VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ BÌNH MINH
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
ĐỐI VỚI KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
TRONG BỐI CẢNH MỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU ÂU HỌC
Hà Nội, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ BÌNH MINH
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN MINH CHÂU ÂU
ĐỐI VỚI KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
TRONG BỐI CẢNH MỚI
Ngành: Châu Âu học
Mã số:
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ TÁ KHÁN
77 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận văn Chính sách đối ngoại của liên minh châu âu đối với khu vực Châu Á - Thái bình dương trong bối cảnh mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NH
Hà Nội, 2018
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Liên minh châu Âu(EU) là một chủ thể quốc tế có vai trò rất quan trọng
trên bàn cờ chính trị thế giới. EU cũng là một trụ cột lớn mạnh của nền kinh tế
thế giới. Trong tiến trình phát triển, hội nhập và liên kết sâu, rộng của EU,
nhiều thành tựu, chính sách chung có hiệu lực thực thi, góp phần quan trọng
vào sự phát triển của thế giới nói chung cũng như các lĩnh vực cự thể như:
hòa bình, ổn định, chính trị đối ngoại, hợp tác phát triển, kinh tế thương mại,
đầu tư, tài chính, phát triển xã hội, quyền con người, giáo dục đào tạonói
riêng. Một điểm nổi bật của EU là đóng góp vào sự phát triển của hoạt động
chính trị ngoại giao, hợp tác phát triển cùng các chủ thể quốc tế khác. Chính
sách đối ngoại chung của EU ra đời, phát triển góp phần quan trọng cho tiến
trình thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển với các đối tác trên thế
giới. Quan hệ hợp tác phát triển của EU và khu vực châu Á- Thái Bình Dương
có bề dày truyền thống với từng đối tác riêng cũng như với cả khu vực, đạt
nhiều thành tựu lớn giúp cho các chủ thể cùng có lợi, cùng phát triển hài hòa
với lợi ích của chính mình.
Châu Á-Thái Bình Dương là khu vực phát triển năng động với nhiều quốc
gia, chủ thể lớn có tiếng nói quan trọng trên bàn cờ chính trị thế giới. Khu vực
này gồm có các nước lớn: Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, ASEAN, Hàn
Quốc,Austraylia, Liên bang Nga,, đóng góp lớn vào sự phát triển chung của
thế giới. Nền kinh tế khu vực cũng có vai trò to lớn trong nền kinh tế thế giới.
Hợp tác phát triển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương với thế giới góp
phần quan trọng vào sự phát triển của thế giới và khu vực. Quan hệ hợp tác
của châu Á-Thái Bình Dương và Liên minh châu Âu có vai trò rất quan trọng
2
với sự phát triển của chính các chủ thể cũng như góp phần thúc đẩy sự ổn
định, phát triển chung của thế giới.
Xu hướng chủ đạo của nền chính trị thế giới là hòa bình, hợp tác phát triển
mạnh giữa các chủ thể quốc tế. Quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, chủ thể
góp phần quan trọng vào thành tựu chung của thế giới duy trì, phát triển hòa
bình, phát triển kinh tế, xã hội, các lĩnh vực khác của nhân loại. Tuy nhiên,
bối cảnh quốc tế và các khu vực có nhiều thay đổi. Các cuộc bầu cử ở các
quốc gia lớn trên thế giới có ảnh hưởng nhất định đến dường lối đối ngoại và
hợp tác của quốc tế cả trên bình diện song phương và đa phương. Mỗi chủ
thể, quốc gia có những đổi thay về chính trị nội bộ dẫn đến sự hợp tác phát
triển giữa các quốc gia có những điều chỉnh khác nhau cho phù hợp điều kiện
thức tế mới.
Liên minh Châu Âu có những điều chỉnh ở mỗi cấp độ, lĩnh vực khác
nhau các chính sách chung của liên minh cũng như của các nước thành viên.
Chính sách đối ngoại chung của EU hình thành và phát triển cùng sự lớn
mạnh, liên kết sâu rộng của Liên minh EU. Thông qua các Hiệp ước khác
nhau của EU, chính sách đối ngoại của EU đã có những thành công và triển
khai mạnh mẽ trong quan hệ hợp tác quốc tế của EU. Năm 2009, Hiệp ước
Lisbon có hiệu lực, việc liên kết, hội nhập của Liên minh châu Âu mạnh mẽ
hơn, sâu sắc hơn. Hiệp ước này đồng thời là cơ sở rất quan trọng cho việc
thực thi chính sách đối ngoại của EU với các đối tác quốc tế của liên minh.
Trong sự điều chỉnh chung của chính sách đối ngoại của EU trong bối cảnh
quốc tế mới như thế nào và cụ thể với khu vực châu Á-Thái Bình Dương như
thế nào có tầm quan trọng lớn đối với việc hợp tác phát triển giữa hai chủ thể
cũng như góp phần vào sự phát triển chung của hòa bình, ổn định của thế giới.
Việc tìm hiểu về chính sách đối ngoại của EU nói chung và chính sách đối
ngoại của EU đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói riêng trong giai
3
đoạn hiện nay có ý nghĩa thực tiễn và lí luận lớn đối với Việt Nam. Việc hội
nhập ngày càng chủ động, sâu, mạnh của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực
và thế giới cũng cần có những điều chỉnh hợp lý, hài hòa lợi ích quốc gia
cũng như các đối tác cụ thể trong bối cảnh quốc tế mới. Do vậy, đề tài tìm
hiểu sâu về chính sách đối ngoại chung của EU giai đoạn sau năm 2009 đến
nay đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương nhằm có cái nhìn toàn diện về
Liên minh châu Âu, quan hệ hợp tác giữa EU và châu Á – Thái Bình Dương
trong một giai đoạn có nhiều thay đổi lớn hiện nay. Đề tài cũng cố gắng tìm
hiểu, đưa ra khuyến nghị có thể đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập
quốc tế mạnh mẽ, quan hệ hợp tác phát triển sậu rộng với các chủ thể quốc tế
cũng như với liên minh châu Âu, góp phần vào sự phát triển chung của đất
nước hài hòa cùng sự phát triển của khu vực và thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
a) Tình hình nghiên cứu trong nước:
Có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu phong phú về lý luận quan hệ
quốc tế như: Học Viện Quan hệ Quốc tế (2007), “Lý luận quan hệ quốc tế”,
Sách tham khảo nội bộ, Quyển 1, Hà Nội 2007. Tác phẩm đề cập đến nhiều
luận điểm, học thuyết nổi tiếng của các học giả có tiếng trên thế giới về quan
hệ quốc tế. Sách là tập hợp các tri thức sâu, rộng để nghiên cứu về quan hệ
quốc tế. Đây cũng là một cuốn sách rất hữu ích cho những ai quan tâm,
nghiên cứu về lĩnh vực quan hệ quốc tế. Paul R. Viotti, Mark V. Kauppi
(2003), “Lý luận quan hệ quốc tế”, Sách tham khảo, NXB Lao động, Hà Nội
2003. Cuốn sách đề cập sâu rộng các vấn đề lý luận hữu ích cho độc giả quan
tâm lĩnh vực nghiên cứu quan hệ quốc tế. Nhiều lý thuyết, lý luận sâu sắc của
các học giả nổi tiếng thế giới được đề cập đến trong tác phẩm. Đây là một
cuốn sách rất có ý nghĩa trong việc tiềm hiểu, nghiên cứu, nâng cao kiến thức
về lĩnh vực quan hệ quốc tế. Nguyễn Thu Mỹ(2006), “Bài giảng: Vấn đề An
4
ninh và Xung đột trong Quan hệ quốc tế”,Viện nghiên cứu Châu Mỹ, Hà Nội,
2006. Tác giả đưa ra bức tranh toàn diện về lý luận các vấn đề liên quan đến
an ninh, xung đột cũng như quan hệ quốc tế. Tác giả phân tích sâu, rộng về
các vấn đề nổi bật của nền chính trị thế giới giai đoạn trước và trong thời kỳ
chiến tranh Lạnh. Bên cạnh đó, tác phẩm đưa ra những nhận xét, góc nhìn về
an ninh trong nền chính trị thế giới. Tác phẩm rất bổ ích cho việc tìm hiểu về
quan hệ quốc tế đương đại.
Về chính sách đối ngoại chung của EU và các lý luận liên quan có các
tác phẩm: Đặng Minh Đức (2015), “Chính sách an ninh và đối ngoại chung
của Liên minh châu Âu và một số gợi ý cho xây dựng cộng đồng an ninh –
chính trị ASEAN”, Viện nghiên cứu Châu Âu. Tác giả đưa ra cái nhìn tổng
quan về chính sách an ninh và đối ngoại chung của EU cùng những điều
chỉnh hài hòa với bối cảnh thế giới mới. Tác giả cũng nhấn mạnh những
khuyến nghị hữu ích cho khu vực ASEAN trong việc hội nhập, liên kết khu
vực. Bùi Hồng Hạnh (2010), “Chính sách đối ngoại và an ninh chung của
Liên minh Châu Âu (CFSP)), Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1, 2010. Bài
viết đưa ra cái nhìn hay về tiến trình hình thành và một số nội dung chủ chốt
của Chính sách đối ngoại và An ninh chung của châu Âu cũng như đã tập
trung xem xét một số vấn đề và khả năng thực thi chính sách đối ngoại chung
trong khuôn khổ của CFSP hiện nay. Bùi Thị Thu Hà (2001), “ Chính sách
đối ngoại và an ninh chung của EU và tác động đối với an ninh châu Âu”,
khóa luận tốt nghiệp. Bài viết đã đề cập đến quá trình hình thành của CFSP,
những vấn đề liên quan đến chính sách cũng như tác động của chính sách này
đối với an ninh châu Âu.
Bức tranh tổng quan về EU và các vấn đề nổi bật có các tác phẩm:
Nguyễn Quang Thuấn (2009), “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh Châu
Âu: thực trạng và triển vọng”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách phân
5
tích thực trạng quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - EU từ năm 1995 đến năm
2008 với ba nội dụng chính là thương mại, đầu tư và hợp tác phát triển chính
thức. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những định hướng, giải pháp thúc đẩy quan hệ
hợp tác kinh tế Việt Nam - EU cho đến giai đoạn năm 2020. Nguyễn An Hà
(Chủ biên) (2013), “Điều chỉnh chính sách phát triển của một số quốc gia chủ
chốt Châu Âu giai đoạn khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu”,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách đi sâu vào phân tích sự điều chỉnh
chiến lược phát triển của EU giai đoạn tới năm 2020 trên cơ sở nhận diện bối
cảnh mới sau khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và những
nhân tố tác động tới khu vực của các quốc gia này. Cuốn sách đánh giá các
tác động, rút ra một số gợi mở cho Việt Nam trong triển khai chiến lược phát
triển bền vững về kinh tế môi trường và xã hội cũng như thúc đẩy quan hệ
hợp tác với EU. Đinh Công Tuấn (2010), “Một số vấn đề chính trị - kinh tế
nổi bật của Liên minh châu Âu trong giai đoạn 2011 – 2020 và tác động đến
Việt Nam”,Viện nghiên cứu châu Âu, Hà Nội. Tác giả đưa ra cái nhìn tổng
quan, sâu rộng về các vấn đề nổi bật của EU giai đoạn 2011 cho đến hiện nay,
đồng thời khuyến nghị nhiều triển vọng cho giai đoạn tiếp theo. Tác giả đi sâu
về lĩnh vực kinh tế, thương mại và khía cạnh chính trị, xã hội ở khu vực EU.
Đinh Công Tuấn (Chủ biên) (2011), “Liên minh Châu Âu hai thập niên đầu
thế kỷ XXI”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Cuốn sách phân tích, nghiên
cứu, đánh giá những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của EU trong giai đoạn
2000 - 2010, đánh giá những tác động của xu hướng phát triển của EU đối với
thế giới, khu vực Châu Âu và Việt Nam trong thời gian tới.
Khái quát các vấn đề mới khu vực châu Á –Thái Bình Dương có nhiều
công trình nghiên cứu, tác phẩm bổ ích: PGS, TS. Đồng Xuân Thọ(2017), “Sự
điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với khu vực châu Á - Thái Bình
Dương”, Tạp chí Cộng sản, Hà Nội. Tác giả đưa ra bức tranh tổng quan, sâu,
6
rộng bối cảnh khu vực châu Á- Thái Bình Dương và những thay đổi chính
sách của các nước lớn khu vực trong giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu. Công trình rất bổ ích cho việc nhìn nhận, đánh giá
tình hình khu vực cũng như những hàm ý chính sách đối ngoại cho các chủ
thể khác nhau.
b) Tình hình nghiên cứu của nước ngoài:
Có nhiều công trình nghiên cứu nổi tiếng về chính sách đối ngoại
chung của EU và những vấn đề lý luận liên quan như: Catherine Gegout
(2010), “European foreign and security policy: States, Power, Institutions, and
Amercican Hegemony”. Cuốn sách đề cập lý thuyết và cách tiếp cận về chính
sách đối ngoại và an ninh chung, cơ chế ra quyết sách, phân tích quan điểm
của EU về nhân quyền của Trung Quốc, mối quan hệ của EU với NATO.
Michael Eugene Smith (2004), “ Europe’s foreign and security policy: The
Institutionalization of Cooperation”. Cuốn sách chứng minh tầm quan trọng
và mức độ của chính sách đối ngoại và an ninh của EU. Tác giả đưa ra cái
nhìn sâu về chính sách an ninh và đối ngoại chung của EU cũng như cơ chế
phối hợp của liên minh và các nước thành viên giai đoạn đầu hình thành chính
sách đối ngoại và an ninh chung. Federiga Bindi, “The Foreign Policy of the
European Union Assessing Europe's Role in the World”, (2010). Cuốn sách
đưa ra cái nhìn tổng quan về chính sách an ninh và đối ngoại chung của EU
đồng thời nêu vai trò quan trọng, đa dạng của EU trên bàn cờ chính trị thế
giới. Angelos Chryssogelos, “The EU’s Crisis of Governance and European
Foreign Policy”, Europe Programme | November 2016. Tác giả đề cập đến
chính sách đối ngoại chung của EU và các nước thành viên cũng như vai trò
của các thể chế của liên minh trong việc tìm tiếng nói đồng thuận về các vấn
đề chính trị, quan hệ quốc tế mà EU quan tâm, tham gia. Cuốn sách chỉ ra sự
hạn chế của cơ chế phối hợp giữa các thể chế của cấp liên minh và các nước
7
thành viên về hoạch định, thực thi chính sách đối ngoại chung. Nicholas
Moussis (2011), “Access to the European Union: law, economics, policies”.
