VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HIỀN
(Thích nữ Liên Lý)
MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG TU TẬP CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ
TỪ KHỞI NGUYÊN CHO ĐẾN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
TP. Hồ Chí Minh, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HIỀN
(Thích nữ Liên Lý)
MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG TU TẬP CỦAHỆ PHÁI KHẤT SĨ
TỪ KHỞI NGUYÊN CHO ĐẾN NAY
Ngành : TÔN GIÁO HỌC
Mã số : 8.22.90.09
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
95 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 462 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận văn Một số đặc trưng tu tập của hệ phái khất sĩ từ khởi nguyên cho đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
:
NGUYỄN THÀNH DANH
TP. Hồ Chí Minh, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thành Danh. Các đoạn trích dẫn và số liệu trong
luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu
biết của tôi. Luận văn là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn
TRẦN THỊ HIỀN
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là thành quả học tập, nghiên cứu của chúng con tại khoa Tôn
giáo học - Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ,
chi nhánh tại Tp. HCM.
Lời đầu tiên con xin tri ân Học viện Khoa học xã hội - Khoa Tôn giáo học,
nhà trường chi nhánh tại Tp. HCM cùng Quý thầy cô phụ trách khoa Tôn giáo tại
phía Nam đã hướng dẫn tận tình, truyền trao những kiến thức, kinh nghiệm quý
báu trong suốt thời gian con học tại trường.
Và con cũng thành tâm đê đầu đảnh lễ HT Thích Đồng Bổn và TT Thích
Đồng Văn đã hết lòng hỗ trợ cho con trong thời gian học tập và hoàn thành luận
văn tốt nghiệp.
Cũng thành tâm đảnh lễ cố Sư Bà và Quý sư cô ở Tịnh Xá Ngọc chơn đã hết
lòng hỗ trợ cho con trong suốt thời gian tạm trú tại Tịnh Xá, trong mọi phật sự để
con an tâm mà học tập và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng con xin thành kính tri ân quý Ni sư, sư cô và một số đạo hữu phật
tử gần xa đã hỗ trợ cho con trong việc tìm hiểu nghiên cứu trong thời gian làm đề
tài luận văn.
Một lần nữa con xin thành kính tri ân.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 8 năm 2018
Học viên
Trần Thị Hiền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
Chương 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ 10
1.1. Khái quát tiểu sử Tổ sư Minh Đăng Quang .................................................... 10
1.2. Sự hình thành và phát triển của Hệ phái Khất sĩ ............................................ 16
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬC TRONG TU TẬP CỦA HỆ PHÁI
KHẤT SĨ.......................................................................................................... 25
2.1. Nền tảng của phương pháp tu tập: con đường Trung đạo .............................. 25
2.2. Một số nét cơ bản của phương pháp tu tập. .................................................... 28
2.3. Hệ Phái Khất sĩ trong giai đoạn hiện nay ....................................................... 49
Chương 3. MỘT SỐ THÀNH QUẢ CỦAPHƯƠNG PHÁP TU TẬP ............. 55
3.1. Điều phục được thân, khẩu ý .......................................................................... 55
3.2. Tinh thần lục hòa: ........................................................................................... 61
3.3. Sống trong tinh thần bình đẵng, đạo đức, biết sợ nhân quả: .......................... 62
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm thông qua đường biển từ
Ấn Độ và Trung Quốc sang. Ngay từ đầu Tây lịch, truyện cổ tích đã ghi lại
Chử Đồng Tử học đạo với một nhà sư Ấn Độ. Tương tự, các truyền thuyết về
Thạch Quang Phật và Mang Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng
đạo của Khâu Đà La trong khoảng thời gian 168 – 189 (trung tâm Phật giáo
Luy Lâu ở nước ta lúc bấy giờ) đều nói đến quá trình giao lưu, tiếp biến Phật
giáo vào nước ta.
Đến đời Lý - Trần, đạo Phật tại Việt Nam bước vào giai đoạn cực
thịnh,đây là thời kỳ vàng son của Phật giáo để lại dấu ấn trong dân tộc Việt. Ở
giai đoạn này, Phật giáo được coi là quốc giáo, ảnh hưởng, chi phối đến mọi
mặt trong đời sống người dân Việt.
Đến thời nhà hậu Lê Phật giáo đi vào giai đoạn suy yếu. Tuy nhiên,
không vì thế mà Phật giáo mất đi tinh thần “cứu nhân, độ thế” vốn có. Bởi vì,
mục tiêu của Phật giáo là vì “lòng thương tưởng cho đời”, vì tịnh hóa nhân
gian mà Phật giáo xuất hiện. Để đạt được cứu cánh đó, Phật giáo luôn thực
hiện đặc tính “tùy duyên bất biến” hay tinh thần “tứ khế” (khế lý, khế cơ, khế
thời, khế xứ) để hoằng truyền chánh pháp.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng, nhờ khế lý cho nên Phật giáo có trải qua
biến cố thăng trầm của lịch sử và vượt thời gian, không gian Phật giáo vẫn
hợp với chơn lý, vẫn luôn phong phú, sâu sắc giữ được bản chất của mình đó
là “Vị giải thoát”. Khế cơ là nói về mặt lịch sử, nhờ có khế cơ mà Phật giáo
dễ dung hòa với phong tục tập quán của từng vùng miền của mỗi quốc gia,
làng xã để hướng dẫn con người được an lạc về tinh thần, an tâm trong cuộc
sống. Do vậy, dễ thấy, ở những giai đoạn khác nhau, những tăng sĩ tinh ba của
Phật Đà luôn “tùy duyên bất biến”, luôn sử dụng nhu nhuyến pháp phương
2
tiện để hoằng Pháp, độ sanh. Dù khi thịnh, lúc suy, nhưng sự vận động, thích
nghi của Phật giáo ở Việt Nam là minh chứng sống động cho nguyên lý ấy.
Tại miền Nam Việt Nam,đầu thế kỷ XX ảnh hưởng mạnh mẽ phong
trào “chấn hưng Phật giáo” do HT Khánh Hòa khởi xướng làm xuất hiện
nhiều phong trào, khuynh hướng hoằng pháp cũng như tăng tài tinh ba xuất
hiện đem lại sinh khí mới cho Phật giáo nước nhà. Trong đó phải nói đến sự
ra đời của đạo Phật Khất sĩ Việt Nam do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng.
Theo Tổ sư Minh Đăng Quang, chấn hưng Phật giáo phải được đặt trên
phương diện thực hành chứ không phải hô hào suông. Theo Tổ sư, từng cá
nhân Tăng sĩ phải ý thức trách nhiệm của mình trước sự tồn vong của đất
nước và đạo pháp, phải làm một cái gì đó để đóng góp vào công cuộc chấn
hưng Phật giáo nước nhà, có nghĩa là mỗi tu sĩ phải gương mẫu, nghiêm túc
hành trì Giới - Định - Tuệ. Tăng sĩ cần lấy Tứ ý Pháp và nếp sống Lục hòa
làm nền tảng cho việc tu học. Tinh thần này được nhắc tới trong“Chơn lý”:
“hãy nghĩ đến Đạo, đến Phật, đến chúng sanh... phải nâng cao giới luật, đó
mới là phận sự của Tăng bảo...”.
Trong tinh thần chấn hưng Phật giáo nước nhà, Tổ sư đã tư duy quán
chiếu, thực hành hàng ngày và vận động hàng tứ chúng cùng thực hành những
giáo điều của Đức Phật để lại với ý nguyện “Nối truyền Thích Ca, chánh pháp”.
Hơn hết, để đạt được mục tiêu phụng sự đạo pháp, đân tộc Tổ sư mong
muốn khôi phục lại nếp sống Tăng đoàn thời xưa. Vìvậy, đạo Phật Khất sĩ đã
được hình thành (1946 – 1954) do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng.
Đạo Phật Khất sĩ tuân thủ đường lối tu tập hành Tứ ý Pháp, đi con
đường Trung đạo của Bát chánh đạo, lấy giới luật làm thầy. Tổ sư cho rằng,
giới luật đạo Phật còn,thì Đạo Phật còn, ở đâu giới luật được trì giữ và hành
trì thì đạo Phật còn sáng tỏ. Vì vậy, trong những năm truyền dạy, bản thân
Ngài luôn lấy Giới,Định,Tuệ làm kim chỉ namđể tu tập và chỉ dậy hàng đệ tử
thực hành để làm tấm gương cho đoàn hậu tấn về sau noi theo.
3
Vậy nên dù Hệ phái ra đời và phát triển trong thời gian ngắn hơn bảy
mươi năm, (trong đó thời gian truyền đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang
chỉmười năm đến ngày Tổ sư vắng bóng) nhưng Hệ phái Khất Sĩ đã gây dựng
được một hệ thống đồ sộ các ngôi Tịnh xá ở trong và ngoài nước. Điều này lý
giải, sự cuốn hút của đạo Phật Khất Sĩ không chỉ ở mục tiêu hình thành mà
còn là ở phương tiện hoằng pháp, phương thức tu tập cũng thấu triệt được tinh
thần “tứ khế” (khế cơ, khế lý, khế xứ, khế thời) như Đức Phật đã từng truyền
dạy.
Vì vậy, việc nghiên cứu nét đặc trưng trong tu tập của Hệ phái Khất Sĩ
không chỉ giúp khẳng định giá trị của Hệ phái mà còn tiếp tục thực tiễn hóa
phương thức tu tập ấy vào trong đời sống xã hội. Việc luận văn nghiên cứu
đặc trưng tu tập của Hệ phái Khất Sĩ là xuất phát từ bối cảnh này.
Mặt khác, cho đến thời điểm hiện nay, chúng tôi chưa thấy công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào về đặc trưng tu tập của Hệ phái Khất Sĩ.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn: “Một số đặc trưng tu tập của Hệ
phái Khất Sĩ từ khởi đầu cho đến hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
ngành Tôn giáo học không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn cả thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là một Hệ phái sinh sau ra đời muộn nhưng Hệ phái Khất sĩ đã có
những đóng góp cho Phật giáo Việt Nam. Trong suốt mười năm thuyết
pháp độ sanh, Tổ sư đã tùy căn cơ trình độ của nhu cầu mà dùng phương
tiện để hướng dẫn, và những lời dạy của Ngài đã được đúc kết thành Bộ
Chơn Lý. Bộ Chơn lý có 69 quyển được xây dựng trên nền tảng Kinh, Luật,
Luận. Đây bộ tài liệu chính mà người viết làm tài liệu để nghiên cứu mà
người viết tham khảo.
Ngoài ra, phần lớn những nghiên cứu về hệ phái là do Tu sĩ (Tăng Ni
viết là chính) như:
4
Thích Hạnh Thành (2007) Tìm hiểu Phật giáo Khất sĩ ở Nam Bộ Việt
Nam. Ở đây, tác giả đã nêu lên sự ra đời của Hệ phái Khất sĩ, sinh hoạt, văn
hóa cũng như cách tổ chức, và những đóng góp của Hệ phái Khất sĩ cho Phật
giáo Việt Nam. Trong công trình này, tác giả đã khái quát được những nội
dung cơ bản sau: bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đến nửa đầu thế kỷ
XX; Đạo Phật ở Nam Bộ trước thời Phật giáo Khất Sĩ ra đời;Phật giáo Khất
Sĩ của Đại sư Huệ Nhựt (Khất Sĩ Đại Thừa);Hệ phái Khất Sĩ của Tổ Sư Minh
Đăng Quang; Khất Sĩ của Liên Tông Tịnh Độ Non Bồng do Hòa thượng
Thiện Phước sáng lập. Trong các Hệ phái này, tác giả chỉ khái quátvề mặt
giáo lý, sáng tác, giáo dục đạo đức.
Sự hình thành và phát triển của hệ phái Khất sĩcủaThích Giác Trí
(2001) đã nêu lên sự hình thành và phát triển của Hệ phái Khất sĩqua ba giai
đoạn từ: (1944- 1954) (1954-1975) (1975-2000). Đây là sự ra đời của Hệ phái
Khất sĩ và những hoạt động do Tổ sư Minh Đăng Quang dẫn dắt, và đã có
đóng góp cho Phật giáo nước nhà. Tác giả cũng nêu lên một số thành tựu của
Hệ phái Khất sĩ như: Hoằng pháp, giáo lý, kiến trúc. Đây cũng là những nét
riêng biệt của Đạo Phật Khất Sĩ.
Tác giả Thích Giác Duyên (2014) trongTìm hiểu về Hệ phái Khất sĩđã
tổng hợp nhiều nguồn tài liệu, một số văn bản hệ phái và các giáo đoàn (Tăng
Ni) về lịch sử hình thành và phát triển từ khi Đạo Phật Khất Sĩ ra đời cho đến
khi Tổ sư thành lập giáo đoàn, tư tưởng chủ đạo trong bộ Chơn lý, và một số
nét đặc trưng của hệ phái khất sĩ, cũng như những hoạt đông và sự lớn mạnh
của hệ phái khất sĩ từ khi Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng cho đến nay.
Thích Giác Toàn (2014) trongÁnh Minh Quangđã trình bày những bài
thi kệ của Tổ sư để lại, cũng như trích một số bài trong Chơn lý nói về
phương pháp hành trì cho người đọc để học để hiểu mà hành theo. Cũng như
5
một số bài thơ ca, kệ để cảm kích về bậc thầy (Tổ sư Minh Đăng Quang)
trong lễ tưởng niệm về Đức Tổ sư.
Cố Ni Trưởng Huỳnh Liên cũng có một số tác Phẩm mà Sư bà đã
chuyển sang thi, kệ bằng Thơ Lục bát, Tứ Cú hay thơ tự do như kinh tụng
hàng ngày, Tinh Hoa Bí Yếu, đây là những tác phẩm dành cho hàng tu sĩ và
hàng phật tử của Hệ phái Khất sĩ hành trì hàng ngày dễ tụng, dễ đọc, dễ hiểu,
dễ thực hành. Trong từng chữ từng câu là những lời dạy, những triết lý sâu xa
của cố Ni trưởng.
Tác giả Trần Hồng Liên với Khất thực thật và khất thực giả đăng
trong Tạp chí khoa học số 1/1989 đã nêu lên hiện tượng khất thực giả ở Tp.
HCM là một nguyên nhân làm gián đoạn phương pháp tu này của Hệ phái
khất sĩ hiện nay.
