cơ
quan, tổ chức, đơn vị ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Riêng với
cán bộ cấp xã thì chỉ được bầu cử không có chế độ phê chuẩn hay bổ
nhiệm. Bởi bầu cử, phê chuẩn hay bổ nhiệm cán bộ chịu sự tác động của
quy định, điều lệ đối với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó.
Theo đó, đảng viên có quyền ứng cử, đề cử, bầu các chức danh,
chức vụ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng như Tổng Bí thư. Theo Điều
24 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 qui định: “Việc bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm chức vụ, chức danh cán bộ theo nhiệm kỳ trong cơ quan
nhà nước từ trung ương đến cấp huyện được thực hiện theo quy định của
Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
7
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật kiểm toán nhà nước, Luật bầu
cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ví dụ:
“Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội do
UBTV Quốc hội giới thiệu. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội
bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn danh
sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh” (Điều 81 Luật tổ chức
Quốc hội năm 2001).
Thứ hai, cán bộ là người giữ các chức vụ, chức danh và hoạt động
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính
trị - xã hội.
Thứ ba, cán bộ là người công tác theo nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ là thời
hạn giữ chức danh, chức vụ. Thời hạn đó thường được định ra trước
trong các văn bản chính thức. Ví dụ: nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà
nước là 7 năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ
(khoản 3 Điều 17 Luật kiểm toán nhà nước năm 2005).
Thứ tư, cán bộ là người được sắp xếp theo biên chế và trả lương từ
ngân sách của nhà nước. Theo Điều 12 Luật Cán bộ công chức năm
2008: cán bộ “Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với
nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội
của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo,
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã
hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường nguy
hiểm, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy
định của pháp luật. Và được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm,
công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật” .
8
Công tác tổ chức cán bộ là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện của cấp có thẩm quyền nhằm phát huy cao nhất tiềm năng
của cán bộ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, phát triển nguồn nhân
lực và xâu dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của từng thời kỳ. Cấp có thẩm quyền trong công tác cán bộ ở Việt
Nam là Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Với cách hiểu về cán bộ và công tác tổ chức cán bộ như trên, sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ ở Việt Nam nói chung
và ở Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh nói riêng gồm những nội dung sau
Thứ nhất, Đảng phải biết cán bộ, dùng đúng cán bộ, cất nhắc đúng
cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình đúng cán bộ.
“Biết cán bộ” được hiểu là việc đánh giá đúng đắn phẩm chất và
năng lực của cán bộ. Việc “biết cán bộ” có vai trò rất quan trọng. Đánh
giá đúng cán bộ nhằm sử dụng cán bộ có hiệu quả cũng như là căn cứ
cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Việc đánh giá cán bộ không chỉ
được nhìn dưới góc độ là chỉ tập trung và phát hiện cái hay, cái tốt của
họ để khuyến khích, phát huy, mà còn phải bao hàm của việc thấy được
những thấy cái không hay, các còn tồn tại của họ để tìm cách giúp đỡ,
khắc phục.
Để làm tố việc này, Hồ Chí Minh đề cao các quan điểm và lý luận
biện chứng. Trong số cán bộ, có người khi trước theo cách mạng mà nay
phản cách mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham
gia cách mạng. Vì thế, khi xem xét, đánh giá cán bộ, không nên nhìn
phiến diện, mà phải nhìn toàn diện. Chủ tích Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
rằng: Việc đánh giá cán bộ không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện
bên ngoài của họ, mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của họ; không thể chỉ
dựa vào một việc làm của họ, mà phải tìm hiểu tất cả các công việc mà
9
họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, mà phải
thấy rõ lịch sử của họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy, ta mới có thể đánh
giá cán bộ một cách đúng đắn, khách quan [50, tr. 278].
Trên thực tế có không ít bệnh trong đánh giá cán bộ. Chẳng hạn đó
là bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một cái khuân khổ chật hẹp,
nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau, v.v.. Đây đều là nhưng
biểu hiện của sự không khách quan, toàn diện trong những người làm
công tác cán bộ. Mình càng trong sang, “càng ít khuyết điểm thì cách
xem xét cán bộ càng đúng” [50, tr. 278]. Biết mình là khó, song không
biết mình thì không thể biết người. Đây còn được gọi là quan điểm “Tri
kỉ để tri nhân” trong triết học chính trị kết hợp với căn hóa phương Đông
đã được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thời đại
mới.
“Dùng đúng cán bộ” là sử dụng đúng cán bộ. Việc dùng cán bộ thì
phải tuân thủ nguyên tắc “tùy tài mà dùng người”, công việc giao cho
cán bộ phải phù hợp với năng lực của họ. Nắm bắt được năng lực của
cán bộ mà dùng người thì sẽ phát huy được tài, do đó mà công việc
thành công. Việc này không những tránh lãng phí người tài, mà còn thúc
đẩy họ phát huy năng lực của cán bộ và phát hiện ra được nhiều người có
năng lực hơn nữa. Sử dụng cán bộ đúng năng lực, đúng sở trường thì sẽ
phát huy được ưu điểm của mỗi người, hạn chế được những điểm yếu
kém của họ.
Yêu cầu của việc sử dụng cán bộ nhìn thì dễ nhưng trên thực tế có
công việc này lại dễ bị chi phối bởi những biểu hiện tiêu cực như ưu ái
người thân quen, thích người nịnh hót Những biểu hiện này không chỉ
gây hại cho công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước, mà còn gây hại cho
chính những người cán bộ không đủ năng lực, tài đức, bởi khi được dung
10
túng, cái xấu trong họ sẽ càng có điều kiện phát triển và làm lu mờ, hạn
chế những điểm tốt của họ.
Người lãnh đạo đối với công tác cán bộ không được tự cao tự đại,
mà phải nghe, phải hỏi ý kiến cấp dưới. Việc xây dựng môi trường làm
việc dân chủ sẽ tạo nên động lực tích cực thúc đẩy cán bộ ngày càng có
nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công việc. Bên cạnh đó, người
lãnh đạo đối với công tác cán bộ phải mạnh dạn trao quyền, giao việc
cho cán bộ. Khi giao việc, ban đầu cần hướng dẫn họ những vấn đề cơ
bản rồi sau đó rồi tạo điều kiện để họ chủ động thực hiện công việc của
mình. Điều này đòi hỏi cũng cần phải có niềm tin đối với cán bộ . Việc
đặt lòng tin vào cán bộ để giao việc vừa là một cách đào tạo cán bộ, vừa
là cách tạo động lực hành động cho chính họ.
“Cất nhắc đúng cán bộ” là bố trí cán bộ là công việc quan trọng
hơn. Theo Hồ Chí Minh, khi cất nhắc cán bộ, phải vì công việc, vì cổ
động cho đồng chí khác thêm hăng hái; cất nhắc cán bộ phải xuất phát từ
hiệu quả công tác thực tế của cán bộ, và phải có tác dụng khuyến khích
các cán bộ khác vươn lên; cất nhắc cán bộ phải cho đúng; không nên cất
nhắc cán bộ như “giã gạo”; trước khi cất nhắc thì phải xem xét kỹ; khi
đã cất nhắc thì phải giúp đỡ; khi cán bộ mắc sai lầm thì hạ cấp, chờ lúc
họ làm khá, lại cất nhắc lên [50, tr. 282]. Cũng theo Hồ Chí Minh, đây là
hoạt động có tác động trực tiếp đến “lòng tự tin, tự trọng” của cán bộ.
Vì thế, người lãnh đạo phải biết “tôn trọng”, “vun trồng” lòng tự
tin, tự trọng của cán bộ. Trong công tác cất nhắc cán bộ, thái độ đó thể
hiện ở việc đánh giá đúng cán bộ, giao công việc phù hợp với phẩm chất
và năng lực cán bộ, thường xuyên quan tâm, động viên, giúp đỡ và kịp
thời nhắc nhở, uốn nắn sai lầm và khuyết điểm của cán bộ. Không nên
đợi đến khi các sai lầm, khuyết điểm của cán bộ trở nên nặng nề thì mớ
11
mang ra xử lý một lần. Như thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập” thì mất
đi sự tự tin, từ chỗ hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí mà trở
nên vô dụng.
“Yêu thương cán bộ” là tính nhân văn trong công tác cán bộ. Sử
dụng cán bộ không phải là phó mặc, vỗ về. Theo Hồ Chí Minh: thương
yêu cán bộ “là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”, “giúp họ giải quyết
những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi
đau ốm được chăm sóc, gia đình họ khỏi khốn quẫn” [50, tr. 283]. Việc
thương yêu cán bộ phải luôn gắn liền với công tác của họ để khi có
khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay cũng như động viên, khuyến
khích kịp thời những lúc họ phát huy ưu điểm.
“Phê bình đúng cán bộ” là chỉ ra sai lầm, khuyết điểm của cán bộ.
Người cán bộ có thể có sai lầm và khuyết điểm. Người lãnh đạo phải là
người chỉ ra cho cán bộ của mình những hạn chế, khuyết điểm và giúp
họ nhìn nhận đúng đắn nhất, biết cách sửa chữa nhất.
Muốn khỏi bệnh thì phải có gan nói ra bệnh của mình với bác sỹ
và cố gắng chữa bệnh cho kỳ hết. Một người cán bộ chân chính cách
mạng không phải là người không bao giờ có sai lầm, khuyết điểm, mà là
những người có khả năng nhận thức được sai lầm, khuyết điểm của
mình, tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục những sai lầm, khuyết điểm
ấy. Cũng theo Hồ Chí Minh, đối với cán bộ mắc sai lầm, phải tìm cách
để họ tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho họ vui lòng tự nguyện sửa đổi ;
tuyệt đối tránh thái độ qui chụp, công kích.
Thứ hai, Đảng phải đánh giá đúng cán bộ.
