Luận án Y tế dân sự ở miền bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ DUNG HUYỀN Y TẾ DÂN SỰ Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1975 Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 92 29 013 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS TRÂN ĐỨC CƯỜNG HÀ NỘI - 2020 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................

pdf201 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Y tế dân sự ở miền bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 3 4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ................ 4 5. Đóng góp của luận án ...................................................................................... 5 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ....................................................... 5 7. Bố cục của luận án ........................................................................................... 6 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................. 7 1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................. 7 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung, trong đó có đề cập đến y tế ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 ................................................................ 7 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu trực tiếp về hoạt động y tế miền Bắc ..... 9 1.2. Những nội dung luận án kế thừa và những vấn đề luận án tập trung giải quyết ............................................................................................................ 18 1.2.1. Những nội dung luận án kế thừa ............................................................ 18 1.2.2. Những nội dung luận án cần làm rõ ....................................................... 19 Chương 2. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN Y TẾ DÂN SỰ Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965 .............................................. 21 2.1. Tình hình miền Bắc và chủ trương của Đảng và Nhà nước về y tế ........ 21 2.1.1. Khái quát y tế dân sự trước năm 1954 ................................................... 21 2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội sau khi miền Bắc được giải phóng ................ 26 2.1.3. Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng ngành y tế .................. 29 2.2. Tổ chức, xây dựng hệ thống y tế dân sự .................................................... 32 2.2.1. Hệ thống tổ chức ................................................................................ 32 2.2.2. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ y tế ............................................ 45 2.3. Hoạt động y tế dân sự ở miền Bắc .............................................................. 50 2.3.1. Vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch ......................................................... 50 2.3.2. Khám và chữa bệnh cho nhân dân ...................................................... 54 2.3.3. Sản xuất và phân phối thuốc ............................................................... 58 2.3.4 Hoạt động hợp tác quốc tế ................................................................... 63 Chương 3. CHUYỂN HƯỚNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA Y TẾ DÂN SỰ Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 ... 70 3.1. Tình hình miền Bắc và chủ trương chuyển hướng tổ chức và hoạt động của y tế dân sự .......................................................................................... 70 3.1.1. Tình hình miền Bắc ........................................................................... 70 3.1.2. Chủ trương chuyển hướng tổ chức và hoạt động của y tế dân sự ở miền Bắc .......................................................................................................... 72 3.2. Chuyển hướng tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ y tế dân sự ở miền Bắc ............................................................................................................. 75 3.2.1. Chuyển hướng tổ chức .......................................................................... 75 3.2.2. Mở rộng đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ y tế ............................... 81 3.3. Hoạt động của y tế dân sự miền Bắc ........................................................ 87 3.3.1.Thực hiện nhiệm vụ y tế phòng không nhân dân thời chiến .............. 87 3.3.2. Phong trào vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch ..................................... 98 3.3.3. Chi viện cho chiến trường miền Nam .............................................. 104 3.3.4. Tiếp nhận sự hỗ trợ của các nước XHCN ........................................ 108 Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ........................................ 114 4.1. Thành tựu ................................................................................................ 114 4.2.Hạn chế ....................................................................................................... 136 4.3. Một số kinh nghiệm .................................................................................. 141 KẾT LUẬN .................................................................................................. 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 152 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 168 BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Cộng hòa Dân chủ CHDC Cộng hòa Dân chủ Nhân dân CHDCND Cộng hòa Nhân dân CHND Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa CHXHCN Dân chủ Cộng hòa DCCH Nhà xuất bản Nxb Xã hội Chủ nghĩa XHCN DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ Số TT Chú thích Tên bảng Trang 1 Sơ đồ Sơ đồ bố trí của hệ thống cấp cứu điều trị 93 2 Bảng 3.1 Tỉ lệ vết thương do các tuyến xử lí ở miền Bắc (1965-1968) 95 3 Bảng 3.2 Cơ cấu bệnh tật và thương tổn tại các cơ sở điều trị dân sự ở miền Bắc từ năm 1969 đến năm 1971 96 4 Bảng 3.3 Khối lượng hàng của các nước XHCN viện trợ cho Việt Nam trong 3 năm 1965-1966-1967 109 5 Bảng 3.4 Số lượng cán bộ y tế Việt Nam DCCH sang học tập tại CHDC Đức từ năm 1966 đến năm 1971 111 6 Sơ đồ Hệ thống tổ chức của y tế dân sự ở miền Bắc (1954-1975) 117 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, y tế là một trong những lĩnh vực quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đối với sự tiến bộ và phát triển bền vững của xã hội. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, trong thời kì cận – hiện đại, các quốc gia đều chú trọng đầu tư vào xây dựng hệ thống y tế, nhất là y tế phục vụ nhân dân để phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Sau thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải kí Hiệp định Genève, lập lại nền hoà bình ở miền Bắc Việt Nam (7-1954). Hòa bình lập lại, miền Bắc bước vào thời kì khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội, từng bước thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, ngành y tế đã nỗ lực thiết lập, củng cố hệ thống tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế và hoạt động không ngừng hướng đến mục tiêu lấy quần chúng nhân dân lao động làm đối tượng phục vụ. Với lực lượng cán bộ y tế được bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau, ngành y tế dân sự đã xây dựng mạng lưới y tế phát triển rộng khắp và hoạt động thống nhất từ tuyến Trung ương đến tuyến địa phương, có nhiều đóng góp lớn đối với hoạt động chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Từ năm 1954 đến năm 1975 là khoảng thời gian miền Bắc Việt Nam có nhiều biến đổi cả về chính trị và xã hội. Khoảng thời gian này, ở miền Bắc hòa bình - chiến tranh rồi chiến tranh - hòa bình đan xen, đòi hỏi Trung ương Đảng, Chính phủ và bản thân ngành y tế phải nhạy bén điều chỉnh về tổ chức, hoạt động để phù hợp với tình hình, triển khai thực hiện nhiệm vụ một cách đồng bộ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn, từng điều kiện hoàn cảnh. Đặc biệt, trong khoảng thời gian Mỹ tiến hành chiến tranh đánh phá miền Bắc, ngành y tế đã thực hiện chuyển hướng mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Với phương châm “lấy thương binh làm mệnh lệnh, lấy giường bệnh làm chiến trường, lấy kết quả làm chiến công”, đội ngũ y bác sĩ, nhân viên y tế đã có nhiều đóng góp quan trọng trong hoạt động cấp cứu điều trị cho những người bị thương bởi chiến tranh hoặc bị ảnh hưởng bởi chất độc hóa học. Nhiều bệnh viện, bệnh xá, nhà thương, trạm y tế dã chiến ở các tuyến được khôi phục, xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân và phục vụ chiến đấu. Có thể nói, đây là giai đoạn ngành y tế hoạt động không ngừng nghỉ, đội ngũ cán bộ y bác sĩ được thử thách, rèn luyện qua lửa đạn chiến tranh, không quản ngại hy sinh gian khổ, thực sự là những “chiến sỹ áo trắng” được nhân dân tin yêu, cảm phục. Chính vì vậy, nghiên cứu y tế dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 là yêu cầu cần thiết nhằm làm rõ vị trí, vai trò và những đóng góp của ngành y tế trong tiến trình lịch sử dân tộc. 2 Hoạt động của ngành y tế ở miền Bắc trong giai đoạn lịch sử đầy biến động này đã có khá nhiều công trình nghiên cứu được công bố ở các mức độ khác nhau như: lịch sử ngành y tế nói chung, lịch sử của các bệnh viện, các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo cán bộ y tế,... Các công trình này đã nêu được một số thành tựu nổi bật, khái quát được vai trò, hạn chế và bước đầu khẳng định vai trò, vị trí của ngành y tế ở miền Bắc trong hoạt động chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh cho nhân dân, thực hiện nghĩa vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Bên cạnh đó, đã có nhiều công trình tập trung nghiên cứu sự kết hợp giữa quân y và dân y, tuy nhiên, các tác giả mới chỉ tập trung phân tích hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành quân y, trong khi đó, hệ thống tổ chức và hoạt động của y tế dân sự đóng vai trò rất lớn trong hoạt động chăm sóc sức khỏe, cứu thương cho nhân dân lại chưa được các nhà khoa học tập trung tìm hiểu. Chính vì vậy, chủ đề nghiên cứu cơ cấu tổ chức và hoạt động của ngành y tế dân sự ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 cần được triển khai nghiên cứu nhằm bổ khuyết một khoảng trống lớn trong mảng nghiên cứu về văn hóa - xã hội ở miền Bắc thời kì 1954-1975, đồng thời tái hiện chân thực, đầy đủ hoạt động của ngành y tế dân sự với những đóng góp to lớn của ngành đối với sự phát triển của xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những thành tựu đạt được, ngành y tế Việt Nam đang tồn tại một số hạn chế, yếu kém cả về tổ chức, hoạt động, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên viên y tế, về quy hoạch, phân bổ lực lượng cũng như công tác quản lý khám chữa bệnh.... Những hạn chế đó là mối quan tâm của xã hội, trở thành những lực cản của quá trình phát triển ngành y tế dân sự. Chính vì vậy, nghiên cứu thành công đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lí luận và thực tiễn của chiến lược phát triển y tế nói chung, y tế dân sự nói riêng; từ đó góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành y tế Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Xuất phát từ các mục đích trên, với mong muốn tìm hiểu đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn y tế dân sự miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 nhằm thấy rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng và những nỗ lực to lớn của ngành y tế dân sự đối với nhiệm vụ xây dựng và củng cố hậu phương miền Bắc, tác giả chọn đề tài “Y tế dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975” làm đề tài nghiên cứu cho luận án chuyên ngành lịch sử Việt Nam của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ cơ cấu tổ chức và hoạt động của ngành y tế dân sự, từ đó rút ra nhận xét về thành tựu, hạn chế và đưa ra một số kinh nghiệm trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất Tổ quốc. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: - Sưu tầm, hệ thống nguồn tài liệu liên quan đến đề tài luận án. 3 - Làm rõ tình hình kinh tế, xã hội miền Bắc và Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với y tế dân sự - Phân tích cơ cấu tổ chức của y tế dân sự bao gồm: các tổ chức y tế ở tuyến Trung ương, tuyến địa phương (tỉnh, huyện, xã, và tổ y tế hợp tác xã) nhằm làm rõ những bước chuyển hợp lí trong cơ cấu tổ chức để phù hợp với điều kiện lịch sử. - Phân tích quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ y tế của ngành y tế dân sự ở miền Bắc. - Trình bày hoạt động của y tế dân sự thông qua các nội dung: công tác vệ sinh phòng bệnh; hoạt động khám và điều trị; sản xuất và cung cấp thuốc; hợp tác quốc tế,... - Đánh giá về thành tựu, hạn chế, kinh nghiệm của y tế dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm1975. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ cấu tổ chức và hoạt động của y tế dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Từ năm 1954 khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc đến năm 1975 khi đất nước thống nhất; trong đó có bước ngoặt là năm 1965 Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn miền Bắc và ngành y tế bắt đầu thực hiện sự chuyển hướng trong tổ chức và hoạt động để phù hợp với tình hình mới của đất nước. Về không gian: Đề tài giới hạn không gian ở miền Bắc Việt Nam bao gồm các tỉnh: Bắc Giang, Bắc Kạn, Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hải Dương, Hải Ninh, Hoà Bình, Hưng Yên, Kiến An, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Nam Định, Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Yên, Sơn La, Sơn Tây, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, hai thành phố Hà Nội, Hải Phòng, đặc khu Hòn Gai và khu vực Vĩnh Linh. Về nội dung nghiên cứu: Tác giả trình bày quá trình xây dựng và phát triển y tế dân sự trên một số nội dung sau đây: - Cơ cấu tổ chức của y tế dân sự gồm các tổ chức y tế tuyến Trung ương và tuyến địa phương (tỉnh, huyện, xã và tổ y tế hợp tác xã); - Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế dân sự; - Hoạt động của y tế dân sự trên các nội dung: vệ sinh phòng dịch, khám và điều trị, sản xuất và phân phối thuốc, hợp tác quốc tế Một số khái niệm liên quan trong luận án: - Y tế để chỉ lĩnh vực thực hiện phòng, chữa bệnh và bảo vệ sức khỏe. - Dân sự chỉ những việc liên quan đến nhân dân. - Y tế dân sự là lĩnh vực thực hiện chuyên môn phòng bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho đối tượng hướng đến là nhân dân. Hay còn gọi là y tế nhân dân. Sử dụng khái niệm y tế nhân dân để phân biệt với y tế phục vụ quân nhân. 4 4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 4.1. Phương pháp luận Nghiên cứu về y tế dân sự ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975, tác giả đề tài dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để tìm hiểu các vấn đề của y tế dân sự nằm trong mối liên hệ với văn hóa - xã hội ở miền Bắc. Từ đó, lý giải cho các hiện tượng lịch sử, mục tiêu, chính sách, cơ cấu tổ chức, hoạt động của y tế phục vụ nhân dân trong giai đoạn 1954-1975. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng chủ yếu là các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, cơ bản là những phương pháp sau: - Phương pháp chủ đạo là phương pháp lịch sử được tác giả luận án sử dụng khi đặt đối tượng nghiên cứu chính trong sự phát triển chung của lịch sử kinh tế - xã hội miền Bắc. Các sự kiện được tác giả mô tả, dựng lại theo đồng đại, lịch đại nhằm làm rõ quá trình xây dựng, củng cố về tổ chức và hoạt động của y tế dân sự ở miền Bắc qua hai giai đoạn 1954-1965 và 1965-1975, từ đó tác giả có những đánh giá toàn diện, khoa học về y tế dân sự trong giai đoạn này. - Phương pháp logic giúp tác giả tìm được mối liên hệ giữa hoàn cảnh lịch sử, yêu cầu đặt ra để thiết lập cơ cấu tổ chức và hoạt động y tế dân sự phù hợp với từng giai đoạn. Thông qua việc điều chỉnh về tổ chức và hoạt động, tác giả rút ra được nhận xét về thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm của y tế dân sự trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tác giả kết hợp chặt chẽ với các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu được sử dụng để thu thập, phân tích và thẩm định nguồn tài liệu sưu tầm được từ các nguồn: tài liệu lưu trữ, tài liệu báo cáo của ngành, của các địa phương, sách, báo, tạp chí và các kết quả nghiên cứu liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài; phương pháp thống kê có vai trò quan trọng trong việc thống kê và xử lý các số liệu thu được từ các tài liệu lưu trữ có liên quan đến số lượng cơ sở khám chữa bệnh, đội ngũ y bác sĩ, hệ thống cơ sở vật chất,; phương pháp mô tả được áp dụng trong việc khai thác thông tin từ các nguồn tài liệu lưu trữ, cố gắng mô tả một cách cụ thể, sống động các nguồn tài liệu đã khai thác được; phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh hoạt động của y tế dân sự ở miền Bắc trong hai giai đoạn: giai đoạn có chiến tranh và giai đoạn hòa bình; phương pháp chuyên gia (nhờ sự tư vấn, trao đổi với các nhà nghiên cứu chuyên sâu về giai đoạn lịch sử này) 4.3. Nguồn tài liệu - Thực hiện đề tài, tác giả khai thác nguồn tài liệu gốc tại các phông Phủ Thủ tướng, Bộ Y tế, Ủy ban kế hoạch nhà nước, Cục Chuyên gia,... thuộc Trung tâm lưu trữ quốc gia III. Đó là những văn bản được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Y tế, Cục chuyên gia, Sở, Ty Y tế các tỉnh ban hành gồm các nội dung: tổ chức, hoạt 5 động của Bộ Y tế, các Viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo cán bộ y tế, cơ sở điều trị, cơ sở sản xuất và phân phối thuốc... Đây là nguồn tài liệu gốc, có độ tin cậy về mặt sử liệu giúp tác giả có thế đối chiếu với các nguồn tài liệu khác. - Các công trình đã nghiên cứu về y tế hoặc có liên quan đến hoạt động y tế bao gồm những cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam, các cuốn viết về lịch sử ngành y tế, lịch sử các bệnh viện, các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo... - Nguồn tài liệu điền dã: thực hiện đề tài, tác giả đã có những cuộc khảo sát tại các cơ sở y tế như trường Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Việt Đức, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương,... 5. Đóng góp của luận án - Hệ thống hóa và cung cấp nguồn tài liệu mới công bố có liên quan đến ngành y tế nói chung, ngành y tế dân sự nói riêng ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975. - Gợi ý một hướng nghiên cứu chuyên sâu, đó là lĩnh vực y tế trong tổng thể các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc trong giai đoạn 1954-1975. - Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luôn đặt vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam để xem xét, đánh giá những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của y tế dân sự trong thời kì 1954-1975. Từ đó, kế thừa, mở rộng, so sánh cơ cấu tổ chức và hoạt động của y tế dân sự trong các giai đoạn lịch sử trước và sau nó. - Làm rõ những thành tựu và hạn chế của y tế dân sự trong việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc nói chung. - Đưa ra một số kinh nghiệm để hoạch định chính sách y tế trong sự nghiệp đổi mới và phát triển y tế ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Nghiên cứu đề tài ngoài bổ sung kiến thức về thực trạng hoạt động y tế trước năm 1954 còn cung cấp thêm thông tin về quá trình tiếp quản các cơ sở y tế dân sự ở miền Bắc, đây là yếu tố quan trọng giúp ngành y tế kế thừa về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ để củng cố hệ thống tổ chức trong giai đoạn tiếp theo. Nếu giải quyết được các yêu cầu đặt ra, ngoài việc làm rõ cơ cấu tổ chức của ngành y tế dân sự với hai tuyến Trung ương và địa phương đề tài còn phân tích sự phối hợp nhịp nhàng, gắn kết giữa các tuyến trong việc thực hiện mục tiêu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Hơn nữa, nghiên cứu thành công đề tài sẽ cung cấp thêm tư liệu về chương trình và hoạt động đào tạo chuyên môn của các cơ sở đào tạo trong các giai đoạn lịch sử. Riêng đối với lịch sử ngành y tế Việt Nam, nghiên cứu thành công đề tài sẽ cung cấp một số kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và thiết lập hệ thống tổ chức từ tuyến Trung ương đến tuyến địa phương trong những giai đoạn lịch sử tiếp theo.Và cuối cùng, đề tài là loại hình nghiên cứu lịch sử của một lĩnh vực hoạt động, đó là ngành y tế, chính vì vậy nó có ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử ngành y khoa ở Việt Nam. Bởi vậy, nghiên cứu y tế dân sự ở miền Bắc trong giai đoạn này phải được nhìn nhận cả dưới góc độ sử học và y 6 tế. Cách nhìn biện chứng đó là câu trả lời rõ nhất để lí giải một số câu hỏi về văn hóa xã hội, nhất là về tính nhân văn, tình yêu thương con người của đội ngũ cán bộ y tế đối với nhân dân trong những hoàn cảnh đặc biệt. Về ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu cơ cấu tổ chức và hoạt động của y tế dân sự ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975 sẽ cung cấp nhiều bài học kinh nghiệm trong quá trình củng cố, xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của hệ thống y tế Việt Nam đối với hoạt động chăm sóc sức khỏe của nhân dân. 7. Bố cục của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Xây dựng và phát triển y tế dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1965 Chương 3: Chuyển hướng tổ chức và hoạt động của y tế dân sự ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1975 Chương 4: Nhận xét và kinh nghiệm 7 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu Mặc dù đã có một số công trình viết về y tế miền Bắc trong thời kì này nhưng chủ yếu mới điểm qua hoặc chỉ mới đề cập một cách chung chung, mà ở đó cơ cấu tổ chức, hoạt động, vị trí và vai trò của y tế dân sự ở miền Bắc chưa được đề cập đến. Trên cơ sở các công trình có đề cập đến hoạt động y tế ở miền Bắc, đề tài chia các công trình thành các nhóm vấn đề chủ yếu sau đây: 1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu chung, trong