Cuốn sách đã đề cập đến bức tranh tổng thể về châu Âu. Đưa ra cái nhìn tổng
quan về quá trình hội nhập châu Âu, sự phát triển của Liên minh châu Âu
thông qua liên minh thuế quan và thị trường chung; phân tích các chính sách
nội khối và chính sách đối ngoại chung của EU cũng như nhìn nhận về tiến
trình hội nhập của EU. Svein S.Andersen and Kjell A.Eliassen(2001),
“Making Policy in Europe” second edition, SAGE publications 2001. Cuốn
sách đề cập sâu về cơ chế ra quyết định, cách thức hoạch định chính sách của
EU nói chung cũng như việc cho ra đời chính sách an ninh và đối ngoại chung
của EU. Eleanor E.Zeff and Ellen B.Pirro(2001), “The European Union and
the Member States: Cooperation, Coordination and Compromise”, Lynne
Rienner Publishers, 2001. Cuốn sách đề cập đến một số chính sách chung của
EU và đi sâu nghiên cứu về cơ chế phối hợp, chia sẻ chính sách của cả cấp
liên minh và cấp thành viên. Chính sách an ninh và đối ngoại chung của EU
được nêu như một tham khảo chính về sự khó khăn của sự phối hợp chính
sách giữa cấp độ liên minh và các nước thành viên. Ramses A.Wessel(1999),
“The European’s Foreign and Security policy: a Legal Institutional
Perspective”, Kluwer Law International the Hague/Boston/London, 1999. Tác
giả đưa ra cái nhìn tổng quan về chính sách an ninh và đối ngoại chung của
Liên minh châu Âu đặc biệt liên quan đến cơ chế ra quyết định hình thành,
xây dựng chính sách về mặt luật thể chế của liên minh. Tác giả cũng chỉ ra
những triển vọng phong phú về tương lai của chính sách đối ngoại và an ninh
chung gắn với triển vọng phát triển của hệ thống thể chế cũng như chính liên
minh như thế nào. Walter Carlsnaes, Helene Sjursen and Brian White(2004),
“Contemporary Foreign Policy”, SAGE Publishers, 2004. Cuốn sách đưa ra
cái nhìn sâu, rộng về chính sách đối ngoại của EU và các nước thành viên.
8
Những mặt tích cực và hạn chế của việc hoạch định và thực thi chính sách đối
ngoại chung nhằm nâng cao vai trò,tiếng nói của EU trên thế giới. Nicholas
Moussis (2011), “Access to the European Union: law, economics, policies”.
Cuốn sách đã đề cập đến bức tranh tổng thể về châu Âu. Đưa ra cái nhìn tổng
quan về quá trình hội nhập châu Âu, sự phát triển của Liên minh châu Âu
thông qua liên minh thuế quan và thị trường chung; phân tích các chính sách
nội khối và chính sách đối ngoại chung của EU cũng như nhìn nhận về tiến
trình hội nhập của EU. “National security versus global security”, tác giả
Segun Osisanya đã khẳng định rằng giữa an ninh quốc gia và an ninh toàn cầu
có mối quan hệ cộng sinh. Có những vấn đề an ninh của quốc gia cần sự hỗ
trợ giải quyết từ quốc tế, và có những vấn đề an ninh toàn cầu cần sự phối hợp
hiệu quả từ các quốc gia.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu sâu, rộng về Chính sách đối ngoại của
Liên minh Châu Âu đối với châu Á-Thái Bình Dương giai đoạn 2009 đến
2018.
- Mục tiêu cụ thể: tìm hiểu về các yếu tố như: Bối cảnh quốc tế, bối
cảnh khu vực liên minh châu Âu và khu vực châu Á-Thái Bình Dương giai
đoạn 2009 đến 2018; Nghiên cứu rõ về Nội dung chủ yếu của Chính sách đối
ngoại EU giai đoạn 2009-2018;Tìm hiểu về Chính sách hợp tác phát triển của
EU đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương giai đoạn 2009-2018; tìm hiểu
về một số hoạt động thực tiễn của quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển giữa
các chủ thể; Dự báo chính sách đối ngoại của EU với khu vực châu Á-Thái
Bình Dương cũng như khái quát quan hệ EU-Việt Nam và đưa ra một số
khuyến nghị có thể đối với Việt Nam.
9
b. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: chỉ ra được nội dung chủ yếu của chính
sách an ninh và đối ngoại chung của EU giai đoạn 2009 đến nay, tập trung
vào chính sách đối ngoại của EU đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương
và đặc biệt với Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chính sách đối ngoại của Liên minh Châu Âu
đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
- Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu về Cơ sở hình thành và phát triển chính
sách đối ngoại chung của EU; Đưa ra nội dung chủ yếu của chính sách đối
ngoại EU giai đoạn từ 2009 đến 2018, giai đoạn sau kkhungr hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu; Tìm hiểu về chính sách đối ngoại của EU đối
với khu vực châu Á-Thái Bình Dương giai đoạn 2009-2018; khái quát quan
hệ hợp tác giữa EU và Việt Nam và đưa ra một số khuyến nghị có thể cho
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp cơ bản và mang tính truyền thống như duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài sẽ áp dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh để làm sáng tỏ các vấn đề cần được nghiên cứu trong phạm
vi đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
a. Về mặt khoa học: đề tài đưa ra cái nhìn toàn diện về sự hình thành và phát
triển, thực thi chính sách đối ngoại của một quốc gia, chủ thể. Cụ thể là
chính sách đối ngoại chung của Liên minh châu Âu. Các yếu tố ảnh
hưởng, nội hàm của chính sách đối ngoại chung của EU.
b. Về mặt thực tiễn: đề tài đưa ra bức tranh tổng quát về chính sách đối ngoại
chung của Liên minh châu Âu những năm 2009 đến nay. Bức tranh toàn
cảnh về khu vực châu Á –Thái Bình Dương, khu vực EU, đặc biệt nhấn
10
mạnh quan hệ hợp tác của EU và khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng
như với Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, bảng chữ cái viết tắt, mục lục, danh mục tài
liệu tham khảo, đề tài được kết cấu làm 03 phần, cụ thể như sau:
Chương 1: Chính sách đối ngoại chung của Liên minh châu Âu
Chương 2: Chính sách đối ngoại của EU đối với khu vực châu Á – Thái
Bình Dương giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Chương 3: Dự báo chính sách đối ngoại chung của EU đối với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương và một số khuyến nghị cho Việt Nam
11
Chương 1: Chính sách đối ngoại chung của Liên minh châu Âu
1.1. Cơ sở lí luận về Chính sách đối ngoại:
Thứ nhất, Chính sách đối ngoại: Chính sách đối ngoại của mỗi quốc
gia ra đời và phát triển trên cơ sở lí luận của các học thuyết chính trị, lý thuyết
về chính sách đối ngoại cơ bản cũng như các giá trị phổ quát của mỗi quốc
gia, dân tộc đó. Việc hình thành, phát triển và thực thi chính sách đối ngoại
của mỗi quốc gia phụ thuộc nhiều yếu tố: nền chính trị quốc gia, tầng lớp cầm
quyền, các chính trị gia nổi tiếng hay các nhóm học giả có tiếng nói trong xã
hội, bối cảnh chính trị khu vực và thế giới, tư tưởng xã hội, nền tảng văn hóa,
lịch sử của dân tộc, Trong việc ra đời chính sách đối ngoại, vai trò của nhà
lãnh đạo quốc gia, chủ thể quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngày nay,
hoạt động quan hệ hợp tác quốc tế phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực và
rông khắp các chủ thể. Chính sách đối ngoại của một quốc gia cũng có thể
hiểu như sự kéo dài của chính sách đối nội với các chủ thể ngoài biên giới
quốc gia.
Hệ thống các lý thuyết chủ yếu: Về bản chất, các lý thuyết cung cấp
một bản đồ hay khung tham chiếu giúp cho thế giới phức tạp xung quanh
chúng ta trở nên dễ hiểu hơn. Việc chọn lựa lý thuyết nào là một quyết định
quan trọng bởi vì mỗi lý thuyết dựa trên các giả định khác nhau về bản chất
của chính trị quốc tế, mỗi lý thuyết đưa ra các tuyên bố nhân quả khác nhau
và mỗi lý thuyết đưa ra một tập hợp các khuyến nghị khác nhau về chính sách
đối ngoại. Chúng ta cần các lý thuyết để hiểu được cơn bão táp thông tin, thực
tiễn cuộc sống, sự vụ diễn ra hàng ngày. Khó có thể đưa ra một chính sách tốt
nếu các nguyên tắc tổ chức cơ bản của người đó sai lầm, giống như khó có thể
xây dựng được các lý thuyết tốt nếu như không hiểu biết nhiều về thế giới
thực. Cách tiếp cận đơn lẻ không thể nắm bắt được tất cả những điều phức tạp
của nền chính trị thế giới đương đại. Các lý thuyết khác nhau giúp vạch ra
12
những điểm mạnh và những điểm yếu của chúng và thúc đẩy sự sàng lọc tiếp.
Chúng ta nên hoan nghênh và khuyến khích sự đa dạng của các lý thuyết vê
quan hệ quốc tế đương đại [32].
Trong việc hoạch định, thực thi và nghiên cứu về chính sách đối ngoại có
các lý thuyết chủ yếu được bàn luận đến như: Chủ nghĩa Hiện thực: nhìn
nhận thế giới vô chính phủ, hỗn loạn. Các quốc gia, dân tộc luôn tìm kiếm và
vì quyền lực quốc gia dân tộc mình là trên hết. Từ cổ chí kim, nhiều hoạt
động có mục đích của các quốc gia, dân tộc luôn đề cao tính lợi ích quốc gia
lên trên hết. Nhà lãnh đạo của các quốc gia cũng luôn vì quyền lực và lợi ích
của đát nước mình làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát ngôn hay quan
hệ hợp tác quốc tế. Người dân hay doanh nghiệp có thể vì các lợi ích của bản
thân hoạt động trao đổi quốc tế nhưng trên hết vẫn không thể vượt qua lợi ích
của quốc gia, dân tộc mình.[10], [11]
Chủ nghĩa Tự do: đề cao việc hợp tác quốc tế, thúc đẩy toàn cầu hóa về
thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế nhằm tạo ra nền hòa bình, ổn định cho thế
giới. Thế giới hiện đại được phát triển phồn thịnh, hòa bình được gìn giữ
thành xu hướng chủ đạo cũng nhờ vai trò của hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực từ kinh tế, thương mại, đầu tư và các hoạt động trao đổi tự do khác xuyên
biên giới. Những lý luận của chủ nghĩa tự do giúp cho các chủ thể tham gia
hoạt động giao thương quốc tế càng có niềm tin và kết quả tốt đẹp hơn. Hợp
tác phát triển, hoạt động xuyên biên giới, thế giới phẳng, toàn cầu hóa đang là
xu hướng chủ đạo của thế giới đại đồng.[10], [11]
Chủ nghĩa Chức năng: khuyến nghị hợp tác từ các lĩnh vực lan tỏa sang
các lĩnh vực khác sâu rộng hơn. Hội nhập và liên kết quốc tế là một tiến trình
nhiều khó khăn, thách thức do sự khác biệt của các chủ thể tham gia. Việc
hợp tác, cùng liên kết trong những lĩnh vực đơn nhất, phổ quát, dễ hòa nhập
dẫn đến các liên kết sâu, rộng hơn của các lĩnh vực khác là một quá trình
13
được thực hiện tốt, thuận lợi hơn. Từ các liên kết về ngành nghề, việc làm đến
trao đổi thương mại, đầu tư đến tài chính, kinh tế rồi tiền tệ, ngân hàng, liên
minh châu Âu cho ví dụ sâu sắc về hội nhập liên kết sâu, rộng các lĩnh vực
khác của cộng đồng.[10], [11]
Chủ nghĩa Kiến tạo: nhấn mạnh đến bản sắc quốc gia và bản sắc xã hội
của mỗi quốc gia nhằm giải thích về điểm mấu chốt trong đường lối chính trị,
chính sách quốc phòng an ninh, chính sách đối ngoại của các quốc gia này.
Các quốc gia,dân tộc có giá trị văn hóa, tư tưởng chính trị, đặc tính xã hội
khác nhau. Trong mỗi quốc gia, dân tộc lại bao gồm nhiều chủ thể có tư
tưởng, giá trị khác nhau. Việc hoạch định, thực thi chính sách điều hành, phát
triển xã hội nói chung và chính sách đối ngoại nói riêng phụ thuộc vào nhiều
biến số của bối cảnh quốc gia đó bên cạnh ảnh hưởng của nền chính trị khu
vực, thế giới. Lý thuyết này giúp cho các nhà hoạch định, thực thi chính sách
có sự linh hoạt về làm và thực hiện chính sách đối ngoại của quốc gia, dân tộc
mình. [10], [11]
Khái niệm quyền lực: Quyền lực cứng là kiểm soát về quân sự, ngoại
giao, trừng phạt về kinh tế để gia tăng lợi ích quốc gia. Quyền lực mềm là
nguồn lực chính trong nghệ thuật quản lý đất nước, là khả năng thuyết phục
người khác làm theo những gì mình muốn (cùng với sức mạnh thiết lập luật
chơi – yếu tố thường bị bỏ qua một cách kỳ lạ trong những cuộc đối thoại
hiện nay về quyền lực cứng và mềm). Các công cụ quyền lực bao gồm: lực
lượng vũ trang, các cơ quan thực thi pháp luật và tình báo, các cơ quan chính
phủ khác nhau giành riêng cho ngoại giao song phương và công cộng, viện
trợ nước ngoài, kiểm soát tài chính quốc tế.