Năm 2016 trong hội thảo khoa học về Hệ phái Khất sĩ (Hệ Phái Khất
sĩ: Quá trình hình thành phát triển và hội nhập, Nxb. Hồng Đức (2016), các
tác giả cũng dành những tham luận khác nhau về Hệ phái này, cụ thể:
Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn với công trình Vài nét về lịch sử và đặc
điểm của Hệ phái Khất sĩ Việt Nam, đã nêu lên lịch sử hành thành Hệ phái
gồm 4 giai đoạn (1944-1954) đây là giai đoạn đầu hình thành Đạo Phật Khất
sĩ việt Nam gồm sự hình thành Tăng đoàn, thành lập Giáo hội Khất sĩ tăng
già, phương thức sinh hoạt của hệ phái. Giai đoạn hai (1954-1964) là giai
đoạn đi vào hoạt động, hành trì du tăng lưu hành khắp nơi để đem đạo vào
đời, phạm vi hạnh đạo được lan xa. Tăng ni phật tử quân số tăng trưởng. Giai
đoạn ba (1964-1974), giai đoạn này Tăng ni Khất sĩ du phương cần phải có
giấy tờ tùy thân, thời kỳ này hầu hét Tăng ni ở tại trú xứ tu học là chính sáng
ra khất thực trì bình sau đó về Tịnh Xá nghĩ ngơi, chiều học Chơn Lý, dành
thời gian tĩnh tọa thúc liễm thân tâm. Và giai đoạn này đã có quý HT và một
số Tăng Ni tham gia vào công tác của giáo hội. Giai đoạn bốn (1975- hiện
6
nay), Tăng ni trong giai đoạn này đã dừng hẳn du hóa vì rất nhiều điều kiện
khách quan bên ngoài. Hệ phái Khất sĩ lúc này đã được truyền bá khắp nơi
không những ở trong nước mà được lan rộng ra nước ngoài như ở Mỹ, Úc ,
Canada... Không những thế, trong bài tham luận này cũng nêu một số đặc
điểm của Hệ phái Khất sĩ trong đó nhấn mạnh việc Tổ sư Minh Đăng Quang
đã dung hòa được hai tư tưởng chính của Phật giáo đó là Nam truyền và Bắc
truyền làm giáo ý chính cho Hệ phái, hình thành nên bộ Chơn Lý và các tăng
sĩ của Hệ phái dùng phương pháp lấy Giới, Định, Tuệ làm nền tảng tu học
trên con đường giải thoát.
Tương tự, Thượng tọa, TS. Thích Đồng Bổn vớiNét thuần Việt ở một hệ
phái Phật giáo Việt nam đã giới thiệu về sự ra đời của Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư
Minh Đăng Quang sáng lập, với cơ sở giáo lý dựa trên chữ quốc ngữ - tiếng mẹ
đẻ thuần Việt. Với tâm nguyện đem ánh sáng Phật pháp đến gần với người Việt
và người dân lao động, nên Tổ sư đã dùng những ngôn từ thuần Việt hay ngôn
ngữ dân dã, ngôn từ bình dân để giảng dạy. Vì thế khi Đạo Phật Khất sĩ truyền
bá đến đâu đều được dân chúng ủng hộ và tiếp nhận một cách dễ dàng. Cũng
như ngôn ngữ viết mà Tổ sư truyền bá là thơ, kệ, văn vần, một thể loại phù hợp
với dân Nam bộ lúc bấy giờ làm cho dân chúng hiểu dễ hành theo. Về phương
pháp tu thì hành trì theo hạnh xưa của Phật đắp y mang bát mỗi sáng đi khất
thực, sống đơn giản. Về kiến trúc cũng khác hẳn với các tông phái hiện có chỉ
thờ đơn giản một vị Phật Thích Ca, công phu thì tụng hoàn toàn tiếng việt. Cuối
cùng, tác giả đi đến kết luận: Đây là một Hệ phái thuần Việt.
Ngoài những công trình kể trên, có một số tác phẩm cùng như những
bài tham luận, bài nghiên cứu ít nhiều có viết về Hệ phái Khất Sĩ, nhưng hầu
như ít đề cập đến đặc trưng trong phương pháp tu tập của Hệ phái Khất sĩ do
Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập; hoặc có chăng đi nữa cũng chỉ khái quát
một vài nét chung chung mà thôi, nhất là những nội dung cơ bản của phương
7
pháp hay đường lối tu tập của hệ phái. Vì đây là con đường đưa đến sự bền
vững lớn mạnh của một tôn giáo nói chung.
Như trên đã phân tích, tuy là một hệ phái sinh sau ra đời muộn nhưng
Hệ phái Đạo Phật Khất sĩ đã có những đóng góp cho Phật giáo Việt Nam và
hành giả hành trì có được sự an lạc nhất định, xây dựng niềm tin vững chắc
trong lòng dân, có những phương pháp tu tập rõ ràng và nhất là đây lại là một
hệ phái mang tính thuần Việt. Vì vậy, Đạo Phật khất sĩ khi xuất hiện đã được
dân chúng tiếp nhận hưởng ứng một cách rộng rãi lan xa.
Vì những lý do trên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung
bổ khuyết cho những nghiên cứu trước đó về Hệ phái bằng cách phân tích, chỉ
ra đặc trưng tu tậpcủa Hệ phái Khất sĩ và trên cơ sở đó chỉ ra phương pháp tu
tập chính là nền tảng căn bản để giúp cho người thực hành theo được trở về
vơi bản tánh Phật hiện hữu trong mỗi con người cũng như thanh tịnh thân
tâm, xa lánh dần tham, sân, si, đạt được an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ đặc trưng tu tập của hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng
Quang khởi lập từ thời kỳ đầu cho đến hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ sự hình thành và phát triển của Hệ phái Khất sĩ
- Làm rõ một số nét đặc trưng cơ bản trong đường lối tu tập của Hệ
phái Khất sĩ
- Làm rõ những thành quả của phương pháp tu tập của Hệ phái Khất sĩ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đặc trưng cơ bản trong đường lối tu tập của Hệ phái Khất sĩ
- Phạm vi nghiên cứu:
8
Luận văn tập trung vào nội dung đường lối tu tập của Hệ phái Khất sĩ
giới hạn khảo sát ở một số Tịnh xá tại TP.HCM và vùng lân cận như:
Tịnh xá Trung Tâm quận Bình Thạnh.
Pháp viện Minh Đăng Quang
Tịnh xá Ngọc Phương, quận Gò Vấp
Tịnh xá Ngọc Phú, quận Tân Bình
Tịnh xá Ngọc Bình Dĩ An Bình Dương.
Và một số Tịnh Xá ở Miền Tây.
Mốc thời gian được tính từ thời kỳ Tổ sư Đăng Minh Quang đề ra cho
đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn sẽ vận dụng Lý thuyết thực thể tôn giáo trong việc nghiên
cứu về Hệ phái Khất sĩ dựa trên căn cứ: Niềm tin, thực hành, cộng đồng.
Niềm tin này được thể hiện qua Thân giáo, Khẩu giáo của Tổ sư y cứ trong
kinh, luật của Phật dạy và hiển hiện trong hành trì khất thực cho tín đồ biến
bố thí cúng dường, hay Giới – Định – Tuệ tu tập chính, cũng như đưa ra
phương pháp dễ thực hành, tạo nên cộng đồng lớn, đáp ứng được nhu cầu tâm
linh thời bấy giờ và vận dụng vào trong các thời khóa hành trì tu tập của Tăng
Ni, tín đồ tu theo hệ phái.
Ngoài ra luận văn còn áp dụng Lý thuyết cấu trúc- chức năng để hiểu
được phương thức tu tập có chức năng vai trò quan trọng trong việc hành trì,
để đạt được an lạc, cũng như giúp cho chúng ta thấy được các mối tương quan
qua lại trong tu tập và duy trì được những đặc thù của hệ phái Khất sĩ.
-Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu theo thực thể tôn giáo, người viết sử dụng các
phương pháp sau đây:
- Phương pháp lịch sử và thống kê: Giới thiệu lịch sử hình thành và
9
phát triển của hệ phái Khất sĩ, cũng như thống kê một số phương pháp tu tập,
những nền tảng cơ bản giáo lý và phương pháp hành trì của hệ phái Khất sĩ.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu chương 1 và 2.
- Phương pháp khảo sát thực địa:
+ Quan sát tham dự: chúng tôi sẽ tham gia trực tiếp vào những thời
khóa tu tập để nắm bắt ghi chép tư liệu cho luận văn.
- Phỏng vấn sâu: chúng tôi sẽ có câu hỏi dược chuẩn bị trước để phỏng
vấn chư Tăng, Ni và một số tín đồ tu theo hệ phái Khất sĩ để dựa vào đó làm
căn cư khách quan cho đề tài của mình mà có sự đánh giá nhận xét. Cũng như
phỏng vấn nhóm, chụp hình, ghi âm.
- Thu thập và xử lý tài liệu, số liệu, hình ảnh: Người viết sẽ hệ thống
hóa toàn bộ các tư liệu thu thập được để sử dụng trong đề tài của mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ về phương pháp tu tập của hệ phái Khất sĩ
do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng tại Việt Nam. Với mong muốn cho tất
cả người đệ tử Phật ở Việt Nam nói riêng hay phật tử trên toàn cầu nói chung
có phương pháp tu tập đễ hành tùy theo căn cơ trình độ của mình để tu tập.
- Luận văn góp phần khẳng định hiệu quả của phương pháp tu tập của
Hệ phái Khất sĩ đối với người hành trì.
- Luận văn có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho những công trình
nghiên cứu sâu hơn về Hệ phái Khất sĩ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương cụ thể:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển của hệ phái Khất sĩ
Chương 2: Đặc trưng tu tập của Hệ phái Khất sĩ
Chương 3:Một số thành quả của phương pháp tu tập
10
Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ
1.1. Khái quát tiểu sử Tổ sư Minh Đăng Quang
1.1.1. Giai đoạn trước khi xuất gia
Bất cứ một tổ chức nào hay tôn giáo nào muốn hoạt động tốt, duy trì
bền chắc lâu dài cũng đều có một phương pháp, một kế hoạch,một đường lối
tu tập riêng để đưa tôn giáo của mình hoạt động xuyên suốt, phát triển vững
mạnh, duy trì phát triển hơn. Hệ phái khất sĩ cũng không ngoại lệ.
“Đạo Phật Khất sĩ” là một tôn giáo còn non trẻ và thuần Việt được khai
sinh ra do Tổ sư Minh Đăng Quangsáng lập ra trong bối cảnh đất nước trong
thời kỳ đô hộ kiềm kẹp của thực dân Pháp.Phật giáo trong giai đoạn này chịu
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi thực trạng đạo đức xã hội xuống cấp; việc tu học bê tha
trì trệ, đời sống tu sĩ nghiêng về cúng tụng cầu xin, xem xăm bói quẻ, biến các tự
viện thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng dân gian và có tính sở hữu riêng tư, tu sĩ
không sống đời sống độc thân mà sống đời sống gia đình, không lo trau giồi đạo
hạnh, nghiêm trì giới luật làm mất niềm tin nơi tín đồ Phật tử...
Trước thực trạng như vậy,cùng chung với sự bùng nổ sự chấn hưng
Phật giáo của thế giới, vì vậy chư tôn Hòa thượng đã khởi xướng phong trào
chấn hưng Phật giáo tại Việt nam, kêu gọi toàn thể Tăng ni đứng lên chấn
chỉnh lại đường lối tu tập, tự thân nổ lực kết nối đoàn kết tăng ni hành trì giới
luật,tạo dựng niềm tin trong cộng đồng xã hội thời bấy giờ.
Trên tinh thần ấy Tổ sư Minh Đăng Quang đã kêu gọi Tăng đồ hãy
mạnh dạn cùng chung tay với Ngài để chấn chỉnh lại nền Phật giáo nước nhà.
Theo Tổ sư Minh Đăng Quang, việc chấn hưng Phật giáo phải được thực hành
trong từng cá nhân của tu sĩ Tăng ni không phải là hô hào suông. Tự thân của
mỗi tu sĩ phải ý thức nỗ lực, phải biết bổn phận trách nhiệm của mình với đạo
pháp và dân tộc, phải đứng lên kề vai sát cánh,góp sức cùng chư Tôn Hòa
11
Thượng chấn hưng Phật giáo nước nhà, mà muốn như vậy thì tự thân của mỗi
tu sĩ phải thực hiện gương mẫu trước, phải hành trì Giới, Định,Tuệ, phải thực
hiện nếp sống lục hòa, hành trì Tứ y pháp.
Trong Chơn lý bài “Tông giáo” Tổ sư có viết: “ Tăng chúng phải đủ
giới luật để quy hợp cư gia, để gắn liền tông giáo, hầu vẹt bóng mê tín, đem
cõi đời trở lại ban ngày y như Phật hồi xưa trước kia”... “ hãy nghĩ đến Đạo,
đến Phật, đến chúng sanh... phải nâng cao giới luật, đó mới là phận sự của
Tăng bảo... thì tạo nấc thang cho người lên, phải chỉ bờ mé cho người đến,
phải sắm tàu ghe với người nguy, đó mới là phận sự chánh của Tăng
già...Thật vậy, chỉ có Tăng chúng mới lập đạo đặng”[21, tr.63].
Đứng trước hoàn cảnh của đất nước và đạo pháp như vậy, Tổ sư quyết
tâm thực hành và lập chí nguyện “nối truyền Thích Ca chánh pháp” cũng như
khuyến hóa tu sĩ thực hiện những gì mà Đức Phật đã dạy,khôi phục nếp sống
Tăng đoàn xưa.
Trong bối cảnh đó, “Đạo Phật Khất Sĩ” đã xuất hiện ở Miền nam Việt
nam do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng và hành theo “Y bát chơn truyền”
sống đời sống du phương rầy đây mai đó không trụ một chỗ, không bị vướng
vào một nơi, đi khắp nơi, lấy mọi nơi làm nhà bất cứ nơi đâu gốc cây, nghĩa
địa, hàng sạp ở chợ làm nơi trú thân để hóa độ chúng sanh. Ngài cho rằng:
“Đạo Phật là con đường đi đến quả Phật giác chơn. Con đường ấy là Khất sĩ.
Họ của chư Phật ba đời là Khất sĩ. Khất sĩ là lẽ thật của chúng sanh, mục đích
của chúng sanh. Khất sĩ là đến với giác chơn, toàn học biết sáng tự nhiên mê
lầm vọng động” [21, tr.63].
Tổ sưđã chắt lọc tinh hoa kết hợp bởi hai luồng tư tưởng chính là Bắc
truyền và Nam Truyềnđể tạo nên “Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam”. Vì vậy về
mặthình thức thì Ngài đắp y, mang bát trì bình khất thực là đặc trưng của Nam
truyền, về đường lối hành trì Ngài thọ giới, Ngài thọ giữ 250 giới của Bắc
12
truyền, còn phương pháp tu tập thì Ngài dung hợp cả hai tư tưởng đúc kết
thành cái của riêng mình. Trong bộChơn Lý Ngài giải thích rất nhiều về kinh
điển Đại thừa cũng như kinh điển hệ Nikaya,và trong phương pháp hành thiền
Ngài đã kết hợp cả hai tư tưởng tạo nên phương pháp riêng cho hệ phái cho
nên“Hệ phái khất sĩ” được thành lập trong thời Phật giáo Việt Nam đã xuống
cấp trầm trong về đạo đức làm mất niềm tin nơi dân chúng thời bấy giờ. Cho
nên với hạnh nguyện đem đạo vào đời ngõ hầu làm lợi ích cho chúng sanh. Với
tâm nguyện“Nối truyền Thích Ca chánh pháp”.Có thể nói, đây là Hệ phái sanh
sau ra đời muộn, nhưng mang tính việt hóa từ hình thức cho đến nghi lễ và tu
tậpnên đã được người dân miền Tây Nam Bộ nói riêng và người dân Việt Nam
nói chung đón nhận một cách hoan hỷ nồng hậu (cũng bởi người dân cảm nhận
đây là một Tôn giáo dành riêng cho người Việt).
Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang, tên thật là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý
Hườn. Sanh tại Làng Phú Hậu, Tổng Bình Phú, quận Tam Bình, Tỉnh Vĩnh
Long, nơi được gọi là địa linh nhân kiệt. Thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn
Tồn Hiếu, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Tỵ (tự Nhàn). Cụ ông và cụ bà đều là
người phúc đức, nhân hậu sống theo đạo thánh hiền, thực hành câu: “ nhân-
nghĩa- lễ- trí- tín”, được người đời khen tặng là gia đình “ Nho phong tiết
thái”. Cụ ông và cụ bà có năm người con, Ngài là con út trong gia đình. Trước
Ngài có bốn anh chị, cụ bà sanh nở bình thường, riêng Ngài cụ bà thọ thánh
thai đến mười hai tháng mới khai hoa. [22, tr.12].
Ngài chào đời vào ngày Tân Tỵ, lúc 10 giờ tối, ngày 26 tháng 9 năm
Qúy Hợi(1923). Đến ngày 25 tháng 07 năm Giáp Tý (1924) thân mẫu Ngài
qua đời, hưởng dương 32 tuổi, lúc đó Ngài vừa tròn mười tháng tuổi. Ngài
được cô (cô út) đem về nuôi 1 tháng, sau đó được bác dâu thứ 8 đem về nuôi
một tuần, rồi Ngài được gởi về quê ngoại. Bà ngoại Ngài nuôi đến ba tuổi.
Năm ấy thân phụ Ngài tục quyền là cụ bà Hà Thị Song dưỡng nuôi. Từ đó,
13
Ngài được sống trong vòng tay ấm áp của cha và kế mẫu. Cụ ông mất vào
ngày mồng 5 tháng giêng năm mậu thân (1968) thọ 75 tuổi.
Tuy được sanh trưởng ởlàng quê, nhưng tính cách của Ngài khác
thường hơn so với các bạn đồng trang lứa. Ngài thể hiện phong cách đi đứng
ngồi nằm, ăn mặc v.v... đều toát lên vẽ trang nghiêm điềm đạm. Tuy Ngài còn
nhỏ nhưng thể hiện lòng từ bi rất rõ, như khi được thân phụ cho tiền đi xe
ngựa thì Ngài đi bộ, khi hỏi ra mới biết là Ngài luôn nghĩ xót xa cho chú ngựa
và dùng tiền đó giúp đỡ người khác. Hay khi ở trường lớp thì Ngài luôn chia
sẽ dụng cụ học tập cho các bạn nghèo trong lớp, hay thường giảng lại bài cho
các bạn chưa hiểu. Ngoài việc học ở trường, Ngài có trí thông minh khác
thường như sau khi về nhà Ngài thường đọc lịch sử các danh nhân và kinh
sám, truyện, sự tích. Đặc biệt đọc đến đâu Ngài nhớ đến đó, và luận giải, phê
phán có phương pháp rõ ràng.
Năm 14 tuổi Ngài đỗ bằng Diploma (bằng Cao đẳng). Ngoài giờ học ở
trường, Ngài thường phụ giúp việc nhà. Ngài luôn thể hiện lòng hiếu kính đối
với cha mẹ, hòa đồng với mọi người. Ngài theo cha từ nhỏ, đốt hương cúng
Phật vào mỗi tối. Ngài rất siêng năng nghiên cứu tìm hiểu tường tận sách vở
giáo lý Đạo Phật. Ngài luôn ghi chép các sử liệu tôn giáo, nhất là Tam giáo
Thích, Đạo, Nho. Vốn sẵn có tuệ căn, Ngài thường tìm đến các bậc thức giả
trưởng thượng thời bấy giờ để tham vấn đạo lý. Nhờ vậy, mỗi khi tiếp chuyện
với những người thiện duyên, Ngài đều lý giải một cách tinh tường và được
mọi người khâm phục.
1.1.2.Thời kỳ xuất gia tầm đạo
Vốn sẵn có căn duyên với Phật pháp, Ngài xin phép thân phụ qua chùa
Tháp tầm sư học đạo, nhưng thân phụ Ngài quá thương con còn thơ bé nên
không cho. Qua nhiều đêm suy nghĩ, không thể vì tình cảm riêng tư nhỏ bé
mà bỏ chí nguyện, nên Ngài quyết chí ra đi.
14
Thôi thì thôi, thế thì thôi
Vẹn nguyền xin chịu lỗi nghì với cha
Thiếu niên ngày nọ lìa nhà
Vượt biên giới việt, niên xa dặm ngàn
Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành
Ngài rời Việt Nam, đến Campuchia năm 15 tuổi, thọ giáo với ông Lục
Tà Keo, người mà cha Ngài đã quy y, nên cha Ngài đã gởi gắm. Chính nơi vị
Thầy đầu tiên này, Ngài đã trải qua thử thách cam go như đào giếng, lấp ao,
trông coi vườn rẫy, quản lý công nhân các cơ sở sản xuất lò vôi, buôn bán và
được ông tin tưởng và giao hết tài sản cho Ngài quản lý. Cũng vì vậy mà Ngài
thấu hiểu được duyên đến duyên đi. Tính chất tạm bợ giả hợp của vật chất, và
Ngài nhận ra rằng hạnh nghiệp tại gia vừa làm vừa tu giúp đời không phù hợp
với tâm nguyện xuất trần của mình. Nên Ngài xin phép Thầy trở về việt nam.
Trở về gặp lúc loạn lạc chiến tranh (Pháp, Nhật thôn tính Việt Nam),
Ngài ở với thân phụ một thời gian, Ngài lên Sài Gòn làm nhà hàng của người
Nhật, và sau đó được người quen giới thiệu đến làm cho một hãng buôn lớn ở
vùng chợ lớn và được chủ hãng buôn gã con gái của ông là Liễu Kim Huê.
Một thời gian sau Kim Huê sanh một bé gái đặt tên là Kim Liên. Vừa tròn
một tháng tuổi thì Kim Huê lâm trọng bệnh và qua đời.
Bấy giờ Ngài nghĩ việc đem con về ông bà Nội, nhờ chị thứ 3 ở Vĩnh
Long nuôi dưỡng dùm. Nuôi đến 2 tuổi, ông cụ đem cháu về nuôi được vài
tháng thì Kim Liên ngã bệnh rồi ra đi (chết).
Gẫm trong trời đất vô cùng
Nợ duyên âu cũng nghiệp chung muôn loài
Hay là ý thánh Như Lai
Muốn cho ôn lại trọn bài đau thương?
Đau thương là tính vô thường
15
Vô thường là tính đoạn trường xưa nay.
Đây là những bài học đã làm thức tỉnh chí nguyện xuất gia tìm cầu giải
thoát trong Ngài. Với hạnh nguyện ấy Ngài nhận ra rằng con đường tìm cầu
thoát khổ đến bến giác không thể không xuất gia như Chư Phật Tổ xưa. Phải
xa lìa gia đình, vật chất giả tạm, thoát khỏi sợi dây tham ái của gia đình thì
mới mong có hạnh phúc cho số đông.
Ngài quyết chí ra đi (vào năm 1944). Rời khỏi Vĩnh Long vào núi Thất
Sơn (Châu Đốc), đi sâu vào trong hang ẩn tu để dễ bề nghiên cứu về phương
pháp tu học của hai tông phái Bắc Truyền và Nam Truyền. Sau đó, Ngài
xuống núi qua đất Hà Tiên định đón thuyền ra Phú Quốc để đi phương xa
nhưng bị trễ thuyền, Ngài tìm nơi yên tĩnh để tọa thiền. Suốt 7 ngày đêm quán
chiếu, vào một buổi chiều, Ngài quan sát những chiếc thuyền đánh cá bập
bềnh trên mặt nước với gợn sóng biển dồn dập tụ tán, Ngài đã chứng ngộ lý
vô thường, khổ, vô ngã. Nhận biết được sự hợp tan của vạn vật, và thấy được
cảnh khổ trầm luân của một kiếp người. Ngài tỏ sáng lý pháp “thuyền Bát
Nhã”. Vào ngày rằm tháng 2 âm lịch 1944, năm đó Ngài tròn 22 tuổi.
Sau khi đạt đạo Ngài trở về nhà thăm và từ giả gia đình đến núi Tà
Lơnvà thất Sơn để tu học. Ở đây Ngài được một nữ cư sĩ mời về Linh Bửu Tự
ở làng Phú Mỹ, tĩnh Mỹ Tho. Tại đây Ngài đối trước Tam Bảo tại Linh Bửu
Tự 7 ngày đêm thu nhiếp tam nghiệp, phát đại nguyện thọ nhận y bát giới Sa
Di, rồi cụ túc Tỳ Kheo 250 ...m thành kính thì phước báu vô cùng,biết phát
tâm cúng dường Tăng bảo, làm cho họ được lợi lạc an vui hạnh phúc ngay
trong hiện tại.
Y bát là pháp môn làm lợi lạc cho nhân sinh, đem tinh thần xả bỏ chấp
trước, keo kiệt, tham lam mà hóa độ chúng sanh cang cường, làm cho họ hiểu
33
bản chất thật của các pháp, lấy hạnh từ bi bình đẵng để chan hòa, không phân
biệt nghèo giàu, hãy mở lòng ra để thấu hiểu những người xung quanh ta.
Tấm y còn có năng lực bố ma phá ác ngăn ngừa mọi lỗi lầm có thể xảy ra.
“Bởi khất cái với khất sĩ cũng tương tự in nhau, vì kẻ gian manh muốn sắm
áo bát bao nhiêu cũng được, người Khất sĩ phải là thật học phải đủ đức hạnh,
phải có chơn tu mới được gọi đúng danh từ Khất sĩ." [34, tr.289].
Bởi thế, Y và Bát là nơi cho mọi người gieo trồng hạt giống bồ đề, tạo
thêm phước điền, ngoài ra còn có công dụng cho người thực hành diệt trừ
tham sân si, cống cao ngã mạng, biết tích phước, từ những việc nhỏ nhặt, làm
hành trang cho chính mình trên con đường tìm cầu giải thoát an lạc.
Chính vì vậy mà Đạo Phật Khất Sĩ truyền bá đến đâu cũng được người
dân đón nhận, ủng hộ một cách nhanh chóng, có tầm ảnh hưởng đáng kể trong
giai đoạn nhập thế, và bén rể ăn sâu vào trong đời sống của người dân.
Đặc biệt, điều cần nhấn mạnh ở đây là, Đạo Phật Khất sĩ tuy là một hệ
phái sanh sau,ra đời muộn, nhưng được Tổ sư khai sáng dẫn dắt, Ngài đã kết
hợp được những tinh hoa, cốt lõi của hai nguồn tư tưởng giáo lý truyền thống
Bắc Tuyền và Nam Truyền tạo thành một hệ phái mới có nét đặc trưng riêng
của Phật giáo Việt nam, gần gũi với dân chúng nên dễ được người dân chấp
nhận và tu tập theo.
Vậy phương pháp hành trì của Đúc Tổ Sư có gì để cũng cố niềm tin cho
Phật tử thời bấy giờ? Làm cho người dân Nam Bộ nói riêng và mọi người dân
Việt Nam nói chung lấy đó làm điểm tựa tâm linh trong đời sống hằng ngày.
Đặc biệt, trong phương pháp giáo hóa độ sanh Tổ sư còn đề cao việc
chứng nghiệm thân hành(thân giáo) vì trên con đường hoằng pháp thì phải nói
đến việc giảng dạy, thuyết trình giảng giải để mọi người thấu hiểu và nhận
thức rõ về con đường đạo. Con đường nhận thức ấy người nghe vẫn còn hạn
chế trong sư hiểu biết của mình vì vậy Tổ sư đã dùng sự chứng nghiệm của tự
34
thân và dùng thân giáo để làm gương đánh thức tâm Phật ở nơi mỗi chúng
sanh. Vì Ngài cho rằng nhận thức hiểu biết của mỗi người không đồng
nhau,chỉ bằng hạnh động thì ai ai cũng sẽ dễ hiểu hơn, điều này được Đức
Phật dạy trong kinh Pháp Cú:
“Như bông hoa tươi đẹp,
Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói,
Không làm, không kết quả.
Cho nên dù có dùng thiện xảo trong lời nói để thuyết giảng hay hoa mỹ
đến đâu đi nữa mà không tạo được niềm tin, để làm cho hột giống bồ đề trổ
hoa thì không có ích lợi gì cả; cũng vậy vị giảng sư dùng ngôn từ hoa mỹ
nhưng không thực hành được thì không có kết quả gì.
Vì vậy, Ngài đã dùng thân giáo mà giáo hóa làm tấm gương sáng cho
đệ tử noi theo để có lợi ích cho mình và mọi người. Trong Chơn Lý, Ngài
cũng có dạy: “những bậc tu xuất gia, tuy không còn dính dấp với xã hội gia
đình, nhân loại, nhưng cũng đem thân mạng đền trả cho đời bằng gương nết
hạnh hiền lương; và lời nói, việc làm, ý niệm,đạo lý, đem giúp đỡ cho xã hội,
gia đình bình yên, trong sạch sáng láng, nên mới dượcđứng vững lâu dài,
không rối loạn” [35, tr.473].
Thật vậy, người xuất gia một khi đã lìa bỏ ngôi nhà nhỏ để đến ngôi
nhà lớn tập sống chung tu học thì tu tập ba nghiệp, làm cho ba nghiệp thanh
tịnh, trong đó nghiệp thân rất quan trọng, mọi hành động đưa đến nghiệp đều
do hành động của chính mình. Thân có thanh tịnh trang nghiêm thì những
người xung quanh vẫn được hưởng theo và tu theo.
2.2.3. Tứ y pháp
Tổ Minh Đăng Quang đã hành trì và dẫn dắt Tăng Ni hành trì Tứ y
pháp, để xây dựng niềm tin cho hàng cư sĩ tại gia qua hình ảnh của một vị
35
tăng khất sĩ, sống đời sống thanh bần đạm bạc, không chất chứa, không nắm
giữ, không quá cầu kỳ, đưa mối đạo làm tôn chỉ không vì bản thân, mà vì sự
giải thoát an vui của mọi người, thực hiện ý nguyện “Nối Truyền Thích Ca
Chánh Pháp”. Bởi Đạo Phật trãi qua thời gian dài của biến cố lịch sử, tứ y
pháp đã bị lãng quên trong hàng tăng sĩ. Đức Tổ Sư đã tái hiện lại qua thân
hành bằng phương pháp khất thực.
Từ khi ngộ đạo cho đến ngày vắng bóng, Tổ Sư Minh Đăng Quang
chọn pháp môn khất thực làm phương pháp hoạt động chính cho sự tu tập và
hành đạo. Trong đó, Tứ y pháp là một trong những pháp môn căn bản mà
mười phương chư Phật đều hành trì.
