VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN DŨNG
CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN DŨNG
CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QU
83 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận văn Chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 83.801.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC
HÀ NỘI, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma
túy theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS.TS. Phùng Thế Vắc. Các nội dung, thông tin được trình bày trong luận
văn là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày 31 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Dũng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma
túy ................................................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy ............ 7
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma
túy ............................................................................................................................. 10
1.2. Quy định về đối tượng và giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy ................................................................................................................ 12
1.2.1. Đối tượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy .............. 12
1.2.2. Giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy ................. 22
1.3. Các hoạt động chứng minh cụ thể trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy . 24
1.3.1. Thu thập chứng cứ .......................................................................................... 25
1.3.2. Kiểm tra và đánh giá chứng cứ ...................................................................... 30
1.4. Ý nghĩa của việc chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy ....... 33
Chương 2: THỰC TRẠNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017 ............................................... 38
2.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................... 38
2.2. Hạn chế về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy của cơ quan
tiến hành tố tụng ........................................................................................................ 43
2.3. Nguyên nhân của hạn chế ................................................................................. 49
2.3.1. Nguyên nhân từ những quy định của pháp luật ............................................. 49
2.3.2. Nguyên nhân từ phía chủ thể có trách nhiệm chứng minh ............................ 52
2.3.3. Nguyên nhân khác .......................................................................................... 54
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI
PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............ 58
3.1. Dự báo ................................................................................................................ 58
3.2. Một số phương hướng và giải pháp cơ bản góp phần nâng cao chất lượng chứng
minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại Quận 1 .................................... 58
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
MBTPCMT Mua bán trái phép chất ma túy
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
THTT Tiến hành tố tụng
TTHS Tố tụng hình sự
VAHS Vụ án hình sự
VKS Viện kiểm sát
VKS Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy và bị can bị khởi tố - số liệu từ
năm 2013 đến năm 2017...........................................................................
Bảng 2.2. Số vụ án mua bán trái phép chất ma túy Viện kiểm sát truy tố và Tòa án
đưa ra xét xử từ năm 2013 đến năm 2017
Bảng 2.3. Số vụ án Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 trả hồ sơ cho CQĐT để điều
tra bổ sung từ năm 2013 đến năm 2017 ..............................................................
Bảng 2.4. Số vụ án TA trả hồ sơ điều tra bổ sung cho VKS từ năm 2013 đến năm
2017
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chứng minh trong vụ án hình sự (VAHS) đối với tội mua bán trái phép chất
ma túy (MBTPCMT) là một vấn đề phức tạp, vừa mang tính lý luận, tính thực tiễn
đồng thời có tính quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự đối với tội
MBTPCMT. Việc hiểu rõ và nhận thức đúng về quá trình chứng minh trong vụ án
MBTPCMT sẽ đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
(CQTHTT) được khách quan, chính xác, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Quá trình chứng minh trong VAHS gồm nhiều bước như thu thập, và đánh giá,
sử dụng chứng cứ. Thu thập chứng cứ làm cơ sở cho việc chứng minh các đối tượng
cần chứng minh trong vụ án hình sự, nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án thuộc về
trách nhiệm của các CQTHTT. Quan hệ pháp luật hình sự có nội dung là mối quan
hệ giữa một bên là Nhà nước một bên là người phạm tội, Nhà nước với tư cách là
chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quyết định hành vi nào là phạm tội
đồng thời buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải gánh chịu hậu quả pháp lý
bất lợi bằng bản án của TA (TA) hoặc các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Để kết án một người là có tội và phải chịu chế tài hình sự tương ứng với
hành vi gây ra thì phải chứng minh hành vi của họ là phạm tội, theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam thì “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các CQTHTT”. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về CQTHTT là
một phần của nguyên tắc “Xác định sự thật của vụ án” trong pháp luật TTHS Việt
Nam. Trên thực tiễn, việc thực thi nguyên tắc trên của các chủ thể có trách nhiệm
chứng minh tội phạm trong VAHS còn nhiều vấn đề tồn tại, trong thời gian vừa qua
trách nhiệm của CQTHTT thực hiện chưa tốt, còn nhiều vụ án oan sai dẫn đến mất
lòng tin của nhân dân vào pháp chế Nhà nước. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ
thống về mặt lý luận, thực tiễn về trách nhiệm chứng minh tội phạm của từng
CQTHTT, trên cơ sở đó giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất
những phương hướng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các CQTHTT trong
2
quá trình chứng minh tội phạm, bảo đảm xác định sự thật khách quan của vụ án là
vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi pháp luật để
bảo đảm quyền con người và tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật trong giai
đoạn hiện nay.
Mặc dù vậy, việc nghiên cứu để áp dụng quy định của pháp luật vào quá trình
thực hiện chứng minh trong vụ ánMBTPCMT của các CQTHTT ít được quan tâm
nghiên cứu. Bên cạnh đó, thời gian qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định
về vấn đề này ở chừng mực nào đó còn chưa cụ thể và chặt chẽ. Mặt khác, trong
thực tiễn áp dụng pháp luậtcòn nhiều vấn đề chưa thống nhất về nhận thức, thậm chí
có những quan điểm trái nhau. Trong thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống
tội phạm ma túy ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minhhiện nay vẫn còn phức tạp;
trong thời gian qua các cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh
đã thực hiện tốt việc chứng minh đối với tội này, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đảm
bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giữ vững ổn định tình hình an
ninh, kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vụ án mà các
CQTHTT chưa chứng minh triệt để, còn nhiều sai sót, dẫn đến việc điều tra, truy tố,
xét xử không đúng người, đúng tội và nhiều trường hợp để lọt tội phạm, bị TA trả
điều tra bổ sung nhiều lần từ đó cho thấy việc nhận thức và áp dụng pháp luật về
chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT còn nhiều bất cập. Từ đó cho thấy,
việc nhận thức và áp dụng pháp luật về quá trình chứng minh trong vụ án
MBTPCMT của một số chủ thể tố tụng hình sự chưa được triệt để, trong khi đó việc
nghiên cứu quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở nước ta là một nội
dung quan trọng có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và thực tiễn, làm cho hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm MBTPCMT đạt hiệu quả cao, giúp cho các
CQTHTT trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh làm rõ sự thật khách quan
của vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đáp ứng được yêu cầu của chính quyền
địa phương. Chính vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Chứng minh trong
vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chứng minh trong vụ ánMBTPCMT đã được khá nhiều công trình nghiên
cứu trước đây đề cập, đáng chú ý là các công trình sau đây:
- Nguyễn Văn Du (2006), Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội
- Mạc Thị Duyên (2012), Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
- Nguyễn Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy
ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội
- Vũ Ngọc Hà (2013), Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
- Nguyễn Minh Ngọc (2014), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự,
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội
Những tác giả kể trên chủ yếu tiếp cận nghiên cứu ở góc độ khái quát nhất
hoặc dưới góc độ so sánh nó với các tội phạm khác trong chương các tội phạm về
ma túy, chưa cập nhật những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
(BLTTHS năm 2015), bên cạnh đó chưa có một công trình nào đảm bảo được tính
logic, hệ thống, sâu sắc, toàn diện về chứng minh trong vụ án MBTPCMT theo
pháp luật TTHS Việt Nam.
Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án MBTPCMT trên địa bàn Quận
1, Thành phố Hồ Chí minh đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình chứng minh trong VAHS đối với
tội MBTPCMT cụ thể tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói
chung. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm không ngừng hoàn thiện Bộ luật hình
sự (BLHS) vàBộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam, trên cở sở đó tạo nền
tảng cho các CQTHTT khắc phục thiếu sót nhằm áp dụng pháp luật chính xác, xử lý
công minh đảm bảo công bằng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết
4
49 của Bộ Chính trị, cũng như đáp ứng công tác phòng ngừa tội phạm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT trên địa bàn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, luận văn nghiên cứu làm rõ một cách toàn diện và có hệ
thống dưới góc độ lý luận và thực tiễn của chứng minh trong VAHS đối với tội
MBTPCMT; làm sáng tỏ những vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận, hạn chế sai
sót khi giải quyết các vụ án MBTPCMT; làm rõ cơ sở khoa học, căn cứ pháp lý của
quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMTtheo tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; chỉ ra những nguyên nhân thiếu sót đã
mắc phải, từ đó đưa ra những giải pháp khả thi để hoàn thiện việc chứng minh trong
vụ án MBTPCMT ở Quận 1 nói riêng, Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, quá trình nghiên cứu luận văn giải quyết một
số nhiệm vụ như: Thứ nhất, nghiên cứu lý luận về quá trình chứng minh trong
VAHS đối với tội MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Thứ hai,đánh
giá thực trạng quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT của các
CQTHTT của Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua.Thứ ba, đề
xuất một số giải pháp trong quá trình chứng minh trong VAHS đối với tội
MBTPCMT, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các CQTHTT và những người
tiến hành tố tụng trong chứng minh đối với tội MBTPCMT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận cơ bản về chứng minh trong VAHS đối với tội
MBTPCMT và thông qua một số vụ án tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minhđể làm
sáng tỏ những ưu điểm cũng như vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án
liên quan đến tội phạm này.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về lý luận và thực tiễn, hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT rất đa
dạng và phong phú, gồm nhiều giai đoạn khác nhaunhư điều tra, truy tố, xét xử với
sự tham gia của nhiều chủ thể chứng minh tương ứng với từng giai đoạn tố tụng như
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử. Tuy nhiên trong phạm vi Luận văn
này, tác giả chỉ nghiên cứu thực tiễn hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT
ở giai đoạn truy tố với vai trò chính của VKS (VKS) theo pháp luật TTHS Việt
Nam từ thực tiễn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 5 năm từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học luật
hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra để tổng
hợp tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn giúp làm rõ những vấn đề lý luận chung về chứng minh trong vụ án
MBTPCMT như khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý; các hoạt động chứng
minh cụ thể trong giai đoạn truy tố trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện chế định này và việc
áp dụng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần phát triển lý
luận về chứng minh trong vụ án hình sự đối với tội MBTPCMT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh việc hoàn thiện về mặt lý luận, với việc vận dụng và đưa vào phân
6
tích các vụ án cụ thể, rút ra những vướng mắc thường gặp trong quá trình chứng
minh trong VAHS đối với tội MBTPCMT, luận văn cũng có ý nghĩa như là một
nguồn tài liệu tham khảo cho những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng nghiên cứu phục vụ cho thực tiễn áp dụng pháp luật, nâng cao chất lượng hiệu
quả hoạt động trong hoạt động tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Môt số vấn đề lý luận chung về chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túy
Chương 2: Thực trạng chứng minh vụ án MBTPCMT trong giai đoạn truy tố
tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
chứng minh trong vụ án MBTPCMT tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất
ma túy
1.1.1. Khái niệm về chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy
Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của con người. Hoạt động
chứng minh của con người được tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thì hoạt động chứng minh có những nét khác nhau.
Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung là việc chủ thể sử dụng những
phương tiện để làm sáng tỏ sự thật khách quan, khẳng định tính đúng đắn của một
vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Hiểu theo nghĩa chung nhất “tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội liên quan đến ma túy được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý”. Và pháp luật hình sự và
khoa học pháp lý của nước ta đã cho rằng MBTPCMT thể hiện các hành vi cụ thể
là: Bán trái phép chất ma túy cho người khác; mua chất ma túy nhằm bán trái phép
cho người khác, vận chuyển chất ma túy để bán trái phép cho người khác; xin chất
ma túy nhằm bán trái phép cho người khác; dùng chất ma túy để trao đổi, thanh
toán,... trái phép; tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép; dùng tài sản (không phải
là tiền) đem trao đổi, thanh toán... lấy chất ma túy để bán lại trái phép cho người
khác. Như vậy tất cả hành vi trên được xem là hành vi MBTPCMT, và người thực
hiện hành vi trên được xem là phạm tội MBTPCMT [34, tr. 6].
Quá trình xác định sự thật là một quá trình vô cùng phức tạp, khi giữa các
giai đoạn đều có sự liên quan mật thiết với nhau. Khi có đủ căn cứ khẳng định có
dấu hiệu của tội phạm thì mới có thể khởi tố vụ án, và đó chính là căn cứ để tiến
hành các hoạt động điều tra. Kết quả điều tra chính là cơ sở để VKS quyết định truy
tố bị can hoặc đình chỉ vụ án, đồng thời nó cũng là cơ sở để TA xét xử đúng người
8
đúng tội. Việc xác định sự thật vụ án còn phụ thuộc vào những tình tiết, chứng cứ
của vụ án đòi hỏi CQTHTT phải làm sáng tỏ.
Quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy rất quan trọng, luôn đòi
hỏi phải đảm bảo nhiều yếu tố mang tính nguyên tắc: Phải đảm bảo ngăn chặn kịp
thời hành vi phạm tội và tránh những hậu quả xảy ra cho cộng đồng; trừng trị đúng
tội và đúng mức độ nguy hiểm của người phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội hoặc xâm phạm những lợi ích hợp pháp của công dân, cải tạo
giáo dục người phạm tội thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, BLHS xác định rõ
những hành vi được xem là tội phạm MBTPCMT. Cùng với những quy định của
BLHS, việc phát hiện xử lý các tội phạm còn phải được tiến hành theo những thủ
tục và trình tự do BLTTHS quy định, trong đó các quy định liên quan đến quá trình
chứng minh VAHS chiếm một vai trò quan trọng và quyết định đòi hỏi cần có sự
tuân thủ nghiêm ngặt nhằm đạt được mục đích cuối cùng là giải quyết đúng đắn vụ
án. Chứng minh trong vụ án MBTPCMT là hoạt động đặc thù đối với một loại tội
phạm cụ thể, đồng thời là phạm trù bao hàm rất nhiều hoạt động có nội dung liên
quan đến khoa học pháp lý tố tụng. Trong đó bao gồm việc sử dụng chứng cứ làm
phương tiện của việc chứng minh nhằm xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với
việc giải quyết đúng đắn vụ án, bao gồm cả toàn bộ quá trình chứng minh (thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ), xác định đối tượng chứng minh, phạm vi chứng minh,
giới hạn chứng minh và nghĩa vụ chứng minh đối với vụ án. Trong vụ án ma túy,
chúng ta cần phải nhận thức đúng đắn về các vấn đề nêu trên, tránh nhầm lẫn giữa
các phạm trù trong chứng minh và sử dụng chứng cứ làm phương tiện chứng minh
một cách hiệu quả [34, tr. 8].
Quá trình chứng minh trong một vụ án bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố
vụ án bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các CQTHTT khác nhau như: Hoạt
động điều tra, hoạt động truy tố và hoạt động xét xử. Mỗi hoạt động đó đều hàm
chứa các hành vi tố tụng khác nhau. Trong TTHS, chứng minh là quá trình khôi
phục lại sự thật khách quan của vụ án, là quá trình nhận thức sự thật khách quan. Cơ
sở lý luận nhận thức của hoạt động nhận thức này chính là lý luận nhận thức của
9
triết học Mác – Lênin. Lý luận nhận thức Mác – Lênin khẳng định rằng: Nhận thức
là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và
phát triển không ngừng tự không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện
tượng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật
của sự vật và hiện tượng [36, tr. 12].
Tuy nhiên, BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 và các văn bản pháp
luật liên quanchưa có định nghĩa cụ thể về chứng minh, cũng như quá trình chứng
minh trong vụ án MBTPCMT. Khi giải quyết các vụ án MBTPCMT, người tiến
hành tố tụng cần phải chứng minh những sự việc có liên quan đến hành vi phạm tội
để khẳng định chính xác hành vi phạm tội, người phạm tội và mức độ phạm tội. Để
đạt được mục tiêu này, các cơ quan điều tra về tội phạm ma túy phải dựa vào các
chứng cứ để chứng minh rõ tội phạm đã xảy ra, xác định lỗi của bị can, bị cáo, tức
là chứng minh người thực hiện hành vi phạm tội và họ phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi phạm tội đó. Trên cơ sở những quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam và các văn bản pháp luật khác và thực tiễn có thể hiểu:
Chứng minh trong vụ án MBTPCMT là quá trình mà các CQTHTT, người
tiến hành tố tụng thực hiện hoạt động nhận thức chân lý về vụ án MBTPCMT. Để
đạt được điều này, CQTHTT phải thực hiện các biện pháp do pháp luật TTHS quy
định, làm sáng tỏ tất cả mọi vấn đề có trong vụ án ma túy. Quá trình chứng minh vụ
án MBTPCMT phải tuân theo những quy tắc logic nhất định như việc nhận thức
mọi hiện tượng của hiện thực. Trước tiên cần phải thu thập tài liệu thực tế nhất định,
tiếp đến tài liệu đó phải được phân tích, làm sáng tỏ từng chi tiết cụ thể, từng mặt
của các sự kiện cần được nghiên cứu xem xét, sau đó đưa ra những kết luận khái
quát về các sự kiện đã được nghiên cứu. Chính từ quá trình đó mà chất lượng, giá trị
chứng minh của các thông tin được khẳng định và bức tranh về sự kiện phạm tội
dần được tái hiện như nó vốn có, các cơ sở giải quyết vụ án được hình thành, củng
cố. Tổng hợp các hành vi đó tạo thành nội dung của quá trình chứng minh trong vụ
án MBTPCMT.
Nhận thức về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT là công việc tư
10
duy của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đối với tài liệu chứng
cứ đã thu thập được, đồng thời chính là tổng thể các hoạt động được những người
này tiến hành hướng tới việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Quá trình
chứng minh vụ án MBTPCMT nói riêng và VAHS nói chung phải đảm bảo tính
khoa học chặt chẽ của phương pháp phán đoán, suy luận được ứng dụng đặc biệt
cần thiết và sâu sắc, đồng thời phải đảm bảo chặt chẽ hơn so với hoạt động nghiên
cứu, tư duy, suy luận trong công tác nghiên cứu khoa học. Như vậy, chứng minh
trong vụ án MBTPCMT nói riêng và chứng minh trong VAHS nói chung là tổng
hợp các hành vi tố tụng hình sự do chủ thể là CQTHTT được Nhà nước trao quyền,
cụ thể trong giai đoạn truy tố là VKS tiến hành theo trình tự được BLTTHS quy
định để làm rõ đối tượng, phạm vi, giới hạn chứng minh bằng việc thu thập, kiểm
tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án mua
bán trái phép chất ma túy.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của chứng minh trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy
Xuất phát từ nhiệm vụ các giai đoạn tố tụng cũng như địa vị pháp lý, chức
năng, nhiệm vụ của các chủ thể mà hoạt động chứng minh ở mỗi giai đoạn cũng có
sự khác nhau, những đặc điểm riêng của mình. Với khái niệm về hoạt động chứng
minh trong vụ án MBTPCMT, đặc biệt ở giai đoạn truy tố, chứng minh trong vụ án
mua bán trái phép chất ma túy có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Chủ thể của hoạt động chứng minh. Chủ thể tiến hành các hoạt
động chứng minh trong tố tụng hình sự là các chủ thể có trách nhiệm chứng minh
do pháp luật tố tụng hình sự quy định tùy từng quốc gia với mô hình tố tụng khác
nhau. Các chủ thể chứng minh trong vụ án MBTPCMT là người nắm vững pháp
luật, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên sâu về công tác pháp luật, sử dụng các biện
pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án
MBTPCMTvà trong giai đoạn truy tố, sau khi nhận được toàn bộ hồ sơ do Cơ quan
điều tra (CQĐT) chuyển sang, VKS ra một trong các loại quyết định: Truy tố bị can
trước TA bằng bản cáo trạng; Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ hay
11
tạm đình chỉ VAHS. Chủ thể chứng minh trong giai đoạn truy tố vụ án MBTPCMT
là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thuộc VKS có thẩm quyền truy tố. Những người
tham gia tố tụng cũng tham gia vào hoạt động chứng minh do các chủ thể tiến hành
tố tụng yêu cầu nhưng họ không phải là chủ thể chứng minh.