Khái niệm an ninh và an ninh quốc gia: An ninh, hiểu theo một nghĩa
đơn giản nhất, là khả năng giữ vững sự an toàn trước các mối đe dọa. An ninh
có ý nghĩa là sự tồn tại, an toàn, bình an, không có nỗi lo, rủi ro, mối nguy, sự
14
cố hay tổn thất về người và của. Ngược lại với an ninh là mất an ninh là rủi
ro, là nguy hiểm, là tổn thất Tuy nhiên, an ninh không phải là một khái
niệm tĩnh mà là một khái niệm động và trải qua nhiều thay đổi về cách hiểu,
cũng như cách tiếp cận. An ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng, quyết định đến
vận mệnh của quốc gia, dân tộc nên mọi quốc gia đều phải tập trung củng cố
và xây dựng, tăng cường tiềm lực an ninh và bảo vệ vững chắc an ninh quốc
gia. Đây là việc làm tất yếu và thường xuyên, là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi
công dân ở quốc gia đó. Trong lịch sử nhân loại, an ninh quốc gia bao giờ
cũng là vấn đề được đặt lên hàng đầu, là nhiệm quan trọng nhất. Các quốc gia
luôn tìm mọi cách tăng cường quốc phòng, tiềm lực quân sự của mình, chạy
đua vũ trang để tăng cường khả năng tự bảo vệ cho mình. An ninh quốc gia
không nên hiểu theo nghĩa hẹp là bảo vệ nhà nước trước những cuộc tấn công
quân sự qua biên giới lãnh thổ mà an ninh quốc gia còn phải đối mặt với
những thách thức phi truyền thống. An ninh quân sự: An ninh quân sự ngụ ý
khả năng của một quốc gia để bảo vệ chính mình, và ngăn chặn sự xâm lược
quân sự từ bên ngoài. Ngoài ra an ninh quân sự bao hàm khả năng của một
quốc gia để thực thi các lựa chọn chính sách của mình bằng cách sử dụng vũ
lực quân sự. An ninh chính trị: là một thành phần quan trọng của an ninh
quốc gia, an ninh chính trị là sự ổn định của trật tự xã hội. An ninh chính trị
cùng với an ninh quân sự và an ninh xã hội tạo nên một khuôn khổ cho an
ninh quốc gia. An ninh chính trị liên quan đến bảo vệ chủ quyền đất nước và
hệ thống chính trị, sự an toàn xã hội từ các mối đe dọa nội bộ bất hợp pháp và
các mối đe dọa hay áp lực từ bên ngoài. An ninh kinh tế: Trong hệ thống
phức tạp hiện nay của thương mại quốc tế, đặc trưng bởi các thỏa thuận đa
quốc gia phụ thuộc lẫn nhau, an ninh kinh tế là sự tự do thực hiện việc lựa
chọn chính sách phát triển của một quốc gia theo cách mong muốn; tự do
kiểm soát các quyết định kinh tế và tài chính của họ. An ninh kinh tế đòi hỏi
15
khả năng bảo vệ sự phồn thịnh, giàu có của một quốc gia và tự do kinh tế từ
các mối đe dọa bên ngoài. Vì vậy, nó bao gồm chính sách kinh tế, thương
mại, tài chính và một số cơ quan thực thi pháp luật. An ninh năng lượng:
thường được định nghĩa ở mức độ mà một quốc gia hoặc những cá nhân liên
quan có quyền hạn đối với các nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí đốt, nước
và khoáng chất. [5], [7]
1.2. Sự ra đời chính sách đối ngoại chung của EU
Ý tưởng cho việc ra đời một chính sách về đối ngoại, an ninh và quốc
phòng chung được định hình từ thành công của ba cộng đồng giữa các nước
châu Âu: Cộng đồng Than và Thép Châu Âu (ECSC) năm 1951, Cộng đồng
kinh tế Châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu
(Euratom) năm 1957. Ba cộng đồng này đã luôn được thúc đẩy thông qua một
loạt các đề xuất, có cùng một mục tiêu phát triển. Sự thất bại trong năm 1954
của các kế hoạch thành lập Cộng đồng Quốc phòng Châu Âu, tức một đội
quân châu Âu tích hợp dưới sự chỉ huy chung, được gọi là kế hoạch “Pleven”,
cũng như một cộng đồng chính trị châu Âu (cấu trúc liên bang hoặc liên
minh), theo sau đó là sự không thành công của kế hoạch “Fouchet” đầu những
năm 1960, đó là dự kiến một liên minh của các quốc gia với chính sách đối
ngoại và quốc phòng chung.
Tuy nhiên, những nỗ lực trong lĩnh vực này vẫn tiếp tục nhưng trở
thành mục tiêu ít tham vọng hơn và chuyển dần sang phương thức hội nhập có
chủ quyền. Kết quả là dẫn đến sự ra đời chính thức của Tổ chức Hợp tác
chính trị châu Âu vào năm 1970 và năm 1974 một cấu trúc mới – Hội đồng
châu Âu. Với hiệu lực của Đạo luật Châu Âu Thống nhất vào năm 1987,
Cộng đồng châu Âu được hình thành từ Tổ chức Hợp tác chính trị Châu Âu
có được nền tảng thế chế và pháp lý riêng của mình.[4]
16
1.2.1. Bối cảnh ra đời chính sách an ninh và đối ngoại chung của EU:
1.2.1.1. Bối cảnh quốc tế: Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến
động cũng tác động mạnh đến châu Âu. Sự chấm dứt đối đầu Xô – Mỹ, sự sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu tạo ra khoảng trống
quyền lực mà không một quốc gia riêng lẻ nào ở châu Âu có thể lấp đi được.
Trong khi Mỹ bị tổn thất rất nhiều trong cuộc chạy đua cùng Liên Xô trong
thời kỳ Chiến tranh Lạnh thì đây chính là cơ hội để châu Âu có thể vươn lên
thoát khỏi lệ thuộc Mỹ. Ngoài ra còn hai sự kiện tác động lên quá trình đẩy
nhanh việc hình thành CFSP chính là Chiến tranh vùng Vịnh đầu tiên kết thúc
và cuộc khủng hoảng Nam Tư. Các nước châu Âu thấy lo lắng và phải đối mặt
với một khoảng trống quyền lực sau khi bố trí lại số lượng quân đội Mỹ. Cộng
đồng Châu Âu mong muốn hội nhập sâu hơn và có tiếng nói thống nhất hơn,
Hiệp ước Maastricht và CFSP ra đời vào cuối năm 1992.
Bên cạnh đó sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng Nam Tư cũng làm tăng
yêu cầu Cộng đồng châu Âu có tiếng nói thống nhất. Năm 1991, chứng kiến
giai đoạn đầu của một loạt các xung đột bạo lực trong lãnh thổ của Liên bang
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Nam Tư cũ. Trước cuộc khủng hoảng, Nam Tư đã
tổ chức một vị trí đặc quyền với các nước châu Âu do tầm quan trọng về địa
chính trị của mình giữa khối Liên Xô với các nước phương Tây. Vì vậy, sau
khi chính quyền Mỹ cho thấy rằng các đồng minh châu Âu cần phải đi đầu và
người châu Âu miễn cưỡng đề cử lực lượng gìn giữ hòa bình dưới sự bảo trợ
của Liên Hợp Quốc. Cộng đồng Châu Âu nhận ra sự thiếu thống nhất trong
lĩnh vực chính trị và thiếu phương tiện để hành động trong lĩnh vực quốc
phòng. [3], [4]
1.2.1.2. Bối cảnh của Liên minh châu Âu: Trong thời kỳ Chiến tranh
Lạnh, châu Âu hầu như chịu phụ thuộc chiếc ô bảo vệ của Hoa Kỳ về an ninh,
quốc phòng. Các vấn đề an ninh và quân sự đều bị chi phối nhiều bởi Tổ chức
17
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Khi suy giảm của răn đe hạt nhân và
tầm quan trọng của sức mạnh kinh tế ngày càng tăng, một số thành viên của
Cộng đồng châu Âu mong muốn phát triển cộng đồng gắn kết và sâu rộng
hơn1. Trong tình thế như vậy, các nước thành viên EC đã buộc phải tìm cách
vượt qua những khó khăn để thực hiện mong muốn mà họ ấp ủ từ lâu, đó là
mở rộng liên kết sang lĩnh vực chính trị cụ thể là lĩnh vực chính sách đối
ngoại và an ninh, quốc phòng. [3], [4]
Công đồng EC và các nước thành viên coi chính sách an ninh và đối
ngoại chung như phương tiện để bảo vệ ...của tất cả các nước trong khu vực dựa trên cơ sở Hiệp ước Thân thiện và
Hợp tác ở Đông Nam Á mà Nga đã tham gia từ năm 2004. Theo quan điểm
của mình, Nga không có tham vọng giành ưu thế quân sự, cũng không đặt ra
nhiệm vụ bảo đảm an ninh biên giới phía Đông của Nga làm phương hại đến
an ninh của các nước khác; không có kế hoạch xây dựng căn cứ ở châu Á -
Thái Bình Dương, không xây dựng liên minh quân sự bí mật với các nước
trong khu vực, không cạnh tranh với bất kỳ các nước nào trong việc tranh
giành ảnh hưởng. Nga khẳng định tôn trọng chủ quyền của các nước trong
khu vực, ủng hộ sự đa dạng của mô hình phát triển, đối thoại giữa các nền văn
hóa và tôn giáo; hợp tác với các nước trong khu vực trong khuôn khổ cơ chế
đa phương hiện có và sẵn sàng đề xuất sáng kiến xây dựng các diễn đàn mới,
như tăng cường tiếp xúc chặt chẽ hơn nữa giữa ASEAN với Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO). Hai bên có đủ các điều kiện cần thiết, gồm ý chí chính trị,
truyền thống hữu nghị lâu đời, nền tảng hợp tác bền vững và sự quan tâm về
34
lợi ích của nhau. Diễn đàn Nga - ASEAN năm 2010 là sự kiện quan trọng,
đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử quan hệ giữa Nga và ASEAN. Tại
Hội nghị cấp cao ASEAN - Nga kỷ niệm 20 năm quan hệ đối tác đối thoại
được tổ chức tại Xô-chi (Nga) tháng 5-2016, hai bên đã đề ra khuôn khổ hợp
tác mới để đưa mối quan hệ đi vào chiều sâu, hướng tới quan hệ đối tác chiến
lược trong tương lai. [38]
2.1.3.4. Sự thay đổi chiến lược của Nhật Bản: Ngày 1-7-2014 là dấu
mốc quan trọng trong quá trình điều chỉnh chính sách quốc phòng của Nhật
Bản để trở thành một “quốc gia bình thường”, thể hiện qua việc nội các nước
này đưa ra lời giải thích mới về nội dung Điều 9 của Hiến pháp, theo đó Lực
lượng phòng vệ Nhật Bản sẽ tham gia sứ mệnh phòng thủ tập thể bên ngoài
lãnh thổ quốc gia. Nhật Bản có 4 phương án hành động để thực hiện quyền
phòng vệ tập thể. Phương án 1 là sử dụng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia
để đánh chặn các tên lửa đang bay nhằm vào các mục tiêu của Mỹ. Phương
án 2 là triển khai lực lượng phòng vệ trên biển JMSDF (Japan Maritime Self-
Defense Force) của Nhật Bản một khi các tàu của Mỹ bị tấn công ở các vùng
biển xa. Phương án 3 là sử dụng các lực lượng phòng vệ Nhật Bản JSF để
thực hiện một cuộc phản công nếu một bộ chỉ huy liên quân có sự tham gia
của Nhật Bản bị một quốc gia nào đó tấn công trên lãnh thổ nước
ngoài. Phương án 4 là sử dụng lực lượng quân sự để loại bỏ những trở ngại
trong các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Bốn phương án trên
được đưa ra trong bối cảnh Nhật Bản luôn ở trong trạng thái sẵn sàng bảo
đảm hiệu lực và hiệu quả của Liên minh Nhật Bản - Mỹ cũng như bảo đảm lợi
ích an ninh của Nhật Bản. Như vậy, Nhật Bản vẫn tuân thủ chủ trương phòng
vệ chứ không phải tiến công, kể cả khi phải đối phó với Trung Quốc trong các
cuộc tranh chấp liên quan tới quần đảo Xen-ca-cư/Điếu Ngư trên biển Hoa
Đông. Trên cơ sở diễn giải lại Điều 9 của Hiến pháp, Nhật Bản đã xây dựng
35
Đạo luật an ninh mới có hiệu lực từ ngày 28-3-2016. Theo Đạo luật này, lần
đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Nhật Bản được phép tham
gia các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Sự điều chỉnh này sẽ có tác động tới
cục diện chính trị - quân sự khu vực và thế giới. [38]
2.1.3.5. Sự điều chỉnh chiến lược của Ấn Độ: Sự điều chỉnh chiến lược
của Ấn Độ đối với châu Á - Thái Bình Dương được thể hiện rõ nhất ở “chính
sách hướng Đông” được công bố chính thức vào năm 1992 nhằm tăng cường
quan hệ với các nước ở Đông Bắc Á, Đông Nam Á nói riêng và châu Á - Thái
Bình Dương nói chung. Đây là một trong những điều chỉnh chính sách đối
ngoại quan trọng của Ấn Độ thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Năm 2000, Bộ
Quốc phòng Ấn Độ đề cập đến Biển Đông như là điểm cực đông trong hành
trình chiến lược của Hải quân Ấn Độ tại Ấn Độ Dương và cho biết Biển Đông
thuộc phạm vi khái niệm “láng giềng mở rộng” về phía đông trong “chính
sách hướng Đông”. Năm 2014, trong bản tuyên bố chung sau cuộc gặp cấp
cao giữa Thủ tướng Ấn Độ N. Mô-đi và Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma, chính
sách “Hành động phía Đông” đã được đưa ra thay cho “Chính sách hướng
Đông”. Hiện nay, Ấn Độ công khai khẳng định lợi ích của mình ở Biển Đông
thể hiện trên cả khía cạnh kinh tế và an ninh. Về kinh tế, khoảng 77% giá trị
thương mại và hơn 90% khối lượng thương mại của Ấn Độ được vận chuyển
bằng đường biển, trong đó, 55% được vận chuyển qua eo biển Ma-lắc-ca tới
các thị trường ở châu Á - Thái Bình Dương. Lợi ích về thương mại của Ấn Độ
ở Biển Đông càng tăng khi Ấn Độ và ASEAN đặt mục tiêu nâng kim ngạch
thương mại song phương lên 100 tỷ USD vào năm 2015 - 2016.