Đánh giá đúng cán bộ được coi là động lực quan trọng thúc đẩy
cán bộ phấn đấu vươn lên, tạo ra sự cạnh tranh trong chính các cán bộ,
kích thích lòng nhiệt huyết, sáng tạo đóng góp cho sự phát triển của tổ
12
chức. Thông qua đánh giá cán bộ để các cấp lãnh đạo thấy được những
chỗ còn thiếu sót trong chủ trương, đường lối, chính sách; trong công tác
lãnh đạo, quản lý tổ chức, để từ đó có biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện
các công việc này ngày một tốt hơn. Khi đánh giá cán bộ thì phải: Phát
hiện mặt mạnh và mặt yếu của cán bộ, có biện pháp khuyến khích, thúc
đẩy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu, hướng tới nâng cao hiệu quả công tác
cán bộ; xác định đúng căn cứ để thực hiện đúng các công tác khác của
công tác cán bộ (như: đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển); phải dựa trên những tiêu chí khách quan, hạn
chế được những đánh giá theo ý chí chủ quan, cảm tính, phân biệt được
người có thành tích nổi trội với người yếu kém, đánh đồng người làm tốt
với người làm không tốt.
Tiêu chuẩn cán bộ là một cơ sở khoa học để đánh giá cán bộ. Tiêu
chuẩn cán bộ luôn thay đổi linh hoạt phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển. Trong công cuộc
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các tiêu chuẩn
chung cho cán bộ bao gồm: hết lòng phụng sự tổ quốc, tận tuỵ phục vụ
nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kiên quyết không
tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng; ý thức tổ chức kỷ luật,
trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân; có trình độ về
lý luận chính trị, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có trình
độ văn hoá, chuyên môn, đủ sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao được học tập có hệ thống ở các trường của Đảng; đã trải qua hoạt
động thực tiễn có hiệu quả.
13
Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang cần đáp ứng thêm
các tiêu chuẩn sau: tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân
dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; có tinh thần
cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí
mật quân sự, bí mật quốc gia; nắm vững và có khả năng vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân; nắm được những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội.
Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ, cán bộ khoa học, chuyên
gia cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: có tư duy độc lập, sáng tạo; có
ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ; bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn ; có khả
năng tập hợp và sáng tạo.
Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ, cán bộ quản lý kinh doanh
cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: có hiểu biết sâu sắc các quan điểm
kinh tế của Đảng; có phẩm chất đạo đức, cần kiệm liêm chính, không lợi
dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa hoa; có kiến thức về kinh tế thị
trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học, công nghệ, pháp
luật và thông lệ quốc tế; có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả
kinh tế - xã hội.
Ở các ngành, các cấp khác ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ
trên đây đều có các tiêu chuẩn riêng, cụ thể, sát hợp với từng ngành, cấp.
Thứ ba, Đảng phải quy hoạch đúng cán bộ.
Hoạt động này diễn ra đối với lãnh đạo lãnh đạo, quản lý các
ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị và nhằm mục đích
14
giúp họ hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ đảm nhận và chuẩn bị
những điều kiện tốt cho giai đoạn tiếp theo. Việc quy hoạch cán bộ là
quan trọng vì đay là tiền đề để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cho phù hợp, tạo cơ hội cho họ phấn đấu, rèn luyện, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới của cách mạng nước ta.
Để phát huy cao nhất hiệu quả của công tác quy hoạch cán bộ,
Đảng phải thực sự gắn kết công tác này với tất cả các khâu khác trong
công tác cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ.
Đảng cần thực hiện quy hoạch “động” và “mở”. Quy hoạch “mở”
là quy hoạch không khép kín trong từng ngành, từng địa phương, từng
đơn vị, không hạn chế một số ít người được định sẵn một cách chủ quan.
Trong quy hoạch, mỗi chức danh lãnh đạo cần có ít nhất từ hai đến ba
cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ có thể dự kiến đảm nhiệm từ hai đến ba chức
danh. Quy hoạch “động” là quy hoạch được rà soát thường xuyên, được
điều chỉnh theo sát với yêu cầu thực tế của sự phát triển cán bộ, kịp thời
bổ sung những nhân tố mới vào quy hoạch. Đảng cần tạo ra “dòng chảy”
trong công tác quy hoạch cán bộ; hằng năm, phải rà soát lại đội ngũ cán
bộ trong quy hoạch để có sự điều chỉnh, bổ sung. Khi quy hoạch cán bộ,
Đảng phải tiến hành đồng bộ từ trên xuống dưới; hướng dẫn cấp dưới
quy hoạch cán bộ; lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm cơ sở cho quy
hoạch cán bộ cấp trên; phải dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn; vừa
tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo
động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của
cán bộ; bảo đảm sự đoàn kết trong phát triển của toàn đội ngũ cán bộ; đề
phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc
15
trong xây dựng và thực hiện quy hoạch; phải thực hiện công khai công
tác quy hoạch cán bộ theo đúng thẩm quyền quyết định quy hoạch.
Thứ tư, Đảng phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: trang bị hệ thống thế giới
quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; hệ thống tri thức chuyên môn, kiến thức lãnh đạo,
quản lý và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý đương chức và quy hoạch các cấp có phẩm chất đạo
đức, thái độ, hành vi ứng xử và kỷ luật nghề nghiệp, tận tụy với công vụ
và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; giúp cho cán bộ, đặc biệt là các cán bộ lãnh đạo, quản
lý, biết vận dụng linh hoạt phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều hành thực tiễn, có đủ năng lực lý luận, tri
thức hiện đại của nhân loại.
Yêu cầu về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: phải gắn lý luận
với sự vận động thực tiễn khách quan; phải nâng cao năng lực, trí tuệ
cho đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo trong việc xử lý các vấn đề thực
tiễn một cách khoa học; hạn chế tới mức có thể tình trạng kinh nghiệm,
cảm tính; bảo đảm cập nhật kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh đối với từng đối tượng ở từng vị trí công
tác, phù hợp tình hình mới và yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, địa
phương, vùng, miền; cung cấp cho người học tri thức khoa học, kỹ năng
xử lý tình huống chính trị thực tiễn; bảo đảm cân đối giữa việc bổ sung
kiến thức, nâng cao kỹ năng chuyên môn với giải đáp những vấn đề thực
tiễn cụ thể mới đang diễn ra trong ngành, địa phương.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cần phải: có tính thường xuyên, liên
tục (bởi lẽ tri thức và các tình huống thực tiễn luôn vận động và thay đổi
16
theo thời gian); không rập khuôn nội dung đào tạo, bồi dưỡng sơ cứng và
bất biến với sự vận động khách quan; gắn học với hành, gắn lý luận với
thực tiễn.
Để đạt được những yêu cầu cơ bản này, trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng, Đảng cần phải đổi mới trong từng khâu; phải thiết kế nội dung
đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Thứ năm, Đảng phải điều động, luân chuyển cán bộ một cách đúng
đắn.
Điều động, luân chuyển cán bộ là sắp xếp cán bộ vào những vị trí
công tác mới. Hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu chính sau đây
Thứ sáu, Đảng phải quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn.
Để quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn, Đảng cầ phải áp
dụng các nguyên tắc như sau.
Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế,
quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức Đảng,
đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp nhà nước để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực
hiện quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ; Đảng chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị trên mọi lĩnh
vực; Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các ngành, các cấp; đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị; Đảng phân công, phân cấp
quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức Đảng, đồng thời thường xuyên
kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, tập thể quyết định gắn với việc thực hiện trách nhiệm cá nhân
trong công tác quản lý cán bộ.
17
Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết,
quyết định của cấp uỷ cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ.
Thứ bẩy, Đảng phải có chính sách cán bộ đúng đắn.
Chính sách cán bộ đúng đắn thể hiện các nội dung sau: chế độ đãi
ngộ phù hợp với vị trí, vai trò của cán bộ, công chức; có chính sác...số trường hợp quy hoạch mang tính khả thi không
cao; đội ngũ cán bộ một số huyện và sở, ngành tỉnh vẫn còn hẫng hụt.
Thứ ba, một số trường hợp cử đi đào tạo chưa gắn với quy hoạch
cán bộ; một số địa phương triển khai việc đào tạo trung cấp chuyên môn
và trung cấp chính trị cho cán bộ xã, phường, thị trấn thiếu quyết liệt nên
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tăng chậm. Việc đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao triển khai thực hiện chậm và còn nhiều lúng
túng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn chưa chú trọng vào kỹ năng, đặc
biệt là kỹ năng lãnh đạo, quản lý, thực hành mà còn tập trung nhiều vào
lý luận; việc kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công chức còn chưa kịp thời.
Thứ tư, một số ít trường hợp đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa gắn với
quy hoạch cán bộ, còn nặng về chính sách. Công tác quản lý cán bộ đang
có sơ hở, yếu kém. Quản lý cán bộ còn nặng về quản lý trên hồ sơ bằng
cấp, chứng chỉ, quản lý lý lịch gia đình, mà chưa đánh giá đúng mức đến
quản lý chính trị hiện tại của mỗi cán bộ theo thực tiễn, chưa gắn
phương pháp đánh giá cán bộ với đổi mới quản lý cán bộ. Một số cấp ủy
xây dựng kế hoạch luân chuyển còn chung chung, chưa có lộ trình cụ
thể; việc luân chuyển cán bộ huyện về xã để đào tạo thực tiễn thực hiện
35
chưa đồng bộ, kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu đề ra. Việc
tuyển dụng, thu hút những người có trình độ cao về BHXH tỉnh công tác
còn hạn chế. Chế độ chính sách đối với cán bộ luân chuyển và hỗ trợ đào
tạo tuy có triển khai thực hiện nhưng chưa kịp thời; do điều kiện ngân
sách tỉnh còn khó khăn nên mức hỗ trợ chưa đáp ứng yêu cầu thực tế .
