Phần A: Giới thiệu đề tài
Trải qua quá trình lịch sử với nhiều thăng trầm, nhân dân ta với ý trí kiên cường, bất khuất, sáng tạo, từ thời Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, hậu Lê... và tới nay đã đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho nước nhà. Gần đây nhất, cuộc đấu tranh chống đế quốc Pháp- Mỹ xâm lược đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khó khăn. Đảng và Nhà nước vẫn kiên định với đường lối đã vạch ra, quyết tâm đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhận rõ được tầm quan trọ
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận điểm cơ bản của Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng của nền kinh tế đối với đất nước, nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc chính là tạo ra một nền kinh tế lớn mạnh. Trước Hội nghị Trung ương sáu (khoá VI) của Đảng (tháng 9-1979) nền kinh tế nước ta được quản lý thuần tuý bằng cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Ngay từ đầu, cơ chế đó đã bộc lộ những nhược điểm, khuyết tật, nhưng trong điều kiện có chủ nghĩa xã hội hùng mạnh, có viện trợ lớn và chiến tranh kéo dài nên các nhược điểm của cơ chế cũ chưa bộc lộ gay gắt, đặc biệt trong mười năm 1955-1965 chúng ta vẫn đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực xây dựng, phát triển kinh tế, giáo dục, y tế... và đã tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và xét về mặt nào đó, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp đã đáp ứng yêu cầu của thời chiến.
Khi hoà bình lập lại, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp ngày càng bộc lộ nhược điểm, trở thành lực cản của sự phát triển, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Nhược điểm ấy được phát hiện ngay trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, Đảng đã đưa ra phương hướng và biện pháp khắc phục nhưng càng khắc phục thì tình trạng đó càng nặng nề thêm. Đến khi đất nước thống nhất, thì cơ chế đó đã mở rộng ra trên phạm vi cả nước với mức độ cao hơn. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khoá VI), lần đầu tiên, Đảng ta đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế nhiều thành phần thể hiện ở những chủ trương cụ thể như “bỏ ngăn sông, cấm chợ“, “cho sản xuất bung ra“, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá. Từ đó bắt đầu một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai cơ chế nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xác lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực. Chính từ sự chấp nhận quan hệ hàng hoá- tiền tệ như mặt thứ yếu đã thúc đẩy phát triển quan hệ hàng hoá- tiền tệ như một tất yếu khách quan. Cơ chế quản lý mới chuyển đổi từ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu và tiến bộ, mang tính cách mạng sâu sắc và chình vì vậy cũng là quá trình rất khó khăn, phức tạp. Mọi quan niệm giản đơn, nóng vội không tránh khỏi dẫn tới sai lầm, gây rối loạn kéo dài, thậm chí đổ vỡ. Vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là vấn đề tất yếu phải xảy ra.
Phần B: Nội dung của đề tài
Cơ sở của đề tài: Luận điểm cơ bản của Mác-Lê Nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội :
1) Cơ sở lý luận: (Chính là quá trình đấu tranh đổi mới quản lý kinh tế).
Năm 1875 trong tác phẩm “ Phê phán cương lĩnh Gôta “, C.Mác đã đề cập quan điểm về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ chỉ biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia“. Đó là thời kỳ quá độ cả về chính trị và kinh tế. “Cái xã hội mà chúng ta nói đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện- kinh tế, đạo đức, tinh thần- còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”.
Dưới sự thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười, Lê Nin đã cho chúng ta hình dung rất rõ những đặc trưng rất cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà đặc biệt vào vấn đề kinh tế, xác định “tính chất quá độ của nền kinh tế “. Người viết: ”Vậy thì danh từ đó có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế- xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”. Lê Nin chỉ rõ các thành phần cơ bản của nền kinh tế quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; sản xuất hàng hoá nhỏ (trong đó bao gồm cả đại đa số nông dân bán lúa mì); chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; và chủ nghĩa xã hội. Các thành phần đó “xen kẽ với nhau”.