Về an ninh, sự an toàn của tuyến đường vận tải biển qua Biển Đông có
vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Ấn Độ. Các thách thức an ninh
truyền thống (xung đột leo thang giữa các bên yêu sách) và an ninh phi truyền
thống (tội phạm xuyên quốc gia trên biển, cướp biển) ở khu vực này cản trở
36
đường vận tải hàng hóa trên biển của Ấn Độ. Do đó, việc Ấn Độ tăng cường
hiện diện hải quân và “quyền tiếp cận” ở Biển Đông là một phần quan trọng
trong lợi ích của Ấn Độ. Theo chiều hướng đó, Ấn Độ đã thiết lập quan hệ
hợp tác an ninh với Nhật Bản và Ô-xtrây-li-a.[38]
2.1.3.6. Hợp tác kinh tế-thương mại trong khu vực:
Bên cạnh sự thay đổi, điều chỉnh chiến lược của các chủ thể chính trong
khu vực châu Á-Thái Bình Dương, một số thay đổi trong lĩnh vực kinh tế,
thương mại, hợp tác kinh tế giữa các chủ thể trong khu vực có ảnh hưởng lớn
đến hoạt động đối ngoại của khu vực cũng như tác động đến quan hệ hợp tác
với liên minh châu Âu. Theo báo cáo của ADB, kinh tế châu Á ngày càng
đóng vai trò quan trọng hơn đối với thế giới, với GDP gần bằng với châu Âu
hoặc châu Mỹ (ước tính đến năm 2020 GDP của châu Á sẽ tăng 50%). Hơn
nữa, trong bối cảnh kinh tế EU và Mỹ tiếp tục tăng trưởng yếu ớt ở mức 1 –
2,5%/năm, châu Á được kỳ vọng trở thành “đầu tàu” để vực dậy nền kinh tế
thế giới. Vì vậy, khu vực này đang chứng kiến cơ chế hợp tác kinh tế cao độ
trong khuôn khổ các hiệp định tự do thương mại đa phương, mà nổi bật là
RCEP và TPP.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP): RCEP là hiệp
định thương mại do các quốc gia ASEAN khởi xướng, liên kết các nền kinh tế
của 16 quốc gia khu vực châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm 10 quốc gia
ASEAN và 06 quốc gia mà ASEAN đã ký kết FTA gồm Trung Quốc, Ấn Độ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand. Ý tưởng về RCEP lần đầu
tiên giới thiệu vào tháng 11/2011 tại Hội nghị thượng đỉnh lãnh đạo ASEAN
ở Bali, được các nước ASEAN nhất trí khởi động đàm phán tại Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á (EAS) vào tháng 11/2012 và dự kiến sẽ kết thúc vào
cuối năm 2015. RCEP hướng tới mục tiêu thiết lập khối thương mại tự do lớn
nhất thế giới với dân số hơn 3 tỷ người, GDP khoảng 17000 tỷ USD và chiếm
37
khoảng 40% tổng thương mại thế giới. Trong đó, nội dung của RCEP sẽ bao
gồm các điều khoản về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp
tác kinh tế và kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh và giải quyết
tranh chấp. Với mục tiêu củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc
kinh tế khu vực đang nổi lên và tìm cách hài hòa những khác biệt giữa các
FTA của ASEAN, RCEP không chỉ thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực mạnh
mẽ hơn, dần dần loại bỏ thuế quan và các rào cản phi thuế quan, đảm bảo tính
nhất quán với các quy tắc của WTO, mà còn đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho
các quốc gia thành viên. Đặc biệt, các nền kinh tế phụ thuộc xuất khẩu ở khu
vực Đông Nam Á sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận các thị trường
lớn trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Ngược lại, điều này
cũng sẽ thúc đẩy đầu tư từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia kém phát
triển và cùng hội nhập toàn diện vào các hoạt động kinh tế khu vực.
Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP): hiệp định
thương mại tự do nhiều bên với mục tiêu thiết lập một khối thương mại cho
các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhằm thúc đẩy thương mại, đầu
tư và cải cách thể chế. TPP được ký kết lần đầu tiên vào ngày 3/6/2005 (có
hiệu lực từ ngày 28/5/2006) gồm 4 nước: Singapore, Chile, New Zealand,
Brunei. Sau đó, lần lượt Mỹ (tháng 8/2006); Australia, Peru và Việt Nam
(tháng 11/2008); Malaysia (tháng 11/2010); Canada và Mexico (tháng
10/2012); Nhật Bản (tháng 3/2013) tuyên bố tham gia đàm phán TPP. Với sự
tham gia của các nền kinh tế lớn trên thế giới, TPP được kỳ vọng sẽ trở thành
khu vực kinh tế rộng lớn với hơn 790 triệu dân, đóng góp 40% GDP và chiếm
1/3 thương mại toàn cầu. Tính đến nay, các quốc gia vẫn đang tiếp tục đàm
phán một loạt các điều khoản của TPP như: quyền sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn
lao động, chính sách cạnh tranh, nguyên tắc đầu tư, quy tắc xuất xứ, môi
trường và vai trò của doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, Mỹ đang giữ vai trò
38
cực kỳ quan trọng, là “nam châm” thu hút các nước châu Á – Thái Bình
Dương khác tham gia TPP. Chính vì vậy, TPP được xem như nền tảng để xây
dựng một khu vực mậu dịch tự do Châu Á – Thái Bình Dương (FTAAP) rộng
lớn hơn. Theo đó, TPP sẽ thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Mỹ với các nước
châu Á – Thái Bình Dương, củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Mỹ
tại khu vực trong bối cảnh vai trò của Mỹ tư cách là đối tác thương mại của
nhiều nước châu Á đang giảm sút nghiêm trọng. Ngược lại, các nước châu Á
– Thái Bình Dương sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ TPP, nhất là thu hút đầu
tư, chuyển giao công nghệ, tăng cường hội nhập khu vực thông qua cải cách
thể chế, gia tăng thương mại hàng hóa, dịch vụ khi thuế suất giảm xuống 0%.
RCEP và TPP hình thành các khối thương mại hướng đến hội nhập kinh tế
khu vực rộng lớn hơn, mà mục tiêu cuối cùng là thiết lập khu vực mậu dịch tự
do châu Á – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, cả RCEP và TPP đều đang đối mặt
với những thách thức rất lớn (chẳng hạn như những bất đồng quan điểm về
quy tắc xuất xứ hàng hóa) trong việc tìm kiếm một hiệp định khu vực hài hòa
lợi ích giữa các quốc gia đã ký kết các hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương. Đàm phám những vấn đề mới, chưa được quy định
trong các hiệp định thương mại tự do song phương, hoặc chấp nhận các thể
thức mới đối với một số vấn đề được quy định trong các hiệp định đó cũng
đang tạo ra một số thách thức nhất định. Điều này sẽ tác động đến các tiến
trình hội nhập kinh tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Sáng
kiến thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN.[39]
2.2. Nội dung chủ yếu chính sách đối ngoại của EU đối với khu vực
châu Á – Thái Bình Dương giai đoạn từ 2009 đến nay
2.2.1. Khái quát về Hiệp ước Lisbon và chính sách an ninh đối ngoại
chung của EU giai đoạn này: Năm 2009, Hiệp ước Lisbon có hiệu lực, bên
cạnh các lĩnh vực liên kết sâu rộng hơn về kinh tế, văn hóa, xã hội, đầu tư, tài
39
chính, tiền tệ, tự do di chuyển cả về nhân lực, việc làm, vốn, nghề nghiệp
EU làm sâu sắc hơn lĩnh vực hợp tác an ninh và đối ngoại. Hiệp ước Lisbon
quy định cụ thể các mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch cụ thể và hoạt động thực
tiễn của việc hoạch định và thực thi chính sách an ninh và đối ngoại chung
của EU. Với mục tiêu của chính sách an ninh và đối ngoại là: “đưa ra các
nguyên tắc nhằm giúp các thể chế của Liên minh trong việc hình thành, mở
rộng, phát triển và tìm kiếm lợi ích trên toàn thế giới; EU nhấn mạnh về dân
chủ, nhà nước pháp quyền, các vấn đề nhân đạo, quyền con người, bình đẳng,
tự do và phù hợp các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc” [2]. Thông
qua Hiệp ước Lisbon, EU đã thành công trong việc cho ra đời chức danh của
người phụ trách đối ngoại chung của liên minh. “Ngoại trưởng” của Liên
minh EU chính là một vị Phó chủ tịch hội đồng châu Âu, có vai trò to lớn
trong việc hoạch định, thực thi các chính sách đối ngoại chung của EU với
các chủ thể quốc tế. Chức danh “ngoại trưởng” của EU chịu trách nhiệm điều
phối nhiều lĩnh vực cụ thể như các hiệp định thương mại tự do, hợp tác phát
triển quốc tế, vấn đề liên quan quyền con người, hỗ trợ nhân đạo quốc tế, cứu
trợ nhân đạo và hỗ trợ kinh tế các nước, khu vực nghèo khó hay thiên tai,
thậm trí là các vấn đề liên quan an ninh quốc tế mà liên minh có lợi ích hay
quan tâm, Điều này càng nâng cao vai trò, tiếng nói của EU trên trường
quốc tế. Như vậy, các chủ thể quốc tế có thể trao đổi nhiều vấn đề quan trọng
với một vị đại diện cấp cao về an ninh và đối ngoại của EU nhằm thuận lợi
hơn trong việc giải quyết vấn đề và thực thi các hoạt động hợp tác giữa các
bên hữu quan. Tiếp theo, Hiệp ước Lisbon quy định việc lập ra Cơ quan đối
ngoại châu Âu có vai trò như một Bộ ngoại giao quốc gia trực tiếp hỗ trợ hoạt
động cho vị “Ngoại trưởng” của EU trong hoạt động thực thi chính sách đối
ngoại chung của EU. Thành viên của cơ quan này đến từ các thể chế của EU
và quan chức ngoại giao của các nước thành viên. Cơ quan này có nhiệm vụ
40
phối hợp các hoạt động đối ngoại của EU với các nước thành viên trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế, đảm bảo hài hòa lợi ích của các nước thành
viên và lợi ích chung của EU. Nhiều vấn đề cụ thể được thực thi bởi Cơ quan
đối ngoại châu Âu linh hoạt, hiệu quả hơn để cho các nước thành viên tự giải
quyết. Ngoài ra, Hiệp ước Lisbon quy định việc giải quyết khủng hoảng bởi
cơ quan chuyên trách, từng bước thành lập lực lượng quốc phòng chung của
EU độc lập với cơ chế của NATO, tiến tới thành lập lực lượng giải quyết
khủng hoảng chung có thể linh hoạt từ các nước hay một nhóm nước thành
viên.
Sau một thời gian hoạt động thực tiễn về lĩnh vực an ninh và đối ngoại
chung từ ngày Hiệp ước Lisbon có hiệu lực, EU tiếp theo nâng cao vai trò,
mục tiêu, nhiệm vụ của chính sách và thực thi chính sách đối ngoại chung. Và
mục tiêu tổng quát của chính sách đối ngoại chung của EU giai đoạn gần đây
đã được nâng lên thành: “củng cố chính sách an ninh đối ngoại góp phần ổn
định và phát triển khu vực và toàn cầu; EU can dự và hợp tác với các quốc gia
nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi, thúc đẩy dân chủ và tăng cường các quyền
cơ bản của con người; EU phát triển chính sách an ninh quốc phòng chung
giữa các thành viên; EU tăng cường hỗ trợ các quốc gia khác trong cuộc chiến
chống đói nghèo, phát triển kinh tế các nước kém phát triển nhằm nâng cao
đời sống và củng cố ổn định xã hội, đảm bảo an ninh.” [2]. Bên cạnh mục tiêu
tổng quát trong giai đoạn mới này, EU vẫn đặc biệt chú trọng phát triển quan
hệ đồng minh với Hoa Kỳ, tăng cường hợp tác với các nước trong khuôn khổ
NATO nhằm duy trì an ninh khu vực và toàn cầu. EU cùng với Hoa Kỳ giữ
vai trò chủ đạo trong các hoạt động của NATO chống lại các thế lực thù địch
có thể trong tương lai của khối và đảm bảo nền hòa bình cho thế giới. Ngoài
ra EU đề cao hợp tác với các chủ thể lớn trong khuôn khổ Liên hợp quốc,
nâng cao vai trò chủ chốt của các cơ chế của Liên hợp quốc trong việc gìn giữ
41
và phát triển hòa bình thế giới. Liên minh châu Âu cũng khẳng định tăng
cường hợp tác với các chủ thể quốc tế, các quốc gia có vị thế lớn trên bàn cờ
chính trị khu vực và thế giới nhằm giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.