Thứ hai: Mục đích chứng minh. Quá trình chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túyđược các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định
chân lý khách quan của vụ án. Quá trình chứng minh thực chất là quá trình nhận
thức vụ án hình sự của các chủ thể có trách nhiệm chứng minh. Do đó mục đích của
hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT là xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ để giải quyết đúng đắn vụ án MBTPCMT,
qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ của pháp luật TTHS là bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền là lợi ích cơ bản của công dân và
tổ chức Hoạt động chứng minh nhằm xác định có tội phạm và bị can – người thực
hiện hành vi phạm tội hay không để ban hành cáo trạng, quyết định truy tố hay đình
chỉ vụ án.
Thứ ba: Nội dung chứng minh. Hoạt động chứng minh trong vụ án
MBTPCMT bao gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Để tái
hiện lại sự kiện phạm tội đã xảy ra trước đây một cách khách quan, toàn diện, đầy
đủ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án thì Điều tra viên, Kiểm sát viên phải áp dụng
những biện pháp khác nhau mà pháp luật cho phép nhằm thu thập, kiểm tra, đánh
giá các thông tin mà sự kiện này để lại trong thế giới khách quan dưới hai hình thức
phản ánh trong ý thức của con người và trong môi trường vật chất.
Trong quá trình chứng minh vụ án MBTPCMT, các chủ thể chứng minh cần
xác định đối tượng chứng minh và xác định được giới hạn chứng minh. Chỉ có khi
nào CQTHTT thu thập đầy đủ chứng cứ để có thể đưa ra kết luận về việc tồn tại hay
không tồn tại của các yếu tố thuộc đối tượng chứng minh thì mới có thể nhận thức
đầy đủ về sự thật khách quan của vụ án và trên cơ sở đó đưa ra các quyết định giải
quyết đúng đắn vụ án. Vấn đề này ở từng giai đoạn cần được xem xét kĩ lưỡng. Bởi
lẽ, từ đó mà CQTHTT tiến hành các hoạt động phù hợp đáp ứng yêu cầu của quá
12
trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vấn đề này, trong từng vụ án cụ thể, Kiểm sát
viên và các chủ thể chứng minh khác phải dựa vào các quy định của pháp luật hình
sự, pháp luật tố tụng hình sự, niềm tin nội tâm và ý thức pháp luật để quyết định cần
thu thập, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu những chứng cứ để làm rõ từng tình tiết
và toàn bộ các tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án đó.
Như vậy, đặc điểm dễ nhận thấy của hoạt động chứng minh trong vụ án
MBTPCMT ở giai đoạn truy tố chủ yếu tập trung ở việc kiểm tra, đánh giá, sử dụng
chứng nhằm đưa ra kết luận chính thức về vụ án MBTPCMT thông qua bản cáo
trạng hoặc quyết định truy tố.
1.2. Quy định về đối tượng và giới hạn chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túy
1.2.1. Đối tượng chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy
Đối tượng chứng minh trong VAHS nói chung và vụ án MBTPCMT nói
riêng bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau, mà mỗi sự kiện, tình tiết nói
riêng và tổng thể của chúng nói chung, đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một
cách khách quan, toàn diện và chính xác. Nội dung chủ yếu của đối tượng chứng
minh trong VAHS trước hết là cấu thành tội phạm. Chính cấu thành tội phạm cụ thể
được quy định trong luật hình sự xác định ranh giới những sự kiện, tình tiết chủ yếu
phải chứng minh của vụ án hình sự.
Trong khoa học luật hình sự, cấu thành tội phạm được coi là khái niệm pháp
lý của một loại tội phạm, là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội
phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Những dấu hiệu được mô tả trong
cấu thành tội phạm là những dấu hiệu phản ánh nội dung bốn yếu tố của tội phạm,
nhưng không phải tất cả những dấu hiệu đó đều được đưa vào cấu thành tội phạm.
Có những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm; có những
dấu hiệu có trong cấu thành tội phạm của tội này, nhưng lại không có trong cấu
thành tội phạm của tội khác.
Những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm cũng là
những vấn đề phải chứng minh trong bất kỳ vụ án hình sự:
13
- Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố khách quan của tội phạm.
- Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố chủ quan của tội phạm.
- Dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của
tội phạm [17, tr 23].
Ngoài những dấu hiệu bắt buộc phải có trong tất cả các cấu thành tội phạm
nói trên, những dấu hiệu khác tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu
thành tội phạm, nhưng có thể là những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm cụ
thể, vì vậy chúng có thể là những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Ngoài cấu thành tội phạm, trên cơ sở, căn cứ để quyết định hình phạt được
quy định trong luật hình sự Việt Nam, những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ
án hình sự còn có: Những tình tiết về tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm;
những tình tiết về nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
Thực tiễn cho thấy, khi xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm đã được thực hiện, CQTHTT phải chứng minh:
- Có hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội xảy ra
hay không?
- Tội phạm được thực hiện dưới hình thức gì (một người, nhiều người thực
hiện nhưng không có đồng phạm, đồng phạm hay phạm tội có tổ chức)?
- Hình thức lỗi, mức độ lỗi, mục đích, động cơ phạm tội?
- Giai đoạn thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội, phạm t...giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản
được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này”.
So với quy định tại Điều 65 BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ
sung và hoàn thiện các quy định về thu thập chứng cứ. Căn cứ vào Điều 88
28
BLTTHS năm 2015, hoạt động thu thập chứng cứ được thể hiện bằng các hình thức
sau:
Hình thức chủ động: Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động tiến
hành các hoạt động thu thập chứng cứ là triệu tập người biết việc về vụ án để nghe
họ trình bày, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm, yêu cầu cơ
quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các hoạt động
điều tra khác. BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định người bào chữa cũng là chủ
thể có thẩm quyền thu thập chứng cứ nhưng không bắt buộc phải có nghĩa vụ chứng
minh. Người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm
chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề
liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ
liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
Hình thức thụ động: Người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân tự
mình đưa ra chứng cứ, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề liên
quan đến vụ án. Với hình thức này, lần đầu tiên BLTTHS năm 2015 đã quy định tại
phiên tòa, bị cáo được quyền hỏi bị cáo khác, bị hại, người làm chứng và các đương
sự về các vấn đề liên quan đến bị cáo.
Dù theo hình thức nào thì các thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ án cũng
phải được thu giữ và đưa vào hồ sơ vụ án bằng hình thức tố tụng xác định. Thông
thường, các hoạt động thu thập chứng cứ được ghi nhận bằng biên bản hoạt động tố
tụng theo quy định của BLTTHS.
Thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên của quá trình chứng minh. Để bảo
đảm cho chứng cứ thỏa mãn tính khách quan, liên quan và hợp pháp, việc thu thập
chứng cứ phải được thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Chỉ
được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ chung được quy định tại Điều 88
BLTTHS năm 2015. Đồng thời, việc thu thập vật chứng phải tuân thủ Điều 105
BLTTHS năm 2015; thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử phải tuân thủ
Điều 107 BLTTHS năm 2015. Khi thu thập chứng cứ cụ thể phải tuân thủ các trình
tự, thủ tục quy định đối với các hoạt động tố tụng tương ứng. Để bảo đảm xây dựng
29
một thủ tục tố tụng tư pháp minh bạch, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người và thực hiện các nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được bảo đảm, BLTTHS năm 2015 đã có những quy định mới về thu
thập chứng cứ, cụ thể là:
- Chủ thể thu thập chứng cứ đã có điều chỉnh và mở rộng như đã phân tích
nêu trên.
- Bổ sung thủ tục tiếp nhận chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Theo đó, khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản, kiểm tra, đánh giá và đưa vào hồ sơ
vụ án (khoản 4 Điều 88).
- Bổ sung thủ tục đưa chứng cứ trong giai đoạn điều tra vào hồ sơ vụ án
nhằm tăng cường vai trò kiểm sát của VKS trong hoạt động thu thập chứng cứ;
tránh những trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tùy tiện, không
đưa đầy đủ chứng cứ vào trong việc lập hồ sơ vụ án (khoản 5 Điều 88).
- Bổ sung quy định thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 107
BLTTHS năm 2015). Việc quy định dữ liệu điện tử là một nguồn chứng cứ là điều
cần thiết, tất yếu hiện nay, khi mà các đối tượng sử dụng công nghệ cao để phạm tội
xảy ra ngày càng phổ biến.
Để thu thập dữ liệu điện tử, đầu tiên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải thu giữ phương tiện điện tử lưu trữ các dữ liệu điện tử. Trường hợp không thể
thu thập được phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử. Một hình thức thu
thập chứng cứ là dữ liệu điện tử nữa là chặn thu các dữ liệu điện tử được truyền qua
mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc đường truyền khác. Ngoài ra, CQTHTT có
thể quyết định trưng cầu giám định nhằm phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu
điện tử. Các hoạt động thu thập này được thực hiện trên bản sao và phải chuyển
sang dạng có thể đọc, nghe, nhìn được.
- Bổ sung quy định ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can
(khoản 6 Điều 183 BLTTHS năm 2015). Thực tiễn cho thấy mớm cung, bức cung,
30
dùng nhục hình là nguyên nhân của nhiều vụ án oan sai. Mặc dù tại phiên tòa
nhiều bị cáo đã tố cáo, nhưng không có căn cứ để hội đồng xét xử xem xét. Do đó,
đây là một quy định tiến bộ, nhằm giám sát quá trình hỏi cung bị can, chống dụ
cung, mớm cung, bức cung, tra tấn, dùng nhục hình trong hỏi cung bị can; qua đó
bảo đảm tính khách quan về lời khai của bị can trong quá trình thu thập chứng cứ.
