BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN TUYÊN
XƯNG HÔ TRONG VĂN BẢN
HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN TUYÊN
XƯNG HÔ TRONG VĂN BẢN
HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Bùi Minh Toán
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi
169 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Xưng hô trong văn bản hành chính Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Các vấn đề được trình bày trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn TuyênMỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Biểu thức hô
BTH
Biểu thức ngôn ngữ
BTNN
Biểu thức xưng
BTX
Hội đồng nhân dân
HĐND
Từ xưng hô
TXH
Ủy ban nhân dân
UBND
Văn bản cá biệt
VBCB
Văn bản hành chính
VBHC
Văn bản hành chính thông thường
VBHCTT
Văn bản quy phạm pháp luật
VBQPPL
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt dưới góc độ xưng hô 37
Bảng 2.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt có cả BTX và BTH được khảo sát 41
Bảng 2.2. Thống kê các BTNN để xưng trong VBHC tiếng Việt 52
Bảng 2.3. Thống kê các BTNN để xưng trong 1375 lượt xưng ở 543 VBHC tiếng Việt các loại được khảo sát 52
Bảng 2.4. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các BTNN để xưng ở các loại VBHC tiếng Việt 56
Bảng 2.5. Thống kê các BTNN để xưng với vị thế ngang bằng của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 64
Bảng 2.6. Thống kê các BTNN để xưng với vị thế ngang bằng của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 67
Bảng 2.7. Thống kê các BTNN để xưng với vai dưới của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 73
Bảng 2.8. Thống kê các BTNN để xưng với vai dưới của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 76
Bảng 2.9. Thống kê các BTNN để xưng với vai trên của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 79
Bảng 2.10. Thống kê các BTNN để xưng với vai trên của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 81
Bảng 3.1. Thống kê các BTNN để hô trong VBHC tiếng Việt 103
Bảng 3.2. Thống kê các BTNN để hô trong 1347 lượt hô ở 543 VBHC tiếng Việt các loại được khảo sát 104
Bảng 3.3. So sánh sự giống và khác nhau trong dùng các BTNN để hô ở các loại VBHC tiếng Việt 108
Bảng 3.4. Thống kê các BTNN để hô vị thế ngang bằng của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 115
Bảng 3.5. Thống kê các BTNN để hô vị thế ngang bằng của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 118
Bảng 3.6. Thống kê các BTNN để hô vai dưới của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 124
Bảng 3.7. Thống kê các BTNN để hô vai dưới của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 127
Bảng 3.8. Thống kê các BTNN để hô vai trên của cá nhân trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 131
Bảng 3.9. Thống kê các BTNN để hô vai trên của cơ quan, đơn vị, tổ chức trong giao tiếp bằng VBHC tiếng Việt 133
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong khoảng vài thập niên gần đây, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ học thế giới, Việt ngữ học cũng đã chú trọng nghiên cứu ngôn ngữ theo chức năng giao tiếp. Có thể nói, chỉ khi trả ngôn ngữ về với thực tiễn mới thấy hết được những đặc trưng và sự sống động như nó vốn có. Và chính qua hoạt động giao tiếp, gắn với ngữ cảnh cụ thể, ngôn ngữ lại càng độc đáo hơn.
1.1. Xưng hô là vấn đề quan trọng bậc nhất trong giao tiếp. Chỉ khi các nhân vật giao tiếp định vị được khung giao tiếp thì cuộc giao tiếp mới được bắt đầu. Xưng hô giúp con người định vị khung giao tiếp đó. Xưng hô trong tiếng Việt không chỉ là nhân tố quan trọng để hình thành diễn ngôn, quyết định đến việc lựa chọn ngôn ngữ mà còn biểu thị văn hóa dân tộc. Trên thế giới, vấn đề xưng hô đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu và có những kết quả giá trị cho lĩnh vực của chuyên ngành. Nếu chức năng cơ bản của lời nói thể hiện đặc trưng xã hội của người nói thì xưng hô thể hiện mối quan hệ liên cá nhân, vị thế xã hội, văn hóa của người phát ngôn. Muốn có một cuộc giao tiếp diễn ra thành công, người tham gia giao tiếp không thể không quan tâm đến mối quan hệ giữa bản thân với các thành viên tham gia giao tiếp. Xưng hô liên quan trực tiếp đến nhân vật giao tiếp và hoàn cảnh giao tiếp. Đặc điểm giao tiếp của người Việt đều chịu sự chi phối của những quan niệm văn hóa truyền thống về lễ giáo, về tính tôn ti, trật tự... Do đó, việc nghiên cứu xưng hô nói chung và xưng hô trong VBHC nói riêng sẽ góp phần đóng góp cho sự phát triển của ngành nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội.
1.2. Trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, văn bản hành chính (từ đây viết tắt là VBHC) là loại văn bản được dùng phổ biến trong đời sống xã hội. Đây là loại văn bản đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. So với các văn bản thuộc các phong cách chức năng khác, VBHC là loại văn bản có những đặc trưng rất khác biệt về chức năng cũng như hành chức. Một trong những điểm khác biệt với văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác là trong VBHC không thể không có hoạt động xưng hô và biểu thức xưng hô, nhất là xưng. Vì có những đặc thù riêng về chức năng và tổ chức văn bản, nên VBHC chịu sự chế định của pháp luật và được trình bày theo một quy phạm riêng biệt, nghiêm ngặt. Khi nhắc đến VBHC, người ta thường nghĩ ngay đến sự khuôn mẫu, sự chuẩn mực và nghĩ rằng ở loại văn bản này không có vấn đề gì để bàn luận và nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, loại hình văn bản này đã được không ít nhà khoa học xem xét, nghiên cứu ở nhiều góc độ và nhiều phương diện khác nhau. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và hệ thống về vấn đề xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề Xưng hô trong văn bản hành chính tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu trong luận án của mình. Việc nghiên cứu vấn đề xưng hô trong VBHC không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn mà còn góp phần hướng đến chuẩn hóa loại hình văn bản đặc thù này. Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn góp phần làm sáng tỏ lí thuyết giao tiếp, nhất là lí thuyết về xưng hô, đồng thời góp phần vào việc hoàn thiện, chuẩn hóa quy trình soạn thảo VBHC tiếng Việt.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để áp dụng những cơ sở lí luận vào việc nghiên cứu xưng hô trong VBHC, luận án tiến hành khảo sát 543 VBHC của các cơ quan Nhà nước, của tổ chức kinh tế và của công dân (đơn từ) từ năm 2009 đến hết năm 2019. Nguồn để chúng tôi thu thập những văn bản này là qua sưu tầm trong các cơ quan, ban ngành của Nhà nước và qua trang thuvienphapluat.vn.
Các thể loại VBHC được khảo sát bao gồm: VBQPPL (nghị quyết, nghị định, thông tư, quyết định); VBCB: nghị quyết (cá biệt), quyết định (cá biệt), chỉ thị (cá biệt); VBHCTT: chỉ thị, quy chế, quy định, thông báo, hướng dẫn, kế hoạch, báo cáo, tờ trình, công văn, công điện, bản cam kết, bản đề nghị, bản tường trình, văn bản hợp đồng, giấy ủy quyền, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận, phiếu gửi, phiếu chuyển, thư công,... Tất cả những VBHC được khảo sát trong luận án đều có cả BTX và BTH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về xưng hô trong VBHC tiếng Việt để làm sáng tỏ một phần xưng hô của VBHC và giao tiếp trong lĩnh vực hành chính. Từ đó góp phần xây dựng khuôn mẫu của VBHC để chuẩn hóa VBHC tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi hướng tới những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lí luận cần thiết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ: khái niệm xưng hô, phương tiện dùng để xưng hô, chức năng của xưng hô, các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp.
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những vấn đề lí luận cơ bản về VBHC: khái niệm, chức năng, đặc điểm của VBHC và phân loại VBHC tiếng Việt.
- Khảo sát và phân loại các BTNN và cách thức xưng, hô trong VBHC tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả các biểu thức xưng hô, cách xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
- Phân tích và đánh giá về tính tương thích, lịch sự trong xưng hô của VBHC tiếng Việt.
4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu chính như sau:
4.1. Phương pháp miêu tả để phác họa tương đối đầy đủ bức tranh về những đặc điểm trong xưng hô của VBHC tiếng Việt.
4.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn để lí giải việc sử dụng từ ngữ xưng-hô và biểu thức xưng-hô trong VBHC; nghiên cứu những phương thức thể hiện lịch sự trong xưng hô ở VBHC tiếng Việt. Trong luận án, việc xem xét từ ngữ xưng hô luôn đặt trong mối quan hệ với các nhân tố của ngữ cảnh: vị thế của các nhân vật xưng và hô, ngữ cảnh thể hiện qua thể loại của VBHC tiếng Việt.
4.3. Thủ pháp so sánh để tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa xưng hô trong VBHC tiếng Việt với xưng hô trong hoạt động giao tiếp hằng ngày và xưng hô giữa các loại VBHC với nhau.
4.4. Thủ pháp mô hình hóa nhằm mô hình hóa những BTNN để xưng và hô trong VBHC tiếng Việt.
4.5. Thủ pháp khảo sát, thống kê ngôn ngữ học để thống kê các BTNN dùng để xưng và hô, tần số xuất hiện của các biểu thức này trong các loại VBHC khác nhau.
5. Đóng góp mới của luận án
Dự kiến những đóng góp mới của luận án:
5.1. Đóng góp về lí luận
- Đề tài góp phần làm sâu sắc và phong phú lí thuyết giao tiếp ngôn ngữ, những đặc điểm của phong cách ngôn ngữ hành chính nói chung.
- Nghiên cứu đề tài để làm sáng tỏ lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp: BTNN để xưng hô, cách thức xưng hô, tính quy phạm về lịch sự trong xưng hô.
5.2. Đóng góp về thực tiễn
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu tiếng Việt và dạy học tiếng Việt, nhất là ở phong cách ngôn ngữ hành chính.
- Với những kết quả cụ thể mà luận án đạt được sẽ góp phần chuẩn hóa về mặt ngôn từ trong việc soạn thảo, ban hành VBHC tiếng Việt.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Trong chương này, chúng tôi trình bày hai nội dung lớn:
Thứ nhất, điểm lại những công trình đã được nghiên cứu liên quan đến đề tài, cụ thể là những nghiên cứu về từ ngữ xưng hô, về VBHC và về xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
Thứ hai, chúng tôi tập trung trình bày các vấn đề lí luận về xưng hô trong giao tiếp như: khái niệm xưng hô, chức năng của xưng hô, các nhân tố chi phối việc xưng hô, các phương tiện xưng hô trong giao tiếp, lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tìm hiểu những vấn đề lí luận về VBHC như: khái niệm, đặc điểm, chức năng của VBHC, các loại VBHC tiếng Việt.
Chương 2: Xưng trong văn bản hành chính tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi tập trung vào các vấn đề cụ thể như: khái niệm xưng trong VBHC, các BTNN để xưng trong VBHC, vị trí của BTNN dùng để xưng trong VBHC, xưng trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp trong VBHC. Những nghiên cứu ở chương này sẽ được minh họa qua việc xử lí ngữ liệu với các con số định lượng cụ thể.
Chương 3: Hô trong văn bản hành chính tiếng Việt và một số vấn đề trong quan hệ giữa xưng và hô trong văn bản hành chính
Trong chương này, luận án tập trung vào việc xác định khái niệm hô trong VBHC, các BTNN để hô trong VBHC, vị trí của các BTNN dùng để hô trong VBHC, hô trong quan hệ với vị thế giao tiếp trong VBHC. So với xưng thì BTH trong VBHC có tần suất thấp hơn, nên ở chương này, luận án phối hợp để trình bày thêm một số vấn đề trong quan hệ giữa xưng và hô trong VBHC như: tương thích và lịch sự trong xưng hô của VBHC. Chương 3 của luận án cũng được minh họa bằng các số liệu thống kê cụ thể qua việc khảo sát và phân tích ngữ liệu.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ xưng hô
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tìm hiểu của chúng tôi, khi nghiên cứu về từ ngữ xưng hô các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ trên thế giới đã theo các hướng nghiên cứu sau:
Trước hết là nghiên cứu theo hướng ngôn ngữ - văn hóa và ngôn ngữ- nhân chủng học, với những nhà nghiên cứu tiêu biểu như: W.Von Humboldt (“Về sự khác biệt của thiết chế ngôn ngữ loài người” [128]), Friedrich Engels (“Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước” [dẫn theo 67]).