Như vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo quan niệm của Lê Nin, sẽ trải qua một thời gian dài trong lịch sử, trong suốt thời kỳ đó, vẫn tồn tại các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò to lớn trong việc làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển và chiếm ưu thế, đảm bảo thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
ở nước ta, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12- 1986) đã tổng kết chặng đường cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, rút ra 4 bài học, trong đó có bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan“, để từ đó quyết định đường lối đổi mới. Đảng chủ trương đổi mới toàn diện và sâu sắc để đi tới chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc. Trọng tâm là đổi mới kinh tế, mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Điều quan trọng là phải nhận thức và tính toán lại hình thức, bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm sao để phát huy được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh và cái đích vẫn là chủ nghĩa xã hội. Từ sự phê bình những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, từ thực tế của đất nước và vận dụng quan điểm của Lê Nin coi nền kinh tế có cơ chế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ, Đảng ta đã đề ra chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Đại hội đã nhận thức lại:”đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “. Cần phải :”phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần“. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khoá VI) xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần là chính sách nhất quán có ý nghĩa chiến lược lâu dài và các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật.
Tại Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế- xã hội và từng bước phát triển vững chắc, chúng ta chủ trương nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2) Cơ sở thực tiễn:
Sau khi đất nước thống nhất, hoà bình xây dựng thì cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp ngày càng bộc lộ nhược điểm, trở thành lực cản của sự phát triển, nảy sinh nhiều tiêu cực. Cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước có điều kiện để bộc lộ rõ. Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai cơ chế nhằm xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xác lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực. Trên thực tế nền kinh tế nước ta, từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV(năm1979), các quan hệ hàng hoá- tiền tệ được chấp nhận ở mức độ như mặt thứ yếu, bổ sung cho hệ thống kế hoạch pháp lệnh tập trung. Nhưng, chính từ sự chấp nhận đó đã thúc đẩy phát triển quan hệ hàng hoá- tiền tệ như một tất yếu khách quan; đồng thời, như quá trình thử nghiệm đổi mới và từng bước tổng kết, so sánh, chọn lựa, trong đó có cuộc đấu tranh khá gay gắt về tư tưởng, lý luận và chính sách. Đại hội VI của Đảng có bước đổi mới căn bản, xem quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá như bộ phận hữu cơ của quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Như vậy, trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng tất yếu phải kinh qua quá trình phát triển các quan hệ hàng hoá. Luận điểm mới coi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hoá xét trên thực chất, tổng thể lâu dài, là cực kỳ quan trọng và phải trải qua một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn. Qua nhiều thập kỷ, tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến kiêng kỵ quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường, coi nó là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản . Rất nhiều thập kỷ, trong nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã hình thành xu hướng cường điệu với những dự báo về hiểm hoạ do sự tồn tại và phát triển các quan hệ hàng hoá và quan hệ thị trường, có thể gây tác hại cho chủ nghĩa xã hội. Các cuộc cải cách kinh tế thường bị đẩy lùi. Tư tưởng của Lê -Nin trong chính sách kinh tế mới bị xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ. Trên thực tế, các quan hệ hàng hoá- tiền tệ và quan hệ thị trường chỉ còn trên hình thức, cục bộ, tạm thời. Đã hình thành mô hình kinh tế hiện vật với cơ chế điều tiết hành chính tập trung. Cơ chế đó trong một số năm đầu, nhất là trong điều kiện chiến tranh, đã có vai trò tích cực nhất định, nhưng về sau đã trở thành cơ chế kìm hãm, làm biến dạng chủ nghĩa xã hội.
Cần phải khẳng định: “chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa thua chế độ tư bản chủ nghĩa, không phải con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, mà là kinh tế hiện vật thua kinh tế hàng hoá”. Kinh tế hàng hoá không phải thuộc tính riêng có của chủ nghĩa tư bản. Với tư cách một quan hệ kinh tế khách quan, quan hệ hàng hoá và quan hệ thị trường đã có từ rất lâu trước chế độ tư bản chủ nghĩa, sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong chủ nghĩa xã hội. Các quan hệ ấy tồn tại và phát triển trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinh tế khách quan khác. Bản chất kinh tế- xã hội của các quan hệ ấy thay đổi phụ thuộc vào hình thái kinh tế- xã hội trong đó nó tồn tại và phát triển. Trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, lại phải trải qua chiến tranh và chia cắt lâu dài, quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá ở nước ta là quá trình phức tạp nhiều mặt.