- Bổ sung riêng một chương về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Điều 223
đến Điều 228 BLTTHS năm 2015). Theo đó, sau khi khởi tố vụ án về tội xâm phạm
an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa
tiền hoặc tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong
quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt: ghi âm bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu giữ bí mật
dữ liệu điện tử.
Trên thế giới, rất nhiều quốc gia như Trung Quốc, Đức, Pháp, Hoa Kỳ,
Nga đều có quy định áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt nhằm đấu tranh có
hiệu quả các tội phạm rất nguy hiểm. Tuy nhiên, đây là những biện pháp có nguy cơ
xâm phạm đến quyền tự do, cuộc sống riêng tư của con người; mặt khác, chúng ta
chưa có kinh nghiệm về việc áp dụng thực tiễn. Do đó, từ góc độ thu thập chứng cứ
thì cần nghiên cứu và hoàn thiện để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ khi áp
dụng các biện pháp điều tra này trên thực tiễn.
Như vậy, thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu của quá trình chứng minh vụ án
hình sự. Kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
của công tác điều tra, truy tố, xét xử. BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện các quy định về thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, những điểm
mới cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện; nếu không những quy định này chỉ
mang tính hình thức hoặc kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ không bảo đảm
tính hợp pháp của chứng cứ.
1.3.2. Kiểm tra và đánh giá chứng cứ
Đánh giá chứng cứ là giai đoạn cuối cùng của quá trình chứng minh nhằm
rút ra kết luận về vụ án trên cơ sở những thông tin, đồ vật, tài liệu thu thập được
31
trong quá trình tố tụng, là hoạt động của chủ thể nhằm phân tích giá trị cứng minh
làm rõ bản chất của chứng cứ, xem chứng cứ đó thuộc loại chứng cứ gì và có giá trị
chứng minh những vấn đề nào trong vụ án. Đánh giá chứng cứ là quá trình xác định
giá trị chứng minh của chứng cứ. Từ việc đánh giá chứng cứ mà cơ quan tiến hành
tố tụng xác định được những đồ vật, tài liệu nào trong vụ án có giá trị chứng minh,
những tài liệu nào không có giá trị chứng minh. Đây là hoạt động nhận thức của chủ
thể đánh giá chứng cứ để tìm ra giá trị chứng minh của chứng cứ. Qua đó có thể
hiểu khái niệm về đánh giá chứng cứ như sau:“Đánh giá chứng cứ là tổng hợp hoạt
động tư duy của những người tiến hành tố tụng hình sự nhằm xác định giá trị chứng
minh của các chứng cứ với nhau. Việc đánh giá chứng cứ phải được tiến hành trên
cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, đồng thời phải dựa vào
ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm mới đảm bảo tính khách quan và chính xác”.
Điều 108 BLTTHS năm 2015 có quy định:
“1. Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp,
xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải
bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.
2. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ
đã thu thập được về vụ án”.
Đánh giá chứng cứ trong vụ án hình sự, là hoạt động tư duy của chủ thể tiến
hành tố tụng theo quy định của BLTTHS và các chủ thể khác có liên quan tiến hành
xem xét, kiểm tra các chứng cứ đã thu thập được; từ đó đưa ra kết luận về tính xác
thực hoặc không xác thực của chứng cứ, tính hợp pháp hoặc không hợp pháp, tính
liên quan hoặc không liên quan đến vụ án của chứng cứ.
Thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ là việc cần phải làm của các
CQTHTT, là quá trình chứng minh những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS
trên cở sở đó các chủ thể tố tụng mới đưa ra các quyết định tố tụng phù hợp với
từng giai đoạn tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Đối với giai đoạn điều tra
VAHS khi đã thu thập, kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ có liên quan đến
32
VAHS, khi đó có đủ căn cứ để CQĐT, VKS ra một trong các quyết định tố tụng
như tạm đình chỉ điều tra; Bản kết luận điều tra; Đề nghị truy tố; Đình chỉ điều tra.
VKS sau khi nhận được bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ ánmà
CQĐTchuyển sang thì có trách nhiệm xem xét, nghiên cứu hồsơ. Trong quá trình
nghiên cứu hồ sơ vụ án mà có những vấn đề chưa rõ thì VKS yêu cầu CQĐT báo
cáo thêm. VKS có trách nhiệm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ
các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các
quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm
hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được
bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của VAHS (bao gồm cả kết luận điều tra
và đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong
ba loại quyết định sau: Truy tố bị can trước TA (Điều 243); Trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung (Điều 245); Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án (Điều 247, 248). Trong
giai đoạn này VKS có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ các quyết định của CQĐT
như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án[7, tr.95]
Như vậy, chứng minh trong giai đoạntruy tố, VKS có trách nhiệm kiểm sát
hoạt động TTHS, căn cứ vào hồ sơ của CQĐT chuyển đến, VKS ra một trong các
quyết định có khởi tố vụ án hay không khởi tố, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ,
trả hồ sơ điều tra bổ sung. Quyết định truy tố của VKS thông qua bản cáo trạng
thể hiện hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là
kết luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị can, bị cáo trong việc
thực hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét
xử của TA, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do
việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội
phạm và làm oan những người vô tội...Thực hành quyền công tố vừa là quyền vừa
là trách nhiệm công tố của VKS trong TTHS là xác định đúng người phạm tội, đúng
tội để có thể đưa vụ án ra trước tòa và tại đó bảo vệ quan điểm của mình trước TA.
Đó chính là quyền nhưng cũng là nhiệm vụ mà VKS phải thực hiện và phải thực
hiện theo quy định của phápluật.
33
Các bước của hoạt động đánh giá chứng cứ: Theo quy định tại Điều 108
BLTTHS năm 2015 thì với mỗi chứng cứ phải tiến hành theo các bước, đánh giá
từng chứng cứ và đánh giá tổng thể, toàn diện mọi chứng cứ trong mối quan hệ với
nhau ở mỗi vụ án. Việc tiến hành đánh giá chứng cứ đảm bảo một cách tổng hợp,
khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đánh giá từng chứng cứ để có thể xác định tính
hợp pháp, xác thực và liên quan của mỗi chứng cứ trong vụ án. Đánh giá tổng hợp
chứng cứ sau khi đánh giá xong từng chứng cứ trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
Việc đánh giá chứng cứ nhằm xác định đúng đắn giới hạn chứng minh và kết luận
về những vấn đề của vụ án.
Trong quá trình chứng minh, việc đánh giá chứng cứ trong các giai đoạn
khởi tố, điều tra chỉ mang tính sơ bộ, còn đánh giá chứng cứ trong giai đoạn truy tố
là một bước khẳng định để từ đó TA ra quyết định đánh giá chính thức. Bởi lẽ, ở
giai đoạn điều tra mục đích đánh giá đó chưa có tính quyết định, chủ yếu hoạt động
kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm sử dụng làm căn cứ để ra bản kết luận điều tra đề
nghị VKS truy tố, VKS cũng kiểm tra, đánh giá chứng cứ chủ yếu phục vụ cho việc
quyết định truy tố bị can ra trước TA để xét xử và có thể bị thay đổi ở các giai đoạn
tiếp theo. Dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được, Hội đồng xét xử mới đánh
giá tổng hợp để đưa ra kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo.
1.4. Ý nghĩa của quá trình chứng minh trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy
Chứng minh trong vụ án MBTPCMT chiếm một vị trí rất quan trọng trong
việc giải quyết vụ án. Đây là quá trình xây dựng hồ sơ vụ án, tái diễn lại hành vi của
tội phạm đã được thực hiện trước đó, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án, để từ đó các CQTHTT có cái nhìn khách quan, toàn diện nhằm xử lý công minh,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, qua đó áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội đảm bảo tính cưỡng chế và tính giáo dục của nhà nước.
Những chủ thể có trách nhiệm chứng minh trong vụ án MBTPCMT phải áp
dụng mọi biện pháp mà pháp luật đã quy định để làm sáng tỏ nội dung của vụ án
một cách khách quan, toàn diện. Muốn thực hiện được điều đó thì trong từng giai
34
đoạn tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải tiếp cận với hiện thực
khách quan của vụ án, để làm sáng tỏ chân lý trong quá trình chứng minh vụ án
MBTPCMT.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động TTHS, trong giai đoạn
truy tố, VKS thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể do luật định không chỉ là để
kiểm tra lại kết quả của toàn bộ các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng mà CQĐT
có thẩm quyền đã tiến hành, tính hợp pháp, tính xác thực, tính có căn cứ của các
quyết định, hoạt động đó, mà còn bảo đảm cho quyết định của VKS được chính xác,
khách quan, toàn diện; góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội
và đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm; góp phần tăng
cường bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích
hợp pháp kể cả của bị can cũng như những người có liên quan trong vụ án.
Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và BLTTHS năm 2003 không quy định cụ
thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát trong
giai đoạn truy tố, nên trong thực tế đã gặp phải những khó khăn, vướng mắc hoặc
lúng túng khi VKS áp dụng các quy định pháp luật cụ thể làm căn cứ pháp lý để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định. Khắc phục tình trạng này,
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã có sự đổi mới rất lớn,
quy định rõ hơn không chỉ về nhiệm vụ, quyền hạn trong từng lĩnh vực công tác của
ngành Kiểm sát, mà còn cả trong từng giai đoạn TTHS, trong đó có nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong giai đoạn truy tố (Điều 16, Điều 17 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 và Điều 236, Điều 237 BLTTHS năm 2015). Những quy định
này rất quan trọng và lần đầu tiên được quy định trong Luật Tổ chức VKSND và
BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý để VKS tăng cường vai trò, trách nhiệm, thực hiện hiệu
qủa chức năng, nhiệm vụ trong TTTHS. Với các quy định mới này, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và chức năng
kiểm sát trong giai đoạn truy tố được cụ thể hóa, quy định rõ ràng, minh bạch, bảo
đảm VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ một cách chủ động, đúng pháp luật, hiệu
quả. Kết quả của giai đoạn truy tố là việc VKS ban hành quyết định truy tố bị can
35
trước TA bằng bản cáo trạng. Đó là một văn bản TTHS chỉ do VKS là cơ quan duy
nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố ban hành, có giá trị pháp lý và ý
nghĩa cáo buộc bị can về những hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong Điều
251 BLHS năm 2015. Bản cáo trạng là căn cứ đầu tiên để xác định phạm vi và cơ
sở cho TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
VKS có trách nhiệm kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các
hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết
định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình
sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt
đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của VAHS (bao gồm cả kết luận điều tra và
đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong ba
loại quyết định sau: Truy tố bị can trước TA bằng bản cáo trạng (kết luận về tội
trạng) (Điều 166); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 168); Đình chỉ hay tạm
đình chỉ vụ án (Điều 169). Trong giai đoạn này VKS có quyền chấp nhận hoặc bác
bỏ các quyết định của CQĐT như trả hồ sơ điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra.
