Lời mở đầu
&
Ngày nay loài người đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại tin học.... Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế gi
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận chứng vai trò của tri thức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức. Vì vậy em quyết định chọn đề tài : “Luận chứng vai trò của tri thức ’’ này để làm đề tài nghiên cứu của mình.
Khái niệm tri thức và kết cấu của nó.
Khái niệm tri thức
Tri thức đã có từ lâu đời trong lịch sử,có thể nói từ khi con người có tư duy thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử,cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội mới được đề cập nhiều.Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu :”tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực,làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính,những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Kết cấu của tri thức.
Tri thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ lao động sản xuất,đấu tranh xã hội hoặc thí nghiệm khoa học.Có hai loại tri thức kinh nghiệm khoa học là :
Tri thức kinh nghiệm thông thường thu được từ những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và lao động sản xuất.
Tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học.Trong sự phát triển của xã hội hai loại tri thức kinh nghiệm này ngày càng xâm nhập lẫn nhau.Tri thức kinh nghiệm giới hạn ở lĩnh vực các sự kiện,miêu tả,phân loại các sự kiện thu nhận được từ quan sát và thực nghiệm.Tri thức kinh nghiệm đã mang tính trừu tượng và khái quát,song mới là bước đầu và còn hạn chế.
Tri thức lý luận là tri thức kết quả từ tri thức kinh nghiệm.Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “ Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người,là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử ” [ HCM . toàn tập,nxb chính trị quốc gia,HN 1996,t.8,tr.497 ].
Lý luận hình thành từ kinh nghiệm,trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm.Do tính độc lập tương đối của nó lý luận có thể đi trước những kinh nghiệm.Tuy nhiên,điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm,lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất,về tính quy luật của các sự vật,hiện tượng khách quan.Vì vậy nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
Vai trò của tri thức với hoạt động của con người.
a. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người..
- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã .
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Trong tính hiện thực của nó,bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội : con người đã vượt lên trên giới loài vật trên cả 3 phương diện khác nhau : quan hệ với tự nhiên,quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.Không có thế giới tự nhiên,không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Vai trò của tri thức với hoạt động của con người.
Trên nền tảng của sản xuất vật chát,cải tạo xã hội và thực nghiệm được hình thành và phát triển những hoạt động đa dạng phong phú của đời sống xã hội như : sinh hoạt gia đình,nghiên cứu khoa học,y tế giáo dục,nghệ thuật,đạo đức,tôn giáo,thể dục thể thao…Như vậy hoạt động của con người rất đa dạng và phong phú.Chúng được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.Khái quát lại,ta thấy có hai dạng hoạt động cơ bản là hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần.Hoạt động vật chất là nền tảng của toàn bộ đời sống xã hội,nó quy định hoạt động tinh thần.Ngày nay,cuộc cách mạng KHCN đã tạo ra bước nhảy vọt trong lực lượng sản xuất.Vị trí của khoa học trong lực lượng sản xuất ngày càng tăng đặc biệt con người trong quá trình phát triển tri thức.Trong quá trình CNH – HĐH,các nước đã ứng dụng nhiều phát minh KH tiến bộ,người lao động với tri thức đã sáng tạo ra những công trình KH mới,cho ra đời ngành nghề mới,vật liệu mới…được ứng dụng trong tất cả các mặt của đời sống xã hội.Nền kinh tế tăng trưởng nhanh thu hút thêm lao động giải quyết công ăn việc làm,đời sống của người dân được nâng cao .Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn.Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng.Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng.Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tin. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội "công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống, không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức của con người được nâng cao.Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh.Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh,phồn vinh.
Chúng ta đang sống trong một thời đại bùng nổ thông tin và tri thức. Nói về tri thức khoa học kỹ thuật trong thế kỷ 19, cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, giữa thế kỷ 20: 10 năm, hiện nay là 3-5 năm. Một số nước phát triển sớm bước vào xây dựng kinh tế tri thức đã đặt ra các nước đang phát triển trên nhiều bất lợi: tài nguyên và sức lao động bị giảm rõ rệt dẫn đến làm giảm thu nhập quốc dân.