Đặc trưng cơ bản, cốt lõi nhất của quá trình chuyển đổi thể hiện ở sự chuyển đổi cơ chế giá cả. Từ chỗ Nhà nước giữ quyền định giá, giữ giá bằng mệnh lệnh hành chính, xã hội phân chia thành hai thị trường: thị trường có tổ chức và thị trường tự do với hai loại giá tương ứng, giá Nhà nước quy định thường thấp hơn giá tự do. Sự chênh lệch của hai loại giá này đã đi đến nhiều hậu quả tiêu cực cả về kinh tế và xã hội. Từ năm 1981 đến năm 1989, Nhà nước điều chỉnh giá nhiều lần. Cùng với việc nâng giá cung cấp của Nhà nước lên ngang mức giá của thị trường tự do, Nhà nước bù giá vào lương cho cán bộ, công nhân viên, bù vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước và phát hành tiền. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã phân tích những mặt yếu kém và hậu quả của cơ chế quản lý cũ một cách toàn diện, chỉ rõ rằng cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ, cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, khẳng định quyết tâm xoá bỏ cơ chế cũ, xây dựng cơ chế quản lý mới. Đại hội VI là Đại hội đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới quản lý kinh tế có ý nghĩa quan trọng và quyết định.
Các vấn đề xung quanh việc xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa :
1) Các khái niệm cơ bản của thị trường, kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và cơ cấu kinh tế:
*) Thị trường :
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông. Thị trường là nơi người mua và người bán gặp nhau, hình thành giá cả. Đứng trên phạm vi toàn xã hội, thị trường là một mạng lưới những người mua, người bán gặp nhau, nơi cung cấp gặp gỡ và cân bằng.
Như vậy, thị trường hình thành cần có: đối tượng trao đổi là hàng hoá dịch vụ; đối tượng tham gia trao đổi là người mua,. người bán; điều kiện thực hiện trao đổi là khả năng thanh toán; khi nói thị trường là tự do tự nguyện, không ai bắt ép ai, mọi người nghĩ rằng sẽ có lợi khi giao dịch.
Thị trường có vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội. Là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, thông qua thị trường chuyển giá trị sử dụng thành giá trị. Nhờ thị trường mà hình thành thước đo chung, là căn cứ khách quan để điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất. Sở dĩ thị trường có vai trò to lớn vì nó có những chức năng cơ bản sau: thừa nhận, thực hiện và điều tiết.
*) Kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá- tiền tệ trở nên phổ biến.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá, sản xuất để trao đổi, gắn liền với phân công lao động và trình độ chuyên môn hoá. Không gian thị trường rộng mở cho sự lựa chọn, tư duy giá trị hiệu quả trở nên phổ biến. Hình thức kinh tế thị trường là văn minh, nền kinh tế có động lực, có sự đua tranh, sản xuất gắn với nhu cầu, nền kinh tế mở.
*) Cơ chế thị trường:
Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành nền kinh tế, ở đó các quy luật khách quan phát huy tác dụng.
Cơ chế thị trường đầy đủ bao gồm ba thành tố:
+) Một là thị trường hoạt động theo quy luật vốn có của nó.
+) Hai là Nhà nước nằm bên trong thị trường, điều tiết từ bên trong.
+) Ba là người tiêu dùng, nhà doanh nghiệp- những tác nhân năng động của cơ chế thị trường được hoạt động tự chủ nhưng phải tuân thủ quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của Nhà nước.
Cơ chế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan bao gồm:
+) Quy luật giá trị (cơ sở hao phí lao động).
+) Quy luật cung cầu (thông qua giá cả).
+) Quy luật cạnh tranh (thông qua chất lượng và chi phí).
*) Cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Như vậy cơ cấu kinh tế được phân tích trên hai phương diện :
+) Thứ nhất là xét cơ cấu kinh tế về mặt vật chất kỹ thuật, bao gồm:
* Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế.
* Cơ cấu theo qui mô, trình độ kỹ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất.
+) Thứ hai là xét cơ cấu kinh tế về mặt kinh tế xã hội bao gồm :
* Cơ cấu kinh tế theo các thành phần kinh tế.
* Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá tiền tệ.
2) Tính chất của cơ cấu kinh tế:
a) Tính chất khách quan khoa học:
Nền kinh tế có sự phân công lao động, có các ngành, lĩnh vực kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỷ lệ cân đối, tương ứng giữa các bộ phận, tỷ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó.
Các Mác khẳng định:” Trong sự phân công xã hội thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tránh khỏi , một sự tất yếu thầm kín yên lặng.”