Tứ y pháp là bốn điều mà trong kinh đã nói đây là bốn điều được
Đức Thế Tôn khuyên dạy cho hàng Tỳ kheo đã thọ trì cụ túc giới phải hành
trình suốt đời với mục đích làm thanh tịnh hàng ngũ tăng chúng xa lánh hai
cực đoan, người tu hành không nên quá khổ hạnh hay quá lợi dưỡng chăm
chút cho bản thân quá sung túc thì khó mà tu được. Phải biết tri túc vừa đủ,
làm bậc thầy mô phạm để cho chúng sanh lấy đó làm gương soi chiếu và
hướng theo.
Tứ Y Pháp là bốn pháp mà mỗi vị Tỳ Kheo vào thời Đức Phật phải
nghiêm trì để có được đời sống phạm hạnh thanh tịnh. Và cũng để diệt trừ đi
tự ngã những chấp kiến ngã mạn, kiêu mạn của mình. Bốn điều đó là:
Nhà sư khất thực: phải lượm những vãi bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng
có ai cúng vãi, đồ cũ thì được nhận.
Nhà sư khất thực: chỉ xin đồ ăn mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp,
đọc giới bổn được ăn tại chùa.
Nhà sư khất thực: phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều am nhỏ
bằng, lá một cửa thì được ở.
Nhà sư khất thực: chỉ cùng cây, cỏ, vỏ lá mà làm thuốc trong khi đau,
36
nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng [34, tr.47].
Tứ Y Pháp được Đức Tổ Sư rút tỉa trong Tứ phần luật, Ngũ phần luật
hay Thập tụng luật.
Trong Tứ phần luật:
1. Vị tỳ kheo phải nương vào phấn tảo y. Do nương vào pháp này mà
được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ khưu pháp... nếu được lợi dưỡng
lâu dài như y của Phật tử cúng dường, y cắt vá thì được thọ.
2. Vị tỳ khưu phải nương vào khất thực. Do nương vào pháp này mà
được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ kheo pháp... nếu được lợi dưỡng
lâu dài như thức ăn do chư tăng sai đi, thức ăn do Phật tử mang đến cúng
dường, thức ăn trong các ngày mồng 8, 15 đầu tháng, thức ăn thường ngày
của chư tăng, thức ăn do Phật tử thỉnh cúng dường thì được thọ.
3. Vị tỳ kheo phải nương vào pháp nghĩ dưới gốc cây. Do nương vào
pháp này mà được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ khưu pháp... nếu được
lợi dưỡng lâu dài như phòng riêng, phòng có mái nhọn, phòng nhỏ, thất bằng
đá, nhà có hai phòng thì được thọ.
4. Vị tỳ kheo phải nương vào thuốc khô hư. Do nương vào pháp này mà
được xuất gia thọ cụ túc giới, thành tựu tỳ khưu pháp... nếu được lợi dưỡng
lâu dài như bơ, dầu, sữa, mật ông, đường thì được thọ [37, tr.1252].
Trong Ngũ phần luật:
Trong ngũ phần luật và thập tụng luật cũng có ghi về Tứ y pháp này.
Điều này chứng minh rằng Tổ Sư nghiên cứu rất kỷ về Tứ y pháp, (mặc dù
là chữ Hán, nhưng Ngài đã viết lại bằng chữ Việt cho người thọ trì dễ hiểu
và dễ hành).
Ngài khẳng định nó là bốn pháp cơ bản mà người xuất gia phải
nghiêm giữ. Bốn pháp ấy về sau là Trung đạo. Vì Ngài cho rằng con người
sanh ra thì sự ăn mặc ở bệnh của thế gian họ rất xem trọng. Cần cầu, tranh
37
giành mưu mô để có, những điều làm cho người phải so đo tính toán, hơn
thua này dẫn đến đau khổ, không lối thoát, trầm luân trong sanh tử. Ngài
muốn người xuất gia không quá nặng lòng về ăn, mặc, ở, bệnh, nhưng
không vì vậy mà phải gò ép, buộc chặt cuộc sống của chính mình. Mỗi buổi
sáng phải đi khất thực, cầu xin cái ăn của người thế gian để nuôi sống bản
thân, giúp cho phật tử từ bỏ ngã mạn, biết mở lòng từ bi, biết cho đi và
không cần nhận lại. Và người nhận cũng không quá mang tính tham cầu cái
ăn. Ăn một bữa vừa đủ no, để nuôi sống huệ mạng mà tu tập hàng ngày,
cũng như sự ngủ nghĩ không ở một nơi, không cần giường êm nệm ấm chỉ
cần có nơi che mưa che gió là đủ, không bị vướng mắc để người xuất gia
dẹp bỏ cái ngã chấp thủ của riêng mình, coi đó là phương tiện để nuôi sống
tấm thân giả tạm mà thôi. Đức Tổ Sư có giảng dạy “Tứ Y Pháp” là chánh
pháp của chư Phật mười phương ba đời, là giáo lý y bát khất Sĩ vậy. Con
đường khất sĩ đi đến quả Phật, kêu là trung đạo chánh đẳng chánh giác vô
thượng. Trung đạo ấy là Tứ y pháp [38, tr.7].
Vì thế có thể nói “Tứ y pháp” là pháp mà người xuất gia buổi đầu học
Phật không thể thiếu, vì phải năng rèn luyện pháp này làm cho thân, tâm, ý
được thanh tịnh hoàn toàn cho tới khi rời khỏi ngôi nhà thế tục, để bước lên
ngôi nhà xuất thế. Nhập vào hàng Tăng chúng thì mới có thể an tâm mà tu
tập. Đức Phật dạy trên bước đường tu tập không thái quá cũng đừng bất cập
cực đoan, thấy được giáo lý nhân duyên giả hợp, tất cả đều phải chịu sự chi
phối của vô thường. Tất cả các pháp đều có nhân duyên tương tác qua lại mà
hình thành. Vậy nên đối với người xuất gia muốn tiết chế trong tứ vật dụng và
diệt trừ tâm tham, sân, si thì cần phải hành trì tứ y pháp.
Tứ y pháp còn là đạo Phật còn
Tứ y pháp mất là đạo Phật mất
Ai hành sái tứ y pháp, tức là tà pháp
38
Và thấy tứ y pháp, tức là Phật hiện tại.
Có thể nói “Tứ y pháp” là kho tạng kinh, kho tạng luật,kho tạng luận.
Ai có thực hành rồi mới được thấu hiểu” Thật vậy nếu chúng ta nghiên cứu kỷ
sẽ thấy được dụng ý của chư Phật. Vì thời Đức Phật ban đầu chưa có giới luật
mà lấy bốn pháp này làm nền tảng để rèn luyện thân khẩu ý, không còn tham
đắm trước vật chất phù du nữa, cũng như không còn thấy ta là tất cả, diệt
được bản ngã vô minh, phiền não.
Con đường để thanh lọc thân tâm và tu chứng của một vị Tỳ kheo đó là
Bát chánh đạo hay gói gọn trong Giới, Định, Tuệ. Mà mười phương chư Phật
đã hành trì tu chứng đạo quả, Đức Tổ sư với tâm nguyện khơi nguồn chánh
pháp của chư Phật xưa vậy nên Ngài cũng lấy Giới,Định,Tuệ làm nền tảng
căn bản trong đời sống tu tập.
2.2.4. Giới, Định, Tuệ
Giới,“Sila” phiên âm là Thi la. Là đạo đức, hay là những nguyên tắc, được
Đức Phật chế ra cho hàng đệ tử xuất gia cũng như tại gia theo đó mà thọ trì để
rèn luyện thân tâm cũng như chế ngự được thân, khẩu, ý không tạo nghiệp.
Từ ngàn xưa đến nay giới hay giới Luật được xem như mạch huyết của
Tăng Đoàn hay mạch sống của chính người xuất gia. Vì vậy trong luật Đức Phật
có dạy: “nơi nào giới luật còn thì nơi đó Phật Pháp vẫn đang duy trì và phát
triển”. Muốn cho Tăng đoàn vững mạnh, Đức Phật chế ra giới luật để làm hàng
rào bảo vệ người xuất gia. Giới là nền tảng đạo đức của Phật, việc tu tập phải lấy
giới làm điều kiện thiết yếu và quan trọng để tạo dựng nên một nền tảng vững
chắc để định năng sanh khởi,một khi giới được giữ gìn trang nghiêm, thanh tịnh
phối hợp với việc hành thiền sẽ làm cho trí tuệ phát sanh, đập tan vô minh
khiến cho hành giả thấy được các chân lý về sự khổ, không, vô ngã.
Trong đó giới được xem là nền tảng. Giới định nghĩa gồm có giới thể
và giới tướng. Giới tướng được phân ra làm giới cho hàng cư sĩ, sa di, Tỳ
kheo, hay của Bồ tát.
39
Bất cứ tôn giáo nào muốn phát triển bền vững thì đều phải có giới
luật, Đạo Phật cũng không ngoại lệ. Theo lịch sử Phật giáo ghi lại, trong
mười hai năm đầu khi Đức thế Tôn mới thành đạo những người đệ tử theo
mặc nhiên không cần có giới nhưng họ không bao giờ phạm một điều gì
cả, đến năm thứ 13 có xảy ra chuyện Na- Đề-Tử ân ái với vợ cũ,có người
thưa lên Đức Phật nên Ngài mới chế giới. Theo đó, Tỳ kheo có 250 giới,
Tỳ kheo ni 348, Thức xoa ma na ni giới, mười giới cho sa di, và 5 giới
cho hàng cư sĩ.
Theo Tổ sư Minh Đăng Quang “Giới luật của giáo hội Tăng già là xứ
Tây phương Tịnh độ, cực lạc an dưỡng của chúng sanh” [39, tr.47].Xứ Tây
phương tịnh độ Tăng già là do có nghiêm trì giới luật của Phật chế ra, tăng
đoàn phải áp dụng giới trong cuộc sống tu tập của mình.
Tổ sư cũng đã nêu lên 10 sự lợi ích mà Đức Phật đã chế giới là: 1. Vì
nhiếp phục tăng chúng. 2. Vì nhằm triệt để nhiếp phục tăng chúng. 3. Vì
muốn cho tăng chúng an lạc. 4. Vì để nhiếp phục những người không biết hỗ
thẹn. 5. Vì để cho những người biết hỗ thẹn cư trú an ổn. 6. Vì để cho những
người không tin khiến cho họ tin tưởng. 7. Vì để cho những nguời đã tin tăng
thêm niềm tin. 8. Vì muốn dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại. 9. Vì để
cho những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi. 10. Vì muốn cho chánh
pháp được tồn tại lâu dài.
Giới của Đức Phật đưa ra đã được Ngài kế thừa và phát huy. Ngài căn
cứ vào luật Tú phần, và một số kinh điển Đại thừa và kinh điển của Nikaya
làm nền tảng để Ngài chia ra nhiều phần và từng hạng người để dễ hành trì,
nếu trì giữ nghiêm túc thì sẽ được Định.
Đọc qua giới luật Khất sĩ trong bộ Chơn Lý, chúng ta sẽ thấy Tổ sư
Minh Đăng Quang luôn luôn đề cao về giới luật Ngài luôn nhắc nhỡ hàng đệ
tử là phải lấy giới làm thầy dẫn dắt chúng ta trên suốt chặng đường tìm cầu
40
giải thoát.
Có thể nói,Ngài vừa kế thừa nền tảng giới luật Phật tổ đã để lại một
cách cẩn trọng nghiêm túc, lại vừa uyển chuyển để phù hợp với căn cơ cũng
như hoàn cảnh của người học phật lúc bấy giờ. Ngài chuyển hóa bộ luật thành
chữ quốc ngữ và chọn lọc sắp xếp gọn gàng dễ hiểu cũng là nét đặc biệt đã
chứng minh khuynh hướng Đại thừa rất khế cơ khế lý mà Tổ sư đã thể hiện
sinh động trong bộ Chơn Lý
Giới là nền tảng của Định. “Định là chánh, Thể của định là vũ trụ bao
la vô cực, Tướng của định là chơn như không vọng động Dụng của Định là
thay đổi tiến hóa,an vui giác ngộ qủa linh thần thông, Lý của Định là tự
nhiên chơn thật, thân của Định là Giới, Trí của Định là Huệ, Tánh của Định
là chơn còn Định là tâm của tất cả chúng sanh hay cũng là sự sống sức mạnh
bao gồm tất cả”.
Trên con đường tìm cầu giải thoát, khi không bận tâm bởi ngũ dục, lục
trần thì mới đạt được định tĩnh ở trong tâm, không còn dao động bởi những
cám dỗ tầm thường của thế tục, như ngọn đèn vững vàng được bao bọc bởi
bóng đèn, ánh sáng toả rạng soi rọi khắp nơi.
Thật vậy hành giả Khất Sĩ đầy đủ giới trang bị giới như áo giáp không
sợ bị mũi tên độc của tham sân si, phiền não, nghiệp chướng đâm xuyên phá
được và từ đây bước chân đi du hoá khắp nhân gian gieo hạt giống từ bi trí tuệ
khắp muôn nơi đấy là hạnh nguyện của một tỳ kheo Khất Sĩ.
Trong nếp sống thiền môn của chư Tăng Ni Khất Sĩ, Thiền Định - quán
chiếu là một nếp sống không thể thiếu để trau dồi nội lực tịnh hoá tam nghiệp để
trở về với bản tâm thanh tịnh chơn như của chính mình. Chính nhờ sự quán
chiếu này Tôn Sư Minh Đăng Quang đã đạt được đạo khi nhìn thấy bọt sóng
từng đợt vào ra tựu tán trên mặt biển. Để được như vậy người xuất gia phải là
chơn tâm xuất gia cầu đạo giải thoát quyết lòng đạt đạo mới thôi, muốn thế phải
41
chánh định diệt trừ vọng niệm cắt đứt vòng hệ luỵ, cỡi trói sợi dây oan nghiệt,
trở về với chơn tâm thường trú của chính mình tìm lại Phật tánh của mình.
Và như vậy Đạo Phật khất sĩ Việt Nam của Tổ Sư Minh Đăng Quang
chủ trương thiền định quán chiếu vì đó là mục tiêu quan trọng của người xuất
gia, có chánh định mới làm chủ được mình mới làm thầy của trời và người,
làm chỗ dựa cho bao tâm hồn bị lạc lỏng không nơi nương tựa, nương vào
Tăng là người thừa kế sự nghiệp của chư Phật ba đời “kế vãng khai lai báo
Phật ân đức” làm rường cột cho ngôi nhà Phật Pháp, để đảm bảo cho ngôi nhà
Phật Pháp trường tồn mãi mãi trên thế gian này.
Trong Pháp Vi Tế, nơi phần Bát Chánh Đạo đã nêu lên 4 Phần
Chánh Định:
1. Sơ định: tầm sát, hỷ, lạc, tịnh, định.
2. Nhị định: hỷ, lạc, tịnh, định.
3. Tam định: lạc, tịnh, định.
4. Tứ định: tịnh, định.
(Ngũ định: định, đại định, Niết-bàn).
Trong Chơn Lý Nhập Định, đức Tổ sư cũng dạy: “Tứ định là: tịnh,
định; và sẽ đến định xả, là đắc đạo, đắc chơn ngã, chủ tể, kết quả”.