Trong công trình nghiên cứu về các mối quan hệ trong gia đình, thân tộc và ngoài xã hội các tác giả đã bước đầu đề cập đến các đại từ nhân xưng và những từ ngữ được dùng để xưng hô trong các mối quan hệ thân tộc như: Grandmother, grandfather, uncle, father, mother, sister, brother... Đáng chú ý, các tác giả đã cho rằng các từ thân tộc không mang tính chất về quan hệ sinh học, đặc biệt là huyết thống, mà đây là những từ mang tính xã hội. Do đó, mỗi cá nhân không được xếp vào các phạm trù thân thích nào đó theo quan hệ huyết thống của chúng. Vì chúng là các thành viên trong những nhóm xã hội nhất định, được quy định bởi hôn nhân. Tuy nhiên, có thể thấy, những nghiên cứu trên cũng chỉ mới là bước đầu.
Kế tiếp là phải kể đến các quan điểm của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ học cấu trúc như: M.B.Emeneau (1951), L.C Thompson (1965)... M.B.Emeneau, trong công trình nổi tiếng Studies in Vietnamese Grammar [dẫn theo 68, tr. 9], đã quan tâm nhiều về đại từ trong tiếng Việt, đặc biệt là tập trung bàn về đại từ xưng hô và nhóm TXH lâm thời có nguồn gốc danh từ. Qua đó, ông đã nhận ra sự hạn chế của các đại từ nhân xưng đích thực và vai trò quan trọng của các TXH lâm thời mà ông cho là “Đại từ cương vị”.
L.C Thompson cũng đã có những nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt như: A Vietnamese Grammar và A Vietnamese Reference Grammar [dẫn theo 68. tr. 9]. Trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã đề cập đến các đại từ nhân xưng trong tiếng Việt như: ta, tôi, họ, hắn... cùng các danh từ thân tộc. Đối với danh từ thân tộc, ông nhận thấy giữa danh từ chung và danh từ riêng có hai mặt đối lập là thay đổi và không thay đổi, đồng nhất và không đồng nhất. Đặc biệt, L.C Thompson nhận thấy rằng: “Số lượng các đại từ xưng hô thực thụ là quá ít và đại từ tôi, ta với thái độ xưng hô thể hiện sự kính trọng hay thái độ bề trên, ở ngôi thứ nhất không có đại từ tương ứng với nó ở ngôi thứ hai (chỉ người nghe) và ngôi thứ ba (chỉ người được nói đến), do đó phải thay bằng các từ thuộc từ loại hoặc các danh từ” [dẫn theo 68, tr. 9].
Có thể nhận thấy, với khuynh hướng cấu trúc, các tác giả M.B.Emeneau và L.C.Thompson đã chỉ ra được các “chất liệu”, các “phương tiện vật chất” cơ bản được dùng để thực hiện hành vi xưng hô trong tiếng Việt, đó là các “đại từ nhân xưng” (personal pronouns), đồng thời đã phân chia đại từ nhân xưng thành hai nhóm: đại từ xưng hô chuyên dụng và đại từ xưng hô lâm thời để nghiên cứu.
Gần với đề tài luận án là hướng nghiên cứu theo quan điểm ngôn ngữ học chức năng của tác giả Lương Văn Hy (1990) với công trình nghiên cứu về Thực dụng diễn từ và ý nghĩa ngữ học - hệ thống quy chiếu về người trong tiếng Việt [123] đã đề xuất hướng nghiên cứu từ xưng hô - cái mà ông gọi là “hệ thống quy chiếu về người” một cách đồng bộ trên ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Đồng thời ông cũng cho rằng, hệ thống quy chiếu ngôi tiếng Việt bao gồm ba tiểu loại ngữ pháp: đại từ nhân xưng, danh từ chung (danh từ thân tộc và danh từ cương vị) và danh từ riêng đối lập nhau trên hai phương diện là thay đổi/ không thay đổi, đồng nhất/không đồng nhất,... Tuy tác giả đã đi sâu vào phân tích và chỉ ra chức năng thay thế của danh từ chung và đại từ nhân xưng, nhưng quan điểm của ông còn cứng nhắc khi xem xét về vấn đề từ loại và miêu tả các TXH thân tộc còn sơ lược. Nhưng sự đóng góp của ông trong việc nghiên cứu TXH tiếng Việt và hướng tiếp cận mới khi nghiên cứu về TXH là đáng ghi nhận.
Trên cơ sở quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nêu trên, khi nghiên cứu về xưng hô trong VBHC tiếng Việt chúng tôi đã tham khảo về cách phân chia và sử dụng về đại từ nhân xưng, danh từ thân tộc và các danh từ khác làm phương tiện xưng hô của các nhà nghiên cứu nước ngoài để áp dụng những vấn đề thực tiễn vào cơ sở lí luận của luận án.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu. Các công trình ngữ pháp tiếng Việt nghiên cứu về đại từ thường phân xuất thành lớp đại từ xưng hô. Lớp từ này trong tiếng Việt tuy không biến đổi hình thái, nhưng qua cách dùng trong giao tiếp thường được phân biệt theo ba ngôi và theo số : ngôi 1 (số ít) và ngôi 1 (số nhiều), ngôi 2 (số ít) và ngôi 2 (số nhiều), ngôi 3 (số ít) và ngôi 3 (số nhiều). Ngoài các đại từ xưng hô, tiếng Việt còn dùng danh từ thân tộc, tên riêng, từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ...để xưng hô. Các tác giả Nguyễn Văn Chiến trong Lớp TXH tiếng Việt trong lí thuyết và thực tế đối với các ngôn ngữ khác loại hình [16] hay Nguyễn Phú Phong trong Đại từ nhân xưng tiếng Việt [69] trong các nghiên cứu của mình đã dành cho lớp TXH tiếng Việt một vị trí thích đáng.
Một số công trình nghiên cứu về đặc điểm xưng hô trong ngôn ngữ của một dân tộc, hoặc so sánh đối chiếu xưng hô trong hai ngôn ngữ với nhau. Các luận án tiến sĩ của Phạm Ngọc Thưởng: Các cách xưng hô trong tiếng Nùng bảo vệ năm 1998 tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội [91]; Phạm Ngọc Hàm: Đặc điểm và cách sử dụng của lớp từ ngữ xưng hô tiếng Hán trong sự so sánh với tiếng Việt bảo vệ năm 2004 tại Viện Ngôn ngữ học [36]; Lã Thị Thanh Mai: Đặc điểm xưng hô của người Hàn và người Việt bảo vệ năm 2014 tại Học viện Khoa học xã hội, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam [61]; bài viết Mấy nhận xét về TXH tiếng Việt và tiếng Hàn Quốc của Nguyễn Minh Thuyết và Kim Young Soo trong sách Tương đồng văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc, Nxb Hà Nội, 1996 [89]; bài Một số đặc điểm văn hóa Nhật - Việt qua việc khảo sát hệ thống TXH của Hoàng Anh Thi trên Tạp chí Ngôn ngữ, số 1/1995 [86]... thuộc loại này. Những công trình này chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt về hệ thống TXH và đặc điểm trong cách xưng hô của các dân tộc. Những đặc điểm đó gắn liền với các đặc điểm văn hóa dân tộc.
Có những công trình nghiên cứu về xưng hô và TXH trong nội bộ tiếng Việt, nhưng quan tâm đến sự khác biệt trong xưng hô giữa các phương ngữ: luận án tiến sĩ của Lê Thanh Kim: TXH và cách xưng hô trong các phương ngữ tiếng Việt, bảo vệ năm 2002 tại Viện Ngôn ngữ học [56]. Công trình này cho thấy các phương ngữ của tiếng Việt có những khác biệt về hệ thống TXH và cách xưng hô khi giao tiếp trong gia đình, trong quan hệ vợ chồng, anh em, trong dòng họ thân tộc và rộng ra trong xã hội.
Nhiều công trình dành cho TXH và cách xưng hô của người Việt trong các phạm vi và lĩnh vực giao tiếp khác nhau. Sự liên thông và sự khác biệt giữa xưng hô trong gia đình và xưng hô ngoài xã hội của người Việt đã được luận án tiến sĩ của Bùi Minh Yến: Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội của người Việt bảo vệ năm 2001 tại Viện Ngôn ngữ học [112] chú ý đến. Có những lĩnh vực hẹp hơn trong giao tiếp ngôn ngữ của người Việt đã được chú ý đến về mặt TXH như bài viết TXH có nguồn gốc danh từ thân tộc trong cộng đồng công giáo Việt của Trương Thị Diễm [20] hoặc Xưng và gọi trong hoạt động hành chính ở một xã thuộc đồng bằng Bắc Bộ; tôn ti và bình đẳng [53].
Dưới góc độ của Ngôn ngữ học xã hội, tác giả Nguyễn Văn Khang đã phân xuất 13 cách xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ, đồng thời chỉ ra rằng có nhiều nhân tố tác động đến sự lựa chọn từ ngữ xưng hô, trong đó có bối cảnh cụ thể, có nhân tố quyền lực và thân hữu [54, tr. 361-371]. Tuy nhiên, đây mới là những nhận định về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, cần được vận dụng cụ thể vào từng lĩnh vực giao tiếp, trong đó có giao tiếp bằng VBHC.
Những ý kiến và quan niệm về xưng hô trong giao tiếp mà các công trình nêu trên đã trình bày là những cơ sở và gợi ý cho chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về văn bản hành chính tiếng Việt
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Theo tìm hiểu của chúng tôi, ở trên thế giới chưa có công trình nào nghiên cứu về VBHC tiếng Việt và xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, theo khảo sát của chúng tôi, những nghiên cứu về VBHC có thể tập hợp thành ba loại:
Thứ nhất là những công trình bàn về Quy cách và kĩ thuật soạn thảo VBHC. Những công trình này xuất phát từ những đặc điểm về chức năng, về kết cấu, về đặc điểm ngôn ngữ của VBHC để đề xuất quy cách và kĩ thuật soạn thảo văn bản, có tác dụng hướng dẫn như một cẩm nang cho người soạn thảo. Đó là các công trình như Kĩ thuật và ngôn ngữ soạn thảo văn bản quản lí nhà nước của Bùi Khắc Việt [106]; Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí Nhà nước của Nguyễn Văn Thâm [84]; Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản của Học viện Hành chính Quốc gia [41]...Những công trình này hướng đến kĩ thuật xây dựng VBHC ở nhiều phương diện khác nhau, trong đó việc sử dụng từ ngữ xưng hô chỉ chiếm tỉ lệ rất thấp.
Thứ hai là những công trình về Phong cách học tiếng Việt, trong đó dành một hai chương trình bày về phong cách ngôn ngữ hành chính trong hệ thống các phong cách chức năng ngôn ngữ. Tiêu biểu là Phong cách học tiếng Việt của Đinh Trọng Lạc (chủ biên) [57]; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú [102]... Ở những công trình này nhiều phương diện khác nhau trong VBHC được nghiên cứu như: khái niệm, chức năng và những đặc trưng cơ bản của VBHC, đặc điểm về kết cấu, về các phương tiện từ ngữ, câu và đoạn,...Tuy nhiên, TXH và cách xưng hô chưa được quan tâm thích đáng hoặc không được đề cập đến.
Thứ ba là những công trình dành riêng cho nghiên cứu những vấn đề cụ thể, chuyên sâu của VBHC. Trong đó có luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thanh Nga: Câu trong VBHC bảo vệ năm 2003 tại Đại học Sư phạm Hà Nội [62]; các luận án tiến sĩ của Vũ Ngọc Hoa: Hành động ngôn từ cầu khiến trong VBHC bảo vệ năm 2012 tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội [39], của Nguyễn Thị Hà: Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn bản quản lí nhà nước qua phương pháp phân tích diễn ngôn bảo vệ năm 2010 tại Đại học Quốc gia Hà Nội [35]... Tuy thế, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào dành riêng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
Có thể nhận thấy, số lượng các công trình nghiên cứu hay giảng dạy về VBHC không phải là ít, nhưng tựu trung các công trình này tập trung vào khảo sát một số phương diện là: chức năng, các loại văn bản, đặc trưng văn bản và đặc điểm ngôn ngữ trong VBHC (về từ ngữ, câu văn, đoạn văn, cấu trúc văn bản...). Vấn đề xưng hô trong VBHC chưa được quan tâm đến, chưa có công trình nào dành riêng cho từ ngữ xưng hô, cách thức xưng hô và những vấn đề liên quan đến xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
Những vấn đề khái quát và những đặc điểm của VBHC về mặt ngôn ngữ mà các công trình trên đã đúc rút là cơ sở cho chúng tôi đi vào tìm hiểu về xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ
1.2.1.1. Khái niệm xưng hô
Trong giao tiếp, xưng hô là một phần không thể thiếu. Nó là phương thức con người dùng từ ngữ tự thể hiện mình (xưng) và gọi người khác (hô) khi đang nói chuyện với nhau. Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt: Xưng hô là: “Tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau” [105, tr. 1163].