Tóm lại, trong giai đoạn truy tố VKS có trách nhiệm kiểm sát hoạt động
TTHS, căn cứ vào hồ sơ của CQĐT chuyển lên VKS ra một trong các quyết định có
khởi tố vụ án hay không khởi tố, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ, trả hồ sơ điều
tra bổ sung. Quyết định truy tố của VKS thông qua bản cáo trạng thể hiện hoạt
động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết luận điều
tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm
để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của TA, loại trừ
những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu
công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan
những người vô tội...Thực hành quyền công tố vừa là quyền vừa là trách nhiệm
công tố của VKS trong TTHS là xác định đúng người phạm tội, đúng tội để có thể
đưa vụ án ra trước tòa và tại đó bảo vệ quan điểm của mình trước TA. Đó chính là
quyền nhưng cũng là nhiệm vụ mà VKS phải thực hiện và phải thực hiện theo quy
định của phápluật.
36
Đồng thời VKS còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong các giai đoạn tố tụng. Mục đích của hoạt động này là nhằm đảm bảo cho
pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ
nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định. Cụ thể của hoạt độngkiểm sát
tuântheo pháp luật là quyết định xem có đầy đủ căn cứ để truy tố hay không? Vấn
đề này cho chúng ta thấy mối quan hệ giữa nhiệm vụ kiểm sát và nhiệm vụ công
tố. Đồng thời phát hiện những sai lầm trong hoạt động điều tra của CQĐT hoặc cơ
quan khác có quyền tiến hành các hoạt động điều tra. Nếu có sai lầm thiếu sót thì
tùy từng trường hợp mà có những biện pháp nhằm khắc phục sai lầm thiếu sót.
Trong Bộ luật TTHS đã quy định cụ thể những cách thức khắc phục sai lầm đó:
Như trả hồ sơ điều tra bổ sung; đình chỉ vụ án; hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Thẩm quyền của VKS trong giai đoạn này được biểu hiện rõ qua việc là
VKS phải quyết định vấn đề quan trọng nhất là: Có truy tố bị can ra trước TA để
xét xử hay không. Vấn đề đó chỉ được thực hiện trong giai đoạn truy tố trong đó
VKS phải thực hiện song song hai nhiêmvụ: Một là, truy tố và đảm bảo việc truy
tố của mình là đúng pháp luật, người bị truy tố là có tội và phải chịu hình phạt theo
pháp luật hình sự; Hai là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động của
những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá trình truy
tố và kiểm sát hoạt động điều tra qua nghiên cứu hồ sơ. Đây là giai đoạn mà quyền
công tố của VKS thể hiện một cách rõ ràng nhất đó là VKS sẽ quyết định có đưa bị
can ra xét xử trước TA hay không? Đây chính là trách nhiệm quan trọng của VKS
[31, tr. 41].
Quá trình chứng minh mang một ý nghĩa hết sức to lớn trong quá trình giải
quyết vụ án, góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, thực hiện chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Và ý nghĩa của chứng minh trong vụ án
MBTPCMT là để phát hiện tội phạm, người phạm tội nhằm cải tạo giáo dục người
phạm tội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của các tổ chức và
mọi công dân, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, đúng
pháp luật. Thực hiện được quy định đó cho phép CQĐT, VKS, TA giải quyết đúng
37
đắn vụ án, và sẽ tác động đến người phạm tội và những người khác về sự công minh
của pháp luật.
Tiểu kết chương 1
Trong quá trình giải quyết VAHS, cùng với việc áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ do pháp luật quy định của các chủ thể tiến hành tố tụng, những thông
tin về vụ án ngày càng được tích lũy với số lượng nhiều hơn. Thông qua các hoat
động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các chủ thể này mà chất lượng, giá trị chứng
minh của các thông tin đó được khẳng định và bức tranh về sự kiện phạm tội dần
được tái hiện như nó vốn có, có cơ sở cho việc giải quyết vụ án được hình thành và
củng cố.
Hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có vai trò quan trọng trong việc tìm ra sự
thật của vụ án, đảm bảo truy tố đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội;
điều đó không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị, pháp lý mà còn có ý nghĩa sâu sắc về
mặt xã hội.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG CHỨNG MINH TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ VỤ ÁN
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI QUẬN 1, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017
2.1. Những kết quả đạt được
Qua hơn 40 năm xây dựng và trưởng thành của VKSND Quận 1, cùng với sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, đời sống của
nhân dân cải thiện rõ rệt, tình hình an ninh chính trị, trật tự trị an tiếp tục ổn định và
giữ vững. Do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường nên các hiện tượng tiêu
cực, vi phạm pháp luật và tội phạm về ma túy diễn ra với tính chất ngày càng tinh
vi, nguy hiểm và xảo quyệt... Song với nỗ lực phấn đấu của toàn ngành VKSND
Thành phố nói chung và VKSND Quận 1 nói riêng nên đã hoàn thành nhiệm vụ
được giao và đạt được hiệu quả nhất định trong công tác thực hành quyền công tố
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Đặc biệt
kể từ khi có Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014, Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, VKSND Quận 1 đã quán
triệt sâu sắc đến từng cán bộ, Kiểm sát viên để làm tốt chức năng thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Quá trình giải quyết đã truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan
người vô tội, hạn chế bỏ lọt tội phạm [68].
VKSND Quận 1 đã đổi mới toàn diện về phương thức tổ chức và hoạt động
nhằm bám sát đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và yêu cầu
của ngành cấp trên để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra. Đồng thời, VKSND Quận
1 còn chủ động phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành ở địa phương làm tốt công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, an toàn trật tự xã
hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay của VKSND Quận 1 có 29 cán
bộ, Kiểm sát viên. Số cán bộ, Kiểm sát viên có trình độ đại học chiếm 100%, trong
đó có 02 cán bộ đang học trình độ sau đại học.Về trình độ lý luận chính trị hầu hết
39
cán bộ, Kiểm sát viên đều qua các lớp lý luận chính trị từ sơ cấp đến cao cấp, cử
nhân, nên có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng, có ý thức đấu tranh bảo vệ pháp chế thống nhất, có tinh thần học tập giữ
vững và phát huy đạo đức cách mạng, luôn làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là cán bộ kiểm sát phải “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng,
khiêm tốn”.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được các cấp đầu tư quan tâm, ngày càng
chuẩn hóa trình độ chuyên môn. Tổ chức bộ máy của VKSND Quận 1 đã được sắp
xếp, bố trí cán bộ, Kiểm sát viên cho phù hợp với năng lực và sở trường, từng bước
đã hạn chế và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, đồng thời VKSND Quận 1 còn
xử lý nghiêm những cán bộ, Kiểm sát viên có biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật
và vi phạm quy định của Ngành. Tuy nhiên so với yêu cầu cải cách tư pháp, đặc biệt
trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hiện nay
thì trình độ, năng lực và bản lĩnh chính trị của cán bộ, Kiểm sát viên đòi hỏi cần
phải nâng cao hơn nữa.
Những năm qua tình hình tội phạm diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là tội
phạm về ma túy – nghiêm trọng về tính chất, mức độ, thủ đoạn và hậu quả làm ảnh
hưởng đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương. Song, VKSND Quận 1
đã chú trọng đến việc đảm bảo mục tiêu dân chủ, bình đẳng, tăng cường công tác
quản lý, chỉ đạo, điều hành, tranh thủ sự lãnh đạo và làm tốt vai trò tham mưu cho
cấp ủy địa phương về công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Ngoài ra
còn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật và quần chúng
nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; đảm bảo thực hiện tốt chức năng
của VKS trong kiểm sát điều tra, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ các vụ án
mua bán trái phép chất ma túy.
Trong những năm qua, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố của CQĐT,
VKSND Quận 1 ngày càng được nâng lên. Ở giai đoạn điều tra, truy tố về cơ bản
CQĐT, VKS đã được xác định đúng phạm vi, đối tượng chứng minh của các vụ án
và tiến hành chứng minh đầy đủ những tình tiết của vụ án, cũng như những tình tiết
40
khác có liên quan đến vụ án. Qua đó, phục vụ cho việc giải quyết, xử lý các vụ án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; hạn chế việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm;
đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, tổ chức và công dân. Quá trình kiểm sát điều tra và truy tố, Kiểm sát
viên VKSND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã chủ động phối hợp chặt chẽ với
Điều tra viên để điều tra, làm rõ các tình tiết cần phải chứng minh của vụ án; đề ra
yêu cầu điều tra và thường xuyên trao đổi với Điều tra viên, định hướng điều tra để
đảm bảo việc giải quyết vụ án nhanh, kịp thời, đúng pháp luật. Thực hiện những
quy định mới của BLTTHS năm 2015, các Kiểm sát viên đã chủ động đề ra chiến
thuật hỏi cung, trực tiếp gặp gỡ, lấy lời khai bị can, bị cáo những người có liên quan
để làm sáng tỏ nội dung vụ án, thay vì chỉ xem xét đánh giá chứng cứ dựa trên hồ sơ
tài liệu của Cơ quan điều tra chuyển sang... Đề cao vai trò và tăng cường trách
nhiệm của Kiểm sát viên gắn với trách nhiệm của Điều tra viên trong quá trình điều
tra, giải quyết án. Đối với những vụ án khó khăn, phức tạp, Kiểm sát viên đã xây
dụng kế hoạch kiểm sát điều tra trình Lãnh đạo phê duyệt. Tham mưu cho chính
quyền và các cơ quan chức năng chủ động nắm chắc tình hình, xu hướng, diễn biến
của các loại tội phạm ma túy. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
trong đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Phối hợp với CQĐT thường xuyên tổ
chức các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm ma túy, tập trung triệt phá các
đường dây mua bán ma túy, các điểm nóng về ma túy. Với sự nỗ lực không ngừng
của tập thể lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên của VKSND Quận 1 trong những năm
qua, công tác giải quyết án ma túy đã đạt đáng kể, góp phần không nhỏ vào việc
phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn Quận 1 [63].