Như vậy, Giới là cội rễ của Định, Định là căn nguyên của Tuệ. Cả ba
Giới, Định, tuệ nương hỗ vào nhau, bất phân biệt trên con đường tìm cầu giác
ngộ, giải thoát của hành giả.
Theo những sự hướng dẫn trên của Tổ sư, chúng ta thấy rõ con đường
đến Niết-bàn qua 4 bậc thiền định căn bản. Từ Sơ định đi lên như Bồ-tát Tất
Đạt Đa đã tu trong 49 ngày tọa thiền dưới cội Bồ-đề năm xưa, qua khỏi Tứ
định thì hướng tâm đến Ngũ định là Định xả, để an trú Niết-bàn ngay. Giáo lý
thiềnđịnh này của đức Tổ sư Minh Đăng Quang vô cùng đặc biệt, không hề có
trong các hệ thống thiền định của Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền.
42
Trực chỉ lànguyên lý căn bản, là điều mà người tu học nhận ra được
trong giáo lý thiền Ngũ định của đức Tổ sư Minh Đăng Quang.Trong thực tế,
chứng nghiệmNiết-bàn, thành tựu đạo quả giải thoát, những mục đích cứu
cánh của đời tu hành tưởng chừng xa vời, nhưng bằng phương pháp giảng
truyền gần gũi, thiết thực, đức Tổ sư đã chỉ dạy rất rõ ràng:phương pháp thiền
phải bắt đầu từ đạt Định.
Trong Chơn Lý “Nhập định”, Tổ sư đã chỉ ra tầm quan trọng của Định.
Định tâm là sự sống, nó quyết định sự thành bại nơi chúng sanh; người có
Định mới thấu rõ các pháp, thông suốt việc đời, mới dứt trừ phiền não và có
thần thông hiển linh:
Định là chỗ đến, kết quả, mục đích của các con đường. Định là một
năng lực mạnh mẽ nhất. Định là sanh mạng của thân tâm trí ta Định là một
sức mạnh thần thông, nhờ yên lặng cái ý mới mạnh mẽ gom hiệp mà điều
khiển sự biến hóa linh nghiệm Dầu chưa phải là đại định lâu ngày, chớ cái
định trong chốc lát nó cũng giúp cho ta biết baođiều khỏe khoắn nghỉ ngơi,
và làmcho ta được tỉnh táo trí huệ.
Cái định hằng có nơi mỗi chỗ, nơi mọi lúc, mắt tai mũi lưỡi thân ý phải
định luôn luôn. Ông thầy giáo không định thì chết, người học trò khôngđịnh
thìđiên. Ai ai khôngđịnh thì khổ. Định là giấc ngủ ngon hay như cái chết
sướng. Cho nên, định làmùi vị của các sự việc. Có định mới có thành công,
không thất bại cho mỗi hạng người.
Để tu tập đạt được Chánh Định, thành tựu trí tuệ giải thoát, Tổ sư đã
vạch ra lộ trình đúng với giáo pháp của Đức Phật đã chỉ bày, đó là phải tu tập
Bát chánh đạo:
“Muốn vui sống có ta thì phải định, muốn có định và biết định thì phải
tầm tõi quán xét thấy cho rõ lẽ thật là chánh kiến. Có CHÁNH KIẾN thấy rõ
lẽ chánh mới phát sanh được những điều suy gẫm về lẽ chánh chơn như mà
43
thấu rõ đạo lý các pháp. Có thấu đạo lý do CHÁNH TƯ DUY mới năng nói
lời chơn chánh. Từ nơi CHÁNH NGỮ mới có thật hành CHÁNH NGHIỆP, là
việc làm đúng theo đạo lý. Có làm việc phải mới được nuôi thân mạng bằng
cách trong sạch thiện lành, hưởng sự yên vui.
Có được CHÁNH MẠNG mới biết mừng vui siêngnănggiữ đạo đi tới.
Nhờ CHÁNH TINH TẤN mới không có thì giờ xao lãng vọngđộng ác tà, bấy
giờ tâm mới trong sạch, ý ngó ngay vào một chỗ chơn như không vọng động,
niệm tưởng không lìa xa một chỗ phải. Nhờ CHÁNH NIỆM giữ ý nơi một điều
lành, nơi một chỗ một, thì ý mới định. Ý định là thân khẩu phải định, thân
khẩu ý đều định gọi là tâm định, định tại nơi lẽ chánh, chỗ thiện lành sáng
suốt, kêu gọi CHÁNH ĐỊNH là sự yên lặng, nín nghỉ hưu trí. Niết-bàn là nơi
rốt ráo quyết định, là cảnh giới nhứt định[40, tr.346].
2.2.5. Tinh thần sống chung tu học
Trong Phật Quang Đại từ điển giải thích, Tăng già để chỉ cho đệ tử của
Phật xuất gia tu đạo, đầy đủ Giới - Định - Huệ, Giải thoát và Giải thoát tri
kiến Ngoài ra, Tăng già còn chỉ cho một đoàn thể gồm 4 vị Tỳ kheo trở lên
sống hòa hợp theo giới luật Phật chế định. Bản thể của Tăng già là thanh tịnh
và hòa hợp.
Đức Tổ sư ngay từ buổi đầu lập đạo đã nhận thấy giá trị quý báu của đoàn
thể Tăng già, nên Ngài thường khuyến tấn chư Tăng Ni hãy cùng nhau sống
chung tu học để cùng bảo vệ, tôn trọng và giúp đỡ, cùng dắt dìu nhau tu sửa thân
tâm, buông bỏ chấp ngã, diệt trừ cái ta ích kỷ nhỏ hẹp. Ngài chủ trương:-
“Nên tập sống chung tu học:
Cái sống là phải sống chung,
Cái biết là phải học chung,
Cái linh là phải tu chung”.
2.2.5.1. Cái sống là phải sống chung
44
Mục đích của việc sống chung tu học được Tổ sư nhấn mạnh là để sống
đúng theo giới luật của Đức Phật chế định bằng lẽ sống hiền hòa, nhân đức,
nhân ái, cùng nhau xây dựng cõi đời thiện lành trong sạch, bình đẳng, không
tranh, chỉ dùng đức hạnh giáo hóa chúng sanh: “Lẽ sống chung tu học càng
nhiều thiện lành trong sạch, có giới luật của từng lớp một như nhau, là báu
quý, tốt đẹp lắm. Còn ai không kỷ luật là tất nhiên phải bị tai nạn sợ sệt, vì
tưởng sai, lầm hiểu Cõi bình đẳng về sắc thân khôngaihơn kém, chỉ dùng
đức hạnh làm cây thước để đo trình độ thấp cao. Trongđạo cả thảy sự sống
như nhau, một tiếng Khất sĩ như nhau”. [41, tr.366].
Sống chung tu học là sống trong tinh thần Tam tụ, Lục hòa nhằm
nung đúc, rèn luyện, tăng trưởng tham vấn tu học, nhắc nhở nhau học hỏi
điều lành, diệt trừ điều ác: “Giáo lý Khất sĩ, một là dứt các điều ác, hai là
làm các điều lành tùy theo nhân duyên cảnh ngộ, không cố chấp, vì lẽ
không có thì giờ dư dả, và cũng biết rằng các việc lành là để trau tâm, vì
tâm mà làm sự phải, chớ không ngó xem nơi việc làm kết quả; và ba là cốt
yếu giữ lòng trong sạch” [42, tr.422].
Nếu chủ nghĩa cá nhân được nâng cao, khi đó tinh thần của tập thể sẽ bị
giảm sút và ngược lại. Điều đó nói lên rằng, người xuất gia nếu tách riêng
đoàn thể, thì “cái tôi” sẽ lớn dần, làm xa cách tình gắn kết giữa huynh đệ. Đối
với các Sa di, Tập sự mới tập tu học, Tổ sư thường dạy phải luôn thực hiện
bổn phận của “người con”, “người học trò” trong mỗi lúc, phải buông bỏ ý
niệm tư riêng, đừng làm trái ý người, hoặc tự ý làm nếu không được sự cho
phép, biết sống hòa mình trong Giáo hội Tăng già để trao sửa thân tâm, vuông
tròn phẩm hạnh: (Kệ Ý)
Bước đầu bổn phận làm trò
Cả thân tâm trí dâng cho người thầy
Mặc người uốn nắn chuyển xoay
45
Đặng mình diệt hẳn riêng tây ý xằng
Sống chung Giáo hội chư Tăng
Không còn tư ý mới năng thuận hòa
Đừng làm trái ý người ta
Cũng đừng tự ý kiêu sa của mình
Mới mong thật hiện hòa bình
Nhờ nơi giáo pháp chương trình in khuôn
Chẳng ai ý lộng, tâm buông
Mỗi người nắn đúc tròn vuông thành phần.
2.2.5.2.Cái biết là phải học chung:
Cái biết ở đây được hiểu là phương tiện để hiểu biết về nhận thức của
con người đối với sự vật hiện tượng, đối với duyên sinh các pháp. Tất cả con
người đều có cái biết hằng hữu bên mình. Ai có tâm là người đó có cái biết.
Cái biết nó luôn có mặt trong con người từ lúc sanh ra đến lúc chết đi, không
hề thiếu vắng. Nhưng ở đây, phần lớn chúng sanh đem cái biết của mình gắn
chặt những phiền muộn lo âu, gắn với lục dục thất tình Do vậy, cái biết đó
đem đến sự khổ đau, trầm luân trong tử sanh. Trong Chơn Lý “Khất sĩ”, Tổ sư
dạy người tu phải có “học, hiểu và thực hành chơn lý” thì cái biết đó mới đem
lại lợi ích, mới dứt khổ, mới được yên vui mãi mãi:
Có biết mới hết mê lầm chấp trật, khổ sở nạn tai. Từ nhỏ đến lớn, từ
thấp đến cao, từ trước đến sau, từ chiều đến sáng, mỗi lúc cái biết càng phân
biệt, làm việc tích trữ, lớn to và đi tới, làm cho chúng sanh càng ngày càng
được thêm sự học hành. Chúng sanh đây là căn thân và chủ thức (là người
nhận biết). Cho nên, cáibiết chủ cần phải sống, lớn, ăn, vui, yên và còn mãi
mãi. Chính biết là Ta, là mục đích của chúng sanh, là chơn lý của cuộc đời, là
tinhba của võ trụ.
Kế đến, học để biết điều ác, tội lỗi mà tránh và học để tu mới thanh lọc
46
được tham sân si mê muội: “Cái học sẽ đánh đổ cái ăn, cái ác, cái tranh, cái
tham, cái chơi, tất cả. Cái học cũng như bức tường, nó cản dừng hết thảy
nhữngngọn gió, thì những lá cây sẽ không còn xao động. Cáitiếng học, nó
thắngtất cả sựhơn thuamêmuội. Người ngó ngay nơi cái học làm mục đích
làsẽ không còn thamsân si chi nữa hết,thế giới tất sẽ bình yên”.
Về vấn đề pháp học, pháp hành, Ngài dạy: “Người Khất sĩ phải là có thật
học, phải đủ đức hạnh, phải có chơn tu mới được gọi đúng danh từ Khất
sĩ”. (Chơn Lý: “Y bát chơn truyền”). Pháp học đưa đến tri kiến, tức là sự hiểu
biết; còn pháp hành đưa đến sự giải thoát giác ngộ. Điều này đã được Đức Phật
nhắc nhở trong kinh Pháp Cú, câu 19 -20 20 “Nếu người nói nhiều kinh”
Không hành trì, phóng dật
Như kẻ chăn bỏ người
Không phần Sa môn hạnh”.
“Dầu nói ít kinh điển
Nhưng hànhpháp, tùy pháp
Từ bỏ tham sân si
Tỉnh giác, tâm giải thoát
Không chấp thủ hai đời
Dự phần Sa môn hạnh”.
2.2.5.3. Cái linh là phải tu chung:
Hiện nay, Hệ phái đã thành lập khóa tu Bồi dưỡng Đạo hạnh dành cho
Sa di, Tập sự, ít nhất mỗi năm một lần để các vị mới xuất gia được sống
chung tu học theo lời dạy của Tổ sư. Đây là dịp để mỗi vị được sống theo
thanh quy thiền môn, được trao dồi pháp học, pháp hành về đường lối tu tập
của Hệ phái. Các vị Sa di, Tập sự phải hiểu đó là phúc duyên lớn, mà các vị
được thọ nhận giáo pháp từ Đức Phật và Đức Tổ sư.
Người xưa thường bảo: “Tu mà không học là tu mù/ Học mà không tu
47
là đãy sách”. Vấn đề học và tu được đức Tổ sư dạy một cách rõ ràng, đó là
phải chú trọng ngang nhau giữa pháp học và pháp hành:
Mặc dầu các sư tuy ít học, mà cái học chín chắn bằng sự tham thiền,
học đến đâu tu hành theo kịp đến đó, chẳng là có kết quả hơn cái học mênh
mông. Vả lại, học tuy được mà chưa hành được, thì chắc gì ai dám tin trọn lời
nói đó. Tài học không bằng tu đức, đức trên tài dưới, tài đức phải nương
nhau mới đặng. Các Phật Thánh xưa xuất gia là để tu, từ nơi chỗ thật hành tu
đức mà sanh trí huệ toàn học, nhờ học chậm rãi, khó khăn, kinh nghiệm, mà
pháp bảo đối với các Ngài hưởng được mùi vị hay quí thơm ngon lắm. Ngày
xưa ít học mà nên nhiều, ngày nay học nhiều mà nên ít, là cũng bởi trọng học
tài quên tu đức. (Chơn Lý: “Tông giáo”) [43].
Có thể thấy, giáo lý “Sống chung tu học” được đức Tổ sư trình bày rất
nhiều lần trong nhiều quyển Chơn Lý. Sống chung- học chung - tu chung
được xem như là một nguyên lý không thể tách rời đời sống phạm hạnh của
một vị xuất gia. Cũng ở nội dung này, Tổ sư chỉ ra mỗi liên hệ mật thiết giữa
chúng như sau: “Các ngươi có được cái biết là mục đích, phải cố gắng tìm
học cho được toàn giác. Các ngươi có sẵn cái linh nên phải tập giữ sự yên
lặng cho nó linh thiêng Hễ sống dai tu học lâu năm, ắt là đắc đạo”. (Chơn
Lý: “Đi học”).
Có “Sống chung tu học” thì Tăng đoàn mới vững mạnh, các giá trị đạo
đức tâm linh của cá nhân và tập thể mới được nâng cao, và cũng để nhắc nhở
các Sa di, Tập sự phải luôn tâm niệm: “Tu học đạo đức là món ăn về tinh
thần lý trí, để đến với tâm chơn Phật, một lẽ sống tinh khiết hoàn toàn, rất
cần hơn tất cả nghệ thuật và mọi sự học về bên ngoài thể chất, cùng sự dồi
trau sắc thân, cái có, tô đắp sự vật hữu tình tan hoại, cần hơn cả thức ăn bổ
dưỡng mỹ vị để nuôi sống thân”. (Chơn Lý: Sa di phải biết rằng).