Một vấn đề đáng lo ngại nữa là nạn chất xám đã làm cho các nước đã nghèo lại càng nghèo hơn vì nghèo tri thức là nguồn gốc của mọi cái nghèo. Trên thế giới khoảng 20% dân số giàu ở các nước phát triển chiếm tới 86% GDP, trong khi 20% dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1% GDP, tương tự ở công nghiệp là 44, 5% và 8%. Qua đó có thể thấy sự giãn rộng khoảng cách giàu nghèo đang là một thách thức đối với các nhà hoạch định và quản lý kinh tế xã hội.
Trong lĩnh vực thông tin thì ở Việt nam công nghệ thông tin được coi là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế tri thức, tuy nhiên công nghệ thông tin của nước ta vẫn còn đang ở tình trạng lạc hậu kém hơn nhiều các nước trong khu vực.
Để hội nhập thành công Việt nam cần tiếp tục chính sách đối ngoại đa phương, giảm và tiến tới hàng rào bảo hộ và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Con người được đặt vào vị trí trung tâm của mọi chiến lược,được khẳng định vừa là mục tiêu,vừa là động lực chính của sự phát triển kinh tế –xã hội.Quan niệm coi con người là nguồn lực của mọi nguồn lực,coi chiến lược phát triển kinh tế xã hội thực chất là chiến lược con người,đó là những quan niệm tích cực hình thanh từ thực tiễn đổi mới của nước ta trong những năm qua.Vởy làm thế nào để phát huy nguồn lực con ngườiNhững năm tới,chiến lược con người của Đảng cần hướng vào:
Thứ nhất,Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo,khẩn trương đổi mới giáo dục và đào tạo.
Nếu nguồn lực con người là động lực trực tiếp của sự phát triển thì giáo duc-đào tạo là nền tảng của chiến lược con người.Coi trọng công tác giáo dục và đào tạo cũng chính là coi trọng nhân tố con người.Giáo dục-đào tạo phải được coi là cái gốc của sự phát triển.Bản thân giáo dục là một quá trình văn hoá,là một tác nhân văn hoá để phát triển con người. Vì vậy,giáo dục và đào tạo phải là một bộ phận của kế hoạch kinh tế-xã hội,gắn liền với sự phát triển kinh tế-xã hội.
Chất lượng của một quốc gia sẽ được đánh giá theo các tiêu chí:dân cư được giáo dục tốt,nguồn nhân lực dựa vào trí tuệ,sự dồi dào của quỹ trí thức,sự linh hoạt,hiệu quả của cơ cấu tài chính,đội ngũ các nhà doanh nghiệp tài giỏi..mà giáo dục -đào tạo lại có ảnh hưởng then chốt đến các vấn đề trên,tức là có vai trò làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế.
Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục. Gắn chất lượng đào tạo với yêu cầu thực tế:Trước hết phải nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên,giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng.được đào tạo lại,được áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại,và phaỉ luôn trau dồi ngoại ngữ,biết sử dụng những thiết bị hiện đại.Nội dung giảng dạy cần đạt sự cân đối giữa lý thuyết và thực hành,cần cập kịp thời nội dung tri thức hiện đại của thế giới và những vấn đề bức xúc của đất nước,cần chú ý tới yếu tố kỹ năng,kỹ thuật,công nghệ và thực nghiệm…để cung cấp cho xã hội một đội ngũ lao động lành nghề,các chuyên gia công nghệ,những nhà quản lý có khả năng sáng tạo và làm chủ tri thức hiện đại,hoà nhịp được với yêu cầu khắt khe của kinh tế thị trường.Khắc phục phương pháp giảng dạy”chay”,dạy áp đặt,thày đọc,trò chép,sinh viên chỉ biết vâng lời người dạy,thay bằng phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm”đòi hỏi khả năng làm việc tích cực ở cả thày và trò.Nội dung và phương pháp giáo dục-đào tạo ở tất cả các cấp phải định hướng thoát ra khỏi những gì là khuôn cứng.Tĩnh lại,mang tính thừa nhận sáng tạo điều khiển cho phát triển tư duy một cách cởi mở,tìm tòi,sáng tạo:phải giúp cho người học có tính cơ động cao,để thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng của kinh tế thị trường,của thị trường việc làm,thị trường sức lao động.