Các kết quả đạt được cho thấy, hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều
tra, truy tố vụ án đáng được ghi nhận. Để đạt được những thành quả trên, bên cạnh
sự cố gắng, nỗ lực của CQĐT, VKS còn phải kể đến sự đóng góp đáng kể của
BLTTHS năm 2003, BLHS năm 1999 và những văn bản pháp luật hướng dẫn thi
hành riêng về giải quyết án ma túy khi được áp dụng trong hoạt động thực tiễn đã
mang lại hiệu quả và chất lượng cho hoạt động chứng minh trong giai đoạn điều tra,
41
truy tố vụ án MBTPCMT. Việc các cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện
chính xác, triệt để những quy định pháp luật chính là đảm bảo nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa được áp dụng.
Với những quy định tiến bộ của BLTTHS hiện hành đã tác động mạnh mẽ
đến việc nâng cao chất lượng điều tra, thu thập chứng cứ, giảm thiểu đáng kể các
trường hợp sai sót, vi phạm. VKS chủ động, tăng cường kiểm sát việc thu thập tài
liệu, chứng cứ và các hoạt động điều tra của CQĐT, bảo đảm 100% các vụ án đều
được kiểm sát từ khi khởi tố và trong suốt quá trình điều tra; chủ động phối hợp với
CQĐT đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết án.
Theo Báo cáo tổng kết công tác của VKSND Quận 1 từ năm 2013 đến năm
2017, các vụ phạm tội về ma túy còn diễn biến phức tạp. Nhìn chung, những năm
vừa qua, số lượng các vụ phạm tội được phát hiện lớn, với tính chất cũng như mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao. Kết quả này thu được là nhờ phần lớn sự
tham gia, nỗ lực của các CQTHTT. Do biết phát huy những thuận lợi vốn có và
khắc phục những khó khăn, trở ngại nên hoạt động chứng minh, chủ yếu của
CQĐT, VKS đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, là tiền đề cho việc giải quyết
chính xác vụ án. Kết quả đạt được của hoạt động chứng minh trong vụ án mua bán
trái phép chất ma túy thể hiện qua đánh giá và xem xét việc giải quyết vụ án hình
sự, cụ thể như sau:
VKSND Quận 1 đã truy tố một số lượng rất lớn các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Điều đó cho thấy, công
tác giải quyết vụ án đã được quan tâm một cách đúng mực, được chỉ đạo thực hiện
một cách khá nghiêm túc và triệt để, đáp ứng các yêu cầu đặt ra của công cuộc cải
cách tư pháp. Hoạt động điều tra, truy tố được tiến hành nhanh chóng, chính xác,
kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho ngành TA hoàn thành tốt những chỉ tiêu đặt ra;
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết, xét xử một lượng lớn các vụ án mua bán
trái phép chất ma túy, đảm bảo chất lượng hồ sơ, chứng cứ, xét xử đúng thời hạn.
42
Bảng ...ền lương những năm qua chưa
chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động điều tra, truy tố và yêu cầu công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp ở nước ta
theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và Nghị quyết số 49/NQ-TW của
Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.
3.2.2. Giải pháp
3.2.2.1. Không ngừng hoàn thiện pháp luật
Bộ luật TTHS năm 2015 ra đời đã có những thay đổi nhằm tăng cường vị trí,
chức năng và nâng cáo trách nhiệm chứng minh tội phạm của các CQTHTT. Vì là
Bộ luật mới được điều chỉnh, bổ sung khá nhiều các điểm mới quy định về trình tự,
thủ tục tố tụng nên để có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong công tác điều tra
và chứng minh tội phạm trong VAHS thì đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể
hơn nữa để kịp thời làm sáng tỏ những tư tưởng, định hướng của Bộ luật TTHS
mới. Kịp thời hướng dẫn các chủ thể có trách nhiệm khi tham gia vào quá trình tố
tụng nhận thực được quyền và nghĩa vụ của mình, tránh áp dụng luật một cách tùy
nghi dẫn đến những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích của nhân dân.
Quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT là một yếu tố giữ vai trò
quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, là cơ sở để đảm bảo phát hiện
nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích
61
hợp pháp của công dân. Để khắc phục những bất cập, vướng mắc và tồn tại trong
thực tiễn chứng minh tội phạm và nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh đối với
tội phạm mua bán trái phép ma túy của các cơ quan tiến hành hoạt động điều tra,
thu thập chứng cứ ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, cần phải tuân thủ những quy
định mới, những thay đổi về hoạt động tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
chứng minh vụ án trong BLTTHS năm 2015. Bởi vậy việc nghiên cứu áp dụng và
hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến hoạt động chứng
minh trong vụ án MBTPCMT là một đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập và đề xuất một số điểm chủ
yếu về hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2015 có liên quan trực tiếp đến
hoạt động chứng minh vụ án MBTPCMT, cụ thể là:
Các nguyên tắc mới trong BLTTHS năm 2015 ảnh hưởng đến hoạt động
chứng minh trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Đối với các quy định mới về chứng cứ: Theo quy định mới BLTTHS năm
2015 so với BLTTHS năm 2003 thì khái niệm chứng cứ đã được cụ thể hóa bằng
điều cụ thể đó là: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành
vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa
trong việc giải quyết vụ án” (Điều 86 BLTTHS năm 2015).
Quy định mới liên quan đến các bước của hoạt động chứng minh (thu thập,
kiểm tra đánh giá chứng cứ): BLTTHS năm 2015 đã có nhiều quy định mới nhằm
quy định trình tự, thủ tục pháp lý liên quan đến các hoạt động thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ. Về khái niệm các giai đoạn trên đều được định nghĩa tại các
Điều 88, 90, 105 và 108 BLTTHS năm 2015 và tại Chương VI một số quy định mới
cụ thể về các loại chứng cứ cũng được xây dựng và quy định cụ thể. Ngoài ra
BLTTHS năm 2015 còn quy định một số trình tự thủ tục thu thập thông tin từ lời
khai bị can, bị cáo trong hoạt động điều tra vụ án. Các vấn đề trên được quy định
là để giúp cho CQTHTT thuận lợi trong quá trình thực hiện hoạt động chứng minh.
BLTTHS năm 2015 ra đời đã có những thay đổi nhằm tăng cường vị trí,
62
chức năng và nâng cao trách nhiệm chứng minh tội phạm của các CQTHTT. Vì là
Bộ luật mới được điều chỉnh, bổ sung khá nhiều các điểm mới quy định về trình tự,
thủ tục tố tụng nên để có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong công tác điều tra
và chứng minh tội phạm trong vụ án MBTPCMT thì đòi hỏi phải có những hướng
dẫn cụ thể hơn nữa để kịp thời làm sáng tỏ những tư tưởng, định hướng của
BLTTHS mới. Kịp thời hướng dẫn các chủ thể có trách nhiệm khi tham gia vào quá
trình tố tụng nhận thực được quyền và nghĩa vụ của mình, tránh áp dụng luật một
cách tùy nghi dẫn đến những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích của nhân dân.
Nhận thấy rằng, BLTTHS năm 2015 đã kịp thời sửa đổi những bất cập của
BLTTHS năm 2003 về hoạt động chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành
tố tụng. Các nhà làm luật cần dự liệu những bất cập có thể xảy ra trong quá trình áp
dụng để kịp thời có phương hướng điều chỉnh cho phù hợp. Cải cách mạnh mẽ thủ
tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng công khai, minh bạch, chặt chẽ,
nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động
tư pháp. Theo định hướng này, ngoài những nguyên tắc đã có về dân chủ, bình đẳng
thì BLTTHS cần phải bổ sung nguyên tắc cơ bản: “Bảo đảm mọi hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án phải
được công khai, minh bạch” với nội dung: 1) Mọi hoạt động TTHS từ khi áp dụng
một số biện pháp ngăn chặn, biện pháp thu thập chứng cứ (trước khi có quyết định
khởi tố của cơ quan có thẩm quyền); giai đoạn khởi tố; điều tra, truy tố, xét xử đến
thi hành án đều phải được công khai. 2) Các hoạt động TTHS phải rõ ràng trên cơ
sở quy định của pháp luật. 3) Chủ thể có nghĩa vụ công khai minh bạch trong hoạt
động tố tụng hình sự là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. 4)
Đối tượng nhận được công khai từ các CQTHTT và người tiến hành tố tụng là
những người tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến vụ án.
5) Pháp luật quy định các hình thức công khai về hoạt động tố tụng hình sự. 6) Pháp
luật quy định cơ chế tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
Mặt khác, nội dung nguyên tắc này còn thể hiện định hướng tăng cường dân chủ
63
trong hoạt động tố tụng hình sự mà Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã chỉ ra [25].
Tổ chức và hoạt động của CQĐT được thể chế hóa trong pháp luật TTHS, cụ
thể hơn là ở trong BLTTHS và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự hiện hành. Việc
Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh nhiệm kỳ 13 Dự án
Luật Tổ chức điều tra hình sự đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS đang
đặt ra vấn đề là nội dung nào về chế định điều tra thì đưa vào BLTTHS, còn nội
dung nào thì đưa vào Luật Tổ chức điều tra hình sự. Theo tôi, một khi đã có đạo
luật riêng về điều tra tội phạm thì phương án tối ưu là tập trung tất cả những quy
định về điều tra tố tụng vào đó, theo đúng mô hình đạo luật về thi hành án hình sự.