2.2.6. Nhiếp phục, trau dồi Thân, Khẩu, Ý:
48
Một trong những ý pháp căn bản mà Tổ sư luôn luôn khuyên dạy hàng
Tăng Ni Khất sĩ nhận biết trong Chơn Lý đó là tu tập thanh lọc, nhiếp phục
thân, khẩu, ý trong sạch. Ý pháp này được Tổ sư dạy cụ thể trong quyển Chơn
Lý “Tu và nghiệp”:
Thân trong sạch ấy là xứ Phật
Miệng trong sạch ấy là pháp Phật
Ý trong sạch ấy là con Phật
Tâm trong sạch chính là đức Phật.
Lời dạy của Tổ sư súc tích, ngắn gọn nhưng khế hợp với giáo pháp của
Đức Phật. Gìn giữ tam nghiệp thanh tịnh ấy mới được gọi là xuất gia chơn
chánh, tức là vị Tăng Khất sĩ phải có giới đức trong sạch.
Đối với Sa di, Tập sự, thân trong sạch là thân phải có giới luật “mới có
thể phân biệt được nẻo chánh, đường tà”, và “phải trì giới phạm hạnh thanh
tịnh, chớ đụng cọ với ai ai”. Khi đã hiểu được bản chất vô thường của kiếp
sống, nhận diện các pháp vô ngã phát nguyện tu tập thì thân mới dừng lại
những điều xấu ác, tâm mới không chạy theo thất tình lục dục:
Đem thân làm kẻ tội đày
Cho bao vật chất nó cai trị mình
Để tâm làm vật hy sinh
Suốt đời theo lịnh dục tình dắt lôi
Cái tham bao thuở cho rồi
Cái không may đến một hồi là xong
Dã tràng xe cát biển đông
Vô tình lượn sóng cướp công nhọc nhằn. (Kệ “Thân”)
Và khi đó, người tu sẽ thực hành theo lời dạy trong điều luật Phật
chế: “không làm việc sát sanh, trộm cắp tổn hại ai Chỉ làm việc đạo lý: viết
sách, dịch kinh, tham thiền, nhập định, thuyết pháp, luận đạo, dạy học, khất
49
thực làm gương lành; giúp việc công cho Giáo hội, quét dọn chùa, tháp, cốc,
sân, lượm rác, đóng cửa chùa; may áo vá y cho Giáo hội, sắc thuốc, nấu cháo
nuôi người bệnh”.
Một loạt những thiện pháp mà các vị Sa di, Tập sự cần phải ghi nhớ và
thực hiện mỗi ngày để lắng dần những hành động bất thiện, từ đó, thân sẽ
thuần thục, thích làm việc đạo. Thân có giới pháp Khất sĩ thì thân ấy trong
sạch, tức là đã an trú nơi xứ Phật trang nghiêm thanh tịnh. Tương tự, khẩu, ý
tâm cũng theo giới, nhờ giới mà được thanh tịnh và an trú trong Chánh giác.
2.3. Hệ Phái Khất sĩ trong giai đoạn hiện nay
2.3.1. Tiếp nối truyền thống
Trong giai đoạn hiện nay, Chư Tôn Hòa thượng vẫn giữ nguyên những
gì mà Tổ Sư đã dạy về phương pháp tu tập. Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội
có nhiều phức tạp như hiện nay, để củng cố Tăng đoàn, cũng như để kẻ xấu
không lợi dụng nên chư Tôn Đức tạm ngưng pháp môn đi khất thực mỗi sáng.
Tuy vậy, trong những ngày tưởng niệm Tổ Sư hay những ngày tưởng niệm
chư tôn trưởng lão vẫn tổ chức đi khất thực với số lượng rất đông lên đến cả
100 vị hoặc có thể hơn để ôn lại và để nhắc nhỡ cho hàng hậu tấn biết rằng
đây là một pháp môn tu tập của chư Phật trong ba đời mà chủ yếu là chư Phật
và chư Tổ dùng thân hành để cho chúng sanh đễ thấy dễ biết, cũng như nhớ
lại hạnh xưa mà chư Phật và chư Tổ đã thực hành đem lại nhiều lợi lạc cho
nhân sanh.
Ngoài ra, kế thừa lời Tổ Sư dạy là tất cả các miền tịnh xá đều phải có
hai ngày cúng hội thuyết pháp cho dân chúng nghe, cũng như hướng dẫn phật
tử tu tập. Hiện nay chư Tôn đức vẫn có tu một ngày an lạc, hay những sự kiện
của các ngày ...khẩu bên ngoài là ý loạn. Cái ý của thân khẩu bên
trong, hay là không còn thân khẩu thì ý định”.
Sự linh nghiệm thần thông thiếu là bởi vọng động bên ngoài, mảng lo
làm, nói nhớ tưởng, mất cái tự nhiên yên lặng. Tự nhiên yên lặng là linh có
sẵn, chớ chẳng đợi tìm đâu. Ai ai cũng có linh thiêng hết, sống chết đều linh,
không linh là tại người kia vọng động. Nơi chỗ tự nhiên yên lặng, hòn đá sẽ
linh, cái cây sẽ linh. Cục đất còn linh, huống chi người ta sao lại chẳng linh?
Đúng chơn lý sự thật của mỗi chúng sinh là tự nhiên yên lặng, chơn nguyên
linh ứng, tất cả chúng sanh đều đang ở trong cái yên lặng phủ trùm, giờ phút
nào không vọng động là tự nhiên yên lặng. (Chơn Lý: “Thần mật”)
Trong bài kệ “Ý” có câu: “Tâm không vạn sự điều không/ Tâm chơn vạn
pháp thảy đồng quy chơn/ Học đòi theo bậc Thánh nhơn/ Phải trừ tâm vọng mới
hoàn bổn nguyên”. Diệt trừ tâm vọng thì tâm chơn có mặt, thể tánh của nó là tự
nhiên yên lặng. Tổ sư chỉ ra khả năng và trạng thái của người có ba cái mật:
Vậy nên những kẻ tu tâm là giữ gìn ba cái mật cho thật hoàn toàn ẩn
bên trong kín đáo. Tức là kẻ ấy biết sống bằng linh hồn, kẻ ấy sống trong hai
59
cảnh giới, có thân khẩu và không thân khẩu, người thông suốt trong cõi hữu
vi và vô vi, người không còn tai nạn sợ sệt chi nữa hết. (Chơn Lý.“Thần
mật”)
Chư huynh đệ tham dự khóa tu thiền thấy rõ, trong một ngày tu phần
lớn thời gian chúng ta đều thực tập sự yên lặng, chánh niệm trong bốn oai
nghi. Sự yên lặng đó giúp tâm an trú ngay thân, tỉnh giác thấy biết mọi việc
làm của mình. Thời gian tu thiền định giúp chư huynh đệ quay về soi sáng,
làm chủ ba nghiệp thân khẩu ý. Một khi thân khẩu ý tự nhiên yên lặng thì nhất
định sẽ có thần thông, và đạt được quả linh của chính mình.
Thân khẩu ý mật kín đáo bên trong, tuy không thể nhìn thấy được
nhưng nó có sức mạnh toàn năng, thấy biết muôn việc nơi mình và chúng
sanh... Khi tâm định tĩnh thì ba cái mật tạo nên sự linh ứng. Nhưng để ba
nghiệp trọn trong sạch phải miên mật trong việc tu, cần phải lựa chọn đề mục
quán niệm, giữ một niệm hay đem một câu pháp nào đó để quán xét cho thấu
đạt nghĩa lý. Nhờ sự ghi nhớ đề mục, sự định tâm vào pháp môn tu tập mà
thân tâm được trong sạch, yên lặng. Ở đây, yếu tố tinh tấn là quan trọng nhất.
Tổ sư dạy: Một cái hột nứt vỏ, ruột hôi, thúi mộng thì không còn dùng
được. Một bông hoa quý giá là bởi nơi sự búp kín. Một cái tâm hồn tốt đẹp là
bởi nơi ba cái mật, không ai xem thấy kiếm tìm nó được. Một viên ngọc vô giá
là bởi món ít có và khó gặp... Một sức mạnh, một cứng rắn, ấy là ba cái mật
của tự nhiên yên lặng, mà người ta thường gọi đó là phép thần thông. Mặt
nước đặc là bởi không xao động. Một linh hồn cứng chắc là bởi không phiền
não Một người chuyên môn quán tưởng một việc, lâu ngày cái ý định trụ,
thành ra một sức mạnh linh thiêng
Thân khẩu ý là tâm, là hột giống. Vậy nên tu tâm là thân khẩu ý phải
giữ gìn trau sửa cho được tự nhiên vắng lặng, ẩn mật kín đáo trở lại, bởi
chúng sanh là đã tập quen tánh xao động bên ngoài từ lâu, tự mình tạo sanh
60
khổ nạn. (Chơn Lý: “Thần mật”).
Vai trò của định, sự kham nhẫn và đức tin trong việc tu tập thân
khẩu ý mật:
Trong định thì có quả linh và đạo lý, trong yên lặng thì có trí huệ và
thần thông. Mà muốn định yên lặng thì phải nhớ niệm, có giữ một niệm, ghi
nhớ một việc một chỗ, thì thân khẩu ý mới định, phát sanh thần mật. Có tầm
tõi quán xét một câu một nghĩa lý, thấu đáo được nghĩa lý thì tâm mới được
sự mừng vui trong sạch và yên lặng. Trong cái chơn như là ý yên lặng. Chăm
chú một sự gì là thân khẩu ý yên lặng. Biết bao muôn ngàn triệu ức pháp,
pháp nào cũng có thể làm cho phát sanh thần mật được, pháp nào cũng có thể
làm cho lục căn thanh tịnh, pháp nào cũng có thể làm cho tam nghiệp yên
lặng được. Nhưng mà khó nhứt là sự bền công, vì vậy nên phải mượn tạm đức
tin hay là bổn nguyện...
Muốn định thì phải giữ giới thiện lành trong sạch đã, thì mới mong
phát đại trí huệ thành Phật. Trí huệ là sự quán xét diệt trừ phiền não, để bảo
giữ cái định là thần mật. (Chơn Lý: “Thần mật”)
Do bị lòng tham chi phối mạnh mẽ, nên con người dễ khởi lên những ý
niệm sai lầm không phù hợp với đạo đức, với lẽ phải, với chơn lý; họ cống
cao, ngã mạn... Đó là tà niệm, tà kiến và đó cũng là “tâm ma” trong mỗi
người. Tâm này nếu tu tập cũng định cũng có thần thông, nhưng thần thông
đó không bền lâu, vì bị ái dục chi phối.
Ma quỷ kia cũng định, cũng đắc thần mật linh thiêng, nhưng khác hơn
Phật là ma quỷ không có trí huệ, và không có giữ giới thiện lành trong sạch. Nếu
không có giới huệ, thì định chẳng bền lâu, phép linh có ngày mất. Kẻ tà ác mà
có phép linh thật là nguy hiểm cho tánh mạng nó. Nó sẽ tự cao, nó sẽ ham danh
lợi. Người ta càng tôn nó thì tội ác của nó càng sanh, sự tà quấy của nó càng
trội, tham sân si phiền não càng dấy, phép thần thông của nó sẽ mất, lại bị sa
61
vào địa ngục, vì tật chướng lậm mang, không thế gì ra khỏi đặng.
Vậy nên, người tu phải biết rằng quả linh vốn sẵn có tự nhiên nơi yên
lặng, chớ không phải tìm kiếm mong cầu theo niệm quấy! Người tu là nên
phải biết quý tâm thần mật để diệt trừ phiền não, tội lỗi sái quấy thôi. Hay
hơn nữa là tu để cho tâm hồn tốt đẹp quý báu, giúp ích cho đời, đặng đền ơn
cho chúng sanh và Tam bảo, như thế mới được dứt trừ được nghiệp tội. Vì
gốc của chúng sanh là tội khổ, cần phải tránh sự tự cao, đọa lạc. Như thế thì
phép linh là phụ thuộc, chỉ có trí huệ, tâm chơn mới thật là của cải.
Phép thần thông sẵn có nơi mỗi người. Nó có mãi là khi nào tâm người
ta định mãi, nó mất đi là khi nào tâm người rối loạn. Tâm loạn là bởi không
giới luật, cũng như nước bị gió, đục bùn, thì chẳng yên lặng chảy thông. Gió
hết bùn lặng thì nước định trong như cũ. Như thế là chúng ta rất tiếc cho
những người kia. Họ nào có chịu biết cái linh của họ, và chung quanh họ ai
cũng vọng động cả thì làm sao mà thấy có cho họ. Họ đành quên lửng món
của cải quý báu vĩnh viễn hạnh phúc ấy, mà chỉ ôm đeo theo các cái bọt nước
rong rêu, tan hiệp, không có gì hết, mãi chịu khổ nhọc không công sợ
sệt. (Chơn Lý: Thần mật).
3.2. Tinh thần lục hòa:
Từ buổi sơ khai Tổ đã mong mỏi tăng ni có sự hòa hơp với nhau về một
mối đạo.
Trước hết là ý nghĩa của từ “chung” được nhìn từ vũ trụ quan duyên
khởi. Tất cả đều do duyên sanh nên mọi hiện hữu đều do nhân duyên, kết nối
trùng trùng, khiến tất cả đều liên hệ mật thiết với nhau. Chúng sanh liên hệ
với vũ trụ, thiên nhiên, môi trường và nhất là liên hệ với nhau. Tổ sư giảng:
“Tất cả với ta, ta cùng tất cả, đều liên lạc mật thiết với nhau bằng một
lẽ sống.”.
“Ta là tất cả, tất cả là ta; ta sống cho tất cả, tất cả sống cho ta; tiếng ta
62
đây là tất cả, đó tức là chơn lý võ trụ”. (Chơn Lý: Hòa Bình).
“Võ trụ giống như bà mẹ, chúng ta là những kẻ sống chung, chúng
sanhtất cả là con chung của võ trụ”.
“Hãy sống với võ trụ! Hãy học hiểu thấu rõ chơn lý, ta sẽ thấy ta không
còn cách biệt với vạn vật nữa.”. (Chơn Lý: Võ Trụ Quan).
Vũ trụ hay thiên nhiên hiện hữu bằng sự tập hợp các mối liên hệ. Sự
sống cũng vậy, là sự vay trả, xin cho. Chúng sanh cũng thế, các loài sống thở
bằng không khí, ánh sáng, nước; có loài sống nhờ cây cỏ, hoa trái; có loài
sống nhờ việc ăn thịt các chúng sanh khác; loài cây cỏ thì sống nhờ các chất
dinh dưỡng trong đất, kể cả các xác sinh vật thảo mộc khác chết đi, bị phân
rã Loài người cũng sống nhờ vào các thứ loại như trên và nhất là nhờ vào
nhau. Tất cả đều theo lý trao đổi, xin cho Từ đó Tổ sư Minh Đăng Quang
đưa ra một định nghĩa về Khất sĩ:
“Khất ấy là xin. Sĩ đây là học. Xin ấy rồi lại cho, học đây rồi lại dạy.