[2]
2.2.2. Vấn đề an ninh đối ngoại EU và các nước thành viên: việc thỏa
thuận của các nước thành viên vì lợi ích chung và các mục tiêu chiến lược là
sứ mạng của EU trong lĩnh vực an ninh, được xem xét ở 3 góc độ: 1) Thực thể
chính trị hiện có trong khu vực biên giới lãnh thổ; 2) Công dân – yếu tố cơ
bản của sự hình thành này; 3) Các nguồn lực vật chất và phi vật chất. Từ quan
điểm này, nhiệm vụ an ninh của EU thể hiện qua các điểm sau: Hỗ trợ độc lập
cho các nước thành viên, bất khả xâm phạm biên giới của họ, chủ yếu trong
chính trị, kinh tế và các khu vực phi quân sự khác, cũng như trong lĩnh vực
quân sự, nếu các nước thành viên đều đồng ý; Hợp tác để tăng cường khả
năng một quốc gia thông thường và cá nhân để hỗ trợ an ninh.Các biện pháp
để đảm bảo công dân các nước thành viên EU được sống trong môi trường an
toàn, được bảo vệ về nhân quyền và các quyền tự do của họ tại lãnh thổ EU,
hoặc khi rời khỏi EU thì cũng không gây ra mất an toàn cho các công dân
khác và an ninh của các nước thành viên EU; Hỗ trợ việc bảo vệ công dân và
bảo vệ tập thể chống lại các mối đe dọa vô tình hay cố ý để bảo vệ cuộc sống
và sức khỏe của họ, cũng như bảo vệ tài sản của cá nhân; Nhắm mục tiêu các
hoạt động xã hội và kinh tế để hỗ trợ sự phát triển và tăng cường hệ thống an
ninh của EU; Hỗ trợ và tham gia đầy đủ vào các hoạt động cộng đồng quốc tế
nhằm ngăn chặn sự xuất hiện của các mối đe dọa an ninh và lan rộng cuộc
khủng hoảng hiện tại, dưới một nhiệm vụ quốc tế rõ ràng; Ổn định môi trường
an ninh, thúc đẩy và phát triển hợp tác trong và ngoài EU, khai thác các cơ
hội, giải quyết thách thức, ngăn ngừa các mối đe dọa quân sự và phi quân sự,
chính trị, kinh tế...;Quản lý khủng hoảng, hỗ trợ lẫn nhau trong việc ngăn
42
chặn khủng hoảng, giám sát các hoạt động trong lĩnh vực năng lượng, an ninh
mạng, thiên tai... nếu nó gây nguy hiểm cho lợi ích quốc gia thuộc EU.
Tăng cường mối quan hệ giữa EU - NATO là điều được nhấn mạnh đối
với EU giai đoạn này. Ngày 14/11/2016, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Ngoại
giao của các quốc gia trong Liên minh Châu Âu đã nhất trí về kế hoạch nhằm
thúc đẩy vai trò an ninh và quốc phòng của tổ chức này. Kế hoạch này nhằm
thực hiện một chiến lược an ninh và quốc phòng chung mới nhằm thay thế
chiến lược được thông qua từ năm 2003. “Đây là một bước nhảy vọt trong
chiến lược an ninh và quốc phòng của Liên minh Châu Âu”, bà Federica
Mogherini nói. Trong khi đó, có cùng quan điểm, Bộ trưởng Quốc phòng
Pháp Jean-Yves Le Drain nhấn mạnh: “Châu Âu cần có khả năng để hành
động vì an ninh của chính mình”. [40]
Các Bộ trưởng Ngoại giao và Quốc phòng EU đã đồng ý đẩy mạnh cam
kết tạo ra một tổ chức hoạch đinh và thực thi kế hoạch chung. Cơ quan mới
này sẽ chịu trách nhiệm giám sát các hoạt động huấn luyện và tăng cường sử
dụng các đơn vị phản ứng khủng hoảng quân sự hiện có của liên minh nhằm
thúc đẩy vai trò chiến lược toàn cầu của EU cũng như năng lực hoạt động độc
lập của EU với các tình huống thực tế. Có thể thấy rõ, EU đang dần tự chủ
hơn trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Nếu các kế hoạch và việc bàn bạc
của quan chức cấp cao đi đến thống nhất thì EU sẽ mở rộng sự phối hợp quy
mô hơn tại các khu vực như các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình do EU dẫn đầu
bên ngoài khối đồng tiền chung EURO, nỗ lực để giảm dòng chảy người tị
nạn vào EU, tăng chi tiêu cho các nghiên cứu về máy bay tàng hình và trực
thăng... Tất cả kế hoạch trên nhằm bảo đảm cả EU lẫn công dân của liên minh
này đều an toàn hơn trong một thế giới bất ổn. Tuy nhiên bà Federica
Mogherini nhấn mạnh rằng, EU không có ý định cạnh tranh với NATO hay
xây dựng đội quân EU mà chỉ tập trung vào việc tăng cường sức mạnh quân
43
sự cho liên minh, bà khẳng định: “Ở thời điểm này, tăng cường hợp tác giữa
Liên minh Châu Âu và NATO là cách để củng cố mối quan hệ xuyên Đại Tây
Dương. Chúng tôi tin rằng đây không chỉ là mối quan tâm của Châu Âu mà cả
các quốc gia thuộc Đại Tây Dương. Và thông điệp hôm nay, từ các bộ trưởng
quốc phòng, là cam kết của Liên minh Châu Âu để tăng cường quan hệ xuyên
Đại Tây Dương, trong đó, thắt chặt hơn nữa quan hệ EU - NATO là ưu tiên
cao nhất của chúng tôi”. [28]
EU vẫn cần NATO như một điểm tựa, nhưng trong nội bộ, các nước
thành viên EU cũng dần nhận ra viễn cảnh, Mỹ sẽ không thể bảo vệ an toàn
cho khối như thời kỳ Chiến tranh lạnh. Đặc biệt, nước Mỹ hiện nay có quá
nhiều mối bận tâm, như khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chủ nghĩa khủng
bố, vấn đề Trung Đông. Hơn bao giờ hết EU muốn có Bản sắc chung về an
ninh, muốn chủ động trong các hoạt động quân sự để duy trì ổn định khu vực
và độc lập trong hành động, suy nghĩ... bằng cách thành lập một lực lượng
quân sự của riêng mình. Môi trường an ninh ở Châu Âu đang biến động
nhanh chóng với sự xuất hiện của nhiều thách thức và nguy cơ từ cả bên trong
và bên ngoài, buộc các nước thành viên NATO phải tính đến hàng loạt giải
pháp tăng cường sức mạnh quân sự mà trước tiên là câu câu chuyện ngân
sách. Đảm bảo mục tiêu ngân sách quốc phòng chiếm 2% GDP và có lựa
chọn đúng đắn những lĩnh vực cần đầu tư mua sắm chắc chắn vẫn là đề tài
nóng trên chính trường các nước Châu Âu thời gian tới. Một chính sách quốc
phòng chung như nhiều nước EU mong muốn vẫn chưa thành hiện thực, do
những toan tính chiến lược của một số nước.
EU thông qua một kế hoạch an ninh và quốc phòng với 3 ưu tiên: Thứ
nhất: cho phép EU hành động toàn diện hơn, nhanh chóng và quyết đoán hơn
trước những xung đột và khủng hoảng bên ngoài. Thứ hai: củng cố tiềm lực
quốc phòng và an ninh cho liên minh. Cuối cùng là tăng cường khả năng bảo
44
vệ công dân EU. Bản kế hoạch này sẽ được đệ trình lên lãnh đạo Chính phủ
các nước EU trong khuôn khổ phiên họp Hội đồng Châu Âu diễn ra vào tháng
12 tới. Vẫn chưa thể biết Kế hoạch an ninh và quốc phòng mới sẽ tiếp tục
được thúc đẩy ở mức độ nào sau Hội nghị trên, nhưng rõ ràng Châu Âu đang
từng bước khẳng định một chính sách an ninh ít nhiều độc lập với NATO.
[28]
Những mối đe dọa an ninh đòi hỏi nhiều hơn khả năng ứng biến linh
hoạt ở các nước EU. Điều quan trọng chính là phải thu hẹp khoảng cách, phải
tạo ra được nhận thức chung trong Liên minh Châu Âu thì lúc đó mới có được
cái gọi là chính sách chung. Một khi Liên minh Châu Âu không có tiếng nói
chung và hành động mang tính phối hợp, thì việc đảm bảo an ninh và xử lý
các mối đe dọa khủng bố vẫn là một bài toán khó. Trong khi đó, an ninh quốc
gia của EU chỉ có thể được đảm bảo khi những thách thức an ninh khu vực và
thế giới giảm thiểu.
2.2.3. Chính sách đối ngoại và an ninh chung của EU đối với khu vực
châu Á-Thái Bình Dương: EU có chiến lược tăng cường quan hệ hợp tác với
khu vực châu Á – Thái Bình Dương nhằm hiện diện nhiều hơn tại khu vực và
thúc đẩy quan hệ sâu rộng hơn với từng quốc gia trong khu vực. Liên minh
châu Âu tiếp tục đưa ra Định hướng về chính sách an ninh và đối ngoại với
khu vực Đông Á nhằm tăng cường hợp tác phát triển, mở rộng quan hệ với
các nước khu vực này. Sau năm 2009, EU làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp
tác với khu vực châu Á-Thái Bình Dương thông qua các bước đi cụ thể trên
các lĩnh vực quan hệ chính trị-đối ngoại, kinh tế-đầu tư-thương mai, hợp tác
phát triển EU luôn xác định trọng tâm quan hệ với châu Á Thái bình
Dương là với các nước khu vực Đông Á. Với khu vực Đông nam Á, nghị viện
châu Âu thông qua Nghị quyết về “tương lai quan hệ EU-ASEAN” năm 2014,
45
nhằm đẩy mạnh hợp tác với các nước Đông nam Á về nhiều lĩnh vực: kinh tế,
văn hóa, khoa học kĩ thuật, giải quyết xung đột, tranh chấp lãnh thổ, đảm bảo
hòa bình khu vực. [1] Cùng với sự nâng cao về tiềm lực kinh tế và chính trị,
các nước EU đang mong muốn và nỗ lực tăng cường quan hệ với các quốc gia
và các tổ chức quốc tế nhằm gia tăng ảnh hưởng của mình trong việc thúc đẩy
sự phát triển kinh tế và ổn định chính trị trên toàn cầu. Trong hơn một thập kỷ
qua và trong những năm tiếp theo, EU rất chú trọng tới tăng cường quan hệ
toàn diện với khu vực châu Á, một châu lục đã và vẫn tiếp tục phát triển rất
năng động và đầy hứa hẹn. Đồng thời, EU cũng hướng tới mục tiêu củng cố
thêm liên kết với một trong ba cực kinh tế chính trị của thế giới là EU, Mỹ và
Đông Á.
Với mỗi quốc gia lớn hay chủ thể khác nhau của khu vực châu Á-
Thái Bình Dương, EU có các chính sách và thực thi hoạt động hợp tác phát
triển khác nhau. Trong phạm vi đề tài, tác giả đi vào tìm hiểu về quan hệ hợp
tác giữa EU và các đối tác chủ chốt của khu vực như: Trung Quốc, ASEAN,
Nhật Bản, Việt Nam nhằm làm nổi bật vấn đề trọng tâm của đề tài là tìm hiểu
về những điều chỉnh của chính sách đối ngoại của EU với khu vực châu Á-
Thái Bình Dương.
2.2.3.1. Điều chỉnh chính sách đối ngoại của EU và quan hệ hợp tác
với Trung Quốc: Trung Quốc với lãnh thổ rộng lớn, quy mô nền kinh tế đứng
thứ hai thế giới, nền chính trị có sức ảnh hưởng lớn và quy mô dân số đứng
đầu thế giới... là một chủ thể có vai trò rất to lớn trên bàn cờ chính trị, kinh tế
thế giới. Quan hệ hợp tác giữa EU và trung Quốc có truyền thống lâu dài từ
các mối quan hệ song phương giữa các nước thành viên EU cũng như với
chính liên minh. Đối thoại chính trị giữa EU và Trung Quốc khởi động năm
1975. Quan hệ chính thức được hai bên thiết lập năm 1985 đánh dấu bằng
Hiệp định hợp tác kinh tế và thương mại giữa EC và Trung Quốc. EU đã thiết
46
lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc vào năm 2003 và
được nâng cấp trong năm 2010 bao gồm các vấn đề đối ngoại, các vấn đề an
ninh và các vấn đề toàn cầu như biển đổi khí hậu và quản trị nền kinh tế toàn
cầu. EU là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, trong khi Trung
Quốc là nguồn nhập khẩu lớn nhất và là đối tác thương mại thứ hai của EU.
Đó là bằng chứng cho thấy nền kinh tế EU và Trung Quốc bổ sung cho nhau,
và lý giải vì sao Trung quốc và EU là những đối tác hấp dẫn, quan trọng của
nhau. Các mối quan hệ thương mại và đầu tư thực sự thúc đẩy sự phồn
thịnh,tạo nhiều công ăn việc làm, động lực cho phát triển và luôn đề cao tính
đổi mới cho cả hai bên. Hội nghị thượng đỉnh EU-Trung Quốc lần thứ 14 vào
tháng 2 năm 2012, kiến trúc thể chế cho quan hệ hợp tác giữa EU và Trung
Quốc dựa trên 3 trụ cột: chính trị, kinh tế - thương mại và giao lưu giữa công
dân hai phía. Các cuộc họp hội nghị Thượng đỉnh hàng năm cùng với các
cuộc đối thoại cấp cao thường xuyên, cũng như nhiều cuộc đối thoại cấp
ngành bao gồm danh sách rộng rãi các chủ đề như chính sách công nghiệp,
giáo dục, hải quan, các vấn đề xã hội, năng lượng hạt nhân, quyền sở hữu trí
tuệ và bảo vệ người tiêu dùng.... EU khẳng định mạnh mẽ phát triển mối quan
hệ chiến lược một cách toàn diện với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.[41]
Bên cạnh nâng cao, làm sâu sắc mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc
trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư.. song phương và đa phương cả ở
cấp độ liên minh cũng như cấp độ các nước thành viên, EU vẫn có những giới
hạn về hợp tác an ninh quốc phòng với Trung Quốc vì nhiều lí do. Các nước
lớn ở EU vẫn đồng thuận trong việc giới hạn hợp tác an ninh, chính trị, công
nghiệp quốc phòng hay thậm trí là quyền sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp
nhạy cảm của EU đối với các doanh nghiệp Trung Quốc. Như vậy, chính sách
đối ngoại chung của EU với Trung Quốc giai đoạn này tuy thúc đẩy, tăng
cường hợp tác kinh tế nhưng vẫn giới hạn về quan hệ chính trị, an ninh, quốc
47
phòng. Dù bản thân EU và Trung Quốc cần nhau trên bàn cờ chính trị thế
giới, đặc biệt ở các diễn đàn thuộc liên hợp quốc, ở các vấn đề khu vực và
quốc tế liên quan, các nước thành viên của EU vẫn còn nhiều mâu thuẫn,
không thống nhất trong thiết lập quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc.