Trong công trình [7], Đỗ Hữu Châu quan niệm: “Phạm trù xưng hô hay phạm trù ngôi bao gồm những phương tiện chiếu vật nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối xưng) vào diễn ngôn” [7, tr. 73]. Và như vậy, phạm trù ngôi thuộc vai giao tiếp ở ngay trong cuộc giao tiếp đang được diễn ra với vai người nói là điểm gốc. Cũng theo tác giả, việc xác định và phân loại các ngôi trong giao tiếp là một vấn đề vẫn chưa thống nhất trong giới nghiên cứu. Nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ có ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai mới thực sự là các ngôi xưng hô.
Một số nhà nghiên cứu Hàn Quốc như Park Jeong Un, Lee Seon Ung, Lee Mu Yong, Han Kap Su nhìn nhận: “xưng hô là hình thái ngôn ngữ gọi trực tiếp” hoặc “xưng hô là lời gọi (người nào đó)” hay “xưng hô phản ánh mối quan hệ của người nói và người nghe” [dẫn theo 61, tr. 14].
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang: “Xưng hô hay xưng gọi là thuật ngữ dùng để chỉ sự tự gọi tên mình (xưng) và tự gọi tên người khác (hô)” [54, tr. 361].
Nguyễn Văn Chiến trong TXH trong tiếng Việt: “Xưng hô là một hành vi được thực hiện trong giao tiếp” [15, tr. 64].
Tác giả Phạm Ngọc Thưởng trong luận án tiến sĩ Các cách xưng hô trong tiếng Nùng quan niệm: “Xưng hô là hành động ngôn ngữ của các nhân vật hội thoại - người nói và người nghe. Nhân vật hội thoại sử dụng các đơn vị ngôn ngữ một cách thường xuyên, liên tục để đưa mình vào trong lời nói (hành động xưng - ngôi 1) và đưa người đối thoại vào trong lời nói (hành động hô - ngôi 2)” [92, tr. 15].
Hầu hết các tác giả cùng thống nhất cho rằng xưng hô là một hành vi giao tiếp, trong đó có các nhân vật hội thoại đồng thời phản ánh mối quan hệ liên nhân giữa những người đối thoại với nhau.
Tựu trung lại, chúng tôi quan niệm: Xưng là hành động mà người nói dùng một BTNN để đưa mình vào trong lời nói, để người nghe biết rằng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Đó là hành động tự quy chiếu của người nói (ngôi 1). Hô là hành động người nói dùng một BTNN để đưa người nghe vào trong cuộc hội thoại, là tập hợp những cách thức mà người nói dùng để chỉ người đối thoại với mình (ngôi 2). Còn xưng hô là hành động ngôn ngữ mà người nói tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi họ đang giao tiếp với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ. Cần phải phân biệt giữa xưng hô và hô gọi. Hô gọi cũng là một hành động ngôn ngữ nhưng chức năng chính của nó là để thu hút sự chú ý của người đối diện, hoặc phát tín hiệu cho người đối diện biết rằng người hô gọi muốn giao tiếp với anh ta. Hô gọi thường diễn ra ít lần trong cuộc giao tiếp. Hô gọi là hành động chỉ thuộc về người nói. Còn xưng hô là hành động diễn ra thường xuyên, liên tục trong các diễn ngôn, trong những lượt lời của người nói – người nghe.
1.2.1.2. Phương tiện dùng để xưng hô trong giao tiếp
Quan hệ vai giao tiếp là cốt lõi của việc xưng hô. Nếu như việc xưng hô chỉ đơn giản là để thể hiện vai người nói và vai người nghe thì hệ thống TXH chỉ cần có bốn từ để biểu hiện 4 yếu tố:
Ngôi thứ nhất
Ngôi thứ hai
Số ít
Số nhiều
Số ít
Số nhiều
Nếu hệ thống các TXH chỉ dùng để chiếu vật các vai giao tiếp thì hệ thống các TXH rất đơn giản và tiện dụng. Tuy nhiên, trong giao tiếp, còn có quan hệ liên cá nhân, trong ngữ cảnh còn có ngữ vực (register) và phép lịch sự (politeness). Những nhân tố trên đòi hỏi phải được thể hiện trong nói năng mà trước hết là được thể hiện trong xưng hô. Và do đó, ngoài việc thể hiện vai giao tiếp, các TXH còn phải thể hiện được vị thế giao tiếp, vị thế xã hội, thể hiện các mức độ thân cận khác nhau, đảm bảo sự lịch sự của người nói đối với người nghe và phải phù hợp với ngữ vực của cuộc giao tiếp.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Trước hết, để xưng hô, tất cả các ngôn ngữ đều có hệ thống các đại từ xưng hô. Đại từ xưng hô trong tiếng Việt (ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai) là: tôi, tớ, tao, mình, mày, bay, chúng tôi, chúng mày, chúng ta, chúng mình, bọn mình” [7, tr. 76]
Cũng theo tác giả Đỗ Hữu Châu: “Tùy theo ngữ cảnh mà tiếng Việt còn dùng các phương tiện sau để xưng hô:
- Tên riêng
- Các danh từ thân tộc
- Các từ chỉ chức nghiệp, học hàm, học vị như: bác sĩ, giáo sư, chủ tịch, giám đốc, thủ tướng, thầy v.v cụ bá, ông lí, ông cựu, ông bát
- Những từ chuyên dùng để xưng hô như: ngài, trẫm, lão, thần, khanh, ngu đệ, hiền đệ, ngu huynh, hiền huynh, bỉ nhân, tại hạ, các hạ, túc hạ, tiên sinh v.v
- Một số tổ hợp dân dã nay đã cũ như: anh cò, anh hĩm, chị đỏ” [7, tr. 76 -77].
Theo quan niệm của tác giả Đỗ Hữu Châu, các phương tiện ngôn ngữ dùng để xưng hô trong giao tiếp rất phong phú và đa dạng. Tùy theo ngữ cảnh khác nhau mà người việt có cách xưng hô khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Văn Khang [54], các TXH và cách xưng hô trong ngôn ngữ của mỗi dân tộc là khác nhau. Bởi lẽ, TXH không chỉ biểu thị vai người nói và vai người nghe một cách đơn thuần mà còn phản ánh đặc điểm tư duy, văn hóa, phong tục, truyền thống riêng của dân tộc đó. Tác giả cũng đưa ra 13 kiểu xưng hô thường gặp trong giao tiếp như sau:
A. Xưng hô bằng họ và tên, gồm:
(1) Xưng hô bằng tên;
(2) Xưng hô bằng họ;
(3) Xưng hô bằng họ + tên;
(4) Xưng hô bằng tên đệm + tên;
(5) Xưng hô bằng họ + tên đệm + tên.
B. Xưng hô bằng tất cả các từ dùng để xưng hô, gồm:
(6) Các đại từ nhân xưng;
(7) Các từ thân tộc dùng làm TXH;
(8) Các từ khác được dùng làm TXH.
C. Xưng hô bằng các chức danh, gồm:
(9) Gọi bằng một trong các chức danh;
(10) Gọi bằng nhiều hoặc tất cả các chức danh.
D. Xưng hô bằng tên của người thân thuộc như tên của chồng, vợ, con (cách gọi thay vai):
(11) Gọi bằng tên của người thân thuộc (chồng, vợ, con).
E. Xưng hô bằng sự kết hợp (1) (2) (3) (4), gồm:
(12) Gọi bằng các kết hợp khác nhau (ví dụ: chức danh + tên, chức danh + họ tên, từ xưng hô + họ + tên/tên).
F. Xưng hô bằng sự khuyết vắng TXH, gồm:
(13) Không xuất hiện các TXH trong giao tiếp (khuyết vắng TXH) [54, tr. 362].
Trong quan niệm của tác giả Nguyễn Văn Khang, cách xưng hô (9), (12) thường dùng trong giao tiếp hành chính, (10) được dùng trong giao tiếp hành chính đặc biệt trọng thể. VBHC thường mang tính quy phạm, ngôn từ sử dụng cũng phải trong sáng, trang trọng.
Theo tác giả Trần Kim Phượng: “Các TXH trong tiếng Việt gồm 2 nhóm cơ bản: 1. Đại từ nhân xưng chính danh và 2. Đại từ nhân xưng lâm thời. Ở cả hai hệ thống này, các đại từ nhân xưng khi được sử dụng trong những hoàn cảnh nhất định đều có thể bộc lộ thái độ, tình cảm của người nói đối với người nghe hoặc đối tượng được nói tới” [73, tr. 689].
Từ quan niệm của các tác giả về phương tiện dùng để xưng hô trong giao tiếp, chúng tôi cho rằng trong giao tiếp dùng các phương tiện sau để xưng hô:
- Đại từ xưng hô
- Danh từ chỉ người dùng để xưng hô
- Danh từ chỉ chức nghiệp dùng để xưng hô
- Họ và tên riêng của người dùng để xưng hô
Đối với VBHC, phương tiện dùng để xưng hô tuy không phong phú đa dạng như trong giao tiếp hằng ngày nhưng luôn đảm bảo tính chính xác, chuẩn mực, trang trọng và lịch sự.
1.2.1.3. Chức năng của xưng hô trong giao tiếp
Các chức năng của xưng hô trong...uôn ngôn ngữ này hay khác để xây dựng văn bản.” [53, tr. 17]. Tính khuôn mẫu trong VBHC thể hiện ở tính thống nhất kỉ cương của loại văn bản pháp lí, thể hiện tính chân thực và hiệu lực pháp lí của VBHC và giúp cho việc soạn thảo được nhanh chóng, dễ dàng, tránh thiếu sót. Tính khuôn mẫu thường thể hiện ở mặt hình thức của VBHC. Ví dụ: thể hiện nghi thức giao tiếp có các khuôn mẫu như: xin trân trọng cảm ơn; để thể hiện đối tượng tiếp nhận văn bản có các khuôn như: kính gửi, đồng kính gửi,...
c. Tính quy thức
Do đặc thù của riêng mình, VBHC cũng có các chức năng giao tiếp nhất định nhưng là loại giao tiếp phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật nên không mang dấu ấn cá nhân hay màu sắc chủ quan. Biểu hiện cụ thể của tính quy thức nằm ở chỗ ngôn ngữ hành chính là tiếng nói của quyền lực Nhà nước, của cơ quan, đơn vị, tổ chức, tập thể mà không phải là tiếng nói chủ quan của cá nhân. Ngôn ngữ trong VBHC nói chung mang màu sắc trung tính không có sắc thái biểu cảm. Đặc điểm này cho thấy VBHC thường có tính quy thức cao và hoàn toàn mang tính khách quan.
d. Tính quan phương
VBHC thường dùng trong giao tiếp nơi cơ quan, tổ chức chính trị xã hội cho nên nó có tính lịch sự cao. Đặc tính này của VBHC được thể hiện ở việc ngôn ngữ trong VBHC thường là ngôn từ được gọt giũa, không có từ khẩu ngữ hay cách nói thô tục; ngôn từ trong VBHC cũng tuân theo các nghi thức hành chính. Sự xưng hô phải đúng thứ bậc hành chính và phải dùng những kính ngữ. Ví dụ: quý cơ quan, kính đề nghị, kính đơn,...
e. Tính hiệu lực
Tính hiệu lực thể hiện ở chỗ VBHC nhằm cung cấp một cơ sở pháp lí hay hướng dẫn thực hiện một vấn đề, hoặc đơn từ, đề nghị...cho nên VBHC có tính áp đặt cho một cá nhân, tập thể thực hiện một chủ trương, chính sách nào đó. Có khi là cấp trên xem xét một nguyện vọng cho cấp dưới.
1.2.2.4. Phân loại văn bản hành chính tiếng Việt
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều tiêu chí để phân loại VBHC như: phân loại theo chủ thể ban hành văn bản, phân loại theo hướng chu chuyển của văn bản, phân loại theo nội dung, theo hiệu lực pháp lí, theo mục đích ban hành của văn bản, theo thời gian ban hành văn bản, theo địa danh ban hành văn bản, theo tên loại văn bản, Để có một cái nhìn khái quát về VBHC, chúng tôi lựa chọn phân loại VBHC theo hai tiêu chí là chủ thể ban hành văn bản và hiệu lực pháp lí, tính chất nội dung và tên loại. Đây cũng là cách mà Vũ Thị Sao Chi [12, tr. 27-29] đã đề cập đến. Cách phân loại này không chỉ cho thấy được về lĩnh vực hoạt động của văn bản, phạm vi áp dụng của văn bản, hiệu lực của văn bản mà còn cho thấy được tầm quan trọng của văn bản đối với đời sống xã hội.
a. Phân loại theo chủ thể ban hành văn bản
Theo chủ thể ban hành văn bản, VBHC bao gồm:
- Văn bản của Đảng
- Văn bản của các cơ quan Nhà nước
- Văn bản của các đoàn thể, hiệp hội, tổ chức trong xã hội
- Văn bản của cá nhân hay nhóm xã hội
b. Phân loại theo hiệu lực pháp lí, tính chất nội dung và tên loại văn bản
Theo hiệu lực pháp lí, tính chất nội dung và tên loại, VBHC gồm có:
- Văn bản quy phạm pháp luật
“VBQPPL là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này”. (Điều 2 Luật Ban hành VBQPPL ngày 22 tháng 6 năm 2015). VBQPPL bao gồm:
(1) Hiến pháp.