đó có đề cập đến y tế ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 Công trình Lịch sử Việt Nam 1965-1975 của tập thể nhóm tác giả Cao Văn Lượng (chủ biên), Văn Tạo, Trần Đức Cường, Đinh Thị Thu Cúc, Nguyễn Văn Nhật, Trần Hữu Đính do Nxb Khoa học Xã hội xuất bản năm 2002. Đây là kết quả của đề tài cấp Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia1 do PGS Cao Văn Lượng làm chủ nhiệm đề tài. Dựa vào nguồn tài liệu mới, đồng thời kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó, công trình đã phác họa lại quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh. Trong phần I, từ trang 50 đến trang 54, các tác giả đã khái quát hoạt động của ngành y tế ở miền Bắc với những nét cơ bản nhất, trong đó xác định nhiệm vụ của ngành y tế trong hoàn cảnh có chiến tranh là vừa phục vụ sản xuất, vừa phục vụ chiến đấu. Ngoài ra, các tác giả còn nêu được tầm quan trọng và chức năng của từng tuyến y tế, trong đó chú trọng đến tuyến huyện, xã. Trong phần III, từ các trang từ 446 đến 449, các tác giả đã cung cấp nguồn số liệu về số lượng cơ sở khám chữa bệnh; số lượng cán bộ y tế được phân bổ ở các tuyến Trung ương và địa phương, đặc biệt là bổ sung các số liệu về số lượng nhà hộ sinh, số lượng phụ nữ được thăm khám thai; số lượng nhà trẻ, nhóm trẻ; Qua nguồn số liệu đó, các tác giả nêu lên một trong những thành tựu của ngành y tế dân sự trong giai đoạn này là đã xây dựng được một mạng lưới y tế phủ khắp miền Bắc, nhất là ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, đây là công trình mang tính thông sử nên hoạt động y tế mới chỉ được đề cập dưới dạng thống kê số liệu mà chưa có nhiều điều kiện phân tích cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động chuyên môn của ngành y tế dân sự trong giai đoạn này. Công trình Lịch sử Việt Nam, tập 4 (1945-2005) của tác giả Lê Mậu Hãn, Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2013. Công trình được biên soạn nhằm phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử Việt Nam trong hệ thống giáo dục đại học, góp phần nâng cao hiểu biết về lịch sử đất 1 Nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam 8 nước, truyền thống dân tộc, cung cấp những bài học kinh nghiệm của lịch sử cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công trình được tập thể tác giả nghiên cứu và trình bày lịch sử Việt Nam đầy đủ, toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế trong suốt tiến trình lịch sử từ nguồn gốc cho đến năm 2000 theo một hệ thống nhất quán, cập nhật những thành tựu và phương pháp nghiên cứu mới. Đây là công trình mang tính thông sử, vì vậy các tác giả chưa có điều kiện đi sâu phân tích các vấn đề cụ thể, do vậy, dung lượng nghiên cứu về hoạt động y tế còn ít. Trong tập 12 (1954-1965) của Bộ Lịch sử Việt Nam do tập thể tác giả Trần Đức Cường (chủ biên), Nguyễn Hữu Đạo, Lưu Thị Tuyết Vân biên soạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, in lần đầu vào năm 2014 và tái bản lần thứ nhất vào năm 2017. Công trình được thực hiện trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu lịch sử Việt Nam của nhiều tác giả, đồng thời cập nhật, bổ sung thêm nhiều tư liệu mới trên tất cả các lĩnh vực. Với dung lượng hơn 500 trang, các tác giả đã dành hơn 14 trang để nêu và phân tích những nét cơ bản nhất của hoạt động y tế qua các giai đoạn lịch sử 1955- 1960 và 1961-1965. Trong giai đoạn 1955-1960, với dung lượng gần 4 trang (từ trang 119 đến trang 122), công trình đề cập đến các nội dung như cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, trình độ y học và đội ngũ cán bộ y tế Trong giai đoạn 1961-1965, các tác giả dành 10 trang (từ trang 353 đến trang 363) để phân tích những thành tựu đạt được trong hoạt động khám và chữa bệnh, thực hiện chăm sóc sức khỏe nhân dân của ngành y tế. Tuy nhiên, đây là một công trình mang tính thông sử nên các tác giả nghiên cứu hoạt động y tế ở miền Bắc với một số nét cơ bản mà chưa đi sâu phân tích cơ cấu tổ chức và vai trò, vị trí của y tế đối với lịch sử dân tộc. Công trình Lịch sử Việt Nam, tập 13 (1965-1975) do tác giả Nguyễn Văn Nhật (chủ biên), Đỗ Thị Nguyệt Quang, Đinh Quang Hải, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, in lần đầu vào năm 2014 và tái bản lần thứ nhất vào năm 2017. Công trình đã giới thiệu một cách hệ thống từ âm mưu, kế hoạch xâm lược của Mỹ đến chủ trương xây dựng đường lối kháng chiến của Đảng; nhất là nêu được quá trình xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh của nhân dân miền Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, y tế, quân sự, ngoại giao,... Đây cũng là giai đoạn mà ngành y tế có sự chuyển hướng và hoạt động tích cực, có nhiều đóng góp lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong tập này, các tác giả nhấn mạnh đến một trong những thành tựu của ngành y tế dân sự là xây dựng được mạng lưới y tế phát triển rộng khắp với nhiều số liệu cụ thể. Tại các trang 91, trang 247, trang 427 và 428 đã cung cấp các số liệu về số lượng cơ sở y tế, số lượng giường điều trị, đội ngũ cán bộ nhân viên y tế Ngoài bổ sung các số liệu cần thiết, trong chương III các tác giả còn nhấn mạnh đến một trong những thành tựu lớn của 9 ngành y tế dân sự từ năm 1973 đến năm 1975 là đã chú trọng đến công tác bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Tuy nhiên, do đây là công trình thông sử nên các số liệu về ngành y tế mới chỉ ở dạng thống kê mà chưa phân tích sâu đến hoạt động chuyên môn cũng như vị trí, vai trò của của ngành y tế nói chung, y tế dân sự nói riêng trong giai đoạn lịch sử đầy biến động ở miền Bắc Việt Nam. Chính vì vậy, đây là khoảng trống mà luận án cần đi sâu nghiên cứu. Ngoài các cuốn thông sử, năm 2016, PGS.TS Nguyễn Thị Thanh đã chủ biên công trình “Chính sách xã hội ở miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975”. Đây là công trình chuyên khảo nghiên cứu về chính sách xã hội ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975, tác giả đã đi sâu phân tích các lĩnh vực như văn hóa, xã hội, y tế ở miền Bắc theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Công trình gồm có 3 chương, trong đó nội dung chính được tập trung ở chương 2 gồm: tình hình miền Bắc sau năm 1954 và vấn đề đặt ra đối với xã hội miền Bắc; phân tích quá trình thực hiện các chính sách xã hội ở miền Bắc qua từng thời kì. Phân theo từng thời kì lịch sử, tác giả đã nêu lên được những thành tựu của ngành y tế trên các nội dung như số lượng y bác sĩ, trang thiết bị y tế, các cơ sở y tế, trong tổng thể chung của xã hội miền Bắc. Thông qua nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Thị Thanh, tác giả luận án có thể chắt lọc, kế thừa nguồn tư liệu có giá trị về hoạt động của ngành y tế. 1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu trực tiếp về hoạt động y tế miền Bắc * Nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử quân y Nghiên cứu về y tế dân sự, tác giả tham khảo một số công trình viết về lịch sử quân y để đối chiếu, so sánh và thấy rõ hơn bức tranh về hoạt động y tế nói chung trong thời kì này, ví như: Công trình Lịch sử 40 năm phục vụ của ngành quân y quân khu 3 (1945-1985) của bác sĩ Dương Bình, Nxb Quân đội nhân dân xuất bản năm 1990. Dưới cái nhìn của người trực tiếp tham gia công tác quân y, tác giả đã nêu được quá trình hoạt động của ngành quân y quân khu III theo tiến trình lịch sử dân tộc. Công trình gồm có 6 chương, trong đó chương III và chương IV tác giả viết trực tiếp về hoạt động của ngành quân y quân khu III trong các giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1964 và từ năm 1965 đến năm 1975. Trong chương III, tác giả đã phác thảo những nét cơ bản nhất về hoạt động của quân y quân khu III trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1964 trên các nội dung: thực hiện cuộc vận động vệ sinh phòng bệnh, chấn chỉnh mạng lưới điều trị để tiếp nhận thương bi...rất quan trọng được tác giả luận án tham khảo, kế thừa khi thực hiện đề tài. Bên cạnh tham khảo nguồn tư liệu của các công trình đã công bố, tác giả luận án còn chú trọng khai thác thêm nguồn tư liệu ở Trung tâm lưu trữ quốc gia III, ở trường Đại học Y khoa Hà Nội và một số cơ sở y tế. Trên cơ sở nguồn tài liệu phong phú và tin cậy đó, luận án tập trung nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về y tế dân sự ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 với các vấn đề sau: Thứ nhất, làm rõ tình hình miền Bắc và chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng ngành y tế Thứ hai, trình bày và phân tích có hệ thống, toàn diện về cơ cấu tổ chức của hệ thống y tế dân sự ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 bao gồm: Tuyến Trung ương, tuyến địa phương (mạng lưới y tế tuyến tỉnh, huyện, bệnh xá, tổ y tế hợp tác xã). Từ đó, đánh giá một trong những thành tựu nổi bật của y tế dân sự ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 là đã xây dựng được một hệ thống y tế rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi với nhiệm vụ cơ bản là chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người dân. Thứ ba, làm rõ hoạt động đào tạo đội ngũ cán bộ y tế dân sự để thấy rõ hơn chương trình đào tạo cán bộ y tế giai đoạn này được diễn ra như thế nào? Thứ tư, đi sâu tìm hiểu hoạt động của hệ thống y tế dân sự miền Bắc trên cơ sở trình bày và phân tích các nội dung: Thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”; kết hợp Đông - Tây y trong phòng bệnh và chữa bệnh; tổ chức sản xuất và cung cấp thuốc cho nhân dân, Thứ năm, đưa ra một số nhận xét về thành tựu, hạn chế, đồng thời rút ra một số kinh nghiệm cho sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành y tế trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về y tế đã được công bố cùng với việc cập nhật và bổ sung thêm nhiều nguồn tài liệu mới, tác giả có thể phục dựng lại bức tranh về hệ thống y tế dân sự miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 một cách toàn diện, cụ thể hơn, từ đó thấy rõ sự chuyển biến, đổi thay của hệ thống y tế dân sự qua mỗi giai đoạn lịch sử. 21 Chương 2 XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN Y TẾ DÂN SỰ Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1965 2.1. Tình hình miền Bắc và chủ trương của Đảng và Nhà nước về y tế 2.1.1. Khái quát y tế dân sự trước năm 1954 2.1.1.1. Cơ cấu tổ chức Năm 1945, cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam DCCH ra đời. Ngày 3-11-1946, trong kì họp thứ I của Quốc hội tại Hà Nội, Chính phủ Việt Nam DCCH do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, gồm có 14 bộ, trong đó có Bộ Y tế được trình diện trước Quốc hội. Bộ Y tế ra đời trên cơ sở chọn lọc bộ máy và nhân viên của Sở Tổng thanh tra vệ sinh và Y tế Đông Dương, gồm hơn 10 nhân viên hành chính. Bác sĩ Hoàng Tích Trý, đại biểu Quốc hội khóa I, nhân sĩ trí thức yêu nước được cử làm Bộ trưởng Bộ Y tế [5; tr.149] . Đây cũng là cơ quan cao nhất trong hệ thống y tế của chính quyền nhân dân. Vừa ra đời, Bộ Y tế đã đưa ra 3 nhiệm vụ: Một là, thực hiện công tác phòng bệnh bằng cách tuyên truyền, phổ biến ăn uống