Cơ cấu kinh tế là biểu hiện tóm tắt, cô đọng nội dung chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của từng giai đoạn phát triển nhất định. Nhưng không vì thế áp đặt chủ quan, tự đặt cho các ngành những tỷ lệ và vị trí trái ngược với yêu cầu và xu thế phát triển của xã hội. Mọi sự áp đặt chủ quan, nóng vội nhằm tạo ra một cơ cấu kinh tế theo ý muốn thường dẫn đến tai hoạ không nhỏ, bởi vì sai lầm về cơ cấu kinh tế là sai lầm chiến lược khó khắc phục, hậu quả lâu dài.
b) Tính chất lịch sử xã hội:
Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất và nhu cầu chính trị- xã hội. Cơ cấu kinh tế được hình thành khi quan hệ giữa các bộ phận được xác lập một cách cân đối và sự phân công lao động diễn ra một cách hợp lý.
Sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất là xu hướng phổ biến ở mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hoá xã hội; bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc...Các nước có hình thái kinh tế- xã hội giống nhau, cũng có sự khác nhau trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, bởi vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan điểm chiến lược mỗi nước khác nhau.
Sự hình thành cơ cấu kinh tế chẳng những mang tính chất khách quan khoa học, mà còn mang tính lịch sử xã hội.
Tuy nhiên, các tính chất này được thể hiện đầy đủ, khi chủ thể quản lý là Nhà nước có khả năng nắm bắt các quy luật khách quan, đánh giá đúng nguồn lực trong nước và nước ngoài để có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hình thành cơ cấu kinh tế. Nhưng sự tác động này không mang tính áp đặt, duy ý trí, mà là sự tác động mang tính định hướng phát triển.
3) Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường -kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa:
a) Tự do, tự nguyện đề cao vai trò của người tiêu dùng và người sản xuất:
Trong kinh tế thị trường, ba vấn đề cơ bản do thị trường quyết định. Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào do lợi nhuận mách bảo, sản xuất cho ai do thu nhập quyết định. Nguồn lực của xã hội được luân chuyển theo chiều ngang, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận động của cung cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ một cách thực chất nguồn lực của xã hội. Nền kinh tế vận hành một cách khách quan. Nguồn lực của xã hội được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. Tuy nhiên để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đầy đủ bao giờ cũng gắn với vai trò quản lý Nhà nước nhằm hạn chế tính tự phát của nó.
b) Kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh:
Kinh tế thị trường tự bản thân nó là một nền kinh tế xã hội hoá gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng hoá về sở hữu, loại hình quy mô tạo điều kiện để giải phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng, điều chỉnh nền kinh tế. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác làm cho nền kinh tế năng động. Kinh tế hợp tác sẽ là hình thức phổ biến hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh của các tác nhân kinh tế.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế do Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang ra sức đẩy mạnh sản xuất, xây dựng một nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
c) Thay vì việc can thiệp trực tiếp đối với hoạt động kinh tế, Nhà nước định hướng, tạo môi trường điều tiết nền kinh tế:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, những vấn đề cơ bản của kinh tế do Nhà nước quyết định, vì chưa có thị trường do đó Nhà nước can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế, nguồn lực của xã hội chủ yếu luân chuyển theo chiều dọc, qua nhiều tầng nấc đã hạn chế tính chủ động sáng tạo của người tiêu dùng và cá chủ thể sản xuất kinh doanh.Vì tập trung vào giải quyết những vấn đề cụ thể do đó những vấn đề quản lý vĩ mô không được coi trọng. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng dân chủ hoá, bản thân thị trường là một cơ chế điều tiết nền kinh tế một cách khách quan, nằm trong cơ chế ấy Nhà nước định hướng, dẫn dắt các nỗ lực phát triển, tạo sân chơi bằng phẳng cho cạnh tranh, điều tiết nền kinh tế bằng chính sách công cụ và thực lực kinh tế làm vai trò bà đỡ cho nền kinh tế phát triển .
d) Kinh tế thị trường là kinh tế mở:
Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị trường được rộng mở, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hoà nhập thị trường thế giới. Nguồn lực của xã hội được mở rộng không chỉ trong nước mà cả quốc tế. Trong điều kiện của xu hướng quốc tế toàn cầu hoá, mỗi quốc gia có thể tìm thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương.