Xin phẩm thực để nuôi thân giả tạm, cho sự thiện lành phước đức để bảo giữ
sự sống dài lâu. Học bằng cách lượm lặt phương pháp khắp nơi, rút nhiều
kinh nghiệm. Dạy là đem kết quả thật hành đặc điểm chỉ lại cho người. Cái
xin, cái học, cái dạy, cái cho, các pháp nương sanh, mở ra con đường xán lạn
cho tất cả về sau tiến bước. Con đường ấy kêu là Đạo. Đạo của Sống là xin
nhau sống chung, đạo của biết là học chung, đạo của linh là tu chung”.(Chơn
Lý: Hòa Bình). Nhờ tinh thần sống lục hòa mà kiến thức riêng đem ra góp ý
cho nhau trong tu học cùng sát tấn nhau tu học, biết tôn trọng quý nhau hơn,
biết thông cảm biết chia sẽ, nhơ sống trong tinh thần lục hòa mà diệt trừ được
tự ngã vô minh, bỏ được ích kỷ nhỏ hẹp, nhường chỗ cho lòng từ bi phát khởi
tinh thần tự giác cao hơn làm lợi ích cho mọi người nhiều hơn.
3.3.Sống trong tinh thần bình đẵng, đạo đức, biết sợ nhân quả:
Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả, Tổ Sư dạy phàm làm việc gì cũng
63
phải suy xét việc đó có hại cho mình và người không, và nhờ sống trong tinh
thần tứ y pháp,nên không chấp chặt vào ăn mặc ở bịnh, không quá coi trọng
thân mình, không quá se sua, biết tri túc, biết đủ, tất cả chỉ là phương tiện hỗ
trợ thêm trong lúc hành đạo mà thôi,nên không phân biệt giàu sang hay nghèo
hèn đều tiếp độ, màsống bình đẵng lục hòa cộng trụ, tứ sự chia đồng, vì lợi
ích của người khác, biến cái đau của người khác thành cái đau của mình, dạy
cho họ phá chấp, nhận rỏ chân tướng của vô thường, nhờ có quán chiếu hằng
ngày có nghiêm trì giới luật nên cuộc sống ít gây nghiệp xấu từ trong suy nghĩ
cho đến hành động bên ngoài, biết kiểm soát hành vi của mình, sao cho chuẩn
mực hơn có đạo đức hơn, ví dụ: lời nói không mất tiền mua lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau. Nhờ có định tỉnh mà lời nói không tạo khẩu nghiệp. Nhờ có
giới, định, tuệ mà người hành giả biết tiết độ trong từng lời nói hành động,
biết chia sẽ quyền lợi chung, sống hòa mình với người khác, không phạm
những giới căn bản cho đến những điều to lớn hơn, xử lý công việc một cách
sáng tỏ hơn, cho nên Giới, Định, Tuệ không thể thiếu trong suốt quá trình trở
về bản thể thanh tịnh của mỗi tu sĩ. Tổ Sư dạy sau khi đạt được chơn lý rồi
cần phải dấn thân làm lợi lạc cho mọi người thì mới đúng tâm nguyện của chư
Phật, mới mong đền trả được tứ ân, giúp cho mọi người an vui hạnh phúc, có
như vậy mới làm tốt đao đẹp đời.
64
Tiểu kết chương 3
Thật vậy qua một số nét cơ bản trong tu tập đã giúp cho hành giả sau
khi tu tập đạt được những kết quả ngay trong hiện tại, đời sống được an vui
hơn nhờ thân khẩu ý được thanh tịnh, diệt trừ từ từ tham sân si nhờ có giới
định tuệ mà Tổ sư đã hướng dẫn một tinh thần đoàn kết. Giới, Định, Tuệ là
con đường trung đạo, là cái kiềng ba chân, là nền tảng vững vàng để phát triển
trí tuệ và thành tựu phạm hạnh giải thoát, trên bước đường tìm cầu giải thoát
không thể thiếu. Nhờ có giới định tuệ mà tinh thần tăng chúng mỗi ngày được
tăng trưởng trong nếp sống lục hòa, biết hỗ trợ cho nhau, chia sẽ thông cảm,
65
KẾT LUẬN
Đạo Phật ra đời tại Ấn Độ khoảng hai mươi sáu thế kỷ được truyền
khắp nơi trên toàn thế giới đã đi vào lòng người một cách hài hòa bởi nét
đẹp nhân bản của nó. Ban đầu đạo Phật được xem là nơi nương tựa tâm
linh cho bao lớp người nhưng càng hiểu đạo Phật càng thấy rằng nếp sống
của người tu Phật có thể trờ thành nếp sống đạo đức cho xã hội loài người.
Nếp sống đó là một mô hình gắn kết có tổ chức theo một hình mẫu đầy trí
tuệ mà Đức Phật đã xây dựng ngay từ khi Tăng đoàn mới thành lập. Qua
bao thế hệ Tăng già, mô hình ấy vẫn được duy trì như một nét căn bản
không thể thiếu của đời sống xuất gia. Chúng đưa đến đoàn kết, hòa hợp và
thanh tịnh mang giá trị vượt không gian và thời gian. Dù Tăng đoàn trong
thời đại nào, trú ngụ ở bất kỳ trú xứ nào cũng có thể áp dụng tu tập để cùng
nhau đi đến giác ngộ và giải thoát.
Nhìn lại chặng đường suốt mười năm hoằng hóa (1944-1954), từ buổi
ban đầu cho đến khi thu nhận đệ tử Tăng Ni và tính đồ Phật tử, Đức Tổ Sư
Minh Đăng Quang vẫn với chiếc Y bá nạp, sống đời Du Tăng Khất sĩ, đem
Chơn Lý phổ biến cho đời, sống với hạnh Y bát chơn truyền của Phật Tăng
xưa - Nối truyền Thích Ca chánh pháp - Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam. Với tâm
nguyện tự độ - độ tha:
“Y bá náp, bức họa đồ thế giới
Vẽ muôn ngàn đường lối bươc vân du
Vì chúng sanh khai mở lắm công phu
Nẻo giải thoát trờ về nơi cảnh cũ
Bát Khất sĩ, bầu càn khôn vũ trụ
Chứa muôn loài vạn vật một tình thương.
Quyết tâm tu chứng ngộ đạo vô thường
Bình nước tịnh nhúng nhành dương ban rưới.
66
Chỉ trong mười năm hành đạo ngắn ngủi của Ngài, mà trên nền tảng đó
Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam đã phát triển không ngừng từ miền Nam cho đến
miền Trung nước Việt. Đến khi Ngài thọ nạn và vắng bóng, các đệ tử của Ngài
vẫn tiếp tục hành trì dưới sự lãnh đạo của những bậc Tôn túc - Trưởng lão.
Tuy nhiên, các pháp thế gian là duyên sinh : “Cái này có nên cái kia
có...Cái này sanh nên cái kia sanh. Cho nên, bên cạnh sự phát triển của Đạo
Phật Khất sĩ Việt Nam thì mặt tiêu cực cũng song hành, tức là truyền thống
Khất thực đã bị ảnh hưởng của một số người giả danh, mượn hình thức đi
Khất thực để mưu cầu lợi dưỡng cá nhân, gây ảnh hưởng xấu trong xã hội và
Đạo pháp, nhưng hình ảnh thiêng liêng thanh tịnh tay ôm bình bát khất thực
của những bậc chân tu vẫn không bị phai mờ: “Chơn vẫn là chơn - thiệt chẳng
sai”. Sự “Nối truyền Thích Ca chánh pháp” mà được Đức Tổ Sư Minh Đăng
Quang đã nhọc công gầy dựng lại qua con đường Phật Tăng xưa, vẫn mãi mãi
được duy trì và truyền thừa lại trong thế hệhiện tại và tương lai, mà trong đó
sợi chỉ đỏ xuyên suốt là nguyên nhân vững tồn cho Hệ phái Khất sĩ chính là
phương thức tu tập của Hệ phái do Tổ sư truyền thừa, khởi sáng.
Qua sự tu chứng của bản thân trên con đường thực nghiệm tâm linh tìm
của giải thoát. Tổ Sư Minh Đăng Quang đã tùy duyên, tùy cảnh, tùy thời cuộc
mà Tổ sư đã khai sáng mối đạo trong hoàn cảnh đất nước con người Việt
Nam dần mất niềm tin vào cuộc sống, đạo đức không còn, Ngài xuất hiện như
một ngọn đèn phá tan bóng tối trong đêm đen, Ngài đã dẫn dắt mọi người
quay về với con đường sáng ở nơi mỗi người qua hình ảnh của một tu sĩ sống
đời sống phạm hạnh, sống đơn giản không bị ràng buộc bởi cái ta và của ta.
Đạo Phật Khất sĩ ra đời đúng thời đúng xứ được Tổ sư Minh Đăng Quang
khai sáng mang đậm nét của người Việt Nam. Ngài đã tích hợp hai tư tưởng
Nam truyền và Bắc truyền lấy cái ở giữa không quá ép xác, cũng không quá
trưởng dưỡng mà tu tập để trở thành cái mới của riêng cho Hệ phái Khất Sĩ.
67
Tuy là một hệ Phái sanh sau ra đời muộn nhưng có một đường lối tu tập riêng
không, bằng thân giáo, khẩu giáo mà Tổ sư đã uyển chuyển tùy theo căn cơ
trình độ mà Ngài hóa duyên, Ngài kế thừa tư tưởng của chư Phật, Tổ tinh thần
nhập thế làm lợi ích cho mọi người. Ngài đã vạch ra con đường trung đạo, con
đường này là pháp môn tu tập duy nhất cho người tìm cầu giải thoát, phương
pháp tu này như là một nghệ thuật sống đưa chúng ta từ mê sang bến giác,
vượt ra khỏi mọi hệ lụy của đời thường, vượt lên sự chi phối của ngũ dục và
tà kiến vô minh, không còn chấp giữ cho mọi cái là của ta nhận biết được các
pháp là vô thường đều biến đổi, tan rã khi hết duyên, không bền chắc có gì là
của ta nên từ đó bớt đau khổ, khi mọi việc đến đều bình tỉnh giải quyết rất
khoa học. Ngài đã phương tiện chuyển từ ngữ sang tiếng Việt làm cho người
Miền Tây Nam Bộ lúc bấy giờ nói riêng và người Việt nói chung đễ hiểu hơn,
đây cũng là nét riêng của Hệ Phái Khất Sĩ, vì vậy mà trong mười năm Ngài
hành đạo đã được mọi người tiếp nhận và hành trì, tạo niềm tin kiên cố trong
lòng người phật tử thời bấy giờ. Đạo Phật Khất sĩ đã được chư Tôn đức tiếp
nối và phát triển rất mạnh sau khi Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng đến
nay hơn 70 năm đã được lan rộng, lan xa không những ở trong nước mà đã
đến các nước Âu Châu, Úc Châu hay Mỹ Quốc. Ngày càng được mọi người
tin tưởng hành trì theo nếp sống đơn giản, sống trong tinh thần lục hòa cọng
trụ, qua hình ảnh của một nhà sư, tuy phương pháp khất thực không còn
nhưng vẫn có những vị hành độc giác, nhưng với hình ảnh khất thực tuyệt đối
không nhận tiền và đi trong chánh niệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Trần Ca Dao ( 2014),Pháp môn khất thực của hệ phái Khất sĩ tại
Nam Bộ trong bối cảnh xã hội đương đại. Luận văn Thạc sĩ - Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TPHCM.
[2] HT. Thích Minh Châu (1982) Kinh Tương Ưng, Viện NCPHVN.
[3] TS. Thích Giác Duyên (2006),Tìm hiểu về hệ phái Khất sĩ. NXB
Phương Đông.
[4] NS. Thích nữ Trí Hải (dịch), Thanh Tịnh Đạo Luận.
[5] Maha-Nara-Thera. Phạm Kim Khánh dịch (1989) Đức Phật và
Thánh Chúng.
[6] NT. Thích nữ Huỳnh Liên (2012) Đóa sen thiên. Nxb Tổng hợp
TP.HCM
[7] Tổ sư Minh Đăng Quang (1998) Chơn lý, Nxb TP.HCM.
[8] Tổ sư Minh Đăng Quang (1998) Luật nghi Khất sĩ. Nxb TP.HCM.
[9] Võ Kim Quyên (2004) Tôn giáo và đời sống hiện đại. Nxb Khoa học
xã hội.
[10] Lê Thọ Quốc (2006) Một số vấn đề về hệ phái Khất sĩ Việt Nam, Thông
tin khoa sự Phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế.
[11] Ánh Minh Quang (2004) Nxb. TP.HCM.
[12] Hệ phái Khất sĩ (2008) Nghi thức tụng niệm. Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[13] HT. Thiện Tâm (1994) Niệm Phật thập yếu. Thành hội Phật giáo TP.HCM.
[14] HT. Thích Quảng Tánh. Khất sĩ là gì?
[15] HT. Thích Giác Toàn (2009) Tìm lại nguồn xưa. Lược sử tưởng niệm
Đức tổ sư Minh Đăng Quang. Nxb Tổng hợp TP.HCM.
[16] HT. Thích Giác Toàn (2002) Tổ sư Minh Đăng Quang với chí nguyện
nối truyền Thích ca – chánh pháp. Hội thảo khoa học 300 năm PG Gia
Định – Sài Gòn. Nxb TP.HCM.
[17] HT. Thích Thanh Từ (2003) Kinh Kim Cang giảng giải. Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
[18] Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2012) Kỷ yếu hội thảo 300 năm thành
lập giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nxb Tôn giáo Hà Nội.
[19] Các bài tham luận.
[20] Các trang Web : Đạo Phật Khất sĩ, Vườn Lộc Uyển, Ánh Nhiên Đăng.
[21] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Đạo Phật khất
sĩ, Nxb Tôn giáo, Hà nội.
[22] Nối Truyền Thích Ca Chánh Pháp Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, (2013)
Di Bảo. NXB Tổng Hợp, TP.HCM.
[23] Thích Giác Duyên,(2014) Hệ Phái Khất Sĩ 70 năm Hình Thành và
Phát Triển, Nxb Tôn giáo.
[24] Nguyễn Lang, (2018) Việt Nam PG Sử Luận, NXB Văn Học, Hà Nội.
[25] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2009) Chơn Lý, Tr 764,767,Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
[26] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2009) Chơn Lý tập III, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội.
[27] Hệ Phái Khất Sĩ,(1998) Chơn LýLuật Nghi Khất Sĩ, NXB, TP HCM.
[28] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý,Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[29] Thích Giác Duyên,(2014) Hệ Phái Khất Sĩ 70 năm Hình Thành và
Phát Triển, Nxb Tôn giáo.
[30] Hệ Phái Khất Sĩ (1998) Luật nghi khất sĩ, Nxb Tp HCM.
[31] Tổ sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
[32] HT Quảng Độ(dịch)(2000), Phật Đại từ điển, tập 2, Nxb Đài Bắc.
[33] Minh Đăng Quang(2009), chơn lý tập 1, bài Y bát chơn truyền, Nxb
tôn giáo Hà nội.
[34] Tổ sư Minh Đăng Quang(2009), Chơn lý, tập 1, bài Y Bát chơn
truyền, Nxb Tôn giáo, Hà nội.
[35] Minh Đăng Quang (2009),Chơn lý tập 1, bài Trên mặt nước, Nxb Tôn
giáo, Hà Nội.