Thay thế quan niệm”đào tạo theo nhu cầu của người học” bằng”đào tạo theo nhu cầu xã hội”.
Điều chỉnh cơ cấu tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tê-xã hội,nhanh chóng khắc phục tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các ngành nghề và giữa các cấp đào tạo hiện nay.Trong một thế giới diễn ra sự đua tranh,cạnh tranh mạnh mẽ hiện nay giáo dục-đào tạo cần định hướng tới tính tái sản xuất của lực lượng lao động,tính hướng tới tính sản xuất của lực lượng lao động
Vai trò của tri thức đối với hoạt động của xã hội
a. Định nghĩa về xã hội
Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau,trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng đồng tập thể gia đình,cơ quan,đơn vị…Và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia,dân tộc…Và rộng lớn nhất là cộng đồng nhân loại.
b. Vai trò của tri thức đối với hoạt động xã hội
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận,khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực,đúng đắn.Điều này rất quan trọng,một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành,tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty,xí nghiệp.Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch,sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn,khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo.Phát triển khoa học –công nghệ,cách tuyển chon và giao chương trình đề tài,giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa,giáo trình,làm chủ nhiệm chương trình,đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt,thẩm định nghiệm thu các chương trình,đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn,những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng,Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
Vai trò của tri thức đối với hoạt động phát triển kinh tế
Do tác động của cuộc CMKH và công nghệ hiện đại.Đặc biệt là công nghệ thông tin ( IT ),công nghệ sinh học,công nghệ vật liệu,công nghệ năng lượng…từ cuối những năm 1980 đến nay,nền kinh tế đang biến động rât sâu sắc,mạnh mẽ về cơ cấu,chức năng và phương thức hoạt động.Đây thực sự là bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại nền kinh tế chuyển từ văn minh công nghiệp đến văn minh trí tuệ.
Định nghĩa kinh tế tri thức.
Cách tiếp cận hẹp
- Cách hiểu về tri thức với một quan niệm hẹp về tri thức.“ Tri thức” với nghĩa hẹp là khoa học và công nghệ hoặc hẹp hơn nữa là đồng nghĩa với cuộc CMKHCN hiện đại,bao gồm 4 công nghệ trụ cột là công nghệ thông tin,công nghệ sinh học,công nghệ không gian vũ trụ và công nghệ vật liệu mới.
- Cách hiểu cận nghành : tách biệt nền kinh tế quốc dân thành 2 bộ phận là khu vực kinh tế tri thức và khu vực kinh tế cũ.
Cách tiếp cận rộng.
- Từ khía cạnh lực lượng sản xuất,là một nấc thang phát triển lực lượng sản xuất tuyệt nhiên không liên quan đến một hình tháI kinh tế xã hội mới.
- Từ khía cạnh sự đóng góp của tri thức vào phat triển kinh tế : là những hoạt động truyền bá và sử dụng tri thức ,đã vượt qua vốn và lao động để trở thành nguồn lực chi phối mọi hoạt động tạo ra của cải trong nền kinh tế tri thức
Cách tiếp cận bao trùm
Theo cách tiếp cận này,kinh tế tri thức thức thực chất là loại môi trường kinh tế – văn hoá - xã hội mới,có những định tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi,đổi mới và sáng tạo.