2.2.2. Những hạn chế về phương thức lãnh đạo công tác cán bộ
Thứ nhất, tuy trong những năm qua, cấp ủy BHXH tỉnh Bắc Ninh
đã quan tâm tương đối thỏa đáng tới việc xây dựng và bổ sung quy chế
làm việc của tỉnh ủy cho phù hợp với tình hình mới và đặc điểm của mỗi
địa phương và của ngành, nhưng trong việc tổ chức thực hiện đã nhận
thấy một số tồn tại trong việc xây dựng quy chế làm việc và chương
trình làm việc của một số cấp ủy có chỗ còn chưa thật sự khoa học; việc
điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc ở một số cấp ủy chưa thật
sự nghiêm túc; việc phân công, phân nhiệm chưa rõ ràng nên hiệu quả
công tác chưa cao. Tình trạng buông lỏng lãnh đạo có lúc, có việc chưa
thực sự được khắc phục triệt để. Các nghị quyết của các cấp ủy về công
tác cán bộ còn chung chung, nên khi lãnh đạo cơ quan chính quyền, đoàn
thể làm công tác cán bộ dẫn đến không cụ thể, rõ ràng, thậm chí khiến
chính quyền, đoàn thể lúng túng, phải trao đổi lại nhiều nội dung. Công
tác cán bộ của chính quyền nhiều đơn vi trong BHXH tỉnh Bắc Ninh
mang tính hình thức, dựa dẫm, thụ động. Do đặc thù các cơ quan BHXH
là ngành có cơ cấu tổ chức ngành dọc, trực thuộc cấp trên, quyết định về
công tác cán bộ chủ yếu xuất phát từ ý chí, sự lãnh đạo của ngành dọc
cấp trên, nên cơ chế hiệp y, hiệp quản có lúc, có nơi trở nên hình thức,
biến thành một dạng "hợp thức hóa" cho đúng quy định quản lý cán bộ.
Có lúc, có nơi còn thụ động trong lãnh đạo công tác cán bộ của các đơn
vị cấp dưới này.
36
Thứ hai, công tác lãnh đạo của các tỉnh ủy trong tuyên truyền, vận
động, thuyết phục tổ chức đảng, đảng viên BHXH tỉnh Bắc Ninh để thực
hiện các nghị quyết, chủ trương về công tác cán bộ vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu đề ra. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong việc chấp
hành các nghị quyết, chủ trương về công tác cán bộ ở một số đảng bộ
tỉnh chậm được đổi mới. Nhiều cán bộ thực hiện chế độ thông tin, báo
cáo chưa nghiêm, chưa phản ánh và đề xuất kịp thời những biện pháp
giải quyết những vấn đề nổi cộm, phát sinh đột xuất trong công tác cán
bộ thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao. Vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức, người đứng đầu các tổ chức trong BHXh tỉnh tuy có nhiều tiến bộ,
nhưng sự lãnh đạo công tác cán bộ của các cấp ủy thông qua phân công,
phân cấp quản lý cán bộ, phát huy vai trò quản lý nhà nước của chính
quyền tỉnh, có lúc, có nơi vẫn còn nhiều tồn tại. Việc đổi mới phương
pháp công tác, thực hiện quy chế làm việc, chương trình công tác của
ban chấp hành, ban thường vụ tuy đã có cố gắng nhưng nhìn chung vẫn
chưa thật sự đổi mới. Việc tuân thủ triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ,
đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mỗi
cá nhân, đồng thời coi trọng phát huy trí tuệ tập thể trong thảo luận,
quyết định những vấn đề phức tạp, bảo đảm đoàn kết thống nhất, giữ
nghiêm kỷ luật, kỷ cương và nguyên tắc trong công tác cán bộ, có lúc, có
nơi còn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Ở một số nơi, có việc tuy đã
phân công, phân cấp, nhưng vẫn phải xin ý kiến, xin chỉ đạo; điều đó gây
khó khăn cho việc thực hiện các nội dung của công tác cán bộ.
Thứ ba, việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo ở một số tổ chức
đảng còn chưa đạt yêu cầu. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công
tác cán bộ đã có nhiều đột phá, nhưng công tác tổ chức cán bộ nhất là
chính sách thu hút, đào tạo cán bộ, có mặt còn hạn chế. Chưa thực sự
gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ với công tác quy hoạch, sử dụng
37
cán bộ. Thực hiện công tác luân chuyển cán bộ chưa thường xuyên, hiệu
quả. Thiếu giải pháp đột phá trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý; việc quy hoạch cán bộ chưa toàn diện. Việc trẻ
hóa, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ còn chậm; thực hiện chưa tốt việc thu hút
cán bộ giỏi và thay thế số cán bộ, công chức yếu kém về trách nhiệm và
năng lực. Nhận thức của một số ít cán bộ và lãnh đạo cơ quan tham mưu
về công tác cán bộ chưa quan tâm đúng mức, nên việc soạn thảo nội
dung trong quy chế còn chung chung, chưa cụ thể theo tình hình địa
phương. Cán bộ, công chức các cơ quan tham mưu về công tác cán bộ
đôi khi chưa thực hiện tốt quy trình ra quy chế và còn chậm trong sửa
đổi, bổ sung. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện quy chế còn cứng nhắc,
chưa linh hoạt. Việc bố trí cán bộ phụ trách nhiệm vụ đôi khi chưa rõ
ràng, chồng chéo. Cán bộ, công chức nào làm tốt nhiệm vụ được phân
công, nhanh nhạy thì lại giao phụ trách nhiều phần việc và ngược lại,
người không làm tốt thì giao ít việc, điều này, gây không ít khó khăn
trong việc thực thi nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về công tác cán
bộ.
Thứ tư, sự lãnh đạo của các cấp ủy BHXH Bắc Ninh đối với công
tác cán bộ thông qua vai trò của tổ chức đảng, đảng viên, đoàn viên, hội
viên trong các tổ chức thuộc HTCT còn nhiều bất cập. Tinh thần trách
nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, tính tiên phong, gương mẫu của một
số cán bộ, đảng viên chưa cao, chưa thường xuyên bám sát cơ sở để chỉ
đạo. Tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, tiên phong gương mẫu của
cấp ủy viên đã làm hạn chế chất lượng các quyết định lãnh đạo của tập
thể cấp ủy, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng công tác cán bộ. Sự lãnh
đạo của các tỉnh ủy đối với công tác cán bộ thông qua công tác kiểm tra,
giám sát ở một số tổ chức đảng còn buông lỏng, mang tính hình thức;
tính chiến đấu, tính giáo dục trong kiểm tra, giám sát chưa cao; hiệu quả
38
kiểm tra, giám sát có mặt còn hạn chế. Công tác kiểm tra, giám sát để
phát hiện, biểu dương, nhân rộng các nhân tố điển hình còn chưa thực sự
chủ động và thường xuyên.
2.2.2. Những nguyên nhân của hạn chế
- Vẫn còn một số cấp ủy cơ sở, thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa
thật sự quan tâm đúng mức đối với công tác cán bộ. Việc quán triệt và tổ
chức thực hiện các chính sách của TW và tỉnh ủy chưa đồng bộ, sâu
rộng, nhận thức đối với lĩnh vực này chưa thật sâu sắc và đồng đều.
Trong chỉ đạo thực hiện, có nơi có lúc thiếu tính kiên trì và quyết liệt ;
giải pháp thực hiện có mặt chưa phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương, đơn vị, thiếu tính khả thi, chưa đạt yêu cầu đề ra.
- Ý thức trách nhiệm và nhận thức nhất là người đứng đầu một số
cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên
chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện về cán bộ và công tác cán bộ.
Chưa được coi trọng đúng mức công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
cán bộ.
- Việc tổ chức thực hiện thực hiện một số nội dung nêu trong các
nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ còn thiếu quyết liệt; công tác chỉ đạo, quán triệt còn chưa
thường xuyên, nghiêm túc, chậm thể chế hóa, chưa thường xuyên kiểm
tra đôn đốc, chế tài xử lý còn chưa nghiêm.
- Việc quán triệt, triển khai chiến lược, nghị quyết, chỉ thị về công
tác cán bộ chưa đồng đều, sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện còn lúng túng.
Thiếu cơ chế có hiệu lực để phát huy dân chủ, sắp xếp, bố trí lại đội ngũ
cán bộ, thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, trì trệ; qui trình bổ
nhiệm cán bộ kéo dài nhưng vẫn có sơ hở. Việc tạo nguồn cán bộ trẻ từ
học sinh, sinh viên xuất sắc trong và ngoài nước chưa thành công; chưa
có chính sách đủ hiệu lực khơi dậy tài năng và thu hút nhân tài. Công tác
39
cán bộ chưa góp phần đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực; chưa thể hiện vai trò
của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng cũng như trong công tác cán
bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chưa quán triệt đầy
đủ quan điểm công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng, dẫn đến thiếu kiên trì, thiếu nhất quán, thiếu đồng bộ, thiếu tầm
chiến lược, tư duy theo nhiệm kỳ.
- Chưa quan tâm đúng mức đến đời sống vật chất và tinh thần của
đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động. Nhận thức và thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ không đầy đủ, không
rõ trách nhiệm cá nhân; tự phê bình và phê bình trong công tác cán bộ
còn yếu; công tác kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ chưa
thường xuyên, thiếu kịp thời; nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong cán
bộ và công tác cán bộ chậm được phát hiện và xử lý.
- Chậm đổi mới một số yêu cầu cấp bách trong công tác cán bộ.
- Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách
nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để
kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực
trong công tác cán bộ. Công tác phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và
xử lý vi phạm còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả. Công tác bảo vệ chính trị nội
bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
- Việc sắp xếp bố trí cán bộ vào vị trí chức danh được quy hoạch ở
một số đơn vị, địa phương còn lúng túng nên tính khả thi trong quy
hoạch cán bộ còn hạn chế.