Trong trường hợp đó, BLTTHS chỉ tập trung điều chỉnh hoạt động xét xử. Điều này
cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp: Coi xét xử là khâu trung tâm
của hoạt động tư pháp [30].
Tuy nhiên, không nên quy định trách nhiệm chứng minh vụ án hình sự đối
với TA. TA cũng có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật nhưng thực hiện nhiệm vụ đó thông
qua chức năng xét xử của mình, TA không phải là người truy tố bị cáo nên không
có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về
CQTHTT thực hiện chức năng buộc tội (CQĐT, VKS), với tư cách là cơ quan ra
phán quyết, TA không có nhiệm vụ chứng minh tội phạm cũng như chứng minh sự
vô tội, không nên quy định TA phải trực tiếp xác định các tình tiết vụ án, trực tiếp
hỏi người tham gia tố tụng để tránh hiểu nhầm là TA làm thay chức năng buộc tội,
gỡ tội; trái với yếu tố tranh tụng.
3.2.2.2. Giải pháp đối với các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm
chứng minh
Các CQTHTT có vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh VAHS, cho
nên một VAHS có được tiến hành chứng minh đúng quy định của pháp luật hay
không phụ thuộc phần lớn vào các chủ thể tiến hành tố tụng. Để nâng cao hiệu quả
trách nhiệm chứng minh vụ án của CQTHTT thì cần có các giải pháp:
Thứ nhất, Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ
Cần tiến hành các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát
64
viên đủ về số lượng, giỏi về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, có phẩm
chất đạo đức tốt và tinh thần trách nhiệm cao để bổ sung nguồn lực cho CQĐT,
giảm thiểu tình trạng án quá tải mà đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên không đủ
hoặc yếu về chuyên môn nghiệp vụ khi điều tra án,không làm ảnh hưởng đến chất
lượng của hoạt động chứng minh, nhất là các CQĐT cấp quận, huyện, miền núi, hải
đảo xa xôi. Cần củng cố và hoàn thiện mối quan hệ của các CQĐT với các cơ quan
khác hỗ trợ điều tra.
Đảm bảo về mặt chất lượng đội ngũ cán bộ có trách nhiệm chứng minh trong
các CQTHTT. Cần thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật ngay từ khuân
tuyển dụng, bổ nhiệm thật tột, đầy đủ, chính xác. Ngoài ra, cần phải có thêm yêu
cầu về trình độ ngoại ngữ, tin học để có thể tiếp thu và ứng dụng các cơ sở vật chất,
kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài về điều tra hình sự. Chế độ tuyển chọn phải công
khai, công bằng, minh bạch Xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên của
nước ta có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi
là yêu cầu cấp thiết. Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo
đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng.
Đảm bảo đủ về số lượng các chủ thể có trách nhiệm chứng minh, hạn chế
tình trạng làm việc quá tải và làm tồn đọng án, chất lượng giải quyết vụ án được
nâng cao. Vì vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyển dụng, bổ nhiệm các cán
bộ, công chức và phân công công việc hợp lý.
Bên cạnh việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo quy định chung trong giai
đoạn hiện nay thì đòi hỏi thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp lý và kinh nghiệm
thực tiễn trong hoạt động chứng minh cho những người tiến hành tố tụng. Tăng
cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện những tồn tại sai sót trong hoạt
động TTHS liên quan đến đối tượng chứng minh để khắc phục, uốn nắn kịp thời.
Làm rõ trách nhiệm đối với những người để xảy ra sai sót trên cơ sở đó xem xét xử
lý tùy theo mức độ vi phạm. Đối với những người cố ý vi phạm thì cần nghiêm khắc
xử lý để từ đó nâng cao hơn nữa ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức của đội
ngũ những người tiến hành tố tụng.
65
Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng theo chuyên đề về trình độ chuyên môn và
kỹ thuật kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên để đáp ứng
yêu cầu về chất lượng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Việc đào tạo Điều tra viên,
Kiểm sát viên tương lai ở các trường, Học viện của Bộ công an, VKSND tối cao
cần có sự đổi mớ về nội dung chương trình theo hướng cơ bản, tòa diện, gắn với
thực tiễn để khi ra trường các học viên có khả năng nhanh chóng tiếp cận thực tế,
vận dụng thành thạo lý thuyết được trang bị vào công việc của mình.
Thứ hai, Nâng cao nhận thức của người tiến hành tố tụng
Nâng cao nhận thức cho các người tiến hành tố tụng để khắc phục tình trạng
buộc tội một chiều trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Để tìm ra sự thật của
vụ án thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải dựa trên tính khách quan
của các tình tiết, tôn trọng sự thật khách quan tránh để cho tư duy nhìn nhận vụ án
một chiều mà kết án.
Khuynh hướng buộc tội một chiều còn liên quan chặt chẽ đến tiêu chí đánh
giá hiệu quả hoạt động của CQTHTT, người tiến hành tố tụng. Nếu CQTHTT đã
khởi tố bị can, bắt bị can để tạm giam, mà sau này phái đình điều tra, đình chỉ vụ án
hoặc TA tuyên bị cáo không phạm tội, thường bị đánh giá rằng, CQTHTT, người
tiến hành tố tụng có liên quan hoạt động kém hiệu quả. Cách nhìn nhận vấn đề như
vậy dẫn đến việc người tiến hành tố tụng không có động lực để ra quyết định đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do không có sự kiện phạm tội, do hành vi không cấu
thành tội phạm, do hết thời hạn điều tra không chứng minh được bị can thực hiện
hành vi phạm tội. Cần phải có cách nhìn ngược lại, nếu đã khởi tố, áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với bị can, mà sau đó CQTHTT xác định được bị can không
phạm tội và ra quyết định đình chỉ điều tra, VKS ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc
TA tuyên bị cáo không phạm tội, thì đây phài được coi là sự chiến thắng của công
lý, coi đó là sức mạnh, hiệu quả hoạt động của cơ quan tiến hành tố lụng và phải
dược dư luận xã hội hoan nghênh. Những cán bộ có trách nhiệm của CQTHTT đã
phát hiện ra những trường hợp oan, sai trong TTHS phải được khen thưởng xứng
đáng, vì chính họ đã lấy lại niềm tin của những người bị oan, sai vào sự công minh
66
của pháp luật.
Thứ ba, nắm vững quy định của pháp luật.
Người tiến hành tố tụng phải nắm vững quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về tư cách của từng người tham gia tố tụng để dễ dàng áp dụng. Từng CQTHTT
cần phải quán triệt quy định về người tham gia tố tụng trong BLTTHS và văn bản
hướng dẫn đến tất cả những người tiến hành tố tụng trong cơ quan để thống nhất áp
dụng. Khi có sự hiểu khác nhau về tư cách người tham gia tố tụng, các CQTHTT
cần phải thống nhất khi họp phối hợp ba ngành hàng tháng hoặc có thể họp bất
thường để tránh việc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung cũng như tránh bị sửa, hủy án
sau khi xét xử [9].
3.2.2.3. Các giải pháp khác
Thứ nhất, cần tăng cường hơn nữa sự tham gia của người bào chữa và bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng hình sự. Quyền bào
chữa không chỉ cần thiết cho bị can, bị cáo mà còn cần thiết và có lợi cho chính các
cơ quan tiến hành tố tụng, cho nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án, xét
xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Thứ hai, Đầu tư phương tiện kỹ thuật hình sự phục vụ hoạt động điều tra và
hoạt động giám định đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu chứng minh tội phạm trong tình
hình hiện nay. Thực tiễn cho thấy, trong tình hình tội phạm diễn biến phức tạp như
hiện nay thì đòi hỏi quá trình điều tra, chứng minh, ĐTV, kỹ thuật viên, giám định
viên phải áp dụng nhiều phương tiện kỹ thuật để phát hiện, ghi nhận, thu giữ và
nghiên cứu những dấu vết, tài liệu, chứng cứ. Phạm vi những phương tiện kỹ thuật
được áp dụng trong quá trình này càng mở rộng bao nhiêu thì khả năng thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ càng cao bấy nhiêu. Bởi vậy cần phải đổi mới công
tác sắp xếp, bố trí hợp lý cán bộ điều tra nói chung và cán bộ kỹ thuật hình sự nói
riêng và tăng cường đầu tư phương diện kỹ thuật hình sự.
Thứ ba, cần điều chỉnh chế độ tiền lương và phụ cấp hợp lý hơn cho đội ngũ
cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm. Mặc dù, Nhà nước ta
đã có những chính sách đãi ngộ cho những người tiến hành tố tụng những thực sự
67
chưa thỏa đáng so với tính chất và mức độ của công việc mà họ được giao. Đồng
thời có chế độ khen thưởng kịp thời, động viên khích lệ với những cán bộ có tinh
thần trách nhiệm cao và hoàn thành tốt nhiệm vụ Cần phải có những biện pháp để
đổi mới hoạt động của CQĐT, VKS cho hợp lý. Thực tế, tổ chức và hoạt động của
những cơ quan THTT này còn nhiều điểm bất hợp lý như: Trong các CQĐT vẫn
còn hiện tượng phân tán lực lượng, chưa đảm bảo tính chuyên sâu trong hoạt động
điều tra các loại tội phạm, thiếu sự phối hợp đồng bộ để đạt hiệu quả cao trong hoạt
động điều tra; Tình trạng chồng chéo, khó phân định rõ ràng được chức năng và
nhiệm vụ của VKS với các CQĐT
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết kế hạ tầng phục vụ cho các cơ quan
THTT. Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ
hiện nay thì yếu tố này càng có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, để nâng cao hoạt động
chứng minh thì cần phải có sự đầu tư cho cho các cơ quan THTT. Kịp thời trang bị
cho các cơ quan này các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác tiếp nhận,
lưu trữ và xử lý thông tin về tội phạm
Thứ năm, thực hiện tốt việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố. Đảm bảo cho nhân dân tham gia vào việc đấu tranh phòng chống
tội phạm đồng thời đảm bảo an toàn cho những người làm chứng, người tố giác tội
phạm. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính
chất quốc tế.