vệ sinh, đề phòng các bệnh truyền nhiễm. Hai là, chống và chữa bệnh xã hội như bệnh sốt rét cơn, bệnh lao, bệnh hoa liễu, bệnh đau mắt hột. Ba là, giúp đỡ nhân dân, nhất là ở nông thôn trong hoạt động điều trị, bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh. Để thực hiện nhiệm vụ, ngành y tế tập trung xây dựng bộ máy y tế từ Trung ương, khu, tỉnh, huyện. Ở Trung ương, Bộ Y tế là tổ chức quản lí cao nhất có nhiệm vụ điều hành mọi hoạt động y tế. Các cơ quan chuyên môn tuyến Trung ương gồm có: - Các viện nghiên cứu: Viện Vi trùng học Việt Nam được thành lập vào ngày 01- 05-1946 trên cơ sở Viện Pasteur Hà Nội, đây là cơ quan nghiên cứu có vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động phòng và chống các dịch bệnh. Viện có nhiệm vụ sản xuất các thuốc sinh hóa, nghiên cứu, xét nghiệm các bệnh truyền nhiễm, dịch tễ và các phương pháp dự phòng. Viện được phân thành 3 chi viện ở mỗi liên khu. Đứng đầu mỗi chi viện là một y sĩ chuyên môn. Viện Bào chế Trung ương được thành lập vào ngày 01-03-1951 tại Thanh Hóa, có nhiệm vụ nghiên cứu, tiếp tế dược liệu và y cụ cho Viện bào chế ở các liên khu. Ngoài 2 viện nghiên cứu, còn có Ban nghiên cứu Đông y được thành lập vào tháng 2-1952 với nhiệm vụ nghiên cứu, bào chế thuốc Nam thay thế thuốc nhập nội. - Các cơ sở đào tạo cán bộ y tế: Đại học y dược với thời gian đào tạo 6 năm, chương trình giảng dạy vẫn được thực hiện theo chương trình cũ nhưng được cải tiến qua từng năm. 22 - Các cơ sở điều trị: Bệnh viện Bạch Mai4 là cơ sở điều trị có quy mô lớn nhất gồm các khoa: nội thương, truyền nhiễm và thần kinh, tai mũi họng, da liễu, sản khoa, nha khoa. Bệnh viện có quy mô 962 giường điều trị. Mỗi ngày bệnh viện tiếp nhận 1.117 người vào điều trị. Phòng khám bệnh mỗi ngày tổ chức khám từ 200-300 bệnh nhân. Phòng điện quang tiếp nhận 60 bệnh nhân/ngày, chụp hình ảnh cho 80 bệnh nhân và chữa điện cho 10 bệnh nhân. Các phòng xét nghiệm về huyết thanh, hóa học về vi trùng học, mỗi tháng xét nghiệm cho hơn 9.300 bệnh nhân [96; tr.3] Sau bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Phủ Doãn5 là cơ sở điều trị có quy mô lớn thứ hai với các phòng: phẫu thuật chung, nha khoa, ung thư, điện quang. Trung bình mỗi ngày bệnh viện tiếp nhận điều trị khoảng 420 người với 380 giường bệnh. Trang thiết bị và phương tiện chuyên môn khá đầy đủ để thực hiện những thủ thuật hàng ngày. Trong đó, phòng điện quang chụp phim cho 70 bệnh nhân/ngày, chữa điện cho 5 bệnh nhân [96; tr.3]. Bệnh viện chữa mắt (nhà thương Hàng Gà)6 với quy mô khoảng 220 giường điều trị. Số bệnh nhân nằm điều trị hàng ngày khoảng 250 người. Trung bình, mỗi ngày bệnh viện tiếp nhận khoảng 300-400 bệnh nhân, chủ yếu là nạo mắt hột, phẫu thuật nhỏ và nhỏ mắt [96; tr.4]. Bệnh viện có đủ dụng cụ y tế và cán bộ để thực hiện điều trị các trường hợp đau mắt đỏ. Nhìn chung, các cơ sở điều trị tuyến Trung ương có đủ trang thiết bị y tế đáp ứng khu cầu khám và điều trị, bước đầu hạn chế tỉ lệ tử vong trong quá trình điều trị. Dưới cấp Trung ương là cấp liên khu với cơ quan phụ trách là Sở Y tế liên khu7. Sở Y tế liên khu có nhiệm vụ thực hiện các yêu cầu của Bộ Y tế, đồng thời điều khiển mọi hoạt động của Ty Y tế các tỉnh. Phụ trách hoạt động y tế của mỗi liên khu gồm: 1 giám đốc và 1 phó giám đốc có trình độ y sĩ. Các cơ quan chức năng của y tế liên khu bao gồm: - Viện bào chế dược phẩm gồm: Viện bào chế liên khu Việt Bắc8 4 Được Pháp thành lập năm 1910 với tên gọi là Nhà thương Cống Vọng, đến năm 1945, bệnh viện đổi tên là bệnh viện Bạch Mai 5 Vốn là nhà thương bảo hộ của Pháp được xây dựng năm 1906, đến năm 1945 được đổi tên thành bệnh viện Phủ Doãn 6 Được Pháp thành lập năm 1917 7 Sở y tế liên khu 1 gồm các tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Phúc Yên, Thái Nguyên, Quảng Yên (nay là thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh), Hồng Gai (nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh), Cao Bằng, Bắc Kạn, Hải Ninh (nay là tỉnh Quảng Ninh), do bác sĩ Bùi Đồng làm giám đốc Sở -Sở y tế liên khu 10 gồm các tỉnh: Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu, do bác sĩ Ngô Đăng Ngạnh làm giám đốc -Sở y tế liên khu 3 gồm các tỉnh: Sơn Tây, Hà Đông, Nam Hà, Nam Định, Ninh Bình, Hòa Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình, do bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên làm giám đốc -Sở y tế liên khu IV gồm các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, do bác sĩ Nguyễn Kinh Chi – Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm nhiệm 8 Ở liên khu Việt Bắc lúc đầu có 2 viện bào chế: Viện bào chế liên khu 10 và Viện bào chế liên khu 12, đến năm 1950 hai viện được sát nhập thành Viện bào chế liên khu Việt Bắc 23 (gồm liên khu I và liên khu XII); Viện bào chế liên khu III; Viện bào chế liên khu IV. Phụ trách các hoạt động của viện có 1 hoặc 2 dược sĩ. Các viện có nhiệm vụ thực hiện sản xuất và tiếp tế dược phẩm, y cụ cho các liên khu. - Nha Y tế thôn quê được thành lập vào tháng 11-1949 với nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện công tác vệ sinh phòng bệnh. Hoạt động của Nha Y tế thôn quê góp phần củng cố và tạo niềm tin của nhân dân trong các liên khu vào nền y học mà Chính phủ nước Việt Nam DCCH đang xây dựng. - Các trường huấn luyện y tá, dược tá, nữ hộ sinh, cán bộ vệ sinh, lớp đại lí thuốc Tây bao gồm: trường Y sĩ Việt Nam Liên khu 3-49 và trường Y sĩ Liên khu 1- 1010, trường Nữ hộ sinh trung cấp Liên khu 3-411 và trường Dược sĩ trung cấp12. Các cơ sở này có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng lực lượng cán bộ y tế có trình độ trung, sơ cấp nhằm củng cố và phục hồi hoạt động y tế, từng bước đưa nền y học hướng đến tính đại chúng. - Cơ sở điều trị bao gồm: bệnh viện Liên khu Việt Bắc, bệnh viện Liên khu 3, bệnh viện Liên khu 4. Mỗi liên khu có 1 bệnh viện với quy mô 150-200 giường. Do các cơ sở điều trị được xây dựng trong kháng chiến nên cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế còn thiếu và lạc hậu. - Các đoàn giải phẫu lưu động được Bộ Y tế chủ trương thành lập vào tháng 12-1946. Đây là lực lượng hoạt động tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Lực lượng có nhiệm vụ đi đến các địa phương vùng sâu, vùng xa thực hiện các công tác tuyên truyền, vận động nhân dân phòng chống dịch bệnh, thực hiện khám và phẫu thuật các trường hợp mắc bệnh nặng ở địa phương. Cấp địa phương được phân cấp thành: Ty y tế tỉnh có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc các phòng phát thuốc huyện và các cơ sở y tế tại tuyến xã. Phụ trách điều khiển mọi hoạt động của Ty Y tế là Ty trưởng, có trình độ y sĩ và thường có 1 đến 3 y sĩ giúp việc cho Ty trưởng. Cơ sở y tế tuyến huyện bao gồm: phòng phát thuốc và nhà hộ sinh. Phòng phát thuốc huyện do một y tá trưởng phụ trách với đủ phương tiện để thực hiện nhiệm vụ điều dưỡng bệnh nhân nhẹ, cứu thương và tải thương. Bên cạnh đó, mỗi huyện có 1-2 nhà hộ sinh do nữ hộ sinh hay nữ y tá hộ sinh phụ trách. Y tế xã là tuyến gần sát với nhân dân nhất bao gồm 1 ban tải thương và cứu thương, nhà hộ sinh, tủ thuốc thôn quê và vệ sinh viên. 9 Thành lập vào ngày 20-8-1948 theo sắc lệnh số 234-SL của Chủ tịch nước. Sau này thành trường quân y sĩ thuộc Cục quân y 10 Cũng được thành lập vào ngày 20-8-1948 theo sắc lệnh số 234-SL của Chủ tịch nước. Sau này thuộc Bộ Y tế đào tạo cán bộ trung cấp cho các cơ quan dân y 11 Được thành lập vào tháng 3-1950 tại huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa 12 Được thành lập vào tháng 7-1952, tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa 24 2.1.1.2. Đào tạo cán bộ y tế Ngay sau khi được thành lập, Bộ Y tế đã nỗ lực xây dựng ngành y tế phục vụ nhân dân trong hoàn cảnh thiếu thốn về cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y tế. Thực hiện Tuyên cáo của Chính phủ lâm thời Việt Nam DCCH là: quyết định tự cải tổ, mời thêm một số nhân sĩ tham gia Chính phủ để cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà nhân dân giao phó, Bộ Y tế kêu gọi những trí thức ngành y dược vượt qua mọi cám dỗ về vật chất để tham gia kháng chiến. Theo đó, nhiều bác sĩ, y sĩ đã đi theo kháng chiến. Ngoài số lượng bác sĩ, y sĩ người Việt Nam được thu dung, ngành y tế tiếp tục mở rộng chương trình đào tạo bằng ba hình thức: đào tạo đại học, đào tạo y sĩ có trình độ trung cấp và cán bộ y tế có trình độ sơ cấp. Về chương trình đào tạo đại học tiếp tục được thực hiện tại trường Đại học y dược khoa. Chương trình và nội dung học tập vẫn dựa theo chương trình của Pháp nhưng được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ giảng dạy là người Việt Nam. Thời gian đào tạo là 6 năm. Chương trình giảng dạy vẫn thực hiện theo chương trình cũ nhưng được cải tiến qua từng năm. Tuy nhiên, do tính chất khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đặt ra yêu cầu cần cải tiến chương trình theo hướng: tập trung vào những môn cơ bản ở trường trong thời gian 2 năm. Sau đó, sinh viên được cử đi phục vụ chiến trường với chức năng là y sĩ trung đoàn. Chương trình đào tạo được bác sĩ Hồ Đắc Di tổng kết thành phương pháp đặc thù của công tác đào tạo cán bộ y tế trong thời gian này là: học tập - đi chiến dịch - về tổng kết, tiếp tục học, rồi lại đi chiến dịch. Phương pháp này được trường áp dụng uyển chuyển, linh hoạt nên thời gian trung bình để sinh viên tốt nghiệp là 6 năm, thậm chí một số trường hợp 7-8 năm mới có điều kiện về trường thi tốt nghiệp. Trước yêu cầu và nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của nhân dân trở nên bức thiết, một cơ sở đào tạo cán bộ y tế với thời gian 6 năm chưa thể đáp ứng được yêu cầu to lớn và cấp bách của hậu phương cũng như tiền tuyến. Chính vì vậy, ngày 20-8-1948, Chủ tịch nước ra sắc lệnh số 234-SL về việc mở Trường y sĩ Việt Nam Liên khu 3-413 và Trường y sĩ Liên khu 1-1014. Ban đầu, thời gian đào tạo cán bộ trung cấp y được quy định là 4 năm, trong đó mỗi niên khóa chỉ học 9 tháng 15. Đến năm 1951, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của Việt Nam để nhanh chóng bổ sung vào đội ngũ cán bộ y tế phục vụ nhu cầu của đất nước, Bộ Y tế quyết định thời gian đào tạo hệ trung cấp y sĩ là 2 năm. Chương trình học được điều chỉnh theo hướng chỉ học những môn cần thiết. Ngoài công tác đào tạo cán bộ y tế bậc đại học, trung cấp, hoạt động đào tạo cán bộ sơ cấp cũng được chú trọng. Các lớp đào tạo cứu thương được mở ở khắp các địa phương trong khoảng thời gian từ 1 đến 2 tháng. Chương trình học chủ yếu là sơ cứu 13 Sau này thành trường quân y sĩ thuộc Cục quân y 14 Sau này thuộc Bộ Y tế đào tạo cán bộ trung cấp cho các cơ quan dân y 15 quy định thời gian đào tạo 4 năm, là do ảnh hưởng từ mô hình học tập của trường đào tạo y sĩ Đông Dương. 