Mối lo về vị thế chính trị trên thế giới, đối thủ tương lai vẫn chiến thắng cái
lợi của hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư giữa hai chủ thể này.
2.2.3.2.Điều chỉnh chính sách đối ngoại của EU và quan hệ hợp tác với
Nhật bản: Quan hệ chính trị, ngoại giao và kinh tế giữa EU và Nhật Bản tiếp
tục có những bước phát triển tốt đẹp. Quan hệ hợp tác chính trị của EU với
Nhật Bản cả ở cấp độ Liên minh và cấp độ các nước thành viên đều tốt đẹp.
Dù ở hợp tác song phương giữa EU với Nhật Bản hay trên các diễn đàn đa
phương, hai đối tác đều có nhiều đồng thuận, ủng hộ lẫn nhau. Các diễn đàn
đa phương như : Liên hợp quốc, Nhóm nước phát triển G7, hai đối tác này
có sự hợp tác rất sâu, rộng với nhau, ủng hộ nhau về lập trường chính trị hay
giải quyết các vấn đề quốc tế cùng quan tâm. Các nước thành viên của EU đã
có những động thái mới nhằm tăng cường hợp tác với Nhật Bản trên nhiều
lĩnh vực khác nhau. Điều này cùng với xu hướng tự do hoá thương mại, khu
vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mối quan hệ hợp tác
giữa khu vực EU và Nhật Bản có nhiều bước chuyển biến và phát triển mạnh
mẽ hơn. Có thể kể ra một số thành công đáng kể trong các hành động chung
của hai bên: ủng hộ tăng cường vai trò của Liên hợp quốc cũng được đề cập
đến trong bản Tuyên bố chung và ký cam kết giữa các nước trong Liên hợp
quốc có tham gia vào việc buôn bán các loại vũ khí hạng nhẹ. Hơn nữa cả
Nhật Bản và Châu Âu đều cùng nhau thúc đẩy việc ký kết hiệp ước Kyoto về
thay đổi khí hậu toàn cầu. Một chủ đề quan trọng khác cũng được hai bên đề
cập là viện trợ chính thức (ODA). Cùng với việc đề cao vai trò của Liên hợp
quốc và tránh các xung đột. Hai bên luôn cố gắng tăng cường mối quan hệ
48
trong những diễn đàn hợp tác, trong đó có hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
(ASEM) giữa các nhà lãnh đạo EU, ASEAN cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc diễn ra hai năm một lần. Tại diễn đàn này, EU cùng với Nhật
Bản là hai đối tác phát triển và ổn định nhất so với những chủ thể khác. Nhật
Bản là nước châu Á có nhiều điểm tương đồng nhất về dân chủ, luật pháp và
kinh tế thị trường với các nước Châu Âu.
Hợp tác trong lĩnh vực thương mại và đầu tư luôn được quan tâm
nhiều nhất trong mối quan hệ song phương EU và Nhật Bản. Những năm gần
đây, tình hình đã có những thay đổi lớn lao làm ảnh hưởng tích cực đến giao
dịch thương mại giữa hai bên. Trong EU thì Đức và Anh là hai đối tác thương
mại lớn nhất của Nhật Bản. Trong đó Đức là nhà xuất khẩu lớn nhất vào Nhật
Bản. Hầu hết các nước thành viên EU đều có thâm hụt thương mại với Nhật
Bản. Hợp tác trong lĩnh vực Khoa học và công nghệ : Sự thịnh vượng của
Nhật Bản và EU phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học và công nghệ. Cả
hai không thể dựa vào tài nguyên cơ bản và càng không thể dựa vào lực lượng
lao động giá rẻ để cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu. Nhật Bản và châu Âu
đều có mối quan tâm đặc biệt về môi trường q...Gucht tới Việt Nam; Năm 2014 có chuyến thăm và làm việc với Việt Nam
của Đại diện Cấp cao EU về Chính sách An ninh và Đối ngoại chung, kiêm
Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu, Bà Catherine Ashton; chuyến thăm của Chủ
tịch Ủy ban Châu Âu, Ngài José Manuel Barroso tới Việt Nam; năm 2015,
Ngài Dimitris Papadimoulis, Phó Chủ tịch Nghị viện Châu Âu nhân dịp sang
tham dự Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132, thăm và làm
việc với Việt Nam; chuyến thăm của Cao ủy EU về Hợp tác và Phát triển
Quốc tế, Ngài Neven Mimica tới Việt Nam; chuyến thăm và làm việc của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Brussels, Bỉ và hai bên đã thông qua một tuyên
bố chung đồng thời ký một tuyên bố về kết thúc đàm phán Hiệp định Thương
mại Tự do EU-Việt Nam (FTA). Vào năm 2016: có các chuyến thăm và làm
việc với Việt Nam của các quan chức cấp cao EU trên các lĩnh vực như: Cao
ủy EU về Môi trường và Thủy sản, Ngài Marmenu Vella; Cao ủy EU về
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngài Phil Hogan tới thăm và làm việc
tại Việt Nam. [29] Các cuộc thăm và làm việc của các lãnh cấp cao giữa hai
đối tác góp phần nâng cao đối thoại chính trị thực chất, hiệu quả giúp tăng
cường hiểu biết, chia sẻ và thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương trên các
lĩnh vực khác đem lại lợi ích thiết thực cho các chủ thể.
Các cuộc tham vấn chính trị cấp Thứ trưởng EU-Việt Nam đóng một
vai trò quan trọng trong quan hệ chính trị hai bên, đem đến cơ hội thảo luận
các vấn đề song phương và đa phương cùng quan tâm như nhân quyền, phát
58
triển bền vững, biến đối khí hậu và an ninh khu vực và quốc tế. Trong năm
2012, Cơ chế đối thoại đã được nâng cấp thành cơ chế Đối thoại tăng cường.
Tiến trình này còn được bổ sung và tăng cường thông qua Tiểu ban EU-Việt
Nam về Hợp tác trên các lĩnh vực xây dựng thể chế, cải cách hành chính,
quản trị công và nhân quyền. Tiểu Ban được thành lập theo Hiệp định Khung
năm 1995 này sẽ xác định những lĩnh vực mang lại lợi ích chung, chia sẻ kinh
nghiệm và xác định các lĩnh vực phù hợp dành cho các dự án và những người
xây dựng chương trình hợp tác. Các công cụ hợp tác có liên quan bao gồm
Sáng kiến Dân chủ và Nhân quyền của châu Âu (EIDHR) và Các Thực thể
Phi Nhà nước (NSA) cùng các Cơ quan Chức năng Địa phương (LA). Cam
kết của EU nhằm tạo thêm nhiều động lực hơn cho Cơ chế Đối thoại thường
niên và khiến cơ chế này hướng vào việc thu được kết quả với những tiến
trình cụ thể là một điều đáng ghi nhận sau khi kết thúc cuộc Đối thoại Nhân
quyền EU-Việt Nam lần thứ 6 diễn ra tại Brussels vào tháng 12 năm 2016.
Vòng đối thoại thứ 7 được tổ chức tại Hà Nội trong năm 2017. [29]
Khác biệt với quan hệ hợp tác của EU với cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, EU sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong việc mua sắm trang thiệt bị
quân sự, an ninh, quốc phòng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam. EU ủng hộ lập trường của Việt Nam về giải quyết
tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế. Việt Nam tăng cường
tiềm lực quân sự của mình bằng các hợp đồng mua sắm thiết bị quân sự của
các nước thành viên, đối tác thuộc EU.
3.2.2. Quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư giữa EU và Việt Nam: Liên
minh châu Âu là đối tác đáng tin cậy và hỗ trợ mạnh mẽ quá trình hội nhập
của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. Hỗ trợ từ EU đóng góp cho việc thực
hiện thành công các chính sách cải cách theo định hướng thị trường đã dẫn
đến tiến bộ kinh tế vượt bậc của Việt Nam, góp phần năng cao vị thế, vai trò
59
của Việt Nam trong khu vực và thế giới. Với mức thu nhập bình quân đầu
người của là 2.215 USD, Việt Nam đang được xếp là một quốc gia có thu
nhập trung bình thấp. Năm 2016, EU là một trong những thị trường ngoài
nước quan trọng nhất của Việt Nam (EU xếp thứ hai sau Mỹ). EU nhập khẩu
19,5% tổng lượng xuất khẩu của Việt Nam năm 2016. Thương mại hai chiều
tăng 9.5% chủ yếu là do tỷ lệ tăng trưởng ấn tượng của hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang EU, điều này đã làm cho tỷ lệ tăng năm sau so với năm trước
là 10% (34 tỷ USD). EU cũng là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam
sau Trung Quốc và Hoa Kỳ. Đặc biệt, khoản thặng dư thương mại liên tục gần
22,9 tỷ USD mà Việt Nam có được trong giao thương với EU giúp cân bằng
đáng kể thâm hụt thương mại khổng lồ của Việt Nam với Trung Quốc và Hàn
Quốc và dẫn tới kết quả thặng dư thương mại khoảng 2,68 tỷ USD. Do vậy,
2016 đánh dấu một năm nữa mà trong đó Việt Nam có được thặng dư thương
mại kỷ lục với EU. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU tập trung vào các
sản phẩm sử dụng nhiều lao động bao gồm hàng điện tử lắp ráp/điện thoại,
giầy dép, hàng dệt may, cà fê, hải sản và đồ gỗ. Hàng xuất khẩu chính của EU
vào Việt Nam là các sản phẩm công nghệ cao, bao gồm nồi hơi, máy móc &
sản phẩm cơ khí, máy móc & thiết bị điện, dược phẩm và các loại xe. Việc
mở rộng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU được hưởng lợi đáng kể
từ Hệ thống Ưu đãi Thuế quan Phổ cập của EU (Generalised Scheme of
Preferences (GSP) tạo điều kiện cho xuất khẩu hàng hóa từ các nước đang
phát triển vào EU. Về Đầu tư của EU vào Việt Nam: Liên minh châu Âu là
một trong những nguồn đầu tư nước ngoài quan trọng nhất của Việt Nam.
Theo Cục Đầu tư Nước ngoài của Bộ Kết hoạch và Đầu tư, các nhà đầu tư từ
23 trong tổng số 28 Nước Thành viên EU đã đầu tư một lượng vốn FDI theo
cam kết là 21,77 tỷ USD vào 1903 dự án trong vòng 26 năm qua (tính đến
cuối năm 2016). Trong năm 2016, các nhà đầu tư từ EU đã rót 478,4 triệu
60
USD vào 162 dự án tại Việt Nam. Xếp hạng của EU đã bị tụt xuống hàng thứ
7 so với con số 3 của năm 2015 trong số những đối tác FDI lớn nhất của Việt
Nam. [29]
Dự án Chương trình Hỗ trợ Chính sách Thương mại và Đầu tư của châu
Âu dự án trọng điểm trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng toàn
diện và giảm nghèo ở Việt Nam. Dự án này đã rất hữu hiệu trong việc hỗ trợ
các nỗ lực đàm phán của Việt Nam trong quá trình gia nhập WTO và trong
Hiệp định FTA EU-Việt Nam sau này. Dự án này cũng tiếp tục giúp đỡ Việt
Nam hội nhập sâu hơn vào các hệ thống thương mại toàn cầu, ASEAN và tiểu
vùng. Dự án này hỗ trợ Bộ Công Thương Việt Nam và các bộ, cơ quan liên
quan trong việc tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư quốc tế bền vững
thông qua việc cải thiện năng lực hoạch định chính sách, tham vấn chính sách
và việc thực thi các cam kết liên quan, nhất là đối với FTA EU-Việt Nam.