Tiểu kết chƣơng
Trong những năm qua, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với
công tác tổ chức cán bộ của BHXH tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển
40
biến mạnh mẽ. Cấp ủy Đảng thực hiện tốt việc phát triển đội ngũ cán bộ
cả về chất lượng và số lượng, đã coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng,
quy hoạch, nâng cao trình độ, kiến thức các mặt cho đội ngũ cán bộ cơ
sở. Việc thực hiện tiêu chuẩn hóa đã góp phần từng bước được trẻ hóa và
nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở. Về phương thức lãnh đạo, cấp ủy
cơ sở đã từng bước đổi mới việc xây dựng, cụ thể hóa, thực hiện có hiệu
quả quy chế, quy định, quy trình tiến hành các khâu của công tác cán bộ.
Nội dung, hình thức, phương pháp công tác tư tưởng, quán triệt chủ
trương, nghị quyết về công tác cán bộ được tiến hành linh hoạt.
Những kết quả này đạt được là do những điều kiện thuận lợi sau: -
việc quán triệt, nâng cao nhận thức trong cán bộ đảng viên về các quan
điểm, chủ trương và mục tiêu của Đảng về công tác cán bộ được ban
hành đồng bộ, kịp thời; các khâu công tác cán bộ thực hiện nền nếp, bảo
đảm yêu cầu nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nhiều chuyển
biến; - các cấp ủy Đảng đã có sự tập trung chỉ đạo trong việc ban hành
các văn bản về chế độ chính sách liên quan công tác cán bộ; thực hiện
tốt quy định về phân cấp quản lý cán bộ, bảo đảm theo đúng quy định
của Trung ương và sát hợp tình hình địa phương; - hằng năm đều chú
trọng đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết, kịp thời phát huy, nhân
rộng những ưu điểm, kinh nghiệm của các đơn vị làm tốt, chấn chỉnh
khắc phục những khuyết điểm, hạn chế và đề ra giải pháp thực hiện công
tác cán bộ đạt hiệu quả; - đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ được bổ
sung đầy đủ về số lượng và nâng cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
lý luận chính trị; đã tham mưu tích cực cho cấp uỷ các cấp trong việc chỉ
đạo, thực hiện tất cả các khâu của công tác cán bộ.
Tuy nhiên, công tác cán bộ tại BHXH tỉnh Bắc Ninh vẫn còn bộc
lộ một số hạn chế. Một số cán bộ, viên chức địa phương chưa được đào
tạo có hệ thống.
41
Việc xây dựng các quy định, quy chế để cụ thể hóa nguyên tắc tập
trung dân chủ, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Việc xây dựng, bổ sung, sửa
đổi quy chế làm việc và chương trình làm việc của một số cấp ủy chưa
thật sự khoa học; việc phân công, phân nhiệm chưa rõ rang . Còn tình
trạng sự buông lỏng lãnh đạo chưa được khắc phục triệt để, vai trò người
đứng đầu trong công tác cán bộ chưa thể hiện rõ. Việc giám sát trong
công tác cán bộ còn lúng túng, lẫn lộn về trách nhiệm giữa tập thể và cá
nhân.
Chế độ thông tin, báo cáo chưa được thực hiện nghiêm túc, chưa
phản ánh và đề xuất kịp thời biện pháp giải quyết những vấn đề nổi cộm,
phát sinh đột xuất thuộc chức năng, nhiệm vụ được giao. Sự lãnh đạo
của các cấp ủy thông qua kiểm tra, giám sát còn bị buông lỏng, mang
tính hình thức, tính chiến đấu, tính giáo dục chưa cao; hiệu quả có mặt
còn hạn chế. Chất lượng và hiệu quả một số cuộc kiểm tra, giám sát
thấp; nhiều khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên liên
quan đến công tác cán bộ chưa được kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm
túc.
Nguyên nhân khách quan là dấu ấn của nền sản xuất nhỏ chi phối .
Nguyên nhân chủ quan là do bước vào thời kỳ đất nước đổi mới các cấp
ủy đảng chưa dự báo được những tình huống; chưa hiểu dầy đủ nội dung,
yêu cầu đổi mới đối với cán bộ, nhiều tổ chức đảng và cơ quan chưa chủ
động xây dựng quy hoạch cán bộ, không tích cực chuẩn bị người bổ sung
thay thế, công tác giáo dục, bồi dưỡng về nhận thức, lý tưởng cho cán
bộ, đảng viên còn hạn chế; bản thân cán bộ thiếu tự giác học tập, rèn
luyện, tu dưỡng; công tác quản lý, kiểm tra, bố trí sử dụng và thực hiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất cập, yếu kém; kỷ luật
cán bộ không nghiêm. Chưa có chính sách thu hút và tạo nguồn phát
triển cán bộ trong nhiều lĩnh vực; chưa phát huy hết năng lực, trách
42
nhiệm của cán bộ; chưa sàng lọc, bảo vệ và chăm lo tốt cho đội ngũ cán
bộ. Mặt khác, thiếu cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đào tạo và sử dụng
người có đức, có tài, cán bộ khoa học, chuyên gia giỏi. Nhiều cơ chế,
chính sách chậm đổi mới, còn cào bằng, thậm chí lạc hậu, thiếu động
lực; điều đó kìm hãm sự phát triển, làm nản lòng cán bộ, làm thui chột
tài năng, gây tâm lý băn khoăn, lo lắng, làm giảm niềm tin, sự phấn đấu
của đội ngũ cán bộ.
43
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ
HỘI TỈNH BẮC NINH
3.1. Đổi mới nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ
chức cán bộ
Một là, hoàn thiện công tác đánh giá cán bộ. Các tiêu chí cần cụ
thể, có khả năng định lượng để đo lường được, có thể thực hiện được, sát
với thực tiễn. Bộ tiêu chí gắn với mốc thời gian thực hiện.
Tiêu chuẩn cán bộ được hình thành dựa trên các tiêu chuẩn chung
trong công tác cán bộ của Đảng, của đảng uỷ các cấp, chi bộ cơ sở và
chủ yếu phải căn cứ vào công việc cụ thể được giao cho cán bộ.
Phải công khai hoá nội dung, tiêu chuẩn và phương pháp tiến hành
đánh giá. Bộ phận có thẩm quyền đánh giá phải thể hiện được sự công
bằng, khách quan. Đánh giá phải dựa trên sự khảo sát, thu thập thông tin
từ nhiều nguồn khác nhau, tổng hợp, khái quát thông tin để có được
những đánh giá khách quan, chính xác và hạn chế được lối đánh giá chủ
quan, cảm tính, phiến diện. Cần cụ thể hoá công tác đánh giá cán bộ để
đảm bảo công bằng, dân chủ, Đánh giá cán bộ trên quan điểm lịch sử cụ
thể.
Đánh giá cán bộ cần bảo đảm tính toàn diện. Tính toàn diện trong
đánh giá công tác của cán bộ là phải xem xét tới tất cả bên trong, bên
ngoài; khách quan, chủ quan; các mối liên hệ trực tiếp, gián tiếp trong
mọi mặt công tác của cán bộ.
Đánh giá cán bộ theo quan điểm phát triển tức là đánh giá sự tiến
bộ, vươn lên của cán bộ; đồng thời dự báo khả năng, triển vọng, xu
hướng phát triển của cán bộ. Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội,
44
nên luôn vận động và phát triển trong xã hội, trong mỗi tổ chức. Trong
công tác đánh giá phải nhìn nhận được triển vọng về trình độ, năng lực
của cán bộ cũng như sự phát triển sau từng giai đoạn (tụt lùi, tiến bộ hay
dừng lại). Đặc biệt, công tác đánh giá phải góp phần phát hiện cán bộ trẻ
tài năng và sớm đưa họ vào quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng để trở thành
nguồn cán bộ lãnh đạo kế cận trong tương lai. Phải lấy việc đánh giá
hiệu quả công tác thực tế của cán bộ là một yêu cầu cơ bản trong công
tác đánh giá cán bộ. Hiệu quả công tác thực tế là sự phản ánh khách
quan, tổng hợp các năng lực, phẩm chất, thái độ và chất lượng công tác
của cán bộ. Một tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá cán bộ là phải
hoàn thành các công việc được tổ chức giao với hiệu quả cao. Một cán
bộ tốt phải là người luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và nói đi
đôi với làm.
Thứ hai, cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác quy hoạch
cán bộ. Cơ sở để xây dựng quy hoạch cán bộ là từ yêu cầu nhiệm vụ
chính trị và tình hình thực tế của đội ngũ cán bộ; phải bảo đảm sự liên
thông của cả đội ngũ cán bộ.
Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch (công khai về tiêu
chuẩn, số lượng và danh sách quy hoạch đã được cấp trên phê duyệt).
Thực hiện Quy hoạch cán bộ cấp chiến lược các nhiệm kỳ tiếp theo.
Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp trên phải là người đã
trải qua các chức vụ lãnh đạo ở cấp dưới. Số lượng cán bộ đưa vào quy
hoạch phải bảo đảm 1,5 đến hai lần; mỗi chức danh quy hoạch phải có 2
- 3 người; một vị trí quy hoạnh phải có 2 - 3 chức danh; không quy
hoạch một người cho một chức danh.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ . Công
tác luân chuyển cán bộ cần được thực hiện kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với
các khâu của công tác cán bộ. Thực hiện luân chuyển đúng cán bộ, đúng
45
vị trí là thiết thực góp phần thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ của
tỉnh Bắc Ninh nói chung và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Ngược trở lại, nếu xây dựng được quy hoạch cán bộ khoa học, hợp
lý khách quan, đúng đối tượng cán bộ thì việc tiến hành luân chuyển cán
bộ sẽ có kết quả, đạt được mục tiêu đề ra.