(2) Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.
(3) Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(4) Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
(5) Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
(6) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
(7) Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
(8) Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.
(9) Nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).
(10) Quyết định của UBND cấp tỉnh.
(11) VBQPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
(12) Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).
(13) Quyết định của UBND cấp huyện.
(14) Nghị quyết của HĐND, xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).
(15) Quyết định của UBND cấp xã.
- Văn bản cá biệt
VBCB là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, hình thức pháp luật quy định nhằm cụ thể hoá quy phạm pháp luật thành những mệnh lệnh pháp luật áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. VBCB bao gồm: Chỉ thị (cá biệt), quyết định (cá biệt), nghị quyết (cá biệt).
- Văn bản hành chính thông thường
VBHCTT là văn bản không mang tính quy phạm pháp luật, được dùng để hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật; phản ánh, thông báo tình hình, trao đổi công việc và xử lí các vấn đề khác trong hoạt động quản lí. VBHCTT bao gồm: công văn, thông cáo, thông báo, chương trình, kế hoạch công tác, đề án, phương án, báo cáo, tờ trình, biên bản, công điện, giấy chứng nhận, giấy ủy nhiệm, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy mời, phiếu gửi, đề nghị, hợp đồng...
1.2.2.5. Văn bản hành chính tiếng Việt dưới góc độ xưng hô
Trong luận án này, để phục vụ cho mục đích khảo sát về vấn đề xưng hô trong VBHC, luận án nhìn nhận VBHC dưới góc độ xưng hô. Theo đó, các VBHC được phân biệt thành các loại sau:
a. Văn bản hành chính chỉ có biểu thức xưng, mà không có biểu thức hô
Đây là các VBHC được tạo lập và lưu hành làm căn cứ pháp lí, hay làm phương tiện cho các hoạt động xã hội của con người, trong đó có hoạt động giao tiếp. Bản thân các văn bản này, trong nội dung của chúng không biểu hiện hoạt động giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp, giữa người phát và người nhận văn bản. Chúng chỉ tồn tại và lưu hành để mọi người căn cứ vào đó mà tiến hành các hoạt động xã hội theo pháp luật hay những quy định chung của các cơ quan nhà nước hoặc đoàn thể chính trị xã hội. Cho nên trong văn bản không có hoạt động giao tiếp. Nhưng là VBHC, các VBHC loại này vẫn cần có tính pháp lí, vẫn cần thể hiện người chịu trách nhiệm tạo lập và ban hành văn bản, vẫn cần thể hiện quyền uy về pháp lí. Chính vì vậy, ở đầu hoặc cuối văn bản, người chịu trách nhiệm về văn bản vẫn xưng rõ chức vụ, kí tên và/hoặc đóng dấu vào văn bản. Những văn bản đó hướng tới người tiếp nhận là mọi người trong xã hội, hoặc chỉ dùng làm căn cứ pháp lí nên không hướng tới người tiếp nhận cụ thể nào, và do đó không có BTH. Chẳng hạn một tấm thẻ học sinh là một VBHC có chữ kí của hiệu trưởng và con dấu của cơ quan trường học, dùng làm căn cứ pháp lí cho các hoạt động của học sinh trong nhà trường và ngoài xã hội. Nó chỉ có các nội dung về họ tên, ngày tháng năm sinh, nơi sinh, lớp trường của học sinh, nhưng không có hoạt động giao tiếp nào, kể cả hoạt động giao tiếp giữa thầy hiệu trưởng và em học sinh có tên trong thẻ, cho nên cũng không có hành động hô và BTH.
Thuộc về các VBHC không có BTH là các VBHC như: Hiến pháp, luật, lệnh, thông cáo, chương trình, đề án, biên bản, điều lệ, nội quy, giấy chứng nhận, các loại thẻ, chứng minh thư, căn cước công dân, các loại văn bằng, chứng chỉ, Chúng vẫn cần có người kí tên và ghi rõ chức vụ để đảm bảo quyền uy, tính pháp lí của văn bản (với tư cách là BTX), nhưng không có BTH.
Ví dụ (2)
Hiến pháp này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kì họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(Đã kí)
Nguyễn Sinh Hùng
(Trích Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013)
Trong ví dụ (2) chỉ có BTX (thể hiện ở họ tên, chữ kí của người có trách nhiệm cuối văn bản) mà không có BTH.
b. Văn bản hành chính có cả biểu thức xưng và biểu thức hô
Các VBHC này được tạo lập và lưu hành vừa để làm căn cứ pháp lí, hay phương tiện có tính pháp lí cho các hoạt động xã hội (như loại VBHC thứ nhất), vừa có nội dung biểu hiện hoạt động giao tiếp giữa người phát và người nhận văn bản, cho nên có đủ từ ngữ xưng hô (tuy rằng cả các từ ngữ để xưng, và cả các từ ngữ để hô đều do người phát lựa chọn và sử dụng). Chẳng hạn một bản quyết định thành lập hội đồng chấm thi do Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo ban hành vừa thể hiện sự giao tiếp giữa Giám đốc với các cán bộ thừa hành nhiệm vụ chấm thi và cả các cán bộ quản lí giáo dục khác, trong đó không thể không có hành động xưng hô và từ ngữ xưng hô giữa Giám đốc và các cán bộ thừa hành quyết định, lại vừa là căn cứ pháp lí để thực thi nhiệm vụ chấm thi.
Thuộc về loại VBHC có cả BTX và BTH là các loại văn bản: VBQPPL (nghị quyết, nghị định, thông tư, quyết định); VBCB: nghị quyết (cá biệt), quyết định (cá biệt), chỉ thị (cá biệt); VBHCTT: chỉ thị, quy chế, quy định, thông báo, hướng dẫn, kế hoạch, báo cáo, tờ trình, công văn, công điện, bản cam kết, bản đề nghị, bản tường trình, giấy ủy quyền, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận, phiếu gửi, phiếu chuyển, thư công,...
Trong loại VBHC có cả biểu thức xưng và biểu thức hô, căn cứ vào tính chất xưng hô lại có thể phân biệt thành hai tiểu loại:
- VBHC mà vai xưng và vai hô tách bạch và được thể hiện bằng những từ ngữ riêng biệt, khác nhau. Biểu thức xưng-hô khác biệt và tách bạch nhau theo đúng chức vụ của từng nhân vật giao tiếp. Phần lớn các VBHC có đủ biểu thức xưng-hô đều thuộc tiểu loại này.
Ví dụ (3)
Kính gửi: Bộ Nội vụ
()
Văn phòng Chính phủ thông báo đến Bộ Nội vụ biết, thực hiện. /.
(Trích Công văn số: 9445/VPCP-PL, ngày 06/9/2017 của Văn phòng Chính phủ về việc Văn bản tham gia ý kiến của Chính phủ đối với dự án luật Hành chính công)
Trong ví dụ (3) trên, chủ thể phát ngôn đã dùng BTX Văn phòng Chính phủ và BTH Bộ Nội vụ.
- VBHC mà hai vai xưng và hô gộp lại, mỗi nhân vật giao tiếp đều xuất hiện trong văn bản với tư cách cả vai hô và vai xưng. Cho nên từ ngữ xưng hô phải dùng chung và gộp lại bằng đại từ chỉ gộp “chúng tôi”, khi cần mới được tách ra bằng các kí hiệu quy ước có tính bình đẳng tuy khác biệt là “bên A”, “bên B”, và cuối văn bản cả hai bên đều cần kí tên và ghi rõ chức vụ trong cơ quan, tổ chức hay tập thể. Thuộc tiểu loại VBHC này chính là các dạng Hợp đồng của các cơ quan, tổ chức hay cá nhân trên cơ sở pháp lí và căn cứ vào pháp luật Nhà nước hay các quy định chung trong phạm vi, lĩnh vực nhất định.
Ví dụ (4)
HỢP ĐỒNG THUÊ KHOÁN CHUYÊN MÔN
Căn cứ:
Chúng tôi gồm:
Bên A. Bên giao:Văn phòng Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam
Bên B. Bên nhận:ông H.V.V
Hai bên đã thỏa thuận những nội dung sau
Hợp đồng này làm thành 2 bản có giái trị pháp lí ngang nhau , bên A giữ 1 bản, bên B giữ 1 bản
Đại diện bên A (kí tên) Bên B (kí tên)
(Trích Hợp đồng thuê khoán chuyên môn của Văn phòng Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam, ngày 19/6/2017)
VBHC tiếng Việt dưới góc độ xưng hô được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt dưới góc độ xưng hô
VBHC chỉ có BTX mà không có BTH
VBHC có cả BTX và BTH
VBHC mà vai xưng
và vai hô tách bạch
VBHC mà hai vai xưng và hô gộp lại
- VBQPPL: Hiến pháp, luật, lệnh,
- VBHCTT: Thông cáo, chương trình, đề án, biên bản, điều lệ, nội quy, giấy chứng nhận, các loại thẻ, chứng minh thư, căn cước công dân, các loại văn bằng, chứng chỉ
-VBQPPL: Nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư
- VBCB: nghị quyết (cá biệt), quyết định (cá biệt), chỉ thị (cá biệt)
- VBHCTT: chỉ thị, quy chế, quy định, thông báo, hướng dẫn, kế hoạch, báo cáo, tờ trình, công văn, công điện, bản cam kết, bản đề nghị, bản tường trình, giấy ủy quyền, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận, phiếu gửi, phiếu chuyển, thư công,...
Hợp đồng
Trong luận án này, chúng tôi dựa vào cách phân loại VBHC theo hiệu lực pháp lí, tính chất nội dung và tên loại văn bản để khảo sát. Theo cách phân loại này, VBHC được phân thành 3 loại: VBQPPL, VBCB và VBHCTT.
1.3. Tiểu kết chương 1
1.3.1. Chương 1 của luận án, chúng tôi tập trung trình bày hai vấn đề lớn sau đây:
1.3.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi đã điểm lại tình hình nghiên cứu đề tài, phân tích và chỉ ra những lĩnh vực có liên quan đến hướng nghiên cứu của luận án.
1.3.1.2. Cơ sở lí luận, chúng tôi đã hệ thống hóa một số nội dung chủ yếu như sau:
1.3.1.2.1. Lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ, chúng tôi đã đi sâu vào tìm hiểu: khái niệm xưng hô, các phương tiện dùng để xưng hô trong giao tiếp, các chức năng của xưng hô trong giao tiếp, các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp, lịch sự trong giao tiếp.
1.3.1.2.2. Lí thuyết về VBHC cũng được chúng tôi trình bày tập trung vào những vấn đề cơ bản như: khái niệm về VBHC, chức năng của VBHC, đặc điểm của VBHC và phân loại VBHC. Đặc biệt, trong phần này, chúng tôi đề cập đến VBHC dưới góc độ xưng hô.
1.3.2. Qua những nghiên cứu, phân tích ở chương 1, luận án rút ra một số kết luận như sau:
1.3.2.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi khẳng định đề tài nghiên cứu của luận án không trùng với bất kì nghiên cứu nào trước đó.
1.3.2.2. Lí thuyết về xưng hô trong giao tiếp ngôn ngữ, chúng tôi quan niệm: “Xưng hô là hành động ngôn ngữ mà người nói tự xưng mình và gọi người khác là gì đó khi họ đang giao tiếp với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ”. Phương tiện dùng để xưng hô trong giao tiếp bao gồm: đại từ xưng hô, tên riêng, các danh từ thân tộc, các từ chỉ chức nghiệp. Chức năng của xưng hô trong giao tiếp là chức năng định vị, chức năng chiếu vật, chức năng thể hiện quan hệ liên nhân. Các nhân tố chi phối đến xưng hô trong giao tiếp bao gồm: hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp, đề tài và mục đích giao tiếp, cách thức giao tiếp. Lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ là lịch sự chiến lược, lịch sự chuẩn mực.