Về quan hệ thương mại giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế của Việt Nam. Năm 2012, EU và Việt Nam đã chính thức triển
khai đàm phán Hiệp định Thương mại tự do (FTA). Sau 14 vòng đàm phán,
quá trình đàm phán FTA này đã chính thức hoàn thành. Năm 2015, tại thủ đô
của nước Bỉ, FTA EU-Việt Nam là một hiệp định hiện đại và toàn diện. Hiệp
định gỡ bỏ gần như toàn bộ thuế quan trong thương mại hàng hóa giữa hai
nền đối tác. Đây chính là niềm tin chung giữa EU và Việt Nam về việc
thương mại có vai trò thiết yếu đối với sự tăng trưởng, tạo công ăn việc làm
và phát triển bền vững cho Việt Nam cũng như đem lại lợi ích lớn cho đối tác
EU. Hiệp định này sẽ tạo ra những cơ hội tiếp cận thị trường mới trong lĩnh
vực dịch vụ và đầu tư. Việt Nam đã đồng ý với việc tự do hóa thương mại
trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, viễn thông, giao thông, bưu chính và chuyển
phát nhanh. Trong lĩnh vực đầu tư, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường cho các
doanh nghiệp của EU. Trong lĩnh vực mua sắm chính phủ, EU và Việt Nam
61
đã đạt thoả thuận về nguyên tắc đảm bảo phù hợp với các quy định trong Hiệp
định Mua sắm Chính phủ (GPA) của WTO. Hiệp định này cũng sẽ tăng
cường việc bảo vệ những Chỉ dẫn Địa lý đại diện cho những sản phẩm nông
sản hàng đầu EU. Những Chỉ dẫn Địa lý của Việt Nam cũng sẽ được công
nhận và bảo hộ tại EU thông qua hiệu lực của Hiệp định này. FTA giữa EU và
Việt Nam bao gồm một chương toàn diện và có nội dung cam kết mạnh mẽ về
Thương mại và Phát triển Bền vững, bao trùm các vấn đề về lao động và môi
trường có liên quan trong quan hệ thương mại giữa EU và Việt Nam. Những
cam kết đối với những tiêu chuẩn lao động cốt lõi và các Công ước của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) đảm bảo cả hai bên tôn trọng những quyền cơ
bản của người lao động. Những lĩnh vực như Trách nhiệm Xã hội của Doanh
nghiệp và những cơ chế hợp tác thương mại có đạo đức và công bằng cũng
được đặc biệt chú trọng. [29] FTA này cũng sẽ thiết lập một cấu trúc chuyên
biệt để đảm bảo việc thực thi đầy đủ chương trên, bao gồm cả những cơ chế
đảm bảo sự tham gia của các thành phần kinh tế, xã hội và môi trường độc lập
ở cả EU và Việt Nam. Hiệp định cũng sẽ bao hàm một mối liên kết có ràng
buộc về mặt pháp lý với Hiệp định Đối tác và Hợp tác Toàn diện (PCA) trong
đó chi phối mối quan hệ toàn diện giữa EU và Việt Nam, qua đó đảm bảo
rằng nhân quyền, dân chủ, và pháp quyền là những thành phần thiết yếu trong
mối quan hệ thương mại song phương của hai bên.Vào tháng 6 năm 2016,
Phái đoàn EU tại Việt Nam đã phát hành Sách hướng dẫn về Hiệp định
Thương mại tự do EU-Việt Nam. [29]
3.2.3. Quan hệ hợp tác phát triển, khoa học giáo dục EU-Việt Nam: Nền
giáo dục, đào tạo của Việt Nam vẫn đang tích cực đổi mới, phát triển theo
hướng hiện đại của thế giới. EU có nền giáo dục đào tạo và trình độ khoa học,
kỹ thuật hàng đầu thế giới. Việc đẩy mạnh hợp tác giữa hai đối tác trong lĩnh
vực này là ưu tiên trong hợp tác phát triển. Việt Nam và EU xây dựng mối
62
quan hệ đối tác tốt đẹp trong lĩnh vực giáo dục- đào tạo, khoa học và công
nghệ nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, an ninh
năng lượng, nâng cao vai trò của giáo dục, đào tạo trong phát triển kinh tế, xã
hội... Hai bên xác định những tiềm năng và các lĩnh vực ưu tiên hợp tác giữa
hai khu vực về nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, đưa ra các cơ chế
tài trợ mới cho hợp tác KH&CN, xây dựng nền tảng nhằm khuyến khích sức
mạnh tổng hợp của các hoạt động nghiên cứu chung. Tính đến cuối tháng
10/2011, Việt Nam đã tham gia 27 dự án nghiên cứu chung được tài trợ bởi
EU, đạt tỷ lệ thành công là 33,3% (cao nhất khu vực Đông Nam Á và trên
mức bình quân là 23,9%). Chương trình học bổng Erasmus Mundus (EM)là
một cơ hội để tiếp cận trao đổi học thuật cấp cao, chia sẻ ý tưởng và tiếp xúc
với cộng đồng học thuật trên thế giới cũng như có được kiến thức sâu rộng về
cuộc sống tại châu Âu. Thông qua các dự án đối tác, các trường đại học tại
Việt Nam thành lập mạng lưới và liên kết với các đại học thuộc EU, nâng cao
chất lượng giảng dạy và xây dựng các cơ chế hỗ trợ trao đổi và công nhận
bằng cấp. EU và Việt Nam nhất trí thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực giáo dục
đại học và coi đây là một ưu tiên trong Hiệp định Hợp tác và Đối tác.[44]
Về Hợp tác phát triển giữa Việt Nam và EU: Từ việc ký và thực hiện
Hiệp định Đối tác và Hợp tác, EU tăng cường đối tác, đối thoại và hợp tác
với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực: môi trường pháp lý tiến bộ và kỹ thuật
công nghệ để giải quyết các thách thức toàn cầu về môi trường và biến đổi
khí hậu; EU hỗ trợ kinh nghiệm trong hàng loạt vấn đề về hội nhập khu vực
có tầm quan trọng cao đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập sâu vào
khu vực ASEAN. Tài liệu Chiến lược Quốc gia cho giai đoạn 2007-2013
phân bổ 298,6 triệu euro cho y tế, phát triển nông thôn, quản trị và hợp tác
kinh tế. Ngoài ra, nhiều nước thành viên EU cũng hoạt động tích cực tại Việt
Nam thông qua ngân sách phát triển của quốc gia thành viên. Trong năm
63
2013, 743 triệu euro (965 triệu USD) đã được phân bổ cho hợp tác phát triển
với Việt Nam, đưa EU và các nước thành viên thành nhà tài trợ không hoàn
lại lớn nhất tại Việt Nam. Chương trình Hỗ trợ Trung hạn 2014-2020 đóng
góp 400 triệu euro cho hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam bằng
cách xây dựng một ngành năng lượng bền vững, tăng cường quản trị và pháp
quyền. Nhiều dự án trong những lĩnh vực này sẽ được thiết kế và ra mắt
trong những năm tới .
Với mỗi nước thành viên khác nhau của EU, Việt Nam có quan hệ hợp
tác mạnh mẽ, riêng biệt về giáo dục, đào tạo, khoa học và kỹ thuật nhằm nâng
cao trình độ và kỹ năng cho các thế hệ công dân Việt Nam. Việt Nam luôn đề
cao giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển của
đất nước. Việc hợp tác phát triển với các đối tác ở EU giúp cho sự nghiệp đổi
mới trong giáo dục đào tạo của Việt Nam thành công và phát triển.
3.3. Nhận xét chung quan hệ hợp tác EU-Việt Nam và một số khuyến nghị đối với
Việt Nam: EU là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam trong nhiều lĩnh
vực. Trao đổi thương mại Việt Nam – EU vẫn tiếp tục đà tăng trưởng. EU
cũng là nhà cung cấp viện trợ phát triển chính cho Việt Nam. Các nhà đầu tư
EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Các dự
án đầu tư của EU có hàm lượng và tỷ lệ chuyển giao công nghệ cao, phương
pháp quản lý tiên tiến, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam. Đặc biệt, liên tục trong những năm qua, EU luôn là một trong những
đối tác viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Các khoản viện trợ của EU luôn
đáp ứng các lĩnh vực ưu tiên của ta như xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục,
đào tạo nguồn nhân lực và hội nhập quốc tế. Các hợp tác song phương làm
minh bạch, thỏa đáng giữa hai đối tác gồm chương trình hợp tác khu vực và
theo chủ đề cho các tổ chức xã hội dân sự, môi trường, bình đẳng giới v.v
64
Tài trợ không hoàn lại và các khoản vay của EU cho Việt Nam phù hợp với
các ưu tiên kinh tế-xã hội của quốc gia như đề ra trong Chiến lược Phát triển
Kinh tế Xã hội, và hỗ trợ các nỗ lực của chính phủ trong tái cơ cấu nền kinh
tế với mục đích đảm bảo tăng trưởng dài hạn và phúc lợi cho người dân. EU
đã phân bổ hỗ trợ phát triển cho các lĩnh vực mà Việt Nam cần cải cách liên
tục nhằm tối đa hóa hợp lực giữa các chính sách của chính phủ và chương
trình hỗ trợ phát triển, nhờ đó góp phần thực hiện mục tiêu tổng thể của tăng
trưởng hài hòa và bền vững, giảm nghèo và bình đẳng và hội nhập kinh tế thế
giới. Tăng cường an sinh xã hội, y tế và giáo dục; hỗ trợ môi trường kinh
doanh thuận lợi và hội nhập khu vực sâu hơn; nông nghiệp bền vững và năng
lượng sạch, giúp cung cấp các biện pháp an toàn chống lại các cú sốc từ bên
ngoài và biến các thách thức về an ninh lương thực và biến đổi khí hậu thành
các cơ hội phát triển.
Liên Minh châu Âu trở thành đối tác quan trọng, một thị trường rộng
lớn, có khả năng tiêu thụ nhiều loại sản phẩm của Việt Nam. Đồng thời EU
cũng là một khu vực có nền kinh tế phát triển cao, có thể đáp ứng các yêu cầu
nhập khẩu thiết bị công nghệ nguồn và nguyên liệu cho nhiều ngành công
nghiệp, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của Việt Nam. Quan hệ hợp tác giữa EU và Việt Nam phát triển tốt
đẹp cả cấp độ song phương, khu vực và đa phương. Trên cấp độ song
phương: Tăng cường hiểu biết lẫn nhau thông qua tăng cường mối liên hệ
giữa con người với nhau, đặc biệt giới thiệu về những quốc gia thành viên
mới của EU. Tăng cường các mối liên hệ chính trị, phát huy hiệu quả của các
sự kiện đa phương nhằm giảm thiểu sự lãng phí thời gian. Tiếp tục trao đổi
trong lĩnh vực cải cách luật lệ để giúp cho nền kinh tế hai bên tăng sức cạnh
tranh. Nỗ lực để duy trì mối quan hệ thương mại hoà bình. Trên cấp độ khu
vực: Cùng nhau tìm ra hướng đầu tư hiệu quả nhất để tăng cường sự hợp tác.
65
Hợp tác theo hướng hội nhập và chia sẻ kinh nghiệm và hiểu biết, không chỉ
là hiểu cách vượt qua những khó khăn về mặt lịch sử và làm cách nào để hoà
hợp với cả những đối tác lớn hơn hay nhỏ hơn mà còn xúc tiến hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh. Hợp tác để giải quyết những xung đột khu vực, đặc
biệt thông qua mối liên hệ với “quyền lực mềm”. Hoà hợp trong việc hợp tác
trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực tiền tệ - đồng Euro chính là một ví dụ về
việc kết hợp một hệ thống tiền tệ với việc thực hiện các chính sách tài chính
và xã hội khác nhau. Trên cấp độ đa phương: Tiếp tục cổ vũ và tán thành tiến
trình đa phương hoá như một nhân tố chủ chốt cho việc quản lý quốc tế hiệu
quả để hướng theo tiến trình toàn cầu hoá. Kết hợp sức mạnh của các đối tác,
chủ thể quốc tế góp phần vào sự thành công của vòng đàm phán Doha.[44]
Bên cạnh những kết quả tốt đẹp của quan hệ hợp tác giữa EU và Việt
Nam, hai đối tác cần đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ hợp tác nhiều mặt đáp
ứng vị thế, vai trò to lớn của hai bên trên trường quốc tế cũng như tiềm năng
rộng lớn của hai đối tác. EU là một tập hợp của các quốc gia có nhiều thế
mạnh, nhiều phân khúc thị trường, nhiều doanh nghiệp ở mức độ phát triển
khác nhau, do vậy, Việt Nam cần có chính sách hợp tác phát triển khác nhau
phù hợp với từng đối tác, chủ thể của EU. Ngoài phát triển mạnh hơn nữa
quan hệ hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, tài chính, ngân hàng,Việt
Nam nên tăng cường hợp tác về giáo dục, đào tạo, khoa học kỹ thuật với từng
nước, chủ thể của Liên minh EU nhằm phát huy tối đa thế mạnh của từng đối
tác. Quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lợi ích của nhau,
phù hợp với thể chế và luật pháp quốc tế sẽ giúp cho Việt Nam ngày càng có
vị thế tốt hơn với các đối tác của Liên minh châu Âu.
Hợp tác phát triển với EU và các nước thành viên, Việt Nam không đặt
nặng lợi ích kinh tế lên tất cả. Mỗi đối tác ở EU có thế mạnh, đặc điểm riêng,
66
Việt Nam cần phát huy sự hài hòa để thu được nhiều thành quả nhất có thể
trên nguyên tắc tôn trọng lợi ích của đối tác.
Trên cấp độ đa phương, quan hệ hợp tác phát triển với EU, Việt Nam
cần chủ động nâng cao vai trò, vị thế của EU trên bàn cờ thế giới bằng tôn
trọng lợi ích của EU, đồng thuận với tiếng nói của EU ở các diễn đàn đa
phương, Liên hợp quốc, giải quyết các vấn đề toàn cầu hay xử lý các cuộc
khủng hoảng trên thế giới. Đề cao tiếng nói đồng thuận với EU và các nước
thành viên trên các diễn đàn quốc tế đem lại lợi ích lớn trong hợp tác phát
triển với EU và các thành viên.
Hợp tác phát triển với EU và các nướ thành viên còn nhiều hạn chế,
khó khăn vì sự khác biệt của Việt Nam với các đối tác này: quy mô nền kinh
tế Việt Nam nhỏ, sản phẩm của nền công nghiệp Việt Nam chưa thật tốt,
doanh nghiệp Việt Nam nhỏ, khả năng tiêu thụ của thị trường Việt Nam còn
thấp với các sản phẩm chất lượng cao của EU, trình độ khoa học kỹ thuật của
Việt Nam còn thua kém Eu nhiều, hay khác biệt về văn hóa, xã hộiNhưng
Việt Nam cần có sự chủ động, tích cực, năng động về hợp tác phát triển với
các đối tác EU nhằm tìm được tiếng nói chung đem lại lợi ích cao nhất có thể
cho cả hai bên.