Làm được những điều này sẽ tạo điều kiện cho cán bộ phấn đấu,
khắc phục được những điểm yếu và cũng thông qua thực tiễn để tôi rèn
bản thân.
Công tác đâò tạo, bồi dưỡng cán bộ cần chú trọng đến tính chất
chuyên môn, nghề nghiệp cũng như lĩnh vực công tác khác nhau, từ đó
cũng tạo điều kiện để luan chuyển cán bộ được đúng vị trí.
Đối với cán bộ trong quy hoạch cán bộ quản lý thì phạm vi luân
chuyển, nói chung, nên trong ngành, lĩnh vực ấy, tức là bố trí để người
cán bộ kinh qua nhiều loại công việc trong phạm vi phụ trách của họ.
Đối với đội ngũ công chức hành chính cần chú trọng tính chất chuyên
nghiệp,chuyên sâu của nền hành chính.
Thứ tư, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Giải pháp này phải xuất phát ngay từ việc nâng cao nhận thứ và trách
nhiệm của cấp ủy và cán bộ, đảng viên về ý nghĩa của công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Đối với các cán bộ được cử đi học thì cần có ý thức
trách nhiệm, tránh tình trặng chạy theo bằng hoặc tư tưởng tuyệt đối hoá
bằng cấp của cả người dạy, người học và của cơ quan làm công tác cán
bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.
Ngoài ra, để nâng cao chất lượng đào tạo thì trước hết cũng phải
đổi mới toàn diện, đồng bộ về nội dung, phương pháp, với hình thức đào
tạo, bồi dưỡng tập trung hơn để nâng cao chất lượng. Ngoài ra cũng phải
có sự mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác quốc tế đào tạo và nghiên
cứu khoa học.
46
Trong thời kì mới cũng cần xác định đúng mục tiêu, yêu cầu,
nhiệm vụ về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho phù hợp. Đối với
từng chức danh, tiêu chuẩn, từng ngành thì kiến thức về lý luận chính trị
cần được bồi dưỡng cập nhật mới theo quy định.
Việc chọn cử người đi học phải đúng đối tượng, đúng tiêu chuẩn,
tiêu chí chọn cử rõ ràng và được công khai, minh bạch, tránh phân bổ chỉ
tiêu bình quân, hình thức. Cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng phải xác
định rõ mục tiêu, động cơ học tập; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh
thần tự giác học tập. Khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp, tuyệt đối
hóa bằng cấp của cả người dạy, người học, của cơ quan làm công tác cán
bộ và cơ quan sử dụng cán bộ.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị. Đối với những giảng viên giảng dạy cần có tiêu chuẩn cụ thể và chế
độ, chính sách phù hợp. Cần có những chính sách thu hút đội ngũ giảng
viên kiêm chức, kiêm nhiệm, thỉnh giảng vì họ là những người đã nắm
chắc lý luận và lại có thêm các kinh nghiệm thực tiễn quý báu .
Thứ năm, đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ .
Tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy
phiếu tín nhiệm, chọn đúng người, bố trí đúng việc để bổ nhiệm cán bộ.
Đẩy mạnh quyền đề cử, ứng cử và giới thiệu nhiều nhân sự để lựa chọn
vào các vị trí trong Đảng và chính quyền. Nghiêm túc thực hiện Quy chế
cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý khi
cần thiết. Kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng
lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để việc “có lên, có xuống, có vào, có
ra” được thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng cán bộ.
Xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia giám sát cán bộ
và công tác cán bộ. Đối với những hiện tượng tiêu cực như chạy chức,
47
chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương thì cần nhanh
chóng phát hiện và xử lý nghiêm.
Thực hiện nghiêm quy chế chất vấn trong Đảng và đổi mới cách
lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng
đối tượng tham gia vào công tác này. Cũng cần có quy định về việc lấy
phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh trong BHXH tỉnh
Bắc Ninh.
Thứ sáu, đổi mới, hoàn thiện chính sách cán bộ . Thực hiện chính
sách, chế độ khuyến khích đối với cán bộ làm việc tại BHXH tỉnh, phải
ưu tiên, cán bộ, chuyên gia giỏi, làm việc có hiệu quả, có cống hiến thiết
thực cho sự nghiệp của ngành BHXH và của cả đất nước. Đối với những
cán bộ có công với cách mạng thì cần tiếp tục thực hiện tốt chế độ chăm
sóc, thăm hỏi, động viên cho phù hợp.
Thứ bẩy, nghiêm túc thực hiện việc tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Tại BHXH tỉnh Bắc Ninh cần có hình thức tổ chức thích hợp để
quần chúng nhân dân có thể tham gia phê bình cán bộ như lấy phiếu
đánh giá của người dân khi đến làm việc tại BHXH. Đối với những
người mạnh dạn đấu tranh thì cần nhân rọng và có các chế độ bảo vệ đối
với họ, tránh trù dập, che dấu thông tin. Đối với những cán bộ, công
chức có hành vi tham nhũng, buôn lậu, lãng phí và những cán bộ biết
nhưng vẫn bao che, tiếp tay cho các hành vi đó phải xử lý nghiêm minh,
xử lý kịp thời.
3.2. Đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công
tác tổ chức cán bộ
Một là, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng,
đội ngũ cán bộ, đảng viên về công tác cán bộ. Nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên BHXH Bắc Ninh
là phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng của việc
48
đổi mới phương thức của Đảng về công tác cán bộ. Đặc biệt cần làm cho
các các cấp ủy cán bộ, đảng viên BHXH tỉnh Bắc Ninh nhận thức sâu sắc
về bản chất, nội dung, vai trò của việc đổi mới phương thức của Đảng
đối với công tác cán bộ. Trước hết, cần đề ra và tổ chức thực hiện đường
lối, chính sách cán bộ. Trong hoạt động lãnh đạo của cấp ủy thì nội dung
lãnh đạo công tác cán bộ là một nội dung then chốt, vì công tác cán bộ
luôn là vấn đề quan trọng, thường xuyên, phức tạp và rất nhạy cảm.
Công tác cán bộ có chất lượng hay không ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng lãnh đạo của cấp ủy BHXH tỉnh Bắc Ninh. Nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cấp ủy thì trước hết là nâng cao nhận thức, trách nhiệm
của các đồng chí ủy viên ban chấp hành về tầm quan trọng của phương
thức lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác cán bộ, tuân thủ theo đúng
quan điểm của Đảng, đề cao trách nhiệm trong xây dựng, cụ thể hóa các
nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế về công tác cán bộ do cấp ủy đã đề
ra.
Hai là, cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy phải gắn
với việc nâng cao nhận thức cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ, đảng viên
trong BHXH của tỉnh về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công
tác cán bộ. Để chủ trương, nghị quyết đi vào cuộc sống, đem lại kết quả
tốt phụ thuộc vào ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ,
đảng viên trong BHXH tỉnh. Cân nâng cao nhận thức về chủ trương,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, những hình thức, biện pháp, quy trình
công tác cán bộ gắn với nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp
với từng loại đối tượng. Với cấp ủy viên, cán bộ tổ chức phải thông qua
quá trình học tập và công tác thực tiễn để nâng cao nhận thức về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, đồng thời tự nghiên cứu
tìm hiểu qua các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh ủy, các tài
liệu chuyên khảo, sách, báo. Đối với đảng viên cần có kế hoạch tuyên
49
truyền giáo dục chuyên đề về phương thức của Đảng, phương thức lãnh
đạo công tác cán bộ, học tập các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của
địa phương, của ngành. Trong quá trình quán triệt nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên phải gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức
ở mọi cấp ủy, tổ chức đảng; liên hệ, chỉ rõ những việc đã làm đúng và
chưa đúng, nguyên nhân chủ quan của việc thực hiện chưa tốt hoặc cố
tình vi phạm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, các quan điểm,
nguyên tắc, quy trình, quy chế công tác cán bộ thời gian vừa qua; xác
định những biện pháp khắc phục cụ thể, thiết thực, bảo đảm sự thống
nhất ý chí và hành động của tổ chức đảng.
Đối với những tổ chức và cá nhân vi phạm nghiêm trọng phải được
xử lý kỷ luật nghiêm và có biện pháp kịp thời để chấn chỉnh, uốn nắn,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới. Công tác cán bộ là một việc quan
trọng, có ý nghĩa to lớn tới, tới sự phát triển của địa phương nói chung
và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng; là một hoạt động có tính tổ chức cao,
là trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức, của những cá nhân có liên quan.
Đồng thời nó là một việc khó, phức tạp, nhạy cảm. Mặt khác, như trên đã
trình bày, một trong những hạn chế, tồn tại (và kinh nghiệm được rút ra)
là chúng ta chưa có được sự thống nhất về nhận thức, chưa tạo được sự
nhất trí cao trong đổi mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ nói
chung. Do đó, phải nắm vững các quan điểm, chủ trương, nội dung,
phương pháp về công tác cán bộ. Việc bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy
các cấp đối với công tác cán bộ góp phần khắc phục tư tưởng đơn giản,
coi nhẹ, thiếu nghiêm túc trong chỉ đạo và thực hiện các nội dung của
công tác cán bộ. Trong mối quan hệ giữa tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên cần phải thống nhất nhận thức rằng cán bộ phục vụ tổ chức; cán bộ
là cán bộ của tổ chức, không có cán bộ ngoài tổ chức. Làm cán bộ là một
vinh dự lớn, là sự phát triển, tiến bộ của cá nhân, ít nhất là về mặt tinh
50
thần, nhưng điều lớn hơn, đó là một bổn phận, trách nhiệm nặng nề.