Vai trò của kinh tế tri thức
Tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kĩ năng là lực lượng sản xuất thứ nhất phải là lợi thế phát triển quyết định.
Đặc điểm lớn nhất làm kinh tế tri thức khác biệt với kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp lá tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của sản xuất,hơn cả cơ bắp và tài nguyên thiên nhiên.
Trí tuệ con người được thể hiện trong tri thức khoa học và công nghệ cùng với kĩ năng lao động cao là lợi thế có ý nghĩa quyết định triển vọng phát triển của mọi quốc gia.Lịch sử phát triển hiện đại chứng tỏ rằng các lợi thế tự nhiên ngày càng giảm bớt vai trò trong phát triển.Trình độ KHCN và nguồn nhân lực tri thức ngày càng đóng vai trò quyết định thắng lợi trong cuộc đua tranh cạnh tranh phát triển.
Tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất,phân phối và tiêu thụ.Đúng như ông Peter – một giám đốc công ty Mỹ nói rằng : “Chức năng của nền sản xuất hiện đại là sản xuất và phân phối tri thức ,thông tin chứ không phải là sản xuất và phân phối vật chất .Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng kinh tế .Rất nhiều ngành nghề trong công nghiệp và nông nghiệp đang trở thành những ngành nghề trí tuệ .Hiên nay,có khoảng 60% công nhân Mỹ là công nhân tri thức .
Trong kinh tế tri thức,tri thức vừa được sử dụng để quản lý ,điều khiển ,tham gia vào quá trình sản xuất như công cụ sản xuất ,vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất .Ngoài vai trò là hàng hoá trong kinh tế tri thức ,tri thức – khác vớ hàng hoá trong kinh tế hàng hoá - cũng là tư liệu sản xuất .Tri thức để xử lý tri thức ,để làm ra tri thức ,tri thức quản lý điều hành …cũng trở thành hàng hoá và đó là những thứ hàng hoá được sản xuất không theo quy trình sản xuất quen thuộc trong nền kinh tế hàng hoá .Kinh tế tri thức sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để và hết sức sâu rộng trong xã hội hơn tất cả những thay đổi do các cuộc CMCN ,KHKT,và xã hội mà loài người đã từng trải qua.
Như vậy,tri thức đang và sẽ dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và chủ yếu trong hệ thống sản xuất xã hội.Hơn 1/2 GDP của các nước thuộc 0ECD được sản sinh hàng năm có ngừôn gốc tri thức.Những ngành công nghiệp hiện nay có tốc độ phát triển cao nhất,có sức bật và tiềm năng lớn nhất đều là những ngành thâm dụng tri thức như máy tính,thiết bị viễn thông,hàng không.Những ngành dịch vụ dựa trên tri thức như giáo dục,dịch vụ viễn thông,thông tin còn có tốc độ tăng trưởng cao hơn.
Tri thức không những có vai trò sáng tạo,truyền bá mà còn có vai trò truyền thông,sử dụng,trở thành nguồn lực của sản xuất.Vì vậy lấy ngành sản xuất dựa trên tri thức làm ngành sản xuất thứ 4 có thể là một điều xác đáng.
Chiến lược đầu tư mới là mua khái niệm mới và khái niệm tạo ra chúng chứ không phải mua máy móc thiết bị mới.Giá trị tăng thêm ngày càng được tạo ra bởi những yếu tố vô hình như sáng chế,phát minh,thiết kế mẫu mã…Hiện nay số vốn vô hình của nhiều xí nghiệp công nghệ cao của mỹ đã vượt quá 60% tổng số vốn hữu hình
Trong tương lai gần,khái niệm khai thác tri thức trở thành chủ yếu thay cho khai thác tài nguyên thiên nhiên đã bị cạn kiệt.Các công nghệ cao cho phép khai thác tài nguyên thiên nhiên ở mục đích thấp nhưng tạo ra sản phẩm giá trị hết sức cao.
ví dụ : Năng lượng lấy từ hidro nặng trong nước cho phép khai thác năng lượng từ 1l nước = 300l xăng hoặc từ vài gram đá SiO2 có thể tạo thành mạch tổ hợp IC trong máy vi tính.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế có cấu trúc mạng toàn cầu.