[36] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2012) Luật nghi Khất sĩ. NXB Tổng hợp
TP HCM.
[37] Thích Đổng Minh ( dịch)(2012) Luật tứ Phần, Viện Nghiên cứu Phật
Học Huệ Nghiêm. NXB Phương Đông.
[38] Tổ Sư Minh Đăng Quang (2009) Chơn Lý tập 2, bài Chánh Pháp,
Nxb Tôn giáo, Hà nội.
[39] Minh Đăng Quang (1965) Luật nghi Khất sĩ,Nxb Tp. HCM.
[40] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 1,bài Nhập định,Nxb
Tôn giáo, Hà nội.
[41] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Hòa bình, Nxb
Tôn giáo, Hà nội.
[42] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Đạo Phật khất
sĩ, Nxb Tôn giáo, Hà nội.
[43] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 2, bài Tông giáo, Nxb
Tôn giáo, Hà nội.
[44] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 3, bài Tu và nghiệp,
Nxb Tôn giáo Hà nội.
[45] Tổ Sư Minh Đăng Quang, (2009) Chơn Lý, tập 1 bài Vũ trụ quan, Nxb
Tôn giáo Hà nội.
[46] Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, Đóa Sen Thiên, NXB. Tp.HCM,
2012, tr.223.
[47] Thích Minh Châu (dịch) (2000), Kinh Tương Ưng, tập II, tr.129.
PHẦN PHỤ LỤC
1. Kính bạch HT. GT. ở Tp. HCM. Phương pháp khất thực hiện nay
không còn thực hiện được nữa vậy có ảnh hưởng gì đến Hệ Phái Khất sĩ
không ?
Đúng là phương pháp khất thực là hình ảnh Tăng xưa tu tập nhưng hiện nay
bị lạm dụng quá nhiều vì vậy chư Tôn đức tạm cho ngưng để cũng cố, kiểm
tra tăng chúng, tất nhiên cũng bị ảnh hưởng ít nhiều, vì đây là phương pháp
thân giáo của Tổ Sư Minh Đăng Quang giúp cho mọi tầng lớp đều có thể
cúng dường, giúp cho họ biết mở lòng mình ra, nhưng vì bị lợi dụng làm việc
phi pháp quá nhiều của những tăng giả nhiều nên tạm ngưng. Nhưng trong
nhưng sự kiện được tổ chức tại các Tịnh Xá đều co0s tổ chức hình ảnh tăng
đoàn đi hóa duyên cả, có như vậy việc đi khất thực không bị lãng quên.
2. Hỏi: kinh bạch HT. GT. ở TP.HCM.
Trong giới, định,tuệ của Tổ Sư Minh Đăng Quang, có điều gì khác với hai tu
tưởng Phật Giáo hiện tai không ạ?.
Giới, Định, Tuệ của Tổ Sư cũng được rút tỉa từ 2 tư tưởng lớn Bắc truyền và
Nam truyền nhưng được rút gọn lại cũng như chuyển sang việt ngữ và có
những phần điều chỉnh lại nên có phần dễ học dễ hành hành hơn, ví dụ: trong
thức xoa ma na ni có luật 114, Tổ gói gọn Giới lại. Cũng vậy định Tổ dạy chủ
yếu là điều thân, điều tức cái chính là điều phục thân, khẩu, ý tạo nghiệp.
Thiền của Tổ sư dùng quán chiếu để quay trở lai với chính mình không khư
khư dùng tứ niệm xứ hay thiền công án mà Ngài đã trãi dài ra tùy theo ai hợp
phương pháp nào thì hành phương pháp đó. Nên khác hẳn với thiền của hai
tông phái kia. Ngài chủ yếu dùng 40 đề mục quán chiếu tu tập.
3. Hỏi: Thưa sư cho con hỏi: (ĐĐ Thích Minh Sĩ. ở Tp. HCM)
Trong phương pháp đi khất thực có theo quy luật nào không?. “Các quy
định đó có ghi lại trong Luật Ghi khất sĩ (ở phần phụ lục). Vị khất sĩ được
phép đi khất thực phải là Sa di đã thọ mười giới trở lên và phải được thầy dạy
cho đạo Y bát chơn truyền. Tuy theo quy định thì người tu khất sĩ phải đi khất
thực mỗi ngày vào buổi sáng, và chỉ nhận thức ăn chay và Tổ sư cũng đã quy
định rõ cách đi khất thực với nhiều mục đích khác nhau: Để giữ gìn phẩm
hạnh của người xuất gia, khi đi chân đạp đất,đầu không đội bất cứ cái gì, bước
đi chậm rãi, mắt cách mặt đất một mét không nhìn ngang dọc, tâm luôn thanh
tịnh niệm Phật.” Có thể nói mỗi hạnh kiểm của người hành trì khất thực đều
toát lên một bài pháp không lời, qua bước đi, hình tướng. Làm cho người
cúng rất hoan hỷ, đây là bài học Thân giáo mà Tổ đã dạy để giúp cho mọi
người mở lòng mình ra, biết bố thí cúng dường.
4. Hỏi: Dạ thưa sư cho con hỏi sư đi khất thực có lợi ích gì trong pháp tu
không? (ĐĐ Thích Minh Lợi ở Thủ Đức)
Thưa có, đi khất thực giúp cho mình bỏ đi tánh mắc cỡ, nói thiệt nhà
của sư cũng thuộc khá giả nên lúc ở nhà chưa bao giờ sư phải đi như vậy, sư
rất sợ gặp người quen, dần sư lại thích đi khất thực vì nó tạo cho mình một
niềm hạnh phúc, phật tử coi mình như một ông Phật vậy đó, họ rất cung kính,
lúc cúng họ quỳ lạy nữa nên sư rất sợ vì mình tu chưa là gì mà có những phật
tử đáng ông bà mình mà quỳ lạy. Đi khất thực tập cho mình tự chỉnh oai nghi
cần có,giới hạnh được tăng trưởng, một khi đã khoát lên mình chiếc y ôm
bình bát đi khất thực có cảm giác như mình đang sống trong thời Đức Phật
vậy, ôm bát đi xin nhưng thấy nhẹ nhàng giải thoát lắm. Đi khất thực là tập
cho mình diệt trừ cái ngã, bỏ bớt tâm tham, bớt đi cái lăng xăng bên ngoài, tập
cho mình giữ hạnh kiểm của người tu.
5.Hỏi: Dạ thưa sư cho con hỏi: là một tu sĩ trẻ sư có quan niệm như thế
nào trong việc đi khất thực? (ĐĐ Thích Minh Thanh ở Biên Hòa)
Đây là pháp môn thiết thực nhất mà Tổ sư đã dùng thân giáo để giáo
hóa mọi người. Chữ “Khất thực” ở đây có nhiều nghĩa lắm có thể xin ăn, hoặc
là hóa duyên, hay nhập thế cũng được. Vì từ nào cũng đúng và có nghĩa riêng
của nó, nếu xin ăn thì giúp cho người tu dẹp được bản ngã tự cao, biết quý
trọng những vật thực mà người làm ra và nhớ ơn của đàn na thí chủ đã cúng
dường. Còn hóa duyên là tạo cho phật tử biết bố thí cúng dường, và đi khất
thực là để cho những phật tử không có điều kiện đến chùa biết mở lòng mình
ra rồi lần lần họ sẽ đến chùa, không phân biệt giàu nghèo gì cả, cúng một gói
xôi nhưng thành tâm cúng thì phước báu lớn hơn người cúng nhiều nhưng
phân biệt, nghĩ mình cúng sẽ hưởng phước nhiều là sai, cách cúng đường
quan trọng hơn của cúng. Nhập thế là lấy đó làm phương tiện mà tìm hiểu
cách va chạm coi tâm ta có đủ sức chịu đựng trong chốn náo loạn của thế gian
không, hay ta có đủ bình tỉnh để xử lý sự việc không, vì Tổ đưa ra phương
pháp này cũng là tập cho người tu bình tỉnh trước mọi người, mọi việc.
6.Hỏi: Dạ thưa cô cho con hỏi tại sao cô phải quỳ giữa trời nắng để chờ
cúng dường mà không đến chùa cúng (cô Ngọc Lành phật tử TX. Ngọc An).
Hôm nay là ngày giỗ sư bà nên mấy Ni trưởng tổ chức đi khất thực.
Đây là dịp để chúng con có cơ hội cúng dường chứ lâu lắm rồi chúng con
không thấy quý sư đi khất thực. Con còn nhớ hồi đó sáng ra khoảng 7 giờ hơn
là có quý sư đi khất thực, có bữa chúng con mấy chị em hùn lại mua được
mấy gói xôi và mấy bịch chè để bát mà bữa đó chúng con vui lắm, tại vì sáng
nào quý sư cũng như quý ni sư đi khất thực, nên chúng con phần thì ít tiền mà
có mua cũng không thể cúng hết được, có bữa một nãi chuối mà chúng con
cúng được nhiều người, nhưng nếu có cúng nhiều thì quý sư không nhận và
quý sư có dạy con cúng ít thôi để người khác cúng với chứ, con cúng hết đầy
bát quý sư về thì còn nhiều người không được cúng dường. Nhờ có quý sư
cũng như quý ni sư đi khất thực mà chúng con mới biết đến chùa, cũng như
biết bố thí cúng dường, biết cỡi mở hơn, biết đem của ra chia sẽ cho người
khác, biết thông cảm cho người khác, nhờ vậy mà chúng con biết đến chùa lễ
Phật. Con thấy hiện nay đi khất thực mà cái gì cũng nhận cả tiền cũng nhận
luôn nên có lẽ vì vậy mà quý sư không đi khất thực nữa.Điều nầy làm cho
chúng con không có dịp để cúng dường để bát nữa.
7.Pt: 78 tuổi ở Dĩ An Bình Dương:
Cho hỏi pháp môn khất thực đã giúp gì cho một cư sĩ tu theo Hệ phái
Khất sĩ ?
Dạ con thưa Sư cô đây là hình ảnh của một vị tu sĩ thời đức Phật theo
kinh sách mà con đã được đọc, và giúp cho hàng Phật tử chúng con được
cúng dường vì chúng con nghĩ muốn cúng dường thì phải có nhiều tiền mới
đến chùa cúng được nhưng có một số không có tiền nhiều nhưng có thể cúng
một cái bánh vài cây kẹo nhưng với tâm thành chúng con cúng được, nhờ vậy
mà chúng con đã dẹp được lòng tự ty, biết bố thí cúng dường và được dạy sự
cúng dường
8.Kính bạch Ni trưởng cho con hỏi: Trong Tứ Y pháp của Tổ Sư dạy
trong Chơn Lý đến hôm nay có gì thay đổi không ạ.
Nói chung do ngày xưa thời Tổ Sư mới khai đạo, với ý nguyện “ Nối
truyền Thích Ca chánh pháp” vì thế Ngài hành đạo với hình bống Tăng xưa
và pháp môn khất thực là một trong những pháp không thể thiếu của người tu
Khất Sĩ. Ở đây Tổ Sư chủ yếu là dùng thân giáo để giáo hóa cho hàng để tử
cả Tăng lẫn tục của Ngài dẹp bỏ chấp trước ngã mạn, vì con người sống ở đời
họ rất quan trọng vấn đề ăn mặc ở bịnh, nếu muốn vào hàng xuất gia thiệt thọ
thì cần phải thực hành “Tứ Y Pháp” sống một cuộc sống đơn giản thanh bần,
không có gì ngoài tam y nhất bát mà thôi. Lấy màn trời chiếu đất làm nhà, ăn
không cầu no, ngủ không cầu ấm êm. Mối đạo mới là chính, tuy hôm nay
viêc hành đạo duy chuyển không được, pháp môn khất thực cũng tạm ngưng
Tăng Ni tạm trú một chỗ nhưng phưng pháp tu tập của Tổ sư vẫn không bị
mai một, nó có sự kế thừa và phát huy lên, nhân rộng ra thêm ở nhiều phương
diện khác nhau như tổ chức các khóa tu truyền thống hay các khóa tu khác
nhau. (Ni trưởng Hiệp Liên trụ trì TX Ngọc Trung An Khê)
9.(Ni Cô HL ở Long An)
Thưa sư cô cho hỏi cho hỏi sau khi trãi qua khóa tu “ Đạo Hạnh” sư cô
nhận thức được gì trong khóa tu này.
Thưa là một Ni cô sắp được đi thọ giới con thấy khóa tu này rất bổ ích
cho giới tử chúng con. Điiều đầu tiên là tạo cho chúng con một môi trường
cùng nhau tu học trong bảy ngày, chúng con được quý Ni trưởng sát tấn dạy
dỗ cho chúng con từ cách ăn, cách ngũ, hay cách nằm cũng nhu cách ăn mặc
cho đúng cách khi ra đường. Từ những cái rất nhỏ ấy đã làm cho chúng con
chỉnh đốn đạo hạnh oai nghi của chúng con trước khi được thọ giới pháp ( đây
là khóa tu đạo hạnh dành cho giới tử trước khi thọ giới). Trong bảy ngày này
tạo cho chúng con cách sống chung tu học trong tinh thần lục hòa cho nên đây
là một khóa tu không thể thiếu cho những ai sắp được bước vào hàng xuất gia
thực thụ. Cám ơn sư cô.
10. ( Ni cô Liên Trâm. ở TX Ngọc Chơn. Quận Bình Thạnh. Tp HCM)
Ni cô cho hỏi là một Ni trẻ sống trong thời đại mới công nghệ Ni cô có
thấy điều gì bất cập không. Dạ thưa là một tu sĩ trẻ đang sống trong thời đại
vật chất dồi dào, được đi học rất nhiều thứ nhưng chúng con rất sợ, con cũng
có duyên lành nên được ở một trú xứ có Quý Ni Trưởng nghiêm về giới luật,
chúng con được rèn luyện thời khóa nên chúng con rất vui, vì khi ra đi học có
được kiến thức nhưng cũng phải đánh đổi rất nhiều nếu không khéo biết giữ
lấy chính mình thì dễ bị cám dỗ bởi vật chất ấy, rồi oai nghi tế hạnh cũng
không còn ăn nói thì không kiên nể ai cả. Nên nếu được thì con xin những
năm đầu mới xuất gia thì cần ở nhà để thầy tổ dạy oai nghi tế hạnh, tập sống
đơn giản để khi đi ra vẫn con giữ được chút bóng dáng của người tu.
11. Sư MH ở tại TX Ngọc Đăng. Tp. HCM.
Dạ thưa sư cho con hỏi trong tu tập hằng ngày sư có còn giữ các thờthiền
hành không ạ theo con được biết buổi sáng không có tụng kinh mà chỉ có ngồi
thiền.
Dạ đúng rồi buổi sáng chủ yếu quý sư ngồi thiền là chính đây là một trong
pháp tu chính của một ngày, vì từ xưa đến nay buổi tối có thời công phu tối
nhưng buổi sáng là giờ tu tập của riêng chư Tăng cũng như chư Ni. Mỗi sáng
phải tỉnh tâm trong một tiếng đồng hồ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_mot_so_dac_trung_tu_tap_cua_he_phai_khat_si_tu_khoi.pdf