Điều đó dẫn đến yêu cầu tự nhiên là cán bộ phải chịu sự quản lý, giám
sát, kiểm tra, sắp xếp, bố trí của Đảng, của tổ chức, của nhân dân. Đồng
thời, phải khắc phục tình trạng nhận thức chưa đầy đủ về mục đích, yêu
cầu của công tác cán bộ và việc bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp
về công tác cán bộ. Qua tuyên truyền, giáo dục, quán triệt cần giải quyết
khắc phục tình trạng nhận thức chưa đầy đủ về mục đích, yêu cầu về
phương thức lãnh đạo công tác cán bộ; khắc phụ tình trạng công tác cán
bộ của của cấp ủy các cấp còn phiến diện, nặng nề, nhấn mạnh quá mức
đến tính phức tạp, nhạy cảm trong công tác cán bộ, mà chưa thấy được
tính tích cực trong công tác cán bộ; khắc phục thái độ dè dặt, né tránh,
"dĩ hòa vi quý", trong công tác cán bộ, coi những ý kiến tham gia nhận
xét, đánh giá đối với cán bộ như là những cái gì "nhất thành bất biến",
mà không thấy được tính tương đối về những phẩm chất, năng lực của
cán bộ.
Bên cạnh đó, trong tuyên truyền, trước hết, cần chỉ rõ những tác
động, tác dụng trực tiếp của việc đổi mới phương thức lãnh đạo công tác
cán bộ. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của, các cấp ủy đảng đối với
việc đổi mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ gắn với đổi mới thực
hiện các nội dung công tác cán bộ, từ việc đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn,
bố trí, sử dụng cán bộ, cũng như giúp đỡ cán bộ trong quá trình phấn
đấu, rèn luyện; làm rõ ý nghĩa của toàn bộ các nội dung, các khâu trong
công tác cán bộ như là một quá trình "điều khiển từ xa" việc hình thành,
xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt. Thật vậy, đây là một
quá trình tự giáo dục và giáo dục, thông qua đó, hình thành, xác lập hệ
giá trị của người cán bộ trong xã hội, trong tổ chức và chính ở mỗi người
cán bộ (mà hệ thống các tiêu chuẩn cán bộ là một biểu hiện cụ thể). Nói
cách khác, thông qua việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm của của cán
51
bộ, đảng viên về phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công
tác cán bộ góp phần và tạo điều kiện cho người cán bộ, đảng viên hoàn
thiện nhân... bộ các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở. Đó là nhân tố
quyết định thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ chính trị của ngành,
địa phương, cơ quan, đơn vị. Hoạt động và quan hệ của cán bộ rất đa
dạng, trong khi đó đòi hỏi đối với quản lý cán bộ là toàn diện, cụ thể,
chính xác và kịp thời. Điều này cho thấy công tác quản lý cán bộ rất đa
52
dạng, phức tạp, nhất là trong điều kiện hiện nay vì hoạt động và các mối
quan hệ của cán bộ rất đa dạng. Cán bộ chịu tác động nhiều chiều cả
những các tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường, mở cửa,
kể cả sự cám dỗ về vật chất, sự tấn công về tinh thần, tư tưởng của các
phần tử xấu. Trên thực tế công tác quản lý cán bộ của các cấp ủy trong
thời gian qua đã có tiến bộ, đạt được kết quả quan trọng, góp phần đáng
kể vào kết quả của công tác cán bộ. Tuy nhiên, công tác quản lý cán bộ
cũng bộc lộ không ít hạn chế, bất cập. Bên cạnh những hạn chế bất cập
về nhiều mặt, phải kể đến việc buông lỏng quản lý, không thấy rõ trách
nhiệm, nội dung quản lý cán bộ của nhiều cấp ủy, chồng chéo trong hoạt
động quản lý cán bộ của các cơ quan quản lý cán bộ Điều này chủ yếu
do sự phân cấp quản lý cán bộ chưa được coi trọng, chưa được quy định
và hướng dẫn cụ thể. Để khắc phụ tình trạng nêu trên, từng bước đưa
công tác quản lý cán bộ vào nền nếp, nâng cao chất lượng công tác cán
bộ rất cần có quy định cụ thể về phân cấp quản lý cán bộ. Nâng cao
trách nhiệm quản lý cán bộ cần phân cấp rõ trách nhiệm quản lý cán bộ,
tránh tình trạng trên tưởng dưới quản, dưới tưởng trên quản. Một mặt,
phải tổ chức thực hiện tốt các hình thức, biện pháp quản lý cán bộ, công
chức hiện có, đồng thời phải khuyến khích tìm tòi, đổi mới các hình
thức, biện pháp quản lý cán bộ cho phù hợp, hiệu quả. Cấp ủy các cấp
thường xuyên phổ biến, nhắc nhở, kiểm tra cán bộ, công chức thực hiện
các quy định về quản lý đảng viên. Công tác cán bộ của các cấp ủy
BHXH tỉnh Bắc Ninh cần có sự phối hợp với các tổ chức ngành, trong
địa phương, để thực hiện một cách có hiệu quả, tránh chồng chéo, đùn
đẩy trách nhiệm cho nhau. Hoạt động lãnh đạo công tác cán bộ của các
cấp ủy không thể tách rời độc lập với các cơ quan, tổ chức khác trong
nội bộ BHXH. Cần có quy chế phối hợp hoạt động giũa cấp ủy về công
tác cán bộ với tổ chức chính quyền trong từng đơn vị của BHXH tỉnh.
53
Khi thực hiện nhiệm vụ chủ trì xây dựng kế hoạch, triển khai việc
thực hiện nghị quyết nói chung và về công tác cán bộ nói riêng, tổ chức
đảng quyết định các vấn đề về cán bộ và công tác cán bộ thuộc phạm vi
quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp
trên; không quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội.
Nghị quyết của cấp ủy đảng BHXH tỉnh về cán bộ và công tác cán
bộ có hiệu lực trong toàn bộ hệ thống tổ chức đảng trực thuộc mà đảng
viên ở bất cứ cương vị nào cũng phải chấp hành, triển khai thực hiện trên
lĩnh vực công tác của từng cơ quan, tổ chức.
Phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của các cấp ủy còn cần xác
định rõ hơn mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo và phục tùng, nhằm tránh tệ
quan liêu, độc đoán, bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo; biểu
hiện vô tổ chức, vô kỷ luật, thoát ly sự lãnh đạo của cấp ủy, của người
đứng đầu cấp ủy. Người đứng đầu cấp ủy trong mối quan hệ với cấp ủy
vừa là sự phục tùng sự phân công của cấp ủy, vừa là người được thay
mặt cấp ủy, ban thường vụ chỉ đạo các tổ chức đảng trực thuộc thực hiện
nghị quyết của cấp ủy, có quyền quyết định các công việc liên quan đến
công tác cán bộ theo đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc, trình tự quy
định của Đảng, không được quyền ban hành những quyết định trái với
chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của tập thể cấp ủy; không
được chỉ đạo theo quan điểm cá nhân, lợi dụng danh nghĩa cấp ủy đảng
để ép thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải thực hiện.
Cấp ủy BHXH Bắc Ninh cần tập trung chỉ đạo các cấp ủy đảng
trực thuộc xây dựng chương trình làm việc khoa học, thiết thực, qua đó
đổi mới lề lối làm việc, cải tiến, nâng cao chất lượng công tác và phát
huy vai trò, trách nhiệm của từng thành viên trong cấp ủy, cơ quan, đơn
54
vị. Quy trình công tác cũng là một nội dung quan trọng trong cụ thể hóa
quy chế làm việc của cấp ủy. Đó là các văn bản quy định lề lối làm việc
trên nhiều lĩnh vực khác nhau và nhiều nội dung khác nhau như: quy
trình xây dựng và triển khai thực hiện nghị quyết; quy trình công tác
đánh giá, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo cán bộ; quy
trình về công tác kiểm tra, giám sát. Quy trình công tác cần xác định rõ
người chịu trách nhiệm chính, người tham gia, cách thức tiến hành, hiệu
quả công việc và thời gian hoàn thành. Đối với những vấn đề lớn cần có
sự lãnh đạo của cấp ủy thì phải xây dựng quy trình do thủ trưởng đơn vị
đề xuất với cấp ủy, ban thường vụ hay thường trực cấp ủy để tranh thủ
tập thể lãnh đạo trước khi ban hành quyết định hoặc đề nghị cấp trên ban
hành quyết định theo thẩm quyền. Cấp ủy là người ban hành quy chế,
phải có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện, nếu xét
thấy cần thì kịp thời bổ sung, sửa đổi, không nhất thiết phải chờ hết
nhiệm kỳ.
Bốn là, Công tác đánh giá cán bộ phải tại BHXH tỉnh Bắc Ninh
cần phải được thực hiện một cách khách quan, công tâm, công khai; dựa
vào tiêu chuẩn cán bộ và mức độ đạt được các tiêu chí; lấy chất lượng,
hiệu quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao làm thước đo để
đánh giá.
Cần rà soát và ban hành trình tự, nội dung, phương pháp quy
hoạch cán bộ theo hướng mở rộng dân chủ và đối tượng tham gia. Trong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần ưu tiên cán bộ đã được quy hoạch và theo
chức danh cán bộ. Các cơ quan, đơn vị tạo điều kiện thuận lợi cho cán
bộ trong quy hoạch được đi đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó, chú ý bồi
dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ BHXH, cập nhật những chủ trương,
chính sách mới và kinh nghiệm thực tế từ những đơn vị bạn hay tại chính
55
những tình huống gặp phải tại đơn vị mình. Cụ thể hóa chính sách đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ.
Khi xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ, các cấp ủy Đảng BHXH
tỉnh Bắc Ninh cần công khai, dân chủ bàn bạc, thảo luận . Cần thực hiện
dân chủ, công khai, minh bạch trong bố trí, sử dụng cán bộ trong BHXH
tỉnh.