1.3.2.3. Lí thuyết về VBHC, chúng tôi quan niệm: “VBHC được hiểu theo nghĩa rộng là loại văn bản dùng trong các hoạt động tổ chức, quản lí và điều hành xã hội; thực hiện sự giao tiếp giữa các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế và các tổ chức, cơ quan khác với nhau, với công dân và ngược lại, giữa các công dân với nhau trên cơ sở pháp lí”. Chức năng của VBHC bao gồm: chức năng thông tin, chức năng quản lí, chức năng pháp lí. Đặc điểm của VBHC là tính minh xác, tính khuôn mẫu, tính quy thức, tính quan phương, tính hiệu lực. VBHC được phân thành 3 loại: VBQPPL, VBCB, VBHCTT. Đặc biệt, trong phần này, chúng tôi tìm hiểu VBHC dưới góc độ xưng hô. Theo đó, VBHC được chia làm hai loại: loại 1 là VBHC chỉ có BTX mà không có BTH; loại 2 là VBHC có cả BTX và BTH. Và từ cách nhìn nhận này, chúng tôi tập trung khảo sát, nghiên cứu các VBHC có sự xuất hiện của cả BTX và BTH.
Chương 2
XƯNG TRONG VĂN BẢN HÀNH CHÍNH TIẾNG VIỆT
2.1. Khái niệm xưng trong văn bản hành chính
VBHC có những đặc thù riêng trong cách xưng. Bởi vì đây là loại văn bản chịu sự chế định của pháp luật nên cách xưng phải đảm bảo tính khách quan và không mang màu sắc thân tộc. Những từ dùng để xưng trong VBHC có một phạm vi hẹp trong ngoại diên rộng lớn của lớp từ dùng để xưng trong văn hóa người Việt. Thực tế giao tiếp cho thấy, từ ngữ dùng để xưng trong tiếng Việt nhiều hơn rất nhiều so với số lượng từ ngữ dùng để xưng của nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Số lượng từ ngữ dùng để xưng trong tiếng Việt gồm cả những từ xưng chuẩn mực và những từ được đại từ hóa dùng để xưng. Số lượng các từ đó rất nhiều, khó có thể thống kê thành một con số xác định, bởi trong khi giao tiếp người Việt luôn có xu hướng tạo ra những từ ngữ mới để xưng. Ngoại trừ từ tôi được xem là cách xưng trung hòa về thái độ biểu cảm thì các từ xưng khác đều có màu sắc biểu cảm và sắc thái văn hóa. Qua cách xưng, chúng ta hoàn toàn có thể nhận ra thái độ, tình cảm, thậm chí mục đích giao tiếp của các nhân vật tham gia giao tiếp. Bởi vì trong mỗi phát ngôn, các từ ngữ dùng để xưng phản ánh trình độ nhận thức, sắc thái tình cảm của người phát ngôn. Vì thế, việc sử dụng các từ xưng trong tiếng Việt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, tình huống giao tiếp... Như thế, rõ ràng chúng ta cần có một cái nhìn rộng về xưng trong giao tiếp của người Việt để đi vào một phạm vi hẹp hơn là xưng trong VBHC tiếng Việt.
“Xưng” trong VBHC được hiểu là cách mà chủ thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng BTNN để thể hiện chính bản thân mình và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản. Do đó, điểm khác biệt lớn nhất giữa xưng trong VBHC với xưng trong các loại văn bản khác là vai xưng là vai của người chịu trách nhiệm về văn bản, kí tên dưới văn bản (chứ không phải là người viết, người biên soạn văn bản như thư kí, trợ lí, văn thư). Xưng trong VBHC nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí.
2.2. Các biểu thức ngôn ngữ để xưng trong văn bản hành chính
Để đi sâu tìm hiểu vấn đề xưng trong VBHC, chúng tôi thống kê 543 VBHC tiếng Việt các loại có cả BTX và BTH để khảo sát, nghiên cứu.
Bảng 2.1. Thống kê các loại VBHC tiếng Việt có cả BTX và BTH được khảo sát
STT
Loại văn bản hành chính
Số lượng
Văn bản
Tỉ lệ %
I
Văn bản quy phạm pháp luật
98
18.04
1
Nghị định
25
4.60
2
Thông tư
24
4.42
3
Nghị quyết
24
4.42
4
Quyết định
25
4.60
II
Văn bản cá biệt
76
13.99
1
Nghị quyết (cá biệt)
25
4.60
2
Quyết định (cá biệt)
25
4.60
3
Chỉ thị (cá biệt)
26
4.79
III
Văn bản hành chính thông thường
369
67.97
1
Công văn
26
4.79
2
Công điện
26
4.79
3
Thông báo
24
4.42
4
Quy định
25
4.60
5
Chỉ thị
25
4.60
6
Quy chế
24
4.42
7
Báo cáo
25
4.60
8
Tờ trình
25
4.60
9
Thư công
23
4.24
10
Hướng dẫn
24
4.42
11
Kế hoạch
23
4.24
12
Bản cam kết, bản đề nghị, bản tường trình
24
4.42
13
Giấy ủy quyền, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên nhận, giấy mời
26
4.79
14
Phiếu gửi, phiếu chuyển
24
4.42
15
Đơn xin nghỉ học, đơn xin nghỉ phép, đơn xin bảo vệ luận án,...
25
4.60
Tổng
543
100%
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta thấy số lượng các loại VBHC được khảo sát có sự khác nhau. VBHCTT được khảo sát nhiều nhất (369 văn bản), tiếp đến là VBQPPL (98 văn bản) và VBCB (76 văn bản). Trong mỗi loại VBHC, số lượng từng tiểu loại tương đối đồng đều. Ở đây, chúng tôi căn cứ vào số lượng văn bản trong mỗi loại VBHC để thống kê. Lựa chọn như vậy sẽ đảm bảo được tính chính xác, khách quan trong việc khảo sát, thống kê các BTNN để xưng hô trong VBHC tiếng Việt.
Qua thống kê, khảo sát, nghiên cứu 543 VBHC các loại, chúng tôi nhận thấy trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn đã sử dụng các BTNN sau để xưng:
2.2.1. Đại từ nhân xưng
Đại từ nhân xưng trong tiếng Việt rất phong phú. Tuy nhiên, đối với VBHC - một loại văn bản công vụ - việc sử dụng đại từ nhân xưng cũng nằm trong quy phạm nhất định mà không thể tùy tiện. Dùng đại từ nhân xưng để xưng chỉ được sử dụng trong những VBHCTT do một cá nhân tạo lập để giao tiếp với một cá nhân hay một tập thể khác. Các đại từ nhân xưng này thể hiện tính trung hòa, lịch sự và chỉ dùng các đại từ nhân xưng: tôi (số ít), chúng tôi (số nhiều) để xưng. Ngoài ra, trong trường học để thể hiện vai trên/dưới, tình cảm thầy/trò có thể sử dụng thêm các danh từ chỉ quan hệ thân tộc làm đại từ nhân xưng: em (số ít), chúng em (số nhiều) để giao tiếp trong VBHCTT.
Ví dụ (5)
“Hôm nay, tôi viết đơn này xin được trình bày một việc như sau: Do gia đình tôi có việc bận cho nên tôi xin được nghỉ phép từ ngày 10/9/2015 đến ngày 25/9/2015”.
(Trích Đơn xin nghỉ phép của một cá nhân)
Ví dụ (6)
“Hôm nay em viết đơn này kính mong quý thầy (cô) cho phép em được nghỉ học từ ngày 5/11/2018 đến ngày 7/11/2018. Lí do: chăm sóc mẹ nằm viện”.
(Trích Đơn xin nghỉ học của một học sinh)
Ví dụ (7)
“Kính gửi: Tòa án nhân dân huyện X
Chúng tôi là tập thể nông dân làng Y, chúng tôi xin được trình bày một việc như sau:...”
(Trích Đơn kiến nghị của một tập thể)
Ví dụ (8)
“Chúng em xin hứa, sau khi trận bóng kết thúc, lớp chúng ta sẽ trở về nề nếp, kỉ cương, quy củ.”
(Trích Đơn xin đổi lịch của học sinh)
Ví dụ (5), (6), (7), (8) là những VBHCTT. Trong ví dụ (5), (6) đại từ nhân xưng tôi, em được dùng để xưng khi tôi, em chính là chủ thể phát ngôn và tạo lập ra văn bản. Trong ví dụ (7), (8) đại từ nhân xưng chúng tôi, chúng em (số nhiều) được dùng để xưng khi chủ thể phát ngôn của văn bản là một tập thể.
Hiện tượng dùng đại từ nhân xưng tôi, chúng tôi và danh từ thân tộc em, chúng em làm đại từ xưng chỉ xuất hiện trong loại VBHCTT. Đối với VBQPPL và VBCB hoàn toàn không xuất hiện. Hiện tượng này cho thấy xưng chịu sự chế định không chỉ của thể loại văn bản mà còn của cả đặc trưng văn bản.
2.2.2. Danh từ chỉ chức vụ
Xưng trong VBHC không dùng danh từ chỉ quan hệ thân tộc, nghề nghiệp. Nhưng danh từ chỉ chức vụ lại được dùng để xưng trong VBHC. Dùng chức vụ để xưng chỉ được sử dụng trong VBHCTT có tính pháp lí do cá nhân có thẩm quyền ban hành. Để đảm bảo tính hiệu lực thì chức vụ cần phải được thể hiện rõ ràng, chính danh trong mỗi văn bản (danh chính, ngôn thuận). Tuy nhiên, không phải chức vụ nào cũng có thể dùng để xưng mà chỉ có những chức vụ cao nhất trong một cơ quan, đơn vị, tổ chức mới có thể dùng để xưng. Bởi người giữ chức vụ đó sẽ giao tiếp với tư cách là đại diện cho một tổ chức, một cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền. Và những văn bản dùng chức vụ để xưng thường là những VBHC chuyên biệt, có hiệu lực rõ ràng. Cách xưng này thể hiện vị thế, quyền lực của chủ thể phát ngôn.
Ví dụ (9)
“Tổng Giám đốc chỉ thị các Phòng ban chức năng và các tổ chức, cá nhân liên quan thực hiện các công việc sau:..”
(Trích Chỉ thị số: 95/CT-CT-KTKH ngày 17/4/2012 của Tổng Giám đốc Công ti Cổ phần Đầu tư phát triển đô thị và Khu Công nghiệp Sông Đà về việc rà soát kiểm tra việc triển khai đầu tư và huy động vốn nhằm mục đích phát triển Dự án Khu đô thị mới Nam An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội)
Ví dụ (9) là một VBHCTT (Chỉ thị), chủ thể phát ngôn dùng chức vụ Tổng Giám đốc để xưng.
Nhìn chung, dùng chức vụ để xưng trong VBHC nhằm thể hiện tính pháp lí, tính quyền lực và vị thế của chủ thể phát ngôn. Xưng bằng chức vụ thường xuất hiện trong những VBHCTT do người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức tạo lập, ban hành để giao tiếp với các cá nhân hay tập thể khác nhằm trao đổi công việc mang tính tập thể. Xưng bằng chức vụ không xuất hiện trong VBQPPL và VBCB.
2.2.3. Tên riêng
Trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn xưng bằng tên riêng (đầy đủ họ và tên) chỉ xuất hiện trong một số VBHCTT do cá nhân tạo lập để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác nhằm để trao đổi công việc mang tính cá nhân. Xưng bằng tên riêng không xuất hiện trong VBQPPL và VBCB. Cách xưng này có những đặc thù riêng. Thứ nhất, danh xưng gồm đầy đủ họ và tên. Thứ hai, danh xưng xuất hiện ở vị trí kết thúc văn bản (dưới phần kí tên) để đảm bảo tính chính danh của người tạo lập và chịu trách nhiệm về văn bản.
Ví dụ (10)
“...Vì vậy tôi làm đơn này rất mong được sự chấp thuận của các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn”
Người làm đơn
(Đã kí)
Nguyễn Thị Hải Hà
(Trích Đơn xin nghỉ phép của một cá nhân)
Ví dụ (10) là một VBHCTT (Đơn xin nghỉ phép), chủ thể phát ngôn dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên): Nguyễn Thị Hải Hà để xưng.
Nhìn chung, dùng tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng chỉ xuất hiện trong VBHCTT do cá nhân tạo lập, ban hành để giao tiếp với cá nhân hay tập thể khác. Đây là điểm khác biệt so với các loại văn bản khác.
2.2.4. Biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC hiện nay, dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng được sử dụng rất phổ biến. Theo khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy cách xưng này xuất hiện trong tất cả các loại VBHC có tính pháp lí do các cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền ban hành như: VBQPPL, VBCB và một số tiểu loại trong VBHCTT có tính pháp lí khác như: chỉ thị, quy chế, thông báo, công văn,. Văn bản do cơ quan nào đó ban hành sẽ do cơ quan đó xưng danh và do người đứng đầu cơ quan đó kí. Cách xưng này thể hiện tính tập thể, tính quy thức, tính khuôn mẫu và tính pháp lí cao.
Ví dụ (11)
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
QUYẾT ĐỊNH
(Trích Quyết định số 36/2018/QĐ-UBND, ngày 21/12/2018 của UBND tỉnh Bình Dương về việc bãi bỏ một số văn bản pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương)
Ví dụ (11) là một VBQPPL (Quyết định của UBND tỉnh), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức định danh cơ quan dạng đầy đủ để xưng: UBND tỉnh Bình Dương. Do tính chất và tầm quan trọng của VBQPPL nên xưng phải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, không có dấu hiệu của việc rút gọn biểu thức xưng. Đây là điểm khác biệt so với VBCB và VBHCTT.
Ví dụ (12)
CHỈ THỊ
(...)
“...UBND thành phố yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể thành phố, Tổng công ti, các cơ quan,...tổ chức thực hiện nghiêm chỉ thị này...”
(Trích Chỉ thị số: 01/CT-UBND, ngày 23/01/2019 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh về việc phát động phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2019)
Ví dụ (12) là một VBCB (Chỉ thị cá biệt), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức định danh cơ quan dạng rút gọn để xưng: UBND thành phố (rút gọn từ tên đầy đủ: UBND Thành phố Hồ Chí Minh). Xưng bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức trong VBCB có đặc điểm là có thể dùng biểu thức xưng dạng rút gọn. Đây là điểm khác biệt so với xưng trong VBQPPL.
Ví dụ (13)
“Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo tuyển sinh đi học đại học tại Liên bang Nga diện học bổng Hiệp định và Xử lí nợ như sau:”
(Trích Thông báo số 98:/TB-BGDĐT ngày 08/3/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Tuyển sinh viên đi học Đại học tại Liên bang Nga năm 2010)
Ví dụ (14)
“ Sở Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các phòng Giáo dục và Đào tạo tiếp tục hướng dẫn, kiểm tra các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở trực thuộc; các đơn vị trực thuộc Sở tự kiểm tra việc thu đầu năm của đơn vị mình”
(Trích Công văn số: 1020/SGDĐT-KHT ngày 08/9/2015 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định về việc chấn chỉnh lạm thu năm học 2015-2016)
Ví dụ (13), (14) là những VBHCTT (Thông báo, Công văn). Trong ví dụ (13), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức định danh cơ quan dạng đầy đủ để xưng: Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong ví dụ (14), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức định danh cơ quan dạng rút gọn để xưng: Sở Giáo dục và Đào tạo (rút gọn từ tên đầy đủ: Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định).
Như vậy, xưng bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức là một hình thức giao tiếp của VBHC. Cách xưng này thể hiện tính tập thể, tính pháp lí, tính hiệu lực cao. Tùy từng loại VBHC khác nhau, việc sử dụng BTX có thể đầy đủ hay rút gọn. Xưng bằng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức là một nét đặc trưng riêng của VBHC tiếng Việt.
2.2.5. Biểu thức phối hợp từ chỉ chức vụ với tên riêng
Trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể phát ngôn hay chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản dùng chức vụ kết hợp với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng chỉ xuất hiện trong những VBHC có tính pháp lí do các cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền ban hành như: VBQPPL, VBCB và một số VBHCTT. Trong VBHC có tính pháp lí bao giờ cũng có chủ thể phát ngôn, chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản. Chủ thể phát ngôn có thể là cá nhân hay cơ quan, đơn vị, tổ chức. Nhưng chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản phải là cá nhân có thẩm quyền cụ thể xưng danh và kí tên dưới văn bản. Cá nhân ở đây có thể chính là chủ thể phát ngôn hay là người có thẩm quyền thay chủ thể phát ngôn chịu trách nhiệm về văn bản. Khi xưng phải xưng rõ ràng, chính xác chức vụ và tên riêng (đầy đủ họ và tên) của mình. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản (phần kí tên). Cách xưng này thể hiện tính pháp lí, tính minh bạch và vị thế, quyền lực của chủ thể phát ngôn hay chủ thể chịu trách nhiệm về văn bản. Nó giúp cho khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản biết được đầy đủ, chính xác về chủ thể phát ngôn hay người chịu trách nhiệm về văn bản. Mô hình của BTX như sau:
Chức vụ + chữ kí + tên riêng (đầy đủ họ và tên)
Ví dụ (15)
“Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tư bãi bỏ một số VBQPPL do Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành”
BỘ TRƯỞNG
(Đã kí)
Lê Vĩnh Tân
(Trích Thông tư số:12/2018/TT-BNV, ngày 09/10/2018 của Bộ Nội vụ về việc bãi bỏ một số VBQPPL)
Ví dụ (15) là một VBQPPL (Thông tư của Bộ Nội vụ), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân.
Ví dụ (16)
CHỦ TỊCH UBND TỈNH LÂM ĐỒNG
()
QUYẾT ĐỊNH
()
CHỦ TỊCH
(Đã kí)
Đoàn Văn Việt
(Trích Quyết định số 619/QĐ-UBND, ngày 20/3/2019 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc khen thưởng)
Ví dụ (16) là một VBCB (Quyết định cá biệt), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Chủ tịch Đoàn Văn Việt.
Ví dụ (17)
“UBND thành phố Bến Tre trân trọng kính mời:”
CHỦ TỊCH
(Đã kí)
Nguyễn Văn Thương
(Trích Giấy mời Số: 3222/ GM-UBND, ngày 14/11/2016 của UBND thành phố Bến Tre về việc dự Hội thi “Hòa giải viên giỏi” năm 2016)
Ví dụ (17) là một VBHCTT (Giấy mời), chủ thể phát ngôn dùng biểu thức kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng: Chủ tịch Nguyễn Văn Thương.
Như vậy, xưng bằng biểu thức kết hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) là một cách xưng bắt buộc phải có trong các loại VBHC có tính pháp lí do cơ quan, đơn vị, tổ chức hay cá nhân có thẩm quyền ban hành. Vị trí xưng ở chỗ kết thúc văn bản. Cách xưng này làm tăng tính hiệu lực, tính pháp lí của văn bản.
2.2.6. Biểu thức phối hợp tên riêng với từ chỉ chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ chức
Trong giao tiếp bằng VBHC, chủ thể xưng ngoài việc dùng chức vụ kết hợp với tên riêng để xưng còn sử dụng tên riêng kết hợp với chức vụ và tên cơ quan, đơn vị, tổ...át ngôn và người tiếp nhận phải sử dụng từ ngữ xưng hô quy thức: xưng hô quy thức là cách thức xưng hô có tính bắt buộc theo khuôn mẫu, khuôn hình có sẵn trong các hội nghị, hội thảo Xưng hô quy thức bắt buộc người nói phải tuân theo thứ bậc, tước vị, chức vụ mà người nói và người nghe hiện có để tính toán, lựa chọn, sử dụng từ ngữ xưng hô thích hợp. Trong những trường hợp này, người nói thường sử dụng các từ để xưng và để hô mang tính chất trang trọng như: chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, giáo sư, tiến sĩ, ngài, vị, ông, bà Yếu tố quyền (tức địa vị xã hội) và khoảng cách xã hội chi phối, quyết định cách thức xưng hô trong giao tiếp quy thức. Các nhân tố như tuổi tác, quan hệ gia đình, dòng tộc, giới tính, bạn bè trở thành các nhân tố thứ yếu trong xưng hô quy thức.
Việc lựa chọn từ ngữ xưng hô trong VBHC cần chính xác, chuẩn mực, bởi xưng hô là một hành động nói chịu áp lực mạnh của những ước định và đã trở thành chế định của cộng đồng xã hội. Xưng hô phù hợp với những quy tắc của chuẩn sử dụng ngôn ngữ của xã hội thường được nhìn nhận, đánh giá là lịch sự, tạo nên hiệu quả trong giao tiếp. Xưng hô không phù hợp, không đúng với ước định của cộng đồng (kể cả cách nói trống không) trong lời nói hằng ngày chẳng những bị nhìn nhận là bất lịch sự, mà còn có nguy cơ làm giảm sút tính hiệu quả trong giao tiếp.
3.3. Tiểu kết chương 3
3.3.1. VBHC là loại văn bản đặc thù cho nên hô trong VBHC cũng có nhiều đặc trưng riêng biệt. Trong chương 3 của luận án, chúng tôi đã tập trung xem xét, phân tích những nét đặc trưng của hô và tương thích, lịch sự trong xưng hô của VBHC với những nội dung cụ thể sau:
3.3.1.1. Khái niệm hô trong VBHC được hiểu là cách mà người tạo lập văn bản gọi đối tượng giao tiếp của mình. Đối tượng này có thể là một cá nhân hay một cơ quan, đơn vị, tổ chức. Hô trong VBHC có tính chuẩn mực, lịch sự cao.
3.3.1.2. Các BTNN để hô trong VBHC gồm có 12 biểu thức như thống kê trong bảng 3.1. Từ ngữ dùng để hô trong VBHC không phong phú, đa dạng như trong giao tiếp xã hội mà chịu sự chế định của đặc điểm loại hình VBHC và pháp luật.
3.3.1.3. Vị trí của BTH trong VBHC khá linh hoạt: ở đầu, ở giữa văn bản và đặc biệt trong một số văn bản, hô đặt trong một điều khoản riêng trong văn bản. Đây là điểm khác biệt so với xưng.
3.3.1.4. Hô trong mối quan hệ với vị thế giao tiếp được xét ở các phương diện như vị thế ngang hàng, vị thế của vai dưới đối với vai trên, vị thế của vai trên đối với vai dưới. Hô trong VBHC đề cao tính chính xác, tính lịch sự, tính chuẩn mực, tính quyền uy của khách thể tiếp nhận văn bản.
3.3.1.5. Tương thích giữa xưng và hô trong VBHC là sự tương ứng về vị thế giao tiếp theo quan hệ hành chính giữa chủ thể tạo lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn bản. Đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay tổ chức.
3.3.1.6. Lịch sự trong xưng hô của VBHC là lịch sự chuẩn mực.
3.3.2. Qua những phân tích ở chương 3, chúng tôi cũng rút ra một số đặc điểm của hô và tương thích, lịch sự trong xưng hô của VBHC. Những đặc điểm này được đặt trong mối tương quan với xưng trong VBHC tiếng Việt:
3.3.2.1. Hô trong VBHC đảm bảo tính minh xác. Điều này thể hiện ở chỗ những khách thể tiếp nhận và thực thi văn bản luôn cụ thể về vị thế, nơi làm việc hay cư trú và đôi khi cả về tên riêng.
3.3.2.2. Hô trong VBHC cũng thể hiện tính pháp lí. Đó là đối tượng nhận văn bản phải có quan hệ quyền lực được nhà nước thừa nhận. Vì VBHC là loại văn bản đề cập, giải quyết công vụ (việc công) cho nên đối tượng nhận văn bản phải là cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền. Chính thẩm quyền, quyền lực được trao khiến cá nhân hay cơ quan, đơn vị, tổ chức có tư cách giải quyết công vụ. Đây là một nét đặc trưng của hô trong VBHC.
3.3.2.3. Từ dùng để hô trong VBHC không có biến thể, không dùng từ thay thế. Bởi vì hô trong VBHC chịu sự chi phối của hai đặc điểm đã nêu trên là tính minh xác và tính pháp lí .
3.3.2.4. BTNN dùng để hô trong VBHC phong phú và đa dạng hơn nhiều so với xưng .Trong đó, chiếm tỉ lệ lớn nhất là dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô và dùng biểu thức phối hợp danh từ chỉ chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Điểm này ở hô tương đồng giống xưng. Hô trong VBHC dùng nhiều danh từ thân tộc (ông/bà, anh/chị) còn xưng trong VBHC chỉ dùng danh từ thân tộc em.
3.3.2.5. Giữa xưng và hô trong VBHC luôn có mối quan hệ tương thích. Mối quan hệ tương thích là mối quan hệ mà chủ thể xưng hô dùng các từ ngữ tương thích nhau giữa xưng và hô: xưng như thế nào thì hô cần tương thích, không có hiện tượng mượn vai, thay vai như trong đời sống hằng ngày.
3.3.2.6. Lịch sự ở hành động xưng hô trong VBHC thể hiện sự tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng có liên quan; là sự thừa nhận, tuân thủ các chuẩn mực luật pháp và các chuẩn mực xã hội khác. Khi xưng hay hô phải đúng thẩm quyền của người phát ngôn, phải phù hợp với quyền lực địa vị của người tiếp nhận, phải đảm bảo tính chính danh.