Tiểu kết chương 3
Những quy định của BLTTHS năm 2003 về quá trình chứng minh trong thời
gian qua vẫn còn chưa hớp lý, thiếu tính thống nhất, chưa hoàn thiện, gây ra nhiều
cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn tới những hạn chế, bất cập trong quá trình chứng minh, ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng giải quyết vụ án MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm mua bán trái phép chất ma túy, BLTTHS và BLHS năm 2015 ra đời cùng
68
với hệ thống văn bản hướng dẫn hiện hành đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực
trong ý thức cũng như trong thực tiễn trong trách nhiệm của từng CQTHTT.
BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung kịp thời những khiếm khuyết của BLTTHS
năm 2003 về chứng cứ và chứng minh nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm của
các chủ thể tiến hành tố tụng. Tuy nhiên những quy định mới về hoạt động điều tra,
thu thập chứng cứ vẫn tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện trong thời gian tới.
69
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn hoạt động chứng minh
trong vụ án MBTPCMT, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau:
1. Luận văn đã nêu ra khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quá trình chứng minh
trong vụ án MBTPCMT; đối tượng chứng minh trong vụ án, phương tiện chứng
minh và nội hàm của quá trình chứng minh. Pháp luật TTHS đã quy định rõ và cụ
thể trách nhiệm của từng CQTHTT, điển hình là Cơ quan điều tra, VKS, TA. Mỗi
cơ quan tại mỗi giai đoạn TTHS có trách nhiệm riêng biệt nhưng lại có sự kiểm soát
lẫn nhau trong hoạt động TTHS.
2. Luận văn đã khái quát được thực trạng hoạt động chứng minh của Cơ quan
điều tra, VKS trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những tồn tại,
thiếu sót và vướng mắc phổ biến của quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT.
Luận văn cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân chủ quan và khách quan cơ bản của
những thiếu sót, tồn tại trong thực tiễn chứng minh các vụ án MBTPCMT tại Quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh, đó là: pháp luật tố tụng hình sự còn chưa hoàn thiện;
trình độ chuyên môn của Điều tra viên, Kiểm sát viên còn hạn chế; không nắm vững
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ và chứng minh, các quy
định của BLHS ở phần chung và phần các tội phạm cụ thể; cập nhật thiếu các văn
bản pháp luật; kỹ năng nghiệp vụ còn hạn chế; tinh thần trách nhiệm còn hạn chế
3. Bằng việc phân tích cụ thể các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật
TTHS hiện hành, Luận văn đã đưa ra dự báo tình hình tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy, các định hướng và một số giải pháp nhằmnâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động chứng minh trong vụ án MBTPCMT bao gồm: Các giải nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hoạt động chứng minh; Các
giải pháp về tổ chức nhằm kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan tiến hành
hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ; Các giải pháp về nâng cao trình độ hoạt động
chứng minh của những người tiến hành tố tụng; Các giải pháp về vật chất - kỹ thuật
nhằm bảo đảm cho các cơ quan này hoạt động có hiệu quả; Chính sách tiền lương
và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ tiến hành hoạt động điều tra phù hợp với
70
hoạt động nghề nghiệp đặc thù của họ;
Như vậy, mục tiêu đặt ra trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn đã đạt
được dưới góc độ khoa học về quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT và
khoa học luật tố tụng hình sự sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu quả của
quá trình chứng minh trong vụ án MBTPCMT ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Tú Anh (2016) “Một số khó khăn, vướng mắc trong hoạt động phát
hiện, điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
của Lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ
Chí Minh và giải pháp nâng cao”, Tạp chí Khoa học Cảnh sát nhân dân, số
6, tr. 45.
2. Lang Văn Bảo (2003) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà
Nội.
3. Vương Văn Bép (2013) Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng
cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
4. Thái Chí Bình (2011) “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thuộc trường
hợp xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Toà án nhân dân, số 2, tr. 26-34.
5. Nguyễn Hòa Bình (2016) Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Cảm (2001) “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố”, Chuyên
đề khoa học: Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tình hình mới,
Hà Nội.
7. Lê Cảm (2004) “Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng”, Tạp
chí Luật học, số 2, tr. 23.
8. Lê Tiến Châu (2003) “Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, tr. 17.
9. Nguyễn Ngọc Chí (2003) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Nguyễn Ngọc Chí (2008) “Đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng,
người phiên dịch, người giám định”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8, tr.
53-57.
11. Nguyễn Ngọc Chí (2008) “Các nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự -
những đề xuất sửa đổi, bổ sung”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà
Nội, số 24, tr. 239-253.
12. Nguyễn Văn Cừ (2005) Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
13. Bùi Kiên Diện (1997) “Về trách nhiệm chứng minh tội phạm”, Tạp chí Luật
học, số 1, tr. 34-35.
14. Nguyễn Văn Du (2006) Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự Việt Nam,
Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
15. Mạc Thị Duyên (2012) Hoạt động chứng minh trong xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (2002) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, ban hành ngày
24/5/2005, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban hành
ngày 02/6/2006, Hà Nội.
19. Đỗ Văn Đương (2000) Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều
tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
20. Đỗ Văn Đương (2006) Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Đương (2000) Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt trái phép chất
ma túy ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
22. Nguyễn Xuân Hà - Phạm Hoàng Diệu Linh (2009) Hoàn thiện các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để bảo đảm phù hợp với việc tổ chức
hệ thống các cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Đề tài khoa học cấp
bộ Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
23. Vũ Ngọc Hà (2013) Chứng minh trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
24. Phạm Hồng Hải (1999) Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Trần Thu Hạnh (2013) “Cơ chế đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành
tố tụng hoặc người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 114.
26. Nguyễn Viết Hoạt (2007) “Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng hình
sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3, tr. 23-26.
27. Nguyễn Cảnh Hợp (2012) “Các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1, tr.
11-15.
28. PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên (2011) Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
29. PGS.TS. Nguyễn Văn Huyên - TS. Lê Lan Chi (2016) Bình luận khoa học
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội.
30. Nguyễn Chí Khuê (2015) Đối tượng chứng minh trong các vụ án xâm phạm
tính mạng, sức khỏe theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Lâm Đồng, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
31. Nguyễn Thành Long (2010) Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
32. TS. Vũ Gia Lâm (2014) “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự”,
Tạp chí Luật học, số 7, tr. 97.
33. Phạm Lê Liên (2013) Từ điển tiếng việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Tô Lâm Hữu Nam (2016) Chứng minh trong điều tra vụ án mua bán trái
phép chất ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
35. PGS.TS. Trần Đình Nhã (2012) “Về chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật
tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 21, tr. 26-28.
36. Vũ Đức Ninh (2013) Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
37. Nguyễn Minh Ngọc (2014), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội.
38. Hoàng Thị Thoa (2014) Vai trò của Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp quận,
huyện trong xét xử các vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học Hà Nội.
39. Nguyễn Duy Thuân (2000) Chứng minh trong tố tụng hình sự - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đặng Quang Phương (2014) Chứng cứ - những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
41. Quốc hội (1999) Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, ban hành ngày
21/12/1999, Hà Nội
42. Quốc hội (2009) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1999, ban hành ngày 19/6/2009, Hà Nội.
43. Quốc hội (1988) Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988, ban hành ngày
28/6/1988, Hà Nội.
44. Quốc hội (2003) Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, ban hành ngày
26/11/2003, Hà Nội.
45. Quốc hội (2013) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, ban hành ngày 28/11/2003, Hà Nội.
46. Quốc hội (2015) Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, ban hành ngày
27/11/2015, Hà Nội.
47. Quốc hội (2015) Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015, ban hành ngày
27/11/2015, Hà Nội.
48. Quốc hội (2017) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 2015, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội.
49. Quốc hội (2017) Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi
hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số
điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng
hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số
99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13, ban
hành ngày 20/6/2017, Hà Nội.
50. Hoàng Thị Minh Sơn (2008) Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nvb
Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Hoàng Thị Minh Sơn (2008) “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá
và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, số 7, tr. 26.
52. GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (2012) “Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị
can trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm
sát, số 8, tr. 68.
53. Lê Hữu Thể (2008) Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
54. Lê Hữu Thể (2003) Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Phần tổng
thuật, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
55. TS. Nguyễn Văn Tuân (2015) Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
56. Trần Quang Tiệp (2007) “Đối tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát, số 2, tr. 22-26.
57. Tòa án nhân dân Quận 1 (2013) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2013,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Tòa án nhân dân Quận 1 (2014) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2014,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
59. Tòa án nhân dân Quận 1 (2015) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2015,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
60. Tòa án nhân dân Quận 1 (2016) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2016,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Tòa án nhân dân Quận 1 (2017) Báo cáo tổng kết công tác xét xử năm 2017,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Võ Khánh Vinh (2002) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
63. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao (2017) Báo cáo trả hồ sơ để điều tra bổ sung
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng năm 2017, Hà Nội.
64. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Thông báo rút kinh
nghiệm số 183/TB-VKS, ban hành ngày 14/6/2017, Thành phố Hồ Chí Minh.
65. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Thông báo rút kinh
nghiệm số 497/TB-VKS, ban hành ngày 27/10/2017, Thành phố Hồ Chí
Minh.
66. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2013) Báo cáo tổng kết công tác năm 2013,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
67. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2014) Báo cáo tổng kết công tác năm 2014,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
68. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2015) Báo cáo tổng kết công tác năm 2015,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
69. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2016) Báo cáo tổng kết công tác năm 2016,
Quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh.
70. Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 (2017) Báo cáo tổng kết công tác năm 2017,
Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chung_minh_trong_vu_an_mua_ban_trai_phep_chat_ma_tu.pdf