Theo đó, cấp ủy Đảng cần làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đề
cao vai trò trách nhiệm trong việc lựa chọn, bố trí sử dụng cán bộ; thực
hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tất cả các khâu, các
bước của việc bố trí, sử dụng cán bộ, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân
dân lên trên, lên trước; đồng thời, phải thực sự gương mẫu, tỉnh táo,
trung thực, khách quan, công bằng, giữ vững tính nguyên tắc trong thực
hiện; biết lắng nghe ý kiến của cấp ủy cấp dưới, của các cấp, các ngành
liên quan, của quần chúng trong cơ quan, đơn vị chính quyền địa phương
nơi cán bộ sinh sống. Các cấp ủy đảng BHXH tỉnh Bắc Ninh cần làm tốt
công tác quy hoạch, tạo điều kiện để cán bộ tham gia các khóa đào tạo
và bồi dưỡng các nội dung phù hợp với vị trí công việc của mình để xây
dựng nguồn lực cán bộ có chất lượng. Nội dung đào tạo và bồi dưỡng
phải sát thực tiễn công tác chăm sóc đời sống cho người dân tham gia
BHXH.
Tránh lối làm việc theo chủ nghĩa kinh nghiệm, cán bộ không được
đào tạo cơ bản, hoặc quá coi trọng bằng cấp mà không chú ý đến năng
lực thực tiễn và sự tín nhiệm của quần chúng; không gắn chặt giữa đào
tạo với sử dụng cán bộ. Khắc phục tình trạng sau khi bố trí không quan
tâm đến kiểm tra, giám sát, không giúp đỡ cán bộ nên cán bộ không đáp
ứng được yêu cầu của công việc.
Cấp ủy Đảng BHXH tình Bắc Ninh cần kịp thời bổ sung, hoàn
thiện quy chế về việc sử dụng, bố trí cán bộ mà trước tiên là hoàn thiện
56
các văn bản pháp lý. Sau khi xây dựng được quy chế về bố trí, sử dụng
cán bộ sẽ là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, mọi người
tham gia ý kiến có hiệu quả.
Trong quá trình thực hiện, các cấp ủy Đảng cũng vẫn phải bám sát
để kịp thời rà soát, bổ sung khi cần thiết. Đặc biệt là cấn ghi nhận quy
định cụ thể việc thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo,
quản lý và quy định về việc liên đới chịu trách nhiệm khi cán bộ giới
thiệu nhân sự vào các cơ quan của Đảng, Nhà nước. Khi phát hiện có
trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp
thì cần xử lý nghiêm minh. Khi phát hiện cán bộ có biểu hiện yếu kém
về phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút, không hoàn thành nhiệm vụ thì
cần nhanh chóng thay thế, bổ sung.
Năm là, cần đổi mới cách làm trong từng khâu của công tác cán
bộ. Cấp ủy Đảng cần đổi mới cách làm trong mọi khâu công tác cán bộ.
Cần đổi mới cách thức xây dựng qui hoạch cán bộ theo hướng
đảm bảo sự chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài. Mở rộng việc bố trí các chức danh không phải là người địa
phương. Đối với hoạt động luân chuyển cán bộ, cần bổ sung chế độ thực
tập lãnh đạo.
Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức BHXH Bắc Ninh theo
hướng giảm về số lượng, tăng về chất lượng, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa
các chức danh lãnh đạo, quản lý, các ngạch bậc công chức, viên chức .
Cũng cần chú trọng đến việc quy hoạch theo các độ tuổi, địa bàn công
tác, lĩnh vực công tác theo hướng tăng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
người dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con gia đình có
công với cách mạng, khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu cán bộ.
Đối với chính sách cán bộ, cần nghiên cứu để đề xuất cải cách
cho hợp lý và đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, công bằng và minh bạch,
57
từ đó khuyến khích cán bộ công tác ở những vùng khó khăn; cải cách cơ
bản chế độ tiền lương, tiền tệ hóa tiền lương và các chế độ theo lương;
ban hành chính sách về nhà ở, nhà công vụ đối với cán bộ, công chức.
Sáu là, thực hiện nền nếp chế độ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
công tác cán bộ. Theo định kỳ, chuyên đề và từng nhiệm vụ, cấp ủy
BHXH tỉnh Bắc Ninh cần phải tổ chức sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm
về công tác cán bộ. Công tác sơ kết, tổng kết phải căn cứ điều kiện, đặc
điểm cụ thể của từng đơn vị gắn với nhiệm vụ, yêu cầu công tác cán bộ.
Bảy là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng tổ
chức và con người làm công tác tổ chức cán bộ. Cần xây dựng chương
trình, kế hoạch và lộ trình thực hiện việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
khoa học về tổ chức và cán bộ phù hợp với đặc điểm ngành BHXH trong
tình hình mới; xây dựng các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, cử, giới thiệu
cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng các khóa học nâng cao chất lượng về tổ
chức và cán bộ. Việc đào tạo, bồi cán bộ trước hết phải xuất phát từ
chính việc tăng cường giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực và
phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ;
phòng chống tiêu cực trong công tác cán bộ.
Tiểu kết chƣơng
Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong lãnh đạo công tác tổ
chức cán bộ, cấp ủy Đảng của BHXH tỉnh Bắc Ninh cần đổi mới nội
dung lãnh đạo và phương thức lãnh đạo. Để đổi mới nội dung lãnh đạo
công tác cán bộ cần phải thực hiện các biện pháp sau.
Một là, tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ; xây dựng tiêu
chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức
danh, từng đối tượng cán bộ phù hợp với thời kỳ mới; bảo đảm nguyên
tắc tập trung dân chủ, công khai, mimh bạch, khách quan, toàn diện; lấy
58
chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chính
để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ; phát huy trách nhiệm của
người đứng đầu trong đánh giá cán bộ.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ. Quy hoạch
cán bộ phải phải bảo đảm sự liên thông của cả đội ngũ cán bộ đồng thời
phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và thực tế đội ngũ cán bộ.
Phải đánh giá đúng cán bộ trước khi đưa vào quy hoạch. Thực hiện đúng
nguyên tắc “động” và “mở” trong quy hoạch cán bộ. Phân biệt và làm rõ
giữa quy hoạch cán bộ và bố trí nhân sự. Đối với cán bộ đương chức, chỉ
quy hoạch vào các chức vụ cao hơn. Số lượng cán bộ đưa vào quy hoạch
phải bảo đảm 1,5 đến 2 lần; mỗi chức danh quy hoạch 2-3 người; không
quy hoạch 1 người cho 1 chức danh. Phải bảo đảm về độ tuổi và cơ cấu.
Đó là: bảo đảm 03 độ tuổi trong quy hoạch và gian cách các độ tuổi là 5
năm; bảo đảm tỷ lệ nữ trong quy hoạch không dưới 15%. Thực hiện việc
cấp trên không phê duyệt hoặc bổ sung cán bộ từ nơi khác vào quy hoạch
nếu không bảo đảm cơ cấu. Thực hiện công khai trong công tác quy
hoạch (công khai về tiêu chuẩn, số lượng và danh sách cán bộ quy hoạch
đã được cấp trên phê duyệt). Thực hiện Quy hoạch cán bộ cấp chiến
lược nhiệm kỳ 2016-2020 và các nhiệm kỳ tiếp theo.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ. Kết hợp
việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cấp tỉnh về cấp huyện gắn
với việc thực hiện cơ chế thực tập, tập sự lãnh đạo, quản lý cán bộ để
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Bốn là, tạo chuyển biến sâu sắc về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải theo quy hoạch và theo tiêu
chuẩn chức danh cán bộ. Đẩy mạnh bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Huy động mọi nguồn lực và tăng
cường đầu tư từ ngân sách nhà nước cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
59
Năm là, đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ. Tiếp
tục mở rộng quyền đề cử, ứng cử và giới thiệu nhiều nhân sự để
lựa chọn; đẩy mạnh việc hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức
tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người,
bố trí đúng việc. Nghiêm túc thực hiện quy chế cho thôi chức, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế những
cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để
việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” được thực hiện bình thường trong
bố trí, sử dụng cán bộ. Xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia
giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Những trường hợp chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương phải có chế tài xử lý
nghiêm minh và đủ sức răn đe. Thực hiện nghiêm quy chế chất vấn trong
Đảng. Tiếp tục đổi mới phương thức lấy phiếu tín nhiệm giữa nhiệm kỳ
hoặc hàng năm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối
tượng tham gia. Thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới
thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa
chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó.
Để đổi mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ, cần thực hiện
các biện pháp sau.
Một, tiếp tục mở rộng quyền đề cử, ứng cử và giới thiệu nhiều
nhân sự để lựa chọn; tiếp tục hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách
thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng
người, bố trí đúng việc.
Hai, thực hiện nghiêm quy chế cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức
đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý; kịp thời thay thế những cán bộ yếu kém
về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, để việc “có lên, có
xuống, có vào, có ra” được thực hiện bình thường trong bố trí, sử dụng
cán bộ.
60
Ba, xây dựng cơ chế để đảng viên, nhân dân tham gia giám sát cán
bộ và công tác cán bộ; có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy
chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương.
Bốn, thực hiện nghiêm quy chế chất vấn trong Đảng; đổi mới cách
lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng
đối tượng tham gia; quy định việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với
các chức danh lãnh đạo trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Năm, cần sắp xếp cho phù hợp những người không đủ năng lực,
không hoàn thành nhiệm vụ, tín nhiệm thấp cần sắp xếp cho phù hợp; có
cơ chế để kịp thời thay thế, không phải chờ đến hết nhiệm kỳ, hết tuổi
công tác.
Sáu, thực hiện nghiêm việc cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn,
giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; đồng thời thí điểm giao quyền
cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp
ủy.
61
KẾT LUẬN
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ
chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với việc bảo đảm cho đường lối, nghị quyết của Đảng, của tỉnh
ủy về công tác cán bộ. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ
cách mạng.