KẾT LUẬN
Có thể nói xưng hô là một trong những vấn đề quan trọng nhất của giao tiếp bằng ngôn ngữ. Cuộc giao tiếp có đạt hiệu quả như mong muốn hay không một phần lớn phụ thuộc vào việc xưng hô của các nhân vật giao tiếp. Nghiên cứu về xưng hô trong văn bản tiếng Việt là một vấn đề không mới, tuy nhiên nghiên cứu xưng hô trong VBHC lại là vấn đề từ trước đến nay chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu đề tài “Xưng hô trong văn bản hành chính tiếng Việt”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Từ việc nghiên cứu vấn đề xưng hô trong tiếng Việt của các nhà khoa học, chúng tôi đưa ra quan niệm: “Xưng trong VBHC được hiểu là cách mà chủ thể ban hành ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng BTNN để thể hiện chính bản thân mình và do đó tự chịu trách nhiệm pháp lí về văn bản”. Từ quan niệm về xưng, chúng tôi rút ra quan niệm tương ứng về hô: “Hô trong VBHC được hiểu là cách mà chủ thể sản sinh ra văn bản, người/đơn vị ban hành ra VBHC dùng BTNN để thể hiện đối tượng đang giao tiếp với mình – đối tượng tiếp nhận và thực thi văn bản”. Xưng hô trong VBHC không chỉ đơn thuần là việc người nói dùng từ ngữ thích hợp để đưa mình và người giao tiếp vào cuộc giao tiếp mà xưng hô trong VBHC đặc biệt nhấn mạnh đến sự “chịu trách nhiệm” của các nhân vật giao tiếp đối với những vấn đề được đề cập trong văn bản. Hay nói cách khác, điểm khác biệt lớn nhất giữa xưng hô trong VBHC với xưng hô trong các loại văn bản khác là vai xưng là vai của người chịu trách nhiệm về văn bản, kí tên dưới văn bản (không phải là người viết, người biên soạn văn bản như thư kí, trợ lí, văn thư). Vai hô cũng là vai có “liên đới” và cũng chịu trách nhiệm về văn bản trước pháp luật. Xưng hô trong VBHC nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí.
2. Các BTNN dùng để xưng hô trong trong VBHC cũng rất phong phú và mang những nét khu biệt so với xưng hô trong đời sống hằng ngày. Đối với các BTNN dùng để xưng, qua khảo sát ngữ liệu, chúng tôi thống kê được trong VBHC sử dụng 8 BTNN dùng để xưng (xem chi tiết trong bảng 2.2). Trong đó, dùng nhiều nhất là: dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên riêng (đầy đủ họ và tên) để xưng; tiếp đến dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng; dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để xưng. Các BTNN dùng để hô, chúng tôi cũng đã thống kê được trong VBHC sử dụng 12 BTNN dùng để hô (xem chi tiết trong bảng 3.1). Trong đó, sử dụng nhiều nhất là: dùng biểu thức định danh cơ quan, đơn vị, tổ chức dạng đầy đủ, rút gọn hoặc nói khái quát để hô; kế đến là dùng biểu thức phối hợp chức vụ với tên cơ quan, đơn vị, tổ chức để hô. Đây là những BTNN dùng để xưng hô rất tiêu biểu trong VBHC. Nó thể hiện tính minh xác, tính pháp lí.
Qua số liệu khảo sát, thống kê cho thấy nhóm các từ ngữ dùng để xưng hô xuất hiện với tỉ lệ cao trong VBHC là tên cơ quan, chức vụ, chức danh, nghề nghiệp, từ hô gọi chung (ông/ bà, đồng chí), còn các yếu tố về cá nhân như họ tên riêng thì xuất hiện với tỉ lệ thấp, và không xuất hiện một mình mà luôn có các yếu tố trên đi kèm. Đây chính là điểm khu biệt giữa xưng hô trong VBHC với xưng hô trong đời sống hằng ngày. Xưng hô trong VBHC nhấn mạnh về tính đúng mực, tính tường minh và tính pháp lí. Cho nên, xưng hô trong VBHC rất ít dùng các đại từ nhân xưng chính danh trong tiếng Việt mà chủ yếu dùng đại từ nhân xưng lâm thời được chuyển loại từ các danh từ sang. Nhưng đặc biệt, trong xưng không sử dụng các danh từ thân tộc (ông,bà, anh, chị...), chỉ có một trường hợp từ em dùng để xưng trong giao tiếp giữa học sinh với các thầy /cô giáo trong trường học. Còn trong hô lại đặc biệt không sử dụng các đại từ nhân xưng chính danh ngôi thứ 2 (mày, chúng mày...) vì các từ này có sắc thái thân mật, suồng sã thậm chí thô tục, không đảm bảo tính trang trọng, lịch sự của VBHC tiếng Việt.
3. Vị trí, các biểu thức xưng hô trong VBHC có thể xuất hiện khá linh hoạt trong VBHC. Điều này phụ thuộc rất lớn vào các kiểu loại VBHC cụ thể. Đối với xưng, BTX có thể xuất hiện đầu văn bản. Vị trí xưng này thường xuất hiện trong những văn bản có tính pháp lí cao mà các cơ quan, tổ chức hay cá nhân có chức vụ trong bộ máy hành chính Nhà nước ban hành như: thông tư, chỉ thị, nghị định, kế hoạch, công văn,... BTX cũng có thể xuất hiện ở giữa văn bản. Kiểu này phổ biến nhất trong VBHC, thường xuất hiện trong những VBQPPL do cá nhân hay cơ quan, đơn vị tổ chức ban hành như: Quyết định, nghị quyết,Đặc biệt, trong VBHC có kiểu xưng ở vị trí kết thúc văn bản (dưới phần kí tên). Đây là kiểu xưng đặc trưng, chỉ có ở VBHC và bắt buộc phải có trong bất cứ VBHC nào. Chủ thể xưng ở vị trí kết thúc văn bản là người chịu trách nhiệm về nội dung cũng như tính pháp lí của văn bản. Đối với hô, BTH có thể xuất hiện ở đầu văn bản, giữa văn bản và trong một điều khoản cụ thể của văn bản. Vị trí đầu văn bản (thường nằm trong phần Kính gửi:) xuất hiện trong các VBHC thông dụng trong đời sống như: công văn, thông báo, giấy triệu tập, thư mời, phiếu chuyển, các loại đơn từVị trí giữa văn bản (thường nằm trong nội dung văn bản) xuất hiện trong các văn bản như: chỉ thị, thông tư, công điện, công văn, thông báo,.. Đặc biệt là hô nằm trong một điều khoản cụ thể của văn bản. Vị trí này thường xuất hiện trong những VBHC có tính pháp lí cao như: nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư,..
4. Cũng giống trong giao tiếp hằng ngày, xưng hô trong VBHC thể hiện và quy định bởi vai giao tiếp. Tuy nhiên, nếu như trong đời sống hằng ngày, xưng hô phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như tuổi tác, họ hàng, huyết thống thì xưng hô trong VBHC phụ thuộc vào địa vị xã hội. Vị thế giao tiếp của các nhân vật giao tiếp quy định đến cách xưng hô trong VBHC. Vị thế giao tiếp giữa các nhân vật giao tiếp bao gồm quan hệ ngang vai giao tiếp và quan hệ không ngang vai giao tiếp. Trong quan hệ không ngang vai bao gồm quan hệ vai trên - vai dưới và quan hệ vai dưới - vai trên. Dù ngang, trên hay dưới vai thì xưng hô đều phải đảm bảo tính trang trọng, lịch sự, tôn trọng đối với chính chủ thể xưng và khách thể hô.
5. Tương thích trong xưng hô là một đặc trưng cơ bản và quan trọng ở VBHC. Tương thích trong xưng hô là các vai giao tiếp giữa chủ thể (ngôi 1) và khách thể hô (ngôi 2) phải tương ứng với nhau theo một quan hệ nào đó, ví như: chú - cháu, anh - em, bà - cháu... Trong giao tiếp hằng ngày, người Việt thường dùng hiện tượng mượn vai để xưng hô. Việc mượn vai này vừa biểu thị được sự kính trọng, lễ phép với người nghe, đồng thời lại tạo sự thân mật gần gũi. Việc mượn vai để xưng hô dẫn đến sự không tương thích giữa xưng và hô trong giao tiếp. Tuy nhiên, trong VBHC, tuyệt đối không được mượn vai để xưng hô. Giữa xưng và hô trong VBHC luôn có sự tương thích. Sự tương thích này được thể hiện qua những điểm sau: (1) tương thích về vị thế giao tiếp theo quan hệ hành chính giữa chủ thể tạo lập văn bản và khách thể tiếp nhận văn bản; (2) đó còn là sự tương thích theo hệ thống dọc trong bộ máy hành chính hay tổ chức, theo đó các biểu thức xưng và hô, nhất là các biểu thức xưng hô theo chức vụ, theo tên của cơ quan, đều nằm trong cùng hệ thống, cùng lĩnh vực nhất định tuy có thể khác nhau về vị thế.
6. Là loại văn bản dùng để thực thi các sự việc liên quan đến luật pháp và quản lí hành chính Nhà nước, VBHC phải đảm bảo yêu cầu nghiêm ngặt về tính lịch sự. Tính lịch sự trong VBHC cũng được thể hiên rất rõ qua xưng hô. Nếu trong giao tiếp hằng ngày, các nhân vật có thể dùng từ ngữ xưng hô một cách khá linh hoạt, khá thoải mái thì trong VBHC, việc xưng hô cần tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu để đảm bảo tính lịch sự. Vì thế phép lịch sự xưng hô trong VBHC có những đặc điểm là sự thừa nhận, tuân thủ chuẩn mực luật pháp và các chuẩn mực xã hội khác, nghĩa là cần đảm bảo lịch sự chuẩn mực. Lịch sự chuẩn mực trong xưng hô ở VBHC có những biểu hiện chủ yếu là: (1) xưng hô trong VBHC đòi hỏi tính chính danh; (2) xưng hô trong VBHC không theo phương châm “xưng khiêm hô tôn”; (3) xưng hô trong VBHC phải nhất quán, thống nhất; (4) xưng hô trong VBHC không cho phép dạng xưng hô “trống không”.
7. Nghiên cứu xưng hô trong VBHC với nhiều thể loại văn bản khác nhau chúng ta hiểu được những đặc trưng cơ bản của VBHC nói chung và xưng hô trong VBHC nói riêng. Qua việc nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, đặc trưng của văn bản, của phong cách chức năng văn bản quy định vấn đề xưng hô trong văn bản đó. Với nhận thức như vậy, chúng tôi cho rằng, còn nhiều vấn đề liên quan đến đề tài này cần được tiếp tục nghiên cứu, chẳng hạn như nghiên cứu đối chiếu về xưng hô trong VBHC với xưng hô trong các loại văn bản thuộc các phong cách chức năng khác. Điều này sẽ càng làm nổi rõ hơn đặc trưng của các văn bản thuộc các phong cách khác nhau nói chung và xưng hô trong các văn bản đó nói riêng, từ đó tiến đến việc chuẩn hóa việc xưng hô trong VBHC. Chúng tôi hi vọng sẽ tiếp tục thực hiện được hướng nghiên cứu trên trong tương lai.
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Nguyễn Văn Tuyên (2013), “Về một cách xưng hô của người Việt trong hoạt động giao tiếp”, Ngôn ngữ và văn học, Kỉ yếu hội thảo khoa học toàn quốc, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.103-108.
Nguyễn Văn Tuyên (2017), “Biểu thức ngôn ngữ để xưng trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, (3), tr.104 -109.
Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Một số cách xưng trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, (6), tr. 87-92.
Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Biểu cảm và lịch sự trong xưng hô ở văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 64 (2), tr. 84-91.
Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Vấn đề hô trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa học xã hội,(6), tr.73-80.
Nguyễn Văn Tuyên (2019), “Biểu thức ngôn ngữ để hô trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, 288 (8), tr.32-37.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Diệp Quang Ban (2010), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục Việt Nam.
Nguyễn Thị Thanh Bình & Bùi Minh Yến (chủ nhiệm) (2011), Vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong một số phạm vi giao tiếp ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học.
Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (1993), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, tái bản lần thứ hai, Nxb Giáo, Hà Nội.
Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2, Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Hoàng Thị Châu (1995), “Vài đề nghị về cách xưng hô trong xã giao”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (2), tr.12-13.
Vũ Thị Sao Chi (2012), “Vấn đề sử dụng câu trong văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (10), tr. 66-80.
Vũ Thị Sao Chi (2012), “Mẫu hóa văn bản hành chính tiếng Việt”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (11), tr. 74-83.
Vũ Thị Sao Chi (chủ nhiệm) (2012), Nghiên cứu, khảo sát ngôn ngữ hành chính Việt Nam, phục vụ cho việc xây dựng luật Ngôn ngữ ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Ngôn ngữ học.
Vũ Thị Sao Chi, Phạm Thị Ninh (2013), “Những tính chất cơ bản của ngôn ngữ hành chính”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 50-61.
Vũ Thị Sao Chi (2015), “Cách xưng hô bằng biểu thức miêu tả trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8+9), tr. 99-109.
Nguyễn Văn Chiến (1993), “Từ xưng hô trong tiếng Việt”, Kỉ yếu Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHNN Hà Nội, tr.60-66.