Các chất lượng phát triển cơ bản khác trước
Hệ thống phân công lao động quốc tế – toàn cầu thay cho hệ thống phân công lao động quốc tế,quốc gia.Đây là cấu trúc mới về nguyên tắc.
Quá trình phi tập trung hoá cấu trúc kinh tế – xã hội.Cờu trúc mạng gắn với quá trình phi tập trung hoá cấu trúc.Khái niệm văn phòng,chỗ làm việc tập trung hàng chục,hàng trăm thậm chí hàng nghìn người kiểu công xưởng dẫ thay đổi mạnh mẽ khi công việc chủ yếu của xã hội là sản xuất tri thức,được tiến hành trong môi trường tự động hoá cao.
Sự thay đổi cơ cấu quyền lực trong nền kinh tế cùng với việc vai trò của tri thức chiếm vị trí số 1 trong quan hệ so sánh với vốn vật chất – tài nguyên,cơ cấu quyền lực cũng có sự thay đổi tương ứng theo hướng quan hệ lệ thuộc – cai trị của các nền kinh tế trước đây được thay thế bằng quan hệ tham dự bình đẳng về chức năng trong cơ cấu kinh tế của các thành tố
Tốc độ biến đổi cực cao
Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh theo cấp số nhân.Theo một số tính toán,sau mỗi 15 năm,lượng tri thức của loài người được nhân đôi và với cấp độ chất lượng khác hẳn.
Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh.Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và truyền thông rút ngắn ngày càng nhanh tham gia chọn lọc đánh giá,sử dụng và sáng tạo thông tin
Tốc độ áp dụng và phổ biến các thành tựu khoa học kĩ thuật và công nghệ ngày càng cao : cùng với quá trình định hình từng bước nền kinh tế tri thức,một xu hướng khá rõ ràng là tốc độ áp dụng các thành tựu KHKT và công nghệ ngày càng cao.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy toàn cầu làm thi trường.
5.Kết luận.
Có thể nhận thấy vật chất và ý thức cũng có tính độc lâp và tác động qua lại với nhau.Nếu ta áp dụng những tri thức khoa học để cải biến thế giới sẽ cho ta những kết quả như ý muốn, những tri thức sai lầm luôn đưa ta đến thất bại.Vai trò của tri thức khoa học ngày càng quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp dụng các kỹ thuật Khoa học-Công nghệ của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức mà không qua kinh tế công nghiệp. Đó là sự lựa chọn hợp lí và đúng đắn. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng nó để đưa tri thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho một khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo cách hiểu nào đó là của mọi người, nó phải được thẩm thấu vào trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội.Và bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là:
Tìm hiểu những tri thức mới, cập nhật và làm chủ những tiến bộ khoa học của loài người.
Trên dây là một số quan diểm của em về vai trò của tri thức,do hiểu biết có hạn nên chắc rằng còn nhiều thiếu sót,mong dược sự góp ý của thầy giáo dể bài tiểu lụân của em dược hoàn thiện hơn
Phụ lục
Khái niệm tri thức và kết cấu của nó…………………………………………2
Vai trò của tri thức với hoạt động con người…………………………………3
Vai trò của tri thức đối với hoạt động xã hội…………………………………4
Vai trò của tri thức với hoạt động kinh tế……………………………………6
Kết luận……………………………………………………………………..10
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin,nxb-GD
2. Giáo trình triết học Mác-Lênin
3. HCM . toàn tập,nxb chính trị quốc gia,HN 1996,t.8
4.Thời dại kinh tế tri thức;Nxb chính trị quốc gia
5. Tạp chí khoa học
6.www.google.com
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34895.doc