Đối với các nước kém và đang phát triển, mở cửa hội nhập là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực cho sự phát triển: vốn, công nghệ, thị trường, quản lý, mặt khác đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phải có chiến lược biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu một cách có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài.
e) Kinh tế thị trường gắn liền với những khuyết tật vốn có của nó:
Với đặc trưng cơ bản là dân chủ hoá, tự do cá nhân, coi trọng động lực lợi ích do đó dễ cường điệu lợi ích cá biệt, phá vỡ những cân đối chung, những cân đối tổng thể của nền kinh tế, coi trọng lợi ích kinh tế dễ bỏ qua những vấn đề xã hội, môi trường. Thị trường là cạnh tranh sẽ có kẻ thắng, người thua, nhưng thị trường vô tư không bảo vệ những người chiến bại. Cạnh tranh sớm muộn cũng dẫn đến độc quyền với những tác hại khôn lường; bóp méo sự vận động của cung cầu, giá cả. Chuyển sang kinh tế thị trường gắn liền với những thử thách về đạo đức nhân cách, những yếu tố truyền thống văn hoá.
f) Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện bản lĩnh chính trị của công cuộc đổi mới ở nước ta, về thực chất không phải là chuyển sang kinh tế thị trường bất kỳ mà có hướng đích.
Khó khăn lớn nhất xưa nay trong lý luận kinh tế chưa có luận đề này.Từ khi đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế phát triển, chính trị ổn định, niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội mới được củng cố. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã cho chúng ta một cách nhìn khách quan hơn về kinh tế thị trường. ý tưởng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện trong quá trình đổi mới được thực tiễn kiểm chứng có sức thuyết phục.
Lịch sử và thực tiễn đã chứng tỏ kinh tế thị trường có thể chung sống với nhiều chế độ xã hội, là thành tựu của nhân loại do đó nó không mang bản chất và được coi như một phương tiện, một hình thức kinh tế gắn liền với một thiết chế chính trị và ý tưởng của Nhà nước đương quyền. Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu tốt đẹp nhân văn cần phải sử dụng động lực của kinh tế thị trường làm cho“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh“ đó là mục tiêu cao cả của chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang hướng tới.
Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới chứng tỏ nước ta, chuyển sang kinh tế thị trường là một sự tiến bộ, là những tiền đề vật chất để khẳng định nguyên lý mới. Chỗ giống nhau của mọi chế độ xã hội là sử dụng động lực kinh tế thị trường vào mục tiêu phát triển. Chỗ khác nhau là ai lái cỗ xe đó, lợi ích thuộc về ai, tính nhân đạo và nhân văn của chế độ kinh tế. ở nước ta kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng và có sự quản lý của Nhà nước, lợi ích vì dân do dân, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn liền với xoá đói giảm nghèo.. .
Chuyển sang kinh tế thị trường là một sự thay đổi lớn lao phải có thời gian và công sức tạo dựng và tính bằng thập kỷ. Những thành tựu đạt được trong bước khởi đầu của sự chuyển đổi giúp chúng ta có thêm niềm tin vào thắng lợi cuối cùng như ước muốn giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh:” ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Từ thực tiễn 10 năm đổi mới, nhờ chuyển sang kinh tế thị trường mà đất nước đã có những thay đổi lớn lao, nhiều vùng xưa kia nghèo đói nay đã trở nên khá giả. Những vấn đề thiết thân đến cuộc sống con người như ăn, mặc, ở, học hành đã có những thay đổi lớn lao. Nhờ phát triển kinh tế chúng ta có điều kiện để giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội việc làm, đời sống, xoá đói giảm nghèo, chính sách xã hội. Rõ ràng lấy thực tiễn để kiểm chứng những vấn đề lý luận giữa kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa không khiên cưỡng mà là một sự dung hợp tương hỗ, càng đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường càng có nhiều chủ nghĩa xã hội hơn.
Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa- Thành tựu đạt được:
1) Những quan điểm và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
a) Những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Tuy cơ cấu kinh tế là thể hiện nội dung, mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội, song nó không phải là sản phẩm chủ quan. Cơ cấu kinh tế luôn vận động theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu của xã hội. Sự vận động của cơ cấu kinh tế diễn ra thường xuyên trong một quá trình từ thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn, nhưng rất chậm chạp.
Cơ cấu kinh tế luôn vận động, nhưng là sự vận động trong mối quan hệ cân đối, ổn định. Các yếu tố cấu thành cơ cấu kinh tế luôn biến đổi phá vỡ cân đối và nó lại điều chỉnh và cân đối để tạo ra sự ổn định.
Từ những nhận thức trên chúng ta nêu ra những quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau:
+) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo sự ổn định, tạo ra sự cân đối trong phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
+) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm khai thác triệt để tiềm lực kinh tế, tài nguyên, lao động, kĩ thuật hiện có trong nước, nhanh chóng thích ứng với nhu cầu hội nhập và mở rộng hợp tác quốc tế.
+) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải nhằm duy trì có hiệu quả nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
+) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đảm bảo triển khai thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, có sự kết hợp chiến lược thay thế nhập khẩu ở giai đoạn cao.
b) Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta:
Cơ cấu kinh tế không phải là một mô hình tĩnh tại, mà nó luôn vận động và phát triển vươn tới sự hoàn thiện. Cơ cấu kinh tế chịu sự tác động của các nhân tố trong nội bộ nền kinh tế và các nhân tố từ bên ngoài, nên sự vận động của nó rất đa dạng, phức tạp. Tuy vậy, các xu hướng chuyển dịch đều mang tính quy luật:
+) Xu hướng chuyển dịch từ nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá:
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, tất yếu sẽ phá bỏ thế tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá. Quá trình đó cũng làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ sản xuất nông nghiệp là chính cùng mối liên kết lỏng lẻo, yếu ớt với các ngành công nghiệp, sang một nền kinh tế có cơ cấu phát triển đồng đều và gắn bó chặt chẽ các ngành và lĩnh vực kinh tế trên cơ sở phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn.
+)Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ:
Cùng với phát triển kinh tế hàng hoá, tiến bộ của khoa học và công nghệ, nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng lên và xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nền kinh tế các nước phát triển và nhiều ngành công nghiệp mới ra đời, nhiều trung tâm công nghiệp và đô thị hình thành.
Vì vậy, cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch từ nền nông nghiệp là chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn sang phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, nông nghiệp giảm dần về giá trị tương đối, nhưng vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối trong GDP của cả nước. Công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên nhanh chóng cả về giá trị tương đối và tuyệt đối.
Nội bộ các ngành, các lĩnh vực kinh tế cũng có sự biến đổi về cơ cấu, về qui mô, trình độ công nghệ với chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế ngày càng cao. Cơ cấu dân cư có xu hướng chuyển từ đại bộ phận sống ở nông thôn sang sống ở thành thị và đến năm 2020 số đó sẽ lên tới 50-60%.
+) Xu hướng chuyển từ cơ cấu nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở hướng về xuất khẩu:
Đây là xu hướng tất yếu, xu hướng chung của thời đại. Ngày nay, không một quốc gia nào có đầy đủ các nguồn lực để tự mình có thể xây dựng được một nền kinh tế hoàn chỉnh, phát triển bền vững, do đó mỗi nước đều phải mở rộng quan hệ đối ngoại. Trong xu thế đó, nước ta mở rộng quan hệ hợp tác đa dạng, đa phương, hoà nhập với khu vực và thế giới nhưng không hoà tan.
Do tác động của xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, cơ cấu kinh tế nước ta được hình thành trên cơ sở cân đối cả yếu tố nguồn lực trong nước và các yếu tố nguồn lực nước ngoài, nhưng nguồn lực trong nước là quyết định.
c) Những điều kiện cơ bản để thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta:
Tính thực hiện của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+) Kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Bởi vì, nếu thay đổi mục tiêu này, tất yếu sẽ dẫn đến thay đổi chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và cơ cấu kinh tế cũng biến đổi theo.
+) Hoàn thiện cơ chế quản lý, thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đáp ứng yêu cầu của định hướng phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu, kết hợp với thay thế nhập khẩu ở giai đoạn cao.
+) Đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại. Phát triển kinh tế đối ngoại là nhằm từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với khu vực và thế giới để tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, thu hút lao động, tạo việc làm, tạo ra sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
+) Cải cách nền hành chính, tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Nền hành chính nước ta trước đây phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường thì việc thay đổi nề nếp quản lý cũ cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá và từng bước hội nhập với quốc tế là tất yếu khách quan.
2) Phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000-2020 và những yêu cầu đối với quản lý kinh tế:
Đây là một bước quan trọng của thời kỳ phát triển mới: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thập kỷ sau, phấn đấu từ nay đến năm 2020, biến nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
a) Mục tiêu:
+) GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990 (Nghị quyết Đại hội VII tăng gấp đôi GDP).
+) Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt khoảng 9-10% trong đó sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp tăng khoảng 4,5-5%, công nghiệp tăng 14-15% và dịch vụ tăng 12-13%, xuất khẩu tăng 25-30%.
+) Tỷ lệ đầu tư so với GDP khoảng 30%.
+) Tỷ trọng giá trị nông nghiệp chiếm khoảng 19-20%, công nghiệp v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29923.doc