Nguyễn Văn Chiến (1993), “Lớp từ xưng hô tiếng Việt trong lí thuyết và thực tế đối với các ngôn ngữ khác loại hình”, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHNN Hà Nội, tr.44-45.
Mai Ngọc Chừ (chủ biên), Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán (2007), Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Đức Dân, Đặng Thái Minh (1998), Nhập môn thống kê ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trương Thị Diễm (2012), “Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc trong cộng đồng công giáo Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (số 12), tr. 7-9.
Phan Xuân Dũng (2007), Hành vi ngôn ngữ điều khiển trong văn bản hành chính, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Lê Viết Dũng (2013), “Về hành động xưng hô của người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (8), tr. 47-48; (10), tr. 60-64.
Vũ Tiến Dũng (2002), “Chiến lược lịch sự âm tính với lời xin lỗi trong giao tiếp tiếng Việt” , Tạp chí Khoa học, (5), tr. 45-52.
Vũ Tiến Dũng (2003), Lịch sự trong tiếng Việt và giới tính (qua một số hành động nói), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Vũ Cao Đàm (2008), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, tái bản lần thứ 4, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
Hữu Đạt (2000), Văn hóa và ngôn ngữ giao tiếp của người Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Trần Bạch Đằng (2015), “Từ xưng hô trong lĩnh vực giao tiếp hành chính Nhà nước”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, (11), tr. 109-112.
Nguyễn Văn Độ (1995), “Việc nghiên cứu lịch sự trong giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 53-58.
Nguyễn Văn Độ (1999), “Có phải các chiến lược của Brown and Levinson chỉ đơn giản là sự tính toán có ý thức?”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (11), tr.1-6.
Nguyễn Văn Độ (2008), “Lịch sự: Đi về đâu (Quo vadis)? (phần I)”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (1 + 2), tr. 4.
George (2003), Dụng học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Thiện Giáp (2013), “Mối quan hệ giao tiếp và cách xưng hô của người Việt”, nguồn: http:ngonnguhoc.org.
Nguyễn Thị Hà (2010), Khảo sát chức năng ngôn ngữ văn bản quản lí nhà nước qua phương pháp phân tích diễn ngôn, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Phạm Ngọc Hàm (2004), Đặc điểm và cách sử dụng của lớp từ ngữ xưng hô tiếng Hán trong sự so sánh với tiếng Việt, Luận án tiến sĩ, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.
Lý Tùng Hiếu (2015), “Từ xưng hô tiếng Việt - tiếp cận từ góc nhìn dân tộc - ngôn ngữ học”, Tạp chí Ngôn ngữ, (6), tr. 30-42.
Vũ Ngọc Hoa (2010), “Phân loại hành vi ngôn ngữ cầu khiến trong văn bản hành chính”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (7), tr. 9-12.
Vũ Ngọc Hoa (2012), Hành động ngôn từ cầu khiến trong văn bản hành chính, Luận án tiến sĩ, ĐHSPHN, Hà Nội.
Lê Như Hoa (chủ biên) (2002), Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà Nội.
Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Giáo trình Kĩ thuật xây dựng và ban hành văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Thượng Hùng (1991), “Nghi thức ngôn ngữ trong giao tiếp của tiếng Việt và tiếng Anh”, Tạp chí Ngôn ngữ, (2), tr. 58-60.
Đỗ Việt Hùng (2011), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Đỗ Việt Hùng (2012), Ngữ nghĩa học - Từ bình diện hệ thống đến hoạt động, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Gián tiếp và lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 34-43.
Vũ Thị Thanh Hương (1999), “Giới tính và lịch sự”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8), tr. 17-30.
Vũ Thị Thanh Hương (2000), “Lịch sự và phương thức biểu hiện tính lịch sự trong lời cầu khiến tiếng Việt”, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội: từ thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 135-176.
Vũ Thị Thanh Hương (2002), “Khái niệm thể diện và ý nghĩa đối với việc nghiên cứu ứng xử lịch sự”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 8-14.
Trần Thị Thu Hương (2008), Hành chính văn phòng, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Văn In, Phạm Hưng (1998), Phương pháp soạn thảo văn bản hành chính, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (1999), Ngôn ngữ học xã hội-những vấn đề cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (2001), Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình người Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (2002), Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (2012), Ngôn ngữ học xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khang (2014), “Giao tiếp xưng hô tiếng Việt bằng từ thân tộc và việc sử dụng chúng trong giao tiếp công quyền”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống (10), tr. 38-47.
Lê Thanh Kim (2002), Từ xưng hô và cách xưng hô trong phương ngữ tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách học tiếng Việt, tái bản lần thứ 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Khuất Thị Lan (2015), Giao tiếp vợ chồng trong gia đình người Việt giai đoạn 1930-1945 (qua tư liệu tác phẩm văn học), Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
Hồ Thị Lân (1989), Tìm hiểu vai trò của từ xưng hô trong hoạt động giao tiếp và các nhân tố tác động đến từ xưng hô, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Hà Nội.
Lã Thị Thanh Mai (2014), “Xưng hô bằng danh từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp trong tiếng Hàn” (có so sánh với tiếng Việt và các ngôn ngữ khác), Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (3), tr. 37-42.
Lã Thị Thanh Mai (2014), Đặc điểm xưng hô của người Hàn và người Việt, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Hà Nội.
Đỗ Thị Thanh Nga (2003), Câu trong văn bản hành chính, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Vũ Thị Nga (2008), “Hành động rào đón và phép lịch sự trong hội thoại Việt ngữ”, Tạp chí Ngôn ngữ, (4), tr. 44-52.
Đức Nguyễn (2000), “Về cách xưng hô của học sinh đối với thầy giáo”, Tạp chí ngôn ngữ, (3), tr. 73.
Nguyễn Văn Nở (2000), “Cách xưng hô trong ca dao trữ tình ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Kỉ yếu Ngữ học trẻ, Nxb Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, tr.317.
Nguyễn Văn Nở (2012), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Đại học Cần Thơ, Cần Thơ
Dương Thị Nụ (2002), “Tìm hiểu cấu trúc ngữ nghĩa cơ bản của từ thân tộc”, Tạp chí Ngôn ngữ (3).
Võ Minh Phát (2016), Đặc điểm ngôn ngữ của từ xưng hô trong Phật giáo Việt Nam, Luận án tiến sĩ Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học, Đại học Huế.
Nguyễn Phú Phong (1996), “Đại từ nhân xưng tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 6-19.
Nguyễn Phú Phong (2004), “Đi tìm cái tôi”, Tạp chí Ngôn ngữ, (8), tr.1-7.
Đào Nguyên Phúc (2004), “Một số chiến lược lịch sự trong hội thoại Việt ngữ có sử dụng hành động ngôn ngữ xin phép”, Tạp chí Ngôn ngữ, (10), tr.49-57.
Mai Thị Kiều Phượng (2004), “Từ xưng hô và cách xưng hô trong câu hỏi mua bán bằng tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (6), tr. 15-25.
Trần Kim Phượng (2013), “Các từ xưng hô trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao”, Ngôn ngữ và Văn học, Kỉ yếu Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, tr. 689-690.
Nguyễn Quang (2002), Giao tiếp và giao tiếp giao văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Quang (2002), “Chiến lược lịch sự dương tính trong giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11), tr. 48-55.
Võ Đại Quang (2004), “Lịch sự: Chiến lược giao tiếp hướng cá nhân hay chuẩn mực xã hội?”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11), tr. 30-38.
Vương Đình Quyền (2002), Văn bản quản lí Nhà nước và công tác công văn giấy tờ thời phong kiến Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Vương Đình Quyền (2006), Lí luận và phương pháp công tác văn thư, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Stankêvich (1993), “Cần tìm hiểu thêm về cách xưng hô trong tiếng Việt”, Việt Nam những vấn đề ngôn ngữ và văn hóa, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường ĐHNN Hà Nội, tr.66-69.
Tạ Thị Thanh Tâm (2005), “Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng Việt”,Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr. 31-40.
Tạ Ngọc Tấn (1995), Tác phẩm báo chí, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Lưu Kiến Thanh, Bùi Xuân Lự, Lê Đình Chức (2002), Hành chính văn phòng trong cơ quan Nhà nước, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm Tất Thắng (2002), “Về các khuôn ngôn ngữ hành chính”, Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, tr.17-27.
Nguyễn Văn Thâm (1997), Soạn thảo và xử lí văn bản quản lí Nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Anh Thi (1995), “Một số đặc điểm văn hóa Nhật–Việt qua việc khảo sát hệ thống từ xưng hô”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1).
Hoàng Anh Thi (2007), “Đặc trưng lịch sự - đặc trưng văn hóa trong tiếng Nhật”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11), tr. 28-39.
Nguyễn Minh Thuyết (1988), “Vài nhận xét về đại từ và đại từ xưng hô-tiếng Việt 1”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr. 29-31.
Nguyễn Minh Thuyết, Kim Young Soo (1996), “Mấy nhận xét về từ xưng hô tiếng Việt và tiếng Hàn Quốc”, Tương đồng văn hóa Việt Nam - Hàn Quốc, Nxb Hà Nội, tr. 350-357.
Phạm Ngọc Thưởng (1993), Sự thể hiện vị thế xã hội và chi phối của vị thế xã hội qua các từ xưng hô trong hội thoại tiếng Tày-Nùng (Đối chiếu với tiếng Việt), Luận án Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Hà Nội.
Phạm Ngọc Thưởng (1994), “Về đại từ nhân xưng ngôi thứ ba”, Tạp chí nghiên cứu Giáo dục, (10), tr. 26-27.
Phạm Ngọc Thưởng (1998), Các cách xưng hô trong tiếng Nùng, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Phạm Văn Tình (1999), “Xưng hô chức danh”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (11), tr. 2-4.
Bùi Minh Toán, Lê A, Đỗ Việt Hùng (2009), Tiếng Việt thực hành, tái bản lần thứ 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Lương (2010), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
Bùi Minh Toán (2012), Câu trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Thế Truyền (2004), “Tìm hiểu tính chính xác của ngôn ngữ luật pháp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (1), tr.36 - 43.
Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Trường Đại học luật Hà Nội (2007), Giáo trình Kĩ thuật xây dựng văn bản pháp luật, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học luật Hà Nội (2007), Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
Nguyễn Văn Tu (1996), “Về cách xưng hô trong cơ quan nhà nước, đoàn thể, trường học”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (1), tr.11.
Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Viện Sử học (1991), Quốc triều hình luật, Nxb Pháp lí, Hà Nội.
Viện Ngôn ngữ học (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
Bùi Khắc Việt (1998), Kĩ thuật và ngôn ngữ soạn thảo văn bản quản lí nhà nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Như Ý (1990), “Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3).
Bùi Minh Yến (1990), “Xưng hô giữa vợ và chồng trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr. 30-38.
Bùi Minh Yến (1993), “Xưng hô giữa anh chị và em trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (3), tr.10-19.
Bùi Minh Yến (1994), “Xưng hô giữa ông, bà và cháu trong gia đình người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, (2), tr. 31-40.
Bùi Minh Yến (2001), Từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội của người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
Bùi Minh Yến (2002), “Ngôn ngữ xưng hô trong tiếng Việt giao tiếp công sở”, Tiếng Việt trong giao tiếp hành chính, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.143-199.
Bùi Minh Yến (2015), “Thử đi tìm giải pháp cho vấn đề chuẩn hóa ngôn ngữ xưng hô nơi công sở”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, (1), tr. 56-59.
II. Tiếng Anh
Bhatia, V.K. (1987), The language of the law, Language teaching.
Brown, P & Levinson, S.C. (1987). Politeness - Some Universals in Language Usage.Cambridge University Press.
Bernas A. Mill. (2000). Complete Business letters. Oxford University Press.
Cottrill, L. (1991), Face, Politeness and Directness, University of Canberra.
Emeneau M.B (1951), Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar, Cambridge University Press, London, England.
Fraser, B. (1990), Perspectives on Politeness. Journal of Pragmatics, 14, 219-236.
Holmes, J & Stubbe, M. (2003), Power and Politeness in the workplace, Longman, London.
Jones, L. and Alexander, R. (1996). New International Business English. Cambridge UniversityPress.
Lương Hy V. (1990). Discursive Practices and Linguistic Meanings ( The Vietnamese System of Peron Reference), John Benjamins Publishing Company, Amsterdam/ Philadelphia.
Maley, Y. (1994), The language of the law, Language and the law, Longman, London.
Thompson L.C (1965), A Vietnamese Grammar, University of Washington Press, Refernce Grammar, University of Hawa’I Press, Honolulu.
Searle, J. (1969), Speech acts. Cambridge University Press.
III. Tiếng Pháp
127. Lyons, J (1980), Sémantique linguistique, Larousse.
IV. Địa chỉ các trang web
128. http:/vi.wikipedia.org
129. http:/thuvienphapluat.vn.