Nội dung lãnh đạo của các cấp ủy Đảng với công tác tổ chức cán
bộ bao gồm: đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; điều động và luân chuyển cán bộ; quản lý và sử dụng cán bộ; chính
sách cán bộ. Trong đó, các khâu cơ bản này đều có mối quan hệ mật
thiết, không tách rời với nhau, tạo tiền đề cũng như củng cố, bổ sung cho
nhau cũng phát triển. Đánh giá đúng cán bộ là tiền đề quan trọng, ảnh
hưởng quyết định đến chất lượng của các khâu khác. Quy hoạch cán bộ
là nền tảng, cơ sở, căn cứ cho việc đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển
cán bộ. Luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý là khâu đột phá. Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ vừa là yêu cầu trước mắt, vừa là nhiệm vụ lâu dài.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng là một khâu quan trọng trong
công tác cán bộ. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch là khâu cơ
bản có tính chiến lược trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cho tương lai.
Phương thức lãnh đạo công tác cán bộ gồm hệ thống các hình thức,
phương pháp, quy chế, quy trình, phong cách, lề lối làm việc mà các cấp
ủy Đảng sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo đối với công tác cán bộ.
Phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của các cấp ủy Đảng gồm các
hình thức, phương pháp chủ yếu: lãnh đạo bằng chủ trương, nghị quyết,
chiến lược, chương trình, quy chế, quy định về công tác cán bộ; lãnh đạo
bằng công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục tổ chức
đảng, đảng viên để thực hiện nghị quyết, chủ trương về công tác cán bộ;
62
lãnh đạo thông qua phân công, phân cấp quản lý cán bộ, phát huy vai trò
quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh; phát huy vai trò, trách nhiệm của
các tổ chức, người đứng đầu các tổ chức; lãnh đạo bằng công tác tổ
chức, xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ; lãnh đạo
thông qua vai trò của tổ chức đảng, vai trò tiền phong gương mẫu của
đội ngũ đảng viên; lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát. Trên cơ sở
nội dung phương thức lãnh đạo công tác cán bộ nói chung, khi thực hiện
sự lãnh đạo công tác cán bộ đối với từng loại tổ chức thì cần có hình
thức, phương pháp lãnh đạo đặc thù cho phù hợp.
Trong những năm qua, cấp ủy BHXH tỉnh Bắc Ninh đã coi trọng
việc xác định và hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo công tác cán
bộ do đó đã đạt kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào sự tiến bộ của
công tác cán bộ và tạo nên đội ngũ cán bộ của các đơn vị trong BHXH
tỉnh có chất lượng, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới ở địa phương.
Tuy nhiên, nội dung và phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của
các cấp ủy Đảng đôi chỗ vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, còn chậm trễ
và lúng túng. Việc xây dựng các quy định, quy chế (để cụ thể hóa
nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ) còn chưa được quan tâm; vai trò người đứng
đầu trong công tác cán bộ còn chưa thể hiện rõ. Việc giám sát trong công
tác cán bộ còn nhiều lúng túng. Việc phát hiện người có đức, có tài cả
đảng viên và người ngoài Đảng để quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng
còn chưa có quy định cụ thể và kết quả thấp . Còn lẫn lộn về trách nhiệm
giữa tập thể và cá nhân trong công tác tổ chức cán bộ.
Những hạn chế trong nội dung và phương thức lãnh đạo công tác
tổ chức cán bộ của cấp ủy BHXH tỉnh Bắc Ninh có cả nguyên nhân
khách quan, nhưng trước hết là các nguyên nhân chủ quan. Để khắc phục
những hạn chế đó, cần đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo công tác
63
cán bộ của các cấp ủy BHXH tỉnh Bắc Ninh. Cụ thể là: nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của các tỉnh ủy, các cấp ủy đảng, đội ngũ cán bộ, đảng
viên đối với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ
hiện nay; tăng cường phân công, phân cấp trong quản lý và sử dụng cán
bộ; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo, các
tổ chức, người đứng đầu trong công tác cán bộ; hoàn thiện các quy chế
công tác cán bộ; thực hiện tốt chủ trương lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, bầu
cử có số dư; mở rộng thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong BHXH
tỉnh; xây dựng các chi ủy thực sự vững mạnh, tham mưu, tổ chức thực
hiện có hiệu quả việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp
ủy đối với công tác cán bộ.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác tổ chức cán bộ tại BHXH tỉnh Bắc Ninh hiện nay là vấn đề
không mới, nhưng còn tồn tại nhiều khó khăn, đang rất cần được tổ chức
nghiên cứu sâu rộng hơn.
64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đinh Văn Ân, Lê Xuân Bá (2006), Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb
Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
[2] Ban Tổ chức Tỉnh ủy Nghệ An (2013), Báo cáo tổng kết công tác tổ
chức xây dựng Đảng năm 2013, Nghệ An.
[3] Ban Tổ chức Trung ương (2008), 339 tình huống trong công tác tổ
chức xây dựng Đảng, Hà Nội
[4] Cao Văn Bảng (2012), Chất lượng đội ngũ cán bộ diện Ban thường vụ
Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa
học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
[5] Trương Quốc Bảo (2011), "Về chính sách đối với cán bộ luân
chuyển", Xây dựng Đảng, số 5.
[6] Nguyễn Văn Biều (Chủ nhiệm) (2005), Chất lượng tự phê bình và phê
bình của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp quận thành phố Hà Nội giai đoạn
hiện nay, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[7] Lê Đức Bình (2002), "Vài suy nghĩ về dân chủ hóa công tác cán bộ",
Báo Nhân dân, ngày 9/02/2002.
[8] Trần Thanh Bình (2012), "Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ ở
Thừa Thiên - Huế", Xây dựng Đảng, số 1+2.
[9] Trần Quang Cảnh (2012), Đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện
ủy ở đồng bằng sông Hồng đối với chính quyền huyện giai đoạn hiện
nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
[10] Trịnh Cư, Nguyễn Duy Hùng và Lê Văn Yên (2009), Kinh nghiệm
xây dựng đội ngũ cán bộ ở Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65
[11] Lê Văn Cường (Chủ biên) (2010), Xử lý tình huống trong công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
[12] Lý Quang Diệu (1994), Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang
Diệu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[13] Nguyễn Thị Doan (2002), "Một số vấn đề cần lưu ý khi thực hiện
công tác kiểm tra, kỷ luật đảng", Tạp chí Cộng sản, số 16.
[14] Nguyễn Thị Doan (Chủ biên) (2006), Đổi mới công tác kiểm tra,
kỷ luật nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn cách
mạng mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[15] Lê Duẩn (1981) Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
[16] Lê Duẩn (1976) Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì
chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Hà Nội.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Quyết định số 10-QĐ/TW ngày
25/9/2001 của Ban Bí thư hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác
66
kiểm tra và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương VIII Điều lệ
Đảng, Hà Nội.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Quy định số 19-QĐ/TW ngày
03/01/2002 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm,
Hà Nội.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Quy định hướng dẫn cụ thể thi
hành Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Quyết định số 25-QĐ/TW ngày
24/11/2006 của Bộ Chính trị hướng dẫn thực hiện các quy định về công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII và Chương
VIII Điều lệ Đảng khóa X, Hà Nội.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày
30/7/2007 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng, Hà Nội.
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Quy định số 94-QĐ/TW ngày
15/10/2007 của Bộ Chính trị quy định về xử lý đảng viên vi phạm, Hà
Nội.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 54,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[39] Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[40] Hà Hữu Đức (2006), "Vận dụng lý luận của Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về kỷ luật đảng trong điều kiện mới", Kiểm tra, số 3.
[41] Lê Văn Giảng (Chủ biên) (2008), Một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giám sát của Ủy ban Kiểm tra các cấp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[42] Nguyễn Quốc Hiệp (2003), "Một số phương pháp đánh giá, tuyển
chọn, đề bạt cán bộ", Xây dựng Đảng, số 7.
[43] Lương Khắc Hiếu (Chủ nhiệm) (2004), Những giải pháp hữu hiệu
ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài
khoa học cấp bộ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
68
[44] Trần Đình Hoan (2002), "Luân chuyển cán bộ, khâu đột phá nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát triển
mới", Tạp chí Cộng sản, số 7.
[45] Trần Đình Hoan (chủ biên) (2008), Đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[46] Triệu Gia Kỳ (2004), "Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương,
phát huy đầy đủ vai trò hạt nhân lãnh đạo", Hội thảo lý luận giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc: Xây dựng đảng cầm
quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc , Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[47] Lê Văn Lý (Chủ biên) (1999), Sự lãnh đạo của Đảng trong một số
lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội nước ta, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[48] Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[49] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[50] Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[51] Trần Đình Nghiêm (chủ biên), Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[52] Bùi Đình Phong (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ, Nxb Lao động, Hà Nội.
[53] Nguyễn Trọng Phúc (2006), Các Đại hội đại biểu toàn quốc và các
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-
2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69
[54] Thang Văn Phúc (2006), "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, số 9.
[55] Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[56] Ngô Huy Tiếp (Chủ biên) (2008), Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[57] Ngô Huy Tiếp (2014), Tư tưởng của Lênin về xây dựng Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[58] Ngô Huy Tiếp (2014), Tư tưởng của V.I. Lênin về xây dựng Đảng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[59] Nguyễn Phú Trọng (2011), "Tiếp tục tham mưu đổi mới, kiện toàn
tổ chức bộ máy, thực hiện tốt hơn nữa nguyên tắc tập trung dân chủ
trong công tác tổ chức và cán bộ", Xây dựng Đảng, số 12.
[60] Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Chủ biên) (2001), Luận cứ
khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[61] Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa , Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[62] Trương Thị Bạch Yến (2011), "Về khâu yếu nhất trong công tác
cán bộ", Xây dựng Đảng, số 9.
70
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nang_cao_hieu_qua_su_lanh_dao_cua_cap_uy_dang_doi_v.pdf