Tiểu kết chương 3:
Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế năm 2008, EU đã có
những điều chỉnh chiến lược trong quan hệ hợp tác với các quốc gia, khu vực
trên thế giới. Quan hệ hợp tác phát triển giữa EU và Việt Nam cũng được tăng
cường, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Hợp tác phát triển, quan hệ
kinh tế, thương mại và đầu tư của EU với Việt Nam là điểm sang trong tiến
trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của Việt nam. EU hợp tác với Việt
Nam không phân biệt sự khác biệt về thể chế chính trị hay rang buộc về các
67
yếu tố chính trị khác. EU mở rộng giúp đỡ, hỗ trọ Việt Nam mọi mặt từ
thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, nâng cao năng lực quản lý đất nước
đến các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, trang bị kỹ thuật quân sự, hợp tác chính
trị, đối ngoại sâu rộng. Mối quan hệ hợp tác phát triển toàn diện giữa Việt
Nam và EU cùng các nước thành viên trên cả cấp độ song phương và đa
phương giúp cho Việt Nam đạt nhiều thành tựu trên con đường hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và nâng cao vai trò,vị thế của Việt Nam trong khu vực
ASEAN cũng như trên trường quốc tế. Việt Nam sẵn sàng cùng EU và các
nước thành viên liên minh mở rộng hợp tác, phát triển các mối quan hệ sâu
rộng và mạnh mẽ hơn. Hai bên luôn chủ động tìm các mặt còn hạn chế trong
quan hệ hợp tác để cùng nâng tầm mối quan hệ hợp tác hài hòa với lợi ích của
nhau và góp phần vào sự phát triển trung của nền hòa bình thế giới.
68
Phần kết luận
Qua quá trình phân tích những nền tảng lý thuyết chung về chính sách
đối ngoại, tác giả nhận thấy rằng không có một lý thuyết đơn lẻ hay riêng biệt
nào về chính sách đối ngoại phù hợp cho sự hoạch định, thực thi chính sách
đối ngoại của một quốc gia, thay vào đó, những lý thuyết về quan hệ quốc tế
chủ yếu như chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do,.. cũng như nhiều cách tiếp
cận khác nhau nhằm giải thích nguồn gốc bên trong của việc hoạch định, thực
thi chính sách đối ngoại của các quốc gia. Sự khác biệt về trọng tâm này
tương ứng với việc xem xét hai khía cạnh: một là, các nhân tố bên ngoài và
mang tính hệ thống như bối cảnh quốc tế, khu vực, quốc gia; hai là nguồn gốc
bên trong và mang tính xã hội trong chính sách đối ngoại như lịch sử, văn
hóa, nền tảng chính trị, các nhà lãnh đạo, của quốc gia, chủ thể đó.
Trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang
tạo ra những điều kiện thuận lợi trong quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, chủ
thể quốc tế, yếu tố địa chính trị được xem xét trên nhiều phương diện đóng
góp vai trò ngày càng quan trọng để các quốc gia có thể lựa chọn chính sách
đối ngoại hợp lý trong quan hệ quốc tế. Thế kỷ XXI được xem là thế kỷ của
Châu Á – Thái Bình Dương với những điều chỉnh lớn trong chính sách đối
ngoại của nhiều cường quốc trên thế giới, trong đó có EU. Tại khu vực Châu
Á –Thái Bình Đương, Đông Nam Á là nơi đan xen lợi ích chiến lược của
nhiều cường quốc. Do đó, gần như tất cả các nước lớn trên thế giới đều chú
trọng và có sự điều chỉnh chiến lược đối với khu vực có tầm quan trọng đặc
biệt này. Châu Á-Thái Bình Dương là một khu vực có vị trí chiến lược về an
ninh cũng như là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế của toàn bộ
thế giới và chính vì vậy đây là khu vực mà các cường quốc thế giới như: Mỹ,
Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và đặc biệt EU ngày càng gia tăng mức độ ảnh
69
hưởng của mình thông qua hàng loạt các chính sách, trong đó công cụ chính
sách đối ngoại đặc biệt quan trọng.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, EU luôn coi khu vực
Châu Á-Thái Bình Dương là một địa bàn chiến lược trong trọng tâm phát
triển quan hệ hợp tác quốc tế của EU, chính vì vậy mà EU luôn có những điều
chỉnh và thay đổi trong chính sách đối ngoại của mình với khu vực để phù
hợp bối cảnh thực tế mới. Trong các nước thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương, EU luôn đặt trọng tâm vào thúc đẩy và phát triển mối quan hệ hợp tác
với các quốc gia như: Nhật Bản, Trung Quốc và đặc biệt là khu vực ASEAN.
Bên cạnh đó, hợp tác phát triển với Việt Nam luôn là mối quan tâm hàng đầu
của EU và cá nước thành viên thông qua việc thúc đẩy thương mại, đầu tư và
quan hệ chính trị đối ngoại của EU cả cấp độ song phương và đa phương.
EU tăng cường hợp tác với khu vực châu Á-Thái Bình Dương trên
nhiều lĩnh vực khác nhau, không phân biệt sự khác biệt về thể chế, chính trị,
quy mô kinh tế, văn hóa, giáo dụcTừ quan hệ hợp tác về chính trị đối ngoại
đến an ninh quốc phòng, EU luôn chủ động hợp tác với các đối tác khu vực
tùy theo chủ thể nhất định. Bên cạnh hợp tác sâu rộng với các đối tác như
Nhật Bản, Hàn quốc, Austraylia, ASEAN, Ấn Độ,về các lĩnh vực an ninh,
quốc phòng, chính trị, EU đề cao quan hệ hợp tác với các nước khác trong
khu vực trên các cấp độ song phương và đa phương khác nhau.
EU chủ động, tăng cường hợp tác phát triển với các nước trong khu vực
châu Á-Thái Bình Dương trong bối cảnh mới, hài hòa lợi ích của các bên
tham gia, góp phần vào xu hướng toàn cầu hóa, hòa bình,ổn định và phát triển
của thế giới đương đại. Nền chính trị thế giới đạt được hòa bình, ổn định,
cuộc sống người dân toàn cầu trở lên tốt đẹp hơn nhờ các mối quan hệ hợp tác
phát triển giữa các chủ thể lớn trên thế giới, trong đó EU giữ vai trò rất lớn.
EU và châu Á-thái Bình Dương tăng cường hợp tác phát triển đóng góp nhiều
70
vào sự ổn định và phát triển của thế giới. Cùng nhau hợp tác, các đối tác hai
khu vực này sẽ tạo ra tiếng nói rất quan trọng vào sự ổn định, phát triển của
thế giới.
Hợp tác phát triển giữa EU và Việt Nam tuy còn nhiều thách thức vì
quy mô của hai chủ thể khác nhau, hiệu quả của mối quan hệ phát triển này
đem lại nhiều lợi ích cho cả hai bên. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập,
liên kết nền kinh tế vào khu vực và thế giới, hợp tác phát triển mọi mặt với
EU là ưu tiên của đất nước. Việt Nam sẵn sàng, chủ động, tích cực hợp tác
với EU trên cả cấp độ liên minh cũng như tăng cường mối quan hệ hợp tác
với các thành viên của EU.
71
Tài liệu Tham khảo
Tiếng Việt:
1. Luận Thùy Dương(2016), “Chuyến hướng sang châu Á – Thái
Bình Dương: chiến lược của EU so sánh với Mỹ”, Tạp chí
Nghiên cứu Châu Âu, số 3, 2016, tr.12-17.
2. Đặng Minh Đức (2015), “Chính sách an ninh và đối ngoại chung
của Liên minh châu Âu và một số gợi ý cho xây dựng cộng
đồng an ninh – chính trị ASEAN”, Tạp chí Nghiên cứu Châu
Âu, số 6, tr. 22-25.
3. Trần Văn Đạo – Phan Doãn Nam (2001), “Giáo trình lịch sử
quan hệ quốc tế 1945-1990” – Tài liệu tham khảo, Học viện
Quan hệ Quốc tế, Hà Nội 2001.
4. Bùi Hồng Hạnh, “Liên minh Châu Âu từ hợp tác chính trị đến
một chính sách đối ngoại chung 1952 - 1992”, Tạp chí Nghiên
cứu Châu Âu, số 4, 2005.
5. Hoàng Khắc Nam(2003), “Một số vấn đề lý luận về Chiến tranh
và Xung đột trong Quan hệ quốc tế”, ĐH Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội 2003.
6. Đào Huy Ngọc, “Lịch sử quan hệ quốc tế (1870-1964)”, Giáo
trình, Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.
7. Nguyễn Thu Mỹ(2006), “Bài giảng: Vấn đề an ninh và xung đột
trong quan hệ quốc tế”, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà
Nội 2006.
8. Đinh Công Tuấn (2010), “Một số vấn đề chính trị - kinh tế nổi
bật của Liên minh châu Âu trong giai đoạn 2011 – 2020 và tác
động đến Việt Nam”,Viện nghiên cứu châu Âu, Hà Nội.
72
9. Grzegorz W. Kolodko (2010), “Thế giới đi về đâu ?”, NXB Thế giới,
Hà Nội 2010.
10. Paul R. Viotti, Mark V. Kauppi (2003), “Lý luận quan hệ quốc tế”,
Sách tham khảo, NXB Lao động, Hà Nội 2003.
11. Học Viện Quan hệ Quốc tế (2007), “Lý luận quan hệ quốc tế”, Sách
tham khảo nội bộ, Quyển 1, Hà Nội 2007.
12. Tạ Chí Hiển (2014), “Chính sách Đối ngoại và An ninh chung của
liên minh châu Âu trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn cử nhân Quan hệ quốc
tế, Học viện Ngoại Giao, Hà Nội,
13. Maridon Tuareno (1996), “Sự đảo lộn của thế giới, địa chính trị thế
kỷ 21”, Sách tham khảo, NXB CTQG, Hà Nội 1996.
Tiếng Anh:
14. Angelos Chryssogelos, “The EU’s Crisis of Governance and
European Foreign Policy”, Europe Programme | November 2016.
15. Annegret Bendiek, “A Paradigm Shift in the EU’s Common
Foreign and Security Policy: From Transformation to Resilience”, RP 11
October 2017, Berlin.
16. Ben Soetendorp(1999), “Foreign policy in the European Union:
theory, history and practice”, LongmanLondon and New York, 1999.
17. Eleanor E.Zeff and Ellen B.Pirro(2001), “The European Union and
the Member States: Cooperation, Coordination and Compromise”, Lynne
Rienner Publishers, 2001.
18. Federiga Bindi, “The Foreign Policy of the European Union
Assessing Europe's Role in the World”, (2010).
19. Magnus Ekengren(2002), “The Time of European Governance”,
Manchester University Press, 2002.
73
20. Ramses A.Wessel(1999), “The European’s Foreign and Security
policy: a Legal Institutional Perspective”, Kluwer Law International the
Hague/Boston/London, 1999.
21. Svein S.Andersen and Kjell A.Eliassen(2001), “Making Policy in
Europe” second edition, SAGE publications 2001.
22. Walter Carlsnaes, Helene Sjursen and Brian White(2004),
“Contemporary Foreign Policy”, SAGE Publishers, 2004.
23.Youri Devuyst(2003), “The European Union at the Crossroads: the
EU’s Institutional Evolution from the Schuman Plan to the European
Convention”, P.I.E.-Peter Lang S.A., Germany 2003.
Websites:
24.
Changing-Waters-Towards-a-New-EU-Asia-Strategy.pdf tải ngày 15
tháng 7 năm 2018.
25. https://fas.org/sgp/crs/row/R41959.pdf tải ngày 20 tháng 7 năm 2018
26. Strategic Issues of European Security
Security.html. Tải ngày 15 tháng 7 năm 2018
27. https://vtv.vn/the-gioi/asean-eu-thuc-day-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-
20170311100056653.htm. Tải ngày 15 tháng 07 năm 2018
28.
phong-chung-chau-au-198654.html. Tải ngày 15 tháng 08 năm 2018
29.
eign_security_policy/index_vi.htm. Tải ngày 20 tháng 8 năm 2018
74
30.
ftheeuropeanunion/theforeignpolicyoftheeuropeanunion_chapter.pdf.
Tải ngày 20 tháng 08 năm 2018
31.
dd.com/index.php?option=com_content&view=article&id=538:the-
role-of-the-cfspesdp-for-the-formation-of-the-eu-as-a-global-
actor&catid=16&Itemid=35. Tải ngày 22 tháng 8 năm 2018
32.
Tải ngày 15 tháng 6 năm 2018
33. tps://baotintuc.vn/kinh-te/eu-asean-tren-chang-duong-hop-tac-va-phat-
trien-20140802110253212.htm. Tải ngày 15 tháng 8 năm 2018
34.
doi-tac-chien-luoc. Tải ngày 19 tháng 8 năm 2018
35.
mai.htm
36. https://www.vietnamplus.vn/aseaneu-thuc-day-hop-tac-an-ninh-truyen-
thong-va-phi-truyen-thong/486740.vnp. Tải ngày 18 tháng 8 năm 2018
37. Tải ngày 15 tháng 6 năm 2018
38.
kien/2016/41547/Su-dieu-chinh-chien-luoc-cua-cac-nuoc-lon-doi-voi-
khu.aspx
39. https://caphesach.wordpress.com/2017/04/18/hop-tac-kinh-te-chau-a-
thai-binh-duong-va-tac-dong-doi-voi-aec-phan-dau/. Tải ngày 20 tháng
8 năm 2018
40.
toan-cau-cua-lien-minh-chau-au-la-gi. Tải ngày 20 tháng 8 năm 2018
75
41.
eet_2012_en.pdf. Tải ngày 20 tháng 7 năm 2018
42. https://baotintuc.vn/kinh-te/eu-asean-tren-chang-duong-hop-tac-va-
phat-trien-20140802110253212.htm. Tải ngày 22 tháng 8 năm 2018
43.
the-gioi-dang-thay-doi-121835.html Tải ngày 20 tháng 8 năm 2018
44. https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C2093/N13762/Viet-Nam-%E2%80%93-
EU:-Hop-tac-chien-luoc-va-toan-dien.htm Tải ngày 20 tháng 8 năm
2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chinh_sach_doi_ngoai_cua_lien_minh_chau_au_doi_voi.pdf