25 vết thương, chuyển tải thương. Học sinh là những nam, nữ thanh niên vừa làm công tác cứu thương, vừa cầm súng chiến đấu. Ngoài lực lượng cứu thương, công tác đào tạo đội ngũ cán bộ sơ cấp, nữ hộ sinh thôn quê bắt đầu được thực hiện. Thời gian và chương trình học được quy định theo thực tế của từng khu. Có nơi học 1 tháng, có nơi học 2 đến 3 tháng. Năm 1950, Bộ Y tế mở lớp đào tạo thí điểm cho cán bộ ở Thanh Hóa. Lớp học do Giám đốc Nha Y tế thôn quê phụ trách trong thời gian 1 tháng. Từ lớp học thí điểm này, chương trình đào tạo cán bộ y tế cơ sở được Bộ Y tế thực hiện thống nhất. Theo đó, chương trình học gồm các môn: vệ sinh phòng bệnh, điều trị các chứng bệnh thông thường, cách sử dụng một số loại thuốc thông dụng và ấn định thời gian học thống nhất là 3 tháng. Từ năm 1952, công tác đào tạo cán bộ xã được giao cho các Khu Y tế và một số Ty Y tế thực hiện thông qua việc mở các lớp đào tạo y tá, dược tá, hộ sinh có trình độ sơ cấp. Thời gian học thống nhất là 1 năm. Học sinh theo học phải có trình độ văn hóa phổ thông cấp I. Như vậy, hệ thống đào tạo cán bộ y tế trước năm 1954 được thiết lập phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của ngành y tế. Hệ thống đào tạo được thiết lập bao gồm: bậc đại học, trung cấp và sơ cấp. Mặc dù số lượng đào tạo cán bộ y tế còn hạn chế nhưng bước đầu đã bổ sung lực lượng cán bộ cho các cơ sở y tế, tạo ra những thành quả bước đầu làm tiền đề cho công tác đào tạo nguồn cán bộ y tế trong những giai đoạn tiếp theo. 2.1.1.3. Hoạt động của y tế dân sự Ngay sau khi được thành lập, Bộ Y tế xác định vệ sinh phòng dịch là nhiệm vụ hàng đầu để thực hiện chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Chính vì vậy, phong trào vệ sinh phòng bệnh được phát động sôi nổi với khẩu hiệu “phòng bệnh, chữa bệnh, lấy kết quả chữa bệnh để đẩy mạnh phòng bệnh”. Bằng phương pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân thực hiện vệ sinh phòng bệnh, ngành y tế bước đầu giải quyết được vấn đề nước uống, nước sinh hoạt, dời chuồng gia súc ra xa nhà. Công tác vận động nhân dân thực hiện 3 sạch (ăn sạch, ở sạch, uống sạch), 4 diệt (diệt ruồi, muỗi, rận), xây dựng làng kiểu mẫu được phát động khắp nơi. Công tác tiêm chủng ngừa đậu, phòng tả, thương hàn được chính quyền quan tâm, nhân dân hưởng ứng, cán bộ y tế thực hiện nhiệt tình, nhờ đó tỉ lệ tiêm chủng đạt tỉ lệ khá cao, nhất là vùng tự do. Đối với hoạt động khám và điều trị bệnh nhân, với tinh thần khắc phục gian khổ, ý chí tự lực cánh sinh, trong 9 năm kháng chiến (1946-1954) ngành y tế nhân dân đã xây dựng một số cơ sở điều trị khắp các tỉnh để phục vụ nhu cầu khám và điều trị cho nhân dân. Tuy cơ sở vật chất còn thiếu thốn nhưng hiệu quả điều trị bước đầu được cải thiện. Lần đầu tiên, người dân Việt Nam được tiếp cận với các hoạt động chăm sóc sức khỏe, được đội ngũ cán bộ y tế trực tiếp điều trị ngay tại địa phương. Nhiều dịch bệnh như sốt rét, đau mắt hột, viêm phổi được điều trị bằng Tây y 26 Đối với công tác sản xuất thuốc, ngành bào chế đã sản xuất được nhiều dược phẩm hỗ trợ cho công tác điều trị như thuốc gây mê, Benzoate Na, tinh dầu Chenopodium, Morphine, Từ năm 1948 đến năm 1954, Viện bào chế Trung ương đã sản xuất gần 70 triệu viên thuốc, hơn 22 triệu ống tiêm [96; tr.7]. Về sinh hóa, từ năm 1946 đến năm 1954, các Viện Vi trùng học Trung ương đã sản xuất hơn 130 triệu liều chủng đậu [96; tr.7]. Từ năm 1952, nguồn vắc xin tiêm chủng phòng bệnh thương hàn, bệnh tả được sản xuất đảm bảo số lượng. Đối với vùng tạm chiếm, hoạt động y tế chưa được chú trọng mặc dù Pháp đã tập trung thành lập các phòng y tế, phòng khám bệnh phát thuốc. Khi ốm đau, nếu là người có tiền người bệnh vẫn phải đến các phòng mạch tư, nhà hộ sinh tư, nếu không có tiền thì tìm đến các thầy lang bắt mạch, cắt thuốc. Riêng đối với người lao động nghèo chủ yếu sử dụng Đông y và những kinh nghiệm dân gian để phòng và chữa bệnh. Đối với ngành sản xuất thuốc, hoạt động sản xuất thuốc bị hạn chế. Thuốc chủ yếu là thuốc Tây được nhập từ Pháp, Anh, Mỹ. Nguồn thuốc Đông y chủ yếu nhập của Trung Quốc và Nam Triều Tiên. Ở vùng tạm chiếm, nguồn thuốc Tây y đang tìm cách bóp nghẹt thuốc Đông y. Về công tác vệ sinh phòng bệnh bị hạn chế bởi Pháp không chú trọng đến công tác vệ sinh môi trường. Chính quyền Pháp chỉ chú trọng vệ sinh môi trường ở các khu phố Tây, khu quân sự và khu người giàu có. Chính vì vậy, nhiều nơi môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Công tác phòng bệnh, phòng dịch chỉ được thực hiện mang tính đối phó, khi có dịch mới tổ chức tiêm phòng. Như vậy, trước năm 1954, ngành y tế Việt Nam trước năm 1954 được thiết lập thành các tuyến gồm: Trung ương, khu, tỉnh, và huyện. Ở mỗi cấp đều có các cơ sở y tế phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của từng giai đoạn lịch sử. Cán bộ y tế để vận hành tổ chức y tế đó được thu dung từ chính quyền cũ và được ngành y tế đào tạo dưới nhiều chương trình đào tạo khác nhau. Sự tham gia tích cực của lực lượng cán bộ y tế đã giúp ngành y tế có nhiều đóng góp vào công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân, góp phần củng cố hậu phương, phục vụ chiến trường đưa cuộc kháng chiến chống Pháp giành thắng lợi. 2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội sau khi miền Bắc được giải phóng Sau thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được kí kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân. Đối với miền Bắc, nhiệm vụ trước mắt được xác định là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, chuẩn bị tiền đề cho quá trình cải tạo và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, miền Bắc đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: Về kinh tế: sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiếp quản, miền Bắc đứng trước nhiều khó khăn trong lĩnh vực kinh tế. Kinh tế nông nghiệp được xem là mũi nhọn nhưng sản 27 xuất manh mún, kĩ thuật canh tác thô sơ, nghèo nàn. Sau năm 1954, Miền Bắc có tới 143.000 hecta ruộng đất bị bỏ hoang, hàng nghìn làng mạc bị tàn phá, hàng loạt hệ thống thủy nông lớn nhỏ bị phá hủy, hàng vạn con trâu bò bị giết hại đã khiến cho nguồn sức kéo phục vụ cho kinh tế nông nghiệp thiếu nghiêm trọng. Về công nghiệp, ở Hà Nội, Hải Phòng khi tiếp quản chỉ có hai nhà máy điện và nhà máy nước hoạt động. Hoạt động sản xuất của các xí nghiệp bị cản trở bởi Pháp phá bỏ và tháo dỡ máy móc mang đi. Chiến tranh đã làm cho hơn 50% kho tàng, công sở thiếu nguồn nguyên liệu để hoạt động. Sản xuất thủ công nghiệp bị đình đốn, hàng hóa công nghiệp khan hiếm. Lực lượng cán bộ quản lí và cán bộ khoa học kĩ thuật bị thiếu nghiêm trọng. Về văn hóa, xã hội: kinh tế gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn hóa - xã hội của nhân dân miền Bắc. Hàng trăm nghìn gia đình không có nhà ở, nạn đói lan rộng ra ở vùng mới giải phóng. Cùng với nạn đói, số người mù chữ ở miền Bắc cũng chiếm tỉ lệ lớn. Hàng chục vạn người thất nghiệp ở cả nông thôn và thành thị, phải lang thang khắp nơi. Với những người lao động có tay nghề bị ép di cư vào Nam, trong đó có một bộ phận không nhỏ là giáo viên, y bác sĩ. Các lực lượng chống phá cách mạng ra sức tung tin gây hoang mang, kích động quần chúng, nhất là thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa ruộng vườn di cư vào Nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ngành y tế đã có nhiều đóng góp vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, hoạt động y tế bị hạn chế, một mặt do thiếu cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ y tế, mặt khác do các cơ sở y tế chưa được đảm bảo về mặt không gian và điều kiện lao động. Ở nhiều vùng nông thôn, người ốm đau không được chăm sóc y tế, cách thức điều trị chủ yếu là cúng bái. Công tác vệ sinh hạn chế đã làm bùng phát nhiều dịch bệnh, nhất là bệnh sốt rét ở miền núi. Theo số liệu điều tra của các đội lưu động, tỉ lệ dân số mắc bệnh sốt rét chiếm 90%. Về mùa đông, bệnh viêm phổi đã gây chết hàng nghìn người. Năm 1954, tỉnh Cao Bằng có 2.000 người chết, Hà Giang có 300 người chết. Ở bệnh viện các tỉnh miền núi tỉ lệ tử vong do sốt rét chiếm từ 25-45% trong tổng số người bệnh tử vong. Tỉ lệ lách to trong nhiều xã chiếm hơn 80%. Tỉ lệ kí sinh trùng trong máu trung bình từ 10-20% [98; tr.3]. Thiên tai khắc nghiệt, đói rét làm bùng phát nhiều dịch bệnh như đau mắt hột, sốt rét, dịch tả. Dịch mắt hột xảy ra khắp nơi ở khu vực đồng bằng với 80-90% dân số mắc bệnh. Ở khu vực miền núi, cảnh bụng báng da chì, tình trạng đẻ mười không nuôi được một là hậu quả của dịch bệnh sốt rét. Ngoài những bệnh do vi trùng, siêu vi trùng, các bệnh do thiếu ăn, thiếu vệ sinh, bệnh tê phù do thiếu chất đạm cần thiết, thiếu vitamin B1 trở nên phổ biến đến mức “một số thầy thuốc Pháp cho là bệnh dịch do một thứ vi trùng mà chưa tìm được”. Theo những cuộc điều tra năm 1953-1954 cho thấy tỉ lệ sơ sinh chết do bà mụ vườn trung bình từ 130-200/00. Một số xã ở Kiến 28 An tỉ lệ sơ sinh chết lên đến 600/00, nghĩa là đẻ 10 chỉ còn sống 4 vì dịch uốn ván rốn. Số trẻ em dưới 1 năm tử vong nhiều nơi lên đến 500/00 nghĩa là 10 trẻ sơ sinh ra đời chỉ có 5 trẻ sống đến 1 năm. Tỉ lệ sản phụ tử vong là 20/00. Tỷ lệ tử vong cả mẹ và con chiếm 30/00[159; tr.9]. Vì vậy, ngay sau khi hòa bình được lập lại, nhiệm vụ đầu tiên của ngành y tế Việt Nam DCCH là: thực hiện tiếp quản các cơ sở y tế, tổ chức phòng chống dịch bệnh và cung cấp thuốc men cho nhân dân, trong đó chú trọng đến hoạt động tiếp quản các cơ sở y tế dân sự. Quá trình tiếp quản các cơ sở y tế của Pháp được thực hiện bởi Ban tiếp quản ngành y tế - xã hội, gồm có 6 thành viên16. Ngoài các thành viên chính, Ban tiếp quản có thêm 7 bác sĩ, 21 y sĩ, 6 dược sĩ, 1 kĩ sư hóa học, 3 y tá trưởng, 7 y tá, 2 dược tá, 4 học sinh y sĩ, 8 cán bộ chính trị hành chính và 7 nhân viên trong bộ phận giúp việc. Tổng cộng toàn đoàn tiếp quản có 67 người [98; tr.4]. Các thành viên được tập huấn cả về chính trị và chuyên môn17. Dưới Ban tiếp quản ngành y tế - xã hội ở các thành phố lớn, Bộ Y tế thiết lập Ban tiếp quản riêng cho từng khu vực. Ngày 20-8-1954, Bộ Y tế quyết định thành lập Ban tiếp quản Hà Nội18 do Giáo sư Hồ Đắc Di làm trưởng ban. Dưới Ban tiếp quản là đội tiếp quản được thành lập tại các cơ sở y tế. Sau Hà Nội, các tỉnh thành miền Bắc nhanh chóng thành lập các ban tiếp quản với thành phần của Ban tiếp quản gồm: Trưởng Ty Y tế (Trưởng ban); một lãnh đạo cơ sở y tế tại địa phương và các thành viên là các y, bác sĩ có trình độ chuyên môn. Dưới ban tiếp quản là các đội tiếp quản cơ sở. Bắt đầu từ ngày 02-10-1954, hoạt động tiếp quản các cơ sở y tế ở Hà Nội bắt đầu được thực hiện. Hai đơn vị y tế hàng đầu về chữa bệnh là bệnh viện Bạch Mai và bệnh viện Phủ Doãn được tiếp quản đầu tiên; tiếp đó, trường Đại học Y dược khoa Hà Nội; Nha Y tế Bắc Việt, Bệnh viện mắt Hàng Gà, Viện Bào chế Trung ương... Ngay sau khi các cơ sở điều trị quy mô lớn được tiếp quản, các cơ sở khác như Sở Y tế, phòng da liễu Sinh Từ, 7 phòng khám bệnh và phát thuốc ở nội thành cũng được tiếp quản. Tiếp đó, các phòng khám và chữa bệnh gồm: quận 1,2,3,4 (nội thành) và 5,6,7 (ngoại thành) được bổ sung cán bộ phụ trách, tiếp tục thực hiện khám và chữa bệnh cho nhân dân [17; tr.32]. Sau Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hải 16G.S Hồ Đắc Di – Giám đốc Trường đại học y dược khoa: Trưởng ban - B.s Hoàng Đình Cầu – Giám đốc y tế liên khu 3: Phó ban - Ông Nguyễn Đức Thắng - Phó ban văn phòng Bộ Y tế: Phó ban - B.s Nguyễn Đức Khởi – Giám đốc Phân viện vi trùng học liên khu 4: Ủy viên - Giáo sư Đặng Văn Ngữ - G.S Trường đại học y dược khoa: Ủy viên - Dược sĩ Trương Xuân Nam – Giám đốc sở bào chế Trung ương: Ủy viên 17Về chính trị: thành viên Ban tiếp quản được giải thích rõ chính sách đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nhằm vạch rõ âm mưu chia rẽ của Pháp. Về chuyên môn: thành viên Ban tiếp quản được hướng dẫn việc khử trùng, tẩy uế, tuyên truyền, vận động nhân dân và các cơ sở y tế tiến hành tổng vệ sinh toàn thành phố. Sau đó, các thành viên di chuyển đến các cơ sở y tế dân sự chuẩn bị lực lượng cấp cứu, tải thương, dự trữ thuốc chiến thương, đồng thời phổ biến một số kinh nghiệm để đảm bảo hoạt động y tế trong thành phố 18 Ban tiếp quản có nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo, phân công nhiệm vụ tiếp quản các cơ sở y tế ở Hà Nội 29 Dương và một số tỉnh thành khác cũng nhanh chóng hoàn thành tiếp quản các cơ sở y tế dân sự. Như vậy, hoạt động tiếp quản các cơ sở y tế dân sự ở miền Bắc trong hoàn cảnh vừa kết thúc chiến tranh là quá trình khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, do sự chuẩn bị tốt cả về mặt chủ trương và lực lượng thực hiện tiếp quản, nhất là quy trình tiếp quản được thực hiện chính xác, hiệu quả đã góp phần quyết định sự thành công của hoạt động tiếp quản các cơ sở y tế dân sự sau năm 1954. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiếp quản, Đảng và Chính phủ xác định khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu. Để thực hiện nhiệm vụ, Đảng và Chính phủ đã tổ chức, huy động cả bộ máy chính quyền và các đoàn thể nhân dân thực hiện nhiều biện pháp và đạt nhiều kết quả to lớn, góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh, duy trì sản xuất, từng bước ổn định đời sống nhân dân. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng và Chính phủ tiếp tục thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo XHCN, phát triển kinh tế, văn hóa (1958-1960). Với sự nỗ lực của toàn Đảng và toàn dân, trên tất cả các lĩnh vực đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Năm 1960, khi cách mạng ở hai miền Nam Bắc có những bước tiến quan trọng, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng lao động Việt Nam họp từ ngày 5 đến ngày 12-9-1960 đã xác định nhiệm vụ của miền Bắc là: hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất mới ở miền Bắc chuyển trọng tâm vào việc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội bằng việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và sự điều hành của các cấp chính quyền, nhân dân miền Bắc đã khắc phục khó khăn, hăng hái lao động thi đua sản xuất và đã đạt được một số thành tựu về kinh tế - xã hội, xây dựng bước đầu về cơ sở vật chất và kĩ thuật của CNXH, thực hiện một bước công nghiệp hóa và cải tạo XHCN. Như vậy, trong 10 năm đầu xây dựng kinh tế - xã hội, miền Bắc Việt Nam đã nỗ lực vượt mọi khó khăn, thi đua sản xuất và đạt nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực. Những thành tựu đạt được là động lực lớn cho ngành y tế nói chung, y tế dân sự nói riêng nhanh chóng củng cố, xây dựng và hoàn thiện về tổ chức để thực hiện đúng chức năng chăm sóc sức khỏe của nhân dân. 2.1.3. Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng ngành y tế Khi những vết thương của cuộc chiến tranh chưa liền ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra quan điểm cơ bản về xây dựng hệ thống y tế. Người nêu rõ: “Trong nhiều năm nước ta bị nô lệ thì y học cũng như các ngành khác bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập, tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một hệ thống y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta” [68; tr.476]. Và, Người căn dặn ba điều quan trọng: 30 - Phải thật thà đoàn kết - Thương yêu người bệnh, thực hiện “lương y phải như từ mẫu” - Xây dựng một nền y học của ta dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại chúng; chú trọng nghiên cứu phối hợp “Đông” và “Tây y” [68; tr.476]. Như vậy, những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng một hệ thống y tế nhân dân. Đây cũng được xem là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của y bác sĩ và nhân viên y tế ở miền Bắc trong điều kiện hoàn cảnh mới. Để quá trình xây dựng, hoàn thiện ngành y tế dân sự ở miền Bắc đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới, trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu của hệ thống y tế mà Chính phủ nước Việt Nam DCCH đã xây dựng được trong 9 năm kháng chiến kiến quốc, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp quan trọng nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống y tế phục vụ nhân dân. Theo đó, nhiều chỉ thị, nghị quyết, sắc...uộc Bộ năm 1965. 168 PHỤ LỤC 1. PHỤ LỤC 1: Bản đồ miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975 2. PHỤ LỤC 2: Một số sự kiện về y tế dân sự ở Việt Nam giai đoạn 1954-1975 3. PHỤ LỤC 3: Một số bảng biểu về y tế dân sự ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975 4. PHỤ LỤC 4: Một số văn bản, chỉ thị, nghị quyết về y tế dân sự giai đoạn 1954-1975 5. PHỤ LỤC 5: Một số hình ảnh về hoạt động của ngành y tế giai đoạn 1954-1975. 169 PHỤ LỤC 1: BẢN ĐỒ MIỀN BẮC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975 Nguồn: [https://www.freewebs.com/jim4jet/vietmap8.htm] 170 PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ SỰ KIỆN VỀ Y TẾ DÂN SỰ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975 Ngày 3-11-1946, Thành lập Bộ Y tế Ngày 20-8-1948, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 234-SL về việc mở Trường y sĩ Việt Nam Liên khu 3-4 và trường y sĩ Liên khu 1-10 Ngày 26-8-1954, Bộ Y tế quyết định thành lập đoàn cán bộ y tế về tiếp quản Hà Nội gọi là Ban tiếp quản Hà Nội do bác sĩ Hoàng Đắc Di làm Trưởng ban Ngày 19-7-1955, Viện vi trùng học được thành lập trên cơ sở viện Pasteur Hà Nội Ngày 19-10-1955 Vụ bào chế (sau đổi tên thành Vụ dược chính) được thành lập Ngày 15-12-1955, Khu y tế Trung ương được thành lập Ngày 24-8-1956, điều lệ tạm thời cho phép làm các nghề chữa bệnh, hộ sinh, bào chế và bán thuốc được ban hành Ngày 12-10-1956, Xưởng bào chế Trung ương được đổi tên thành xí nghiệp dược phẩm Trung ương Ngày 1-3-1957, chuyển giao 18 đội chống sốt rét lưu động của Bộ Y tế đang hoạt động ở các khu, tỉnh cho các tổ chức y tế của khu, tỉnh. Ngày 22-4-1957, Bộ Y tế ra Nghị định số 274/BYT-NĐ về việc thành lập quốc doanh y dược phẩm tỉnh 17-6-1957, Viện nghiên cứu Đông y được thành lập 1-7-1957, Viện sốt rét và kí sinh trùng, Viện chống lao Trung ương, Viện chống mắt hột được thành lập Ngày 25-9-1957,Tổng công ty dược phẩm thuộc Bộ Nội thương được thành lập thay thế Tổng công ty bách hóa trong lĩnh vực cung ứng thuốc cho nhân dân Ngày 28-3-1958, hợp nhất bệnh viện Hồng thập tự Liên Xô và bệnh viện B “303” thành bệnh viện lấy tên là bệnh viện hữu nghị Việt Xô trực thuộc Bộ Y tế. Tháng 4-1958, Hội Đông y được thành lập để xét duyệt các công thức thuốc cao đơn, hoàn tán của các tập đoàn và cá nhân sản xuất. Ngày 30-6-1959, Viện vệ sinh được thành lập trên cơ sở điều chuyển một số cán bộ phòng nghiên cứu của Viện vi trùng học Ngày 26-10-1960, Hội Y học Việt Nam đổi tên thành Tổng hội Y học Việt Nam. Ngày 26-10-1960, Bộ Y tế ra thông tư số 22-BYT/TT về việc thành lập 3 trường y sĩ ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định Tháng 12-1960, 3 tập đoàn Đông y được thành lập gồm: Tập đoàn Đông y thống nhất, tập đoàn Đông y miền Nam “Nhà thuốc thống nhất” và Hợp tác xã Đông y Đại chúng 171 Ngày 25-3-1961, sát nhập Viện vi trùng học và Viện vệ sinh thành Viện Vệ sinh dịch tễ học trực thuộc Bộ Y tế Ngày 13-4-1961, Viện dược liệu được thành lập Ngày 22-1-1962, Quốc doanh dược liệu Trung ương được thành lập trực thuộc Bộ Y tế. Ngày 11-2-1963, Bộ Y tế ra quyết định số 134/BYT-QĐ về việc tách các xưởng dược, thủy tinh, thuốc dân tộc thành những xí nghiệp độc lập Ngày 16-8-1963, các trạm vệ sinh phòng dịch ở các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung uơng được thành lập Ngày 24-2-1964, Bộ Y tế ra Thông tư liên bộ YT-NV số 04-LB-TT hướng dẫn cải tiến tổ chức cơ quan y tế địa phương Tháng 6-1965, Hội nghị toàn ngành y tế được tổ chức tại Thanh Chương, Nghệ An đã đưa ra nhiệm vụ chiến lược y tế trong giai đoạn mới. Ngày 25-12-1965, Bộ Y tế ra Chỉ thị số 12/BYT/CT về chuyển hướng hoạt động của các cơ sở điều trị để đối phó với âm mưu phá hoại của Mỹ. Ngày 14-7-1966, các cơ sở sự nghiệp, sản xuất, kinh doanh thuộc ngành y tế giao cho Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Ngày 17-6-1967, Cục dược liệu được thành lập. Ngày 14-8-1967, lớp chuyên tu đại học được mở tại các trường y sĩ Thanh Hóa, Thái Bình, Việt Bắc. Ngày 23-7-1968 Phân hiệu đại học y khoa Thái Bình được thành lập Ngày 23-7-1968 Phân hiệu đại học y khoa miền núi được thành lập Ngày 30-12-1968 Hội châm cứu Việt Nam thành lập Tháng 11-1970, Bộ Y tế quyết định giao cho trường Đại học y khoa, Đại học dược khoa tổ chức bổ túc sau đại học cho các bác sĩ, dược sĩ trong ngành Ngày 01-04-1971, Bộ Y tế ra quyết định số 169/BYT-QĐ giải thể 4 cục (phân phối dược phẩm, quản lí sản xuất, dược liệu và vật tư) thành Tổng công ty dược Tháng 6-1971, Bộ trưởng Bộ Y tế Vũ Văn Cần giao cho B.s Hoàng Bảo Châu nghiên cứu phương pháp châm tê ở bệnh viện Phủ Doãn dưới sự chỉ đạo của G.S Tôn Thất Tùng Ngày 24-8-1972, Hội đồng dược lí Việt Nam được thành lập Ngày 19-12-1972, máy bay Mỹ ném 4 quả bom vào bệnh viện Bạch Mai Ngày 08-07-1974 Viện giám định y khoa được thành lập Ngày 14-01-1975, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 15-CP về việc cải tiến tổ chức y tế địa phương. [Nguồn: Tác giả tự tổng hợp] 172 PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ BẢNG BIỂU VỀ Y TẾ DÂN SỰ Ở MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954-1975 Bảng 1: Trang thiết bị y tế của các cơ sở điều trị ở miền Bắc năm 1955. Cơ sở Địa phương Số giường hiện tại Địa điểm 300 giường Bệnh viện liên khu Việt Bắc 158 Thị xã Thái Nguyên 300 giường Bệnh viện liên khu IV 280 Nghệ An 300 giường Bệnh viện Cán bộ ở Trung Ương (BV C) 120 Hà Nội 300 giường Bệnh viện công trường đường sắt Gia Lâm (Hà Nội) 300 giường Bệnh viện đoàn thanh niên xung phong Hà Nội 300 giường Bệnh viện cán bộ miền Nam( bệnh viện A) Hà Nội 300 giường Bệnh viện cán bộ miền Nam (bệnh viện F) Ninh Giang, Hải Dương 100-150 giường Bệnh viện khu Tây Bắc 100 Tuần Giao, Lai Châu 100-150 Bệnh viện Bắc Ninh, Bắc Giang 100 Thị xã Bắc Ninh 100-150 Khu 3: Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Sơn tây 200 Thị xã Hà Đông, Thị xã Hà Nam, Bùi Chu, Thị xã Sơn Tây 100-150 Tả ngạn: Kiến An, Thái Bình 120, 130 Thị xã Bệnh xá 30-50 giường Tây Bắc: Lai Châu, Sơn La 27 Thị xã Lai Châu, Sơn La Bệnh xá Lạng Sơn 65 Thị xã Bệnh xá Lào Cai 46 Thị xã Bệnh xá Phú Thọ 68 Thị xã Bệnh xá Thái Nguyên 40 Phúc Trìu Bệnh xá Vĩnh Phúc 50 Thị xã Phúc Yên Bệnh xá Yên Bái 70 Thị xã 173 Bệnh xá Quảng Yên 80 Thị xã Bệnh xá Hải Ninh 30 Tiên Yên Bệnh xá Khu III: Hòa Bình 38 Thị xã Bệnh xá Ninh Bình 50 Thị xã, Phát Diệm Tả ngạn Tả ngạn: Bệnh xá cán bộ khu Hải Dương Hưng Yên Thái Bình 20 80 60 50 Ninh Giang Bần Yên Nhân Duyên Hà Thái Bình Bệnh xá 30-50 giường Việt Bắc: Bắc Kanj, Cao Bằng 40,50 Thị xã Khu 4: Quảng Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Linh 130,150,130 Thị xã Đồng Hới, thị xã Vĩnh Linh Bệnh xá 30-50 giường Khu 4: Hà Tĩnh 2 Thị xã, nông thôn Nghệ An 4 Diễn Châu, Đô Lương, Nghĩa Đàn, Thị xã Vinh Quảng Bình 2 Tuyên Hóa, Lệ Thủy Thanh Hóa 3 Hậu Lộc, Vĩnh Lộc, Quảng Xương. Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ 235, Báo cáo về công tác y tế năm 1954-1955 của Bộ Y tế] 174 Bảng 2: Phát triển sự nghiệp bảo vệ sức khỏe toàn miền Bắc (1961-1965) Chỉ tiêu Đơn vị 1961 1962 1963 1964 1965 +Số cơ sở điều trị Cơ sở 340 391 402 413 428 - Bệnh viện Cái 79 89 94 97 100 - Bệnh xá Cái 250 287 292 299 311 - Điều dưỡng đường Cái 7 9 9 10 10 +Viện nghiên cứu Viện 8 10 11 11 11 + Tổng số giường Giường 25.930 29.105 29.415 29.975 30.695 -Giường bệnh viện, bệnh xá Giường 22.180 24.255 24.965 25.375 25.995 -Giường điều dưỡng Giường 2.700 3.400 2.850 3.000 - Giường viện nghiên cứu Giường 1.050 1.450 1.600 1.600 3100 + Trạm y tế xã Trạm 5.000 5.350 5.667 5.667 1600 - Giường trạm y tế xã Giường 50.000 53.500 56.670 56.670 5.667 - Phòng khám bệnh phát thuốc Phòng 46 69 69 69 56.670 - Đội y tế lưu động Đội 122 122 122 122 69 + Đội phòng bệnh, chống dịch Đội 61 61 61 61 61 + Đội chống mắt hột Đội 30 30 30 30 30 + Đội chống sốt rét Đội 31 31 31 31 31 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế, Hồ sơ 845, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế trong 5 năm (1961-1965)] 175 Bảng 3: Số liệu thống kê hoạt động của Trạm vệ sinh phòng dịch các thành, tỉnh và huyện trong 2 năm 1967-1968 ở miền Bắc Nội dung công tác Số đã làm được Tỉ lệ tăng/giảm Năm 1967 Năm 1968 Vệ sinh công cộng: - Tỉ lệ % gia đình có hố xí 2 ngăn (%) 67,66 74,26 6,6 - Tỉ lệ % hố xí bảo quản sử dụng hợp vệ sinh (%) 16,02 31,40 15,38 - Tỉ lệ gia đình có giếng nước ăn (%) 24,97 26,75 1,78 - Tỉ lệ gia đình có nhà tắm (%) 18,31 22,00 3,69 Vệ sinh thực phẩm: Số cơ sở kiểm tra vệ sinh thực phẩm (cơ sở) 198 1263 6,3 Số công nhân được khám sức khỏe (người) 1198 16.686 11,6 Vệ sinh trường học: 8674 246.012 28,3 Số trường học có kiểm tra vệ sinh, ánh sáng, bàn ghế (trường) 277 1040 3,7 Số học sinh, giáo viên được khám sức khỏe (người) 31.114 216.508 6,0 Vệ sinh lao động: Số cơ sở có kiểm tra vệ sinh an toàn lao động (cơ sở) 186 223 1,2 - Số công nhân được khám sức khỏe (người) 78.632 80.347 - Quản lí dịch và tiêm chủng: -Tỉ lệ đối tượng được tiêm Tả-TAB (%) 54,29 37,45 - Tỉ lệ đối tượng được tiêm chủng đậu (%) 68,24 74,38 6,1 -Tỉ lệ% đối tượng được uống Sabin (%) 55 62 1,1 Công tác nghiên cứu khoa học: - Số đề tài nghiên cứu đã hoàn thành (đề tài) 55 62 6,1 Công tác xét nghiệm san xuất Subtilis - Số mẫu phản ứng huyết thanh, nuôi cấy (mẫu) 16,037 18,247 - - Số Subtilis sản xuất (cc) 7618,24 7671,48 16,84 Trạm liên hợp huyện, khu phố - Số trạm làm gần đủ các mặt công tác (trạm) 28 68 1,06 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 8240, Phông Bộ Y tế; Báo cáo tổng kết công tác vệ sinh phòng bệnh năm 1968 của Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương; tr.16] 176 Bảng 4: Thống kê các cơ sở điều trị y tế ở miền Bắc năm 1961 Địa phương Bệnh viện Bệnh xá Viện điều dưỡng Số lượng Số giường Số lượng Sốgiường Số lượng Số giường Trung ương: 14 5.238 - - 1 5548 Hà Nội 7 1049 4 150 1 1289 Hải Phòng 5 719 1 150 - 869 Khu tự trị Việt Bắc 3 280 2 35 - 315 Khu Lao Hà Yên 4 462 6 160 - 622 4 tỉnh trực thuộc Khu tự trị Thái Mèo 3 190 1 60 - - Khu Hồng Quảng 3 160 1 50 - 195 Xí nghiệp quốc doanh 1 145 1 89 - 349 Khu Tả Ngạn 5 260 13 220 1 1383 Liên khu 3 8 963 4 220 1 2125 Liên khu 4 7 1470 11 680 1 3.240 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ 235, Báo cáo về công tác y tế năm 1954-1955 của Bộ y tế] Bảng 5: Thống kê tình hình cơ sở y tế và cán bộ y tế xã từ năm 1955 đến 1959 Các cơ sở y tế Đơn vị 1955 1956 1957 1958 1959 Trạm y tế dân lập xã Cái - - 200 472 1.355 Trạm hộ sinh xã Cái 200 250 300 827 1.687 Túi thuốc xã Cái - 37.735 56.580 32.286 37.123 Cán bộ y tế xã Người 6.979 13.771 12.114 15.489 19.063 Nữ hộ sinh xã Người 1.814 5.197 4.776 15.489 9.107 Vệ sinh viên Người 39.089 - 100.000 6.328 100.000 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế ;Hồ sơ 626, Báo cáo công tác y tế 5 năm( 1955-1959) của Bộ Y tế] 177 Bảng 6: Trang thiết bị cơ sở vật chất của bệnh viện khu vực ở miền Bắc Các khoa Tỷ lệ so với tổng số(%) Số giường cụ thể của từng khoa trong BV 200 giường BV 300 giường BV 500 giường Nội khoa Ngoại khoa Nhi khoa Sản khoa Nhãn khoa Tai Mũi Họng Lây Lao Thần kinh 30 20 15 10 5 5 10 3 2 60 40 30 20 10 10 20 5 5 90 60 45 30 15 15 30 10 5 150 100 75 50 25 25 50 15 10 Tổng số 100 200 300 500 [ Nguồn: 132; tr.4] Bảng 7: Thống kê hàng thiết bị y tế Liên Xô cung cấp cho bệnh viện Hồng thập tự Liên Xô năm 1955 Ngày Tên hàng Số lượng hòm Trọng Lượng 14-11-1955 Quang tuyến X và hóa nghiệm 122 6607 14-11-1955 Thiết bị y tế 4 6607 23-11-1955 Thiết bị y tế 7 6607 26-11-1955 Quang tuyến X và hóa nghiệm 46 6607 26-11-1955 Vải băng 18 6092 14-11-1955 Công cụ y tế 15 405 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ 17164, Công văn, kế hoạch, báo cáo về việc xin tiếp nhận và sử dụng hàng viện trợ năm 1955 của Bộ Y tế và đơn vị trực thuộc; tr.3] Bảng 8: Số liệu thống kê nguồn lao động trong ngành y tế qua các năm 1964, 1967, 1969 ở miền Bắc 178 Đơn vị: Người Năm 1964 Năm 1967 Năm 1969 +Tổng số lao động. Trong đó: 29.330 43.050 55.651 - Khu vực không sản xuất vật chất 20.210 25.876 33.232 của Trung ương 5.005 5.322 8.385 của địa phương 15.205 20.554 24.847 + Cán bộ chuyên môn - Bác sĩ 1.365 1.984 2.977 -Dược sĩ cao cấp 398 580 713 - Y sĩ 4.219 5.993 7.146 - Dược sĩ trung cấp 711 773 1.165 -Y sĩ dân lập 2.329 5.544 9.808 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế Hồ sơ số 8285; Báo cáo tình hình mạng lưới y tế cơ sở chữa bệnh từ hòa bình đến nay (1955-1970); tr. 17)] Bảng 9: Tình hình sử dụng Đông y trong các cơ sở điều trị ở miền Bắc trong 3 năm ( 1958-1960) Các cơ sở điều trị Năm 1958 Năm 1959 Năm 1960 Trạm y tế xã Phòng y tế huyện Bệnh xá huyện, xí nghiệp Bệnh viện tỉnh Điều dưỡng đường Bệnh viện khu vực Bệnh viện Trung ương và Viện Đông y 0 0 0 0 0 0 2 2 1 1 0 0 1 2 12 1 1 15 1 5 7 Tổng số cơ sở 2 7 42 [ Nguồn: Hồ sơ 8707, Dự thảo về chính sách Đông y 190; tr.7] 179 Bảng 10: Thống kê số lượng thuốc và dụng cụ y tế Liên Xô giúp Việt Nam năm 1955. Ngày tháng Tên hàng Số lượng hòm Trọng lượng 13-9-1955 Quinne crine 0,10 và Plasmokine 0,02 700 16.000 14-9-1955 Vitamine K 4 105 14-9-1955 Emulsion se Syntemycine 269 5500 14-9-1955 Dụng cụ thuốc men 500 16.956 22-9-1955 Emulsion DDT 172 37.813 29-9-1955 Emulsion DDT 170 37.631 29-9-1955 Y dược 157 4.930 29-9-1955 Dược phẩm 43 1330 3-10-1955 Y Dược phẩm 240 9810 3-10-1955 Dược phẩm 45 7500 3-10-1955 Vitamine 25 598 4-10-1955 Y dược 17 564 4-10-1955 Y dược 36 1294 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Ủy ban kế hoạch Nhà nước; Hồ sơ 17164, Công văn, kế hoạch, báo cáo về việc xin tiếp nhận và sử dụng hàng viện trợ năm 1955 của Bộ Y tế và đơn vị trực thuộc; tr.4] 180 Bảng 11: Tỉ lệ mắc bệnh so với 1000 dân ở miền Bắc từ năm 1964-1968 Đơn vị: % Bệnh Năm 1964 Năm 1965 Năm 1966 Năm 1967 Năm 1968 Thương hàn 123,00 10,36 4,03 1,68 1,2 Bại liệt 1,6 0,61 0,40 0,39 0,06 Bạch hầu 5,2 3,24 2,94 0,40 0,24 Ỉa chảy 1621,4 1109,68 1068,51 737 354,69 Kiết lị 296,8 258,46 238,08 117 62,77 Cúm 1319,8 558,44 991,61 1407 1000,79 Sởi 333 347,23 376,83 334 309,18 Ho gà 414,2 550,27 466,46 245 191,62 Thủy đậu 175 201,56 141,73 140,1 75,32 Quai bị 107,3 69,36 53,82 35,26 23,89 Viêm gan siêu vi trùng 12,3 8,91 9,55 8,5 8,43 Hội chứng não 3,6 2,59 3,51 4,3 2,36 Hội chứng viêm màng não cấp 11,2 10,04 8,82 4,91 1,96 Uốn ván 4 2,21 2,26 0,98 0,45 Nhiệt thán 1,21 0,37 0,06 0,07 0 Chó cắn 50 47,34 48,97 41 37,51 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 8240, Báo cáo tổng kết công tác vệ sinh phòng bệnh năm 1968 của Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương; tr.8] 181 Bảng12 :Tình hình cơ sở và giường bệnh các năm 1964-1967-1969-1970 Năm 1964 Năm1967 Năm1969 Năm1970 Số cơ sở Số giường Số cơ sở Số giường Số cơ sở Số giường Số cơ sở Số giường Tổng số 469 28.563 871 33.645 923 43.390 955 49.068 Bệnh viện ( cơ sở) 123 18.507 441 25.170 456 31.013 458 7.020 Bệnh xá (cơ sở) 339 9.306 390 6175 402 5855 428 5.554 Điều dưỡng (cơ sở) 7 1.200 40 2.300 65 6.522 76 6.494 Thuộc ngành y tế quản lí: Tổng số: 386 22.428 432 22.525 454 30.305 424 35.910 Bệnh viện ( cơ sở) 113 16.957 357 20.570 385 26.813 391 32.840 Bệnh xá (cơ sở) 270 4.671 57 1.295 37 590 - - Điều dưỡng (cơ sở) 3 800 18 660 32 2.902 33 3070 Thuộc các ngành quản lí Tổng số: 83 6.135 439 11.120 469 13.085 531 13.158 Bệnh viện (cơ sở) 10 1.100 84 4.600 71 4.200 67 4.180 Bệnh xá (cơ sở) 69 4.635 333 4.880 365 5.265 421 5.554 Điều dưỡng (cơ sở) 4 400 22 1.640 33 3.620 43 3.424 Cơ sở và giường của Trạm y tế xã 5274 33.532 5731 39.749 5942 38.850 6038 42.749 [Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 8285, Báo cáo tình hình mạng lưới cơ sở chữa bệnh từ hòa bình đến nay (1955-1970)] 182 Bảng 13: Kế hoạch 5 năm kiến thiết cơ bản của ngành y tế (thuộc ngân sách Trung ương) Năng lực thiết kế toàn bộ công trình Vốn đầu tư Tổng số Xây lắp thiết bị trong nước ( triệu đồng) Xây lắp thiết bị ngoài nước (triệu đồng) Trường đại học Y Hà Nội 1.200 sinh viên 10,000 9,000 1,000 Trường đại học Y Hải Phòng 900 sinh viên 8,000 6,500 1,000 Trường Trung cấp Hà Tĩnh 300 sinh viên 0,600 600 0 Trường trung cấp Thái Bình 500 sinh viên 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Hải Dương 900 sinh viên 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Tuyên Quang 300 sinh viên 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Phú Thọ 900 sinh viên 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Hồng Quảng 150 sinh viên 0,300 0,300 0 Trường trung cấp Thái Nguyên 300 sinh viên 0,600 600 0 Trường trung cấp Thái Mèo 150 0,300 0,300 0 Trường trung cấp Hải Phòng 900 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Hà Nội 900 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Hà Nội (Trung uơng) 2.000 2000 0 Trường trung cấp Thanh Hóa 900 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Nam Định 900 1,800 1,800 0 Trường trung cấp Nghệ An 900 1,800 1,800 0 [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546; Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965); tr.5] 183 Bảng 14: Tổng sản lượng sản xuất thuốc từ năm 1961-1965 Chỉ tiêu 1960 1961 1962 1963 1964 1965 Tổng sản lượng 24,8 33,6 48,7 41 46,4 51,7 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965); tr.3] Bảng 15: Số vốn đầu tư cho một số cơ sở điều trị ở miền Bắc năm 1956 của Chính phủ Đơn vị: Triệu đồng Cơ sở điều trị Vốn đầu tư Quá trình thực hiện Tổng Thiết bị trong nước Thiết bị nước ngoài - Bệnh viện lây 3,000 3,000 1,500 1,500 - Bệnh viện thần kinh 1,500 1,500 1,000 500 - Bệnh viện lao khu IV 900 900 700 200 - Bệnh viện Saint paul 800 800 500 300 - Bệnh viện nhi khoa 3,000 3,000 1,800 1,200 - Bệnh viện lao Nam Định 750 750 450 300 - Bệnh viện lao Hải Dương 600 600 300 300 - Bệnh viện Bạch Mai 500 500 300 200 - Bệnh viện lao Việt Bắc 600 600 400 200 - Bệnh viện Lao Hà Nội 400 400 400 0 - Khu điều dưỡng Cửa Lò 500 500 500 0 - Khu điều dưỡng Ba Đồn 500 500 400 100 - Khu điều dưỡng Ba Vì 2,600 1,000 1,800 800 - Trại phong Quỳnh Lập 100 100 100 0 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ quốc gia III, Phông Phủ thủ tướng, Hồ sơ số 248, Báo cáo tình hình phát triển y tế trong năm 1956 của Bộ Y tế; tr.9] 184 Bảng 16: Thống kê số lượng đào tạo học sinh hệ chính quy các khóa và phân phối đi B- C. Khóa học Số lượng (người) Nữ Miền Nam Dân tộc Đi B-C 1958-1963 154 28 21 7 - 1959-1965 294 44 37 8 32 1960-1965 326 74 73 14 31 1961-1966 407 160 143 14 52 1962-1968 413 122 156 11 82 1963-1969 343 142 105 14 72 1964-1970 355 155 147 55 99 1965-1971 576 303 84 41 70 1966-1972 - 359 98 56 - 1967-1973 - 335 60 43 - 1968-1974 - 334 23 4 - 1969-1975 - 311 29 6 - 1970-1976 - 146 19 2 - [Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Phủ thủ tướng, Hồ sơ số 4964, Thống kê số lượng đào tạo học sinh hệ chính quy các khóa và phân phối đi B, C- quân đội- miền núi năm 1972 của Trường đại học y khoa] Bảng 17: Số lượng cán bộ y tế qua các năm 1955-1957-1960-1961 Số lượng (người) 1955 1957 1960 1961 Bác sĩ (người) 108 177 419 597 Y sĩ (người) 363 1003 1771 2446 Y tá (người) 3278 6182 6492 7826 Dược cao cấp (người) 45 59 172 231 Dược trung cấp (người) 59 120 238 293 Dược tá (người) 233 761 1161 1494 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 5778, Tài liệu trao đổi sách báo, bài viết về y tế giữa Việt Nam với các nước năm 1962; tr.4] 185 Bảng 18: Chỉ tiêu của ngành dược phẩm trong 5 năm 1961-1965 Chỉ tiêu Tổng Năm 1961 Năm 1962 Năm 1963 Năm 1964 Năm 1965 -Tổng sản lượng 226 23 28 39 51 85 -Thuốc bào chế 170 22 27 363 41 44 -Hóa chất dược liệu 22 1 1 - 6 11 -Kháng sinh 34 1 - - 4 30 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961- 1965); tr.3] Bảng 19: Chỉ tiêu của ngành dược phẩm trong 5 năm 1961-1965 Chỉ tiêu Tổng 1961 1962 1963 1964 1965 -Tổng sản lượng 226 23 28 39 51 85 -Thuốc bào chế 170 22 27 363 41 44 -Hóa chất dược liệu 22 1 1 6 11 -Kháng sinh 34 1 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965); tr.8] Bảng 20: Nguồn vốn đầu tư cho các xưởng sản xuất thuốc và y cụ (1961-1965) Đơn vị tính: Triệu đồng Sản xuất Vốn đầu tư Thực hiện Tổng Thiết bị trong nước Thiết bị nước ngoài Xưởng bào chế Xưởng sản xuất y cụ Xưởng hóa chất dược liệu Xưởng kháng sinh Kho thuốc Trung ương Xưởng thủy tinh 1,500 3,600 8,000 18,000 4,000 600 1,500 3,600 8,000 18,000 4,000 600 1,200 2,600 3,000 6,000 3,500 600 300 1,000 5,000 12,000 500 0 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965); tr.5 186 Bảng 21: Nguồn vốn đầu tư cho các xưởng sản xuất thuốc và y cụ (1961-1965) Đơn vị tính: Triệu đồng [Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965); tr.6] Bảng 22: Lao động y tế trong ngành qua các năm Đơn vị: Người Năm 1964 Năm 1967 Năm 1969 Năm 1970 Tổng số lao động: Trong đó: + Khu vực không sản xuất vật chất Trung ương Địa phương + Cán bộ chuyên môn: Bác sĩ Dược sĩ cao cấp Y sĩ Dược sĩ trung cấp Y sĩ dân lập 29.330 20.210 5005 15.205 1365 398 4.219 711 2329 43.050 25.876 5.322 20.554 1984 580 5993 733 5544 55651 33232 8385 24.847 2.977 713 7.146 1165 9808 - - - - 3852 1001 10.801 2264 - [ Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 8285, Báo cáo tình hình mạng lưới cơ sở chữa bệnh từ hòa bình đến nay (1955-1970); tr.4] Sản xuất Vốn đầu tư Thực hiện Tổng Thiết bị trong nước Thiết bị nước ngoài Xưởng bào chế 1,500 1,500 1,200 300 Xưởng sản xuất y cụ 3,600 3,600 2,600 1,000 Xưởng hóa chất dược liệu 8,000 8,000 3,000 5,000 Xưởng kháng sinh 18,000 18,000 6,000 12,000 Kho thuốc Trung ương Xưởng thủy tinh 4,000 600 4,000 600 3,500 600 500 0 187 Bảng 23: Thống kê tình hình hoạt động điều trị và khám bệnh của bệnh viện Bạch Mai trong công tác phòng không nhân dân Chỉ tiêu Đơn vị Năm 1964 1965 1966 1967 Số giường quy định Số giường trung bình 1 tháng Ngày điều trị trung bình Ngày sử dụng giường trung bình 1 tháng Tỉ lệ sử dụng giường Tổng số ngày điều trị Số bệnh nhân điều trị Số người khám bệnh Số lần khám Số bệnh nhân điều trị ngoại trú Số bệnh nhân điều trị khỏi ra viện Số bệnh nhân chết Số trẻ em dưới 15 tuổi chết Số chết trước 24 giờ Tỷ lệ tử vong chung Tỷ lệ tử vong dưới 15 tưởi Tỷ lệ tử vong trước 24 giờ Số người chiếu điện Số người chụp điện Số người điều trị lí liệu Số lần điều trị lí liệu Tổng số lần xét nghiệm Bình quân xét nghiệm một bệnh nhân nội trú Bình quân xét nghiệm một bệnh nhân ngoại trú Số bệnh nhân phẫu thuật Số bệnh nhân đại phẫu Số bệnh nhân trung phẫu Số bệnh nhân tiểu phẫu Số mổ cấp cứu Cấp cứu chiến thương Tỷ lệ tử vong phẫu thuật Tỷ lệ tử vong mổ cấp cứu Giường Giường Ngày Ngày % Ngày Người Người Lần Người Người Người Trẻ em Người % % % Người Người Người Lần Lần Phút Phút Người Người Người Người Người Người % % 150 - 19,9 33,7 92,1 378.612 20.477 11.3409 169.895 9585 9.900 1579 967 587 7,9 11,78 37,1 38.633 15.135 38.183 46.217 350.575 82 73 8318 6155 2583 3467 2491 3205 0,45 - 476 - 17 27,22 89,51 155.522 9075 49.737 74.080 3.499 4.061 900 539 370 9,8 17 41 17.353 9.973 24.127 18.641 156.482 - - 4296 4842 1778 3.034 2955 4267 0,46 6,3 301 276 16,4 23,4 75,2 80.062 5.117 2.903 55.704 3.684 2.603 642 396 281 13,4 19,4 73,7 18.569 8.104 19.484 7913 106323 - - 4555 399 1026 2510 459 23 - - 370 330 19,8 22,4 74,6 6.5564 3617 35.904 46.904 46.127 4.204 1.753 3300 184 10,7 13,5 42,7 9.151 5.035 14.339 1276 102700 11,9 1,1 1238 338 439 755 187 17 1,7 12,2 188 Tỷ lệ tử vong mổ cấp cứu chiến thương Tỷ lệ mổ tử thi Tỷ lệ chẩn đoán đúng hoàn toàn Tỷ lệ chẩn đoán đúng 1 phần Tỷ lệ chẩn đoán sai hoàn toàn Chi phí thuốc trung bình 1 giường/ 1 ngày % % % % % Đồng 23,5 30,4 67,7 22,4 9,9 1 đ81 29,2 31,1 73,7 18,31 7,9 2 đ 04 - - - - - 11,7 94,4 66 22,5 11,5 1đ41 [ Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ 8229; Báo cáo tổng kết công tác chữa bệnh cấp cứu phòng không năm 1967;tr.8] Bảng 24: Tình hình cơ sở và giường bệnh các năm 1964-1967-1969-1970 Năm 1964 Năm1967 Năm 1969 Năm 1970 Số cơ sở Số giường Số cơ sở Số giường Số cơ sở Số giường Số cơ sở Số giường Tổng số Bệnh viện Bệnh xá Điều dưỡng 469 123 339 7 28.563 18.507 9.306 1.200 871 441 390 40 33.645 25.170 6.175 2.300 923 456 402 65 43.390 31.013 5.855 6.522 955 458 428 76 49.068 37.020 5.554 6.494 Thuộc ngành y tế quản lí: Tổng số: Bệnh viện Bệnh xá Điều dưỡng 386 113 270 3 22.428 16.957 4.671 800 432 357 57 18 22.525 20.570 1.295 660 454 385 37 32 30.305 26.813 590 2.902 424 391 - 33 35.910 32.840 - 3070 Thuộc các ngành quản lí Tổng số: Bệnh viện Bệnh xá Điều dưỡng 83 10 69 4 6.135 1.100 4.635 400 439 84 333 22 11.120 4.600 4.880 1.640 469 71 365 33 13.085 4.200 5.265 3.620 531 67 421 43 13.158 4.180 5.554 3.424 Cơ sở và giường của Trạm y tế xã 5274 33.532 5731 39.749 5942 38.850 6038 42.749 [ Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 8285, Báo cáo tình hình mạng lưới cơ sở chữa bệnh từ hòa bình đến nay (1955-1970); tr.11.] 189 Bảng 25: Nguồn vốn đầu tư cho các công trình y tế từ năm 1961 đến năm 1965 Tên công trình Năng lực thiết kế ( giường) Vốn đầu tư (triệu đồng) -Bệnh viện 74 Vĩnh Phúc - Bệnh viện 71 Thanh Hóa - Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội - Bệnh viện truyền nhiễm Hà Nội - Bệnh viện trẻ em Hà Nội - Bệnh viện Vinh - Trại Phong Quỳnh Lập -Trường đại học y Hà Nội - Trường đại học y Hải Phòng - Trường y sĩ Việt Bắc - Trường y sĩ Nam Định - Trường cán bộ y tế Hà Nội -Xí nghiệp dược phẩm I -Xí nghiệp dược phẩm II -Xưởng kháng sinh 600 giường 500 1200 300 300 500 2.600 1.800 1.200 600 900 1.100 - 15 tấn 1,722 1.560 1.329 3.000 3.000 3.000 2.398 7.500 3.500 1.100 870 1.152 4.000 37. Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965)] Bảng 26: Tổng doanh thu của Hệ thống quốc doanh dược phẩm từ năm 1960-1965 Đơn vị: Triệu đồng Hệ thống quốc doanh dược phẩm 1960 1961 1962 1963 1964 1965 81,844 86,300 107,900 139,300 140,0 145,0 Nguồn: [Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Phông Bộ Y tế; Hồ sơ số 7546, Kế hoạch phát triển sự nghiệp y tế ở miền Bắc (1961-1965); tr.4] 190 PHỤ LỤC 4: MỘT SỐ VĂN BẢN, CHỈ THỊ, NGHỊ QUYẾT VỀ Y TẾ DÂN SỰ GIAI ĐOẠN 1954-1975 191 PHỤ LỤC 5: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH Y TẾ GIAI ĐOẠN 1954-1975 Ảnh 1: B.S Phạm Ngọc Thạch (1909-1968) Vị bộ trưởng lỗi lạc, người có công lớn trong chuyên khoa lao và bệnh phổi Nguồn: [https://www.pnt.edu.vn/vi/gioi-thieu/bac-si-pham-ngoc-thach] Ảnh 2: Bác sĩ Hoàng Sử hướng dẫn 1 y tá dùng máy chiếu điện chữa bệnh ung thư ngoài da năm 1959 Nguồn: [ N.70; Q1914; Mã 60; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam] 192 Ảnh 3: Các chuyên gia y tế CHDC Đức hướng dẫn y bác sĩ bệnh viện Phủ Doãn sử dụng máy năm 1959 Nguồn: [N70; Q.1914; Mã 68; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam Ảnh 4: Hoạt động chế biến thuốc Nam ở viện Đông Y năm 1961 Nguồn: [N60; Q.1696; Mã F6173 ; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam 193 Ảnh 5: Các y sĩ trong tổ ngoại trú của bệnh viện Khu tự trị Việt Bắc khám bệnh cho học sinh trường thiếu nhi các dân tộc vùng cao Khu tự trị Việt Bắc năm 1961 Nguồn: [N.60; Q.1692; Mã A 4797/02; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam] Ảnh 6: Chế biến thuốc Nam thành nhiều loại thuốc chữa bệnh năm 1962 Nguồn: [N.60, Q.1696; Mã 6173; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam] 194 Ảnh 7: Chăm sóc các be sinh chưa đủ tháng tại Viện bảo vệ bà mẹ và trẻ em năm 1963 Nguồn: [N60, Q1696; Mã V.401; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam Ảnh 8: Các cụ lương y và bác sĩ, y sĩ ngồi hội chẩn để thống nhất phương pháp chữa bệnh năm 1961 Nguồn: [ N.60; Q.1692; Mã 02.177; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam] 195 Ảnh 9: Tiêm chủng dịch tả TAB phòng dịch bệnh cho nhân dân năm 1964 Nguồn: [N.60; Q.1704; Mã AB.607; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam] Ảnh 10: Y tá đến tiêm tại hầm bệnh nhân năm 1969 Nguồn: [N60.Q1696; Mã V.775 YT2; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam] 196 Ảnh 11: Đường hào trong bệnh viện Vĩnh Linh năm 1972 Nguồn: [N.60; Q.1696; Mã V.769 YT2; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam Ảnh 12: Bác sĩ nhi khoa đang khám tai cho bệnh nhân tại bệnh viện Khu Hoàn Kiếm, Hà Nội năm 1973 Nguồn: [N.60, Q.1696, Mã F.4597; Kho lưu trữ ảnh; Thông tấn xã Việt Nam]

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_y_te_dan_su_o_mien_bac_viet_nam_tu_nam_1954_den_nam.pdf
  • pdfTrichyeu_NguyenThiDungHuyen.pdf
Tài liệu liên quan