HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THÁI HÀ
XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN THÁI HÀ
XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁ
175 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị hành chính - Kinh tế đặc biệt ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
P LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS TRẦN QUANG HIỂN
2. TS TRẦN XUÂN HỌC
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Trần Thái Hà
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU
8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 8
1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài,
những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
26
Chương 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
30
2.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết xây dựng mô hình tổ chức và hoạt
động của đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt
30
2.2. Nguyên tắc, nội dung và điều kiện bảo đảm việc xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt
43
2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị hành chính lãnh thổ đặc biệt ở
một số quốc gia trên thế giới và gợi ý tham khảo cho Việt Nam
65
Chương 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
75
3.1. Kết quả đạt được trong xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị
hành chính – kinh tế đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
75
3.2. Hạn chế trong xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt ở Việt Nam hiện nay
101
3.3. Nguyên nhân
111
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC
BIỆT Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
121
4.1. Quan điểm chỉ đạo xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt ở Việt Nam trong thời gian tới
121
4.2. Giải pháp xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị hành chính –
kinh tế đặc biệt ở Việt Nam trong thời gian tới
124
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
PHỤ LỤC 170
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay, vấn
đề tiếp tục cải cách, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước là yêu cầu khách quan và tất yếu. Việc đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nước không chỉ thực hiện ở các cơ quan nhà nước ở Trung ương, mà còn
phải thực hiện đồng bộ đối với chính quyền địa phương, nhằm đảm bảo tính thống
nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống cơ quan nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở.
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 được thông qua tại
kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực từ ngày 01-01-2014 đã mở ra nhiều
cải cách quan trọng liên quan đến việc tổ chức các cơ quan nhà nước và thực hiện
quyền lực nhà nước; trong đó, một trong những điểm mới về chính quyền địa
phương được đề cập đến là cho phép thành lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt (ĐVHC-KTĐB). Đây là một quy định ngắn gọn trong Hiến pháp, nhưng là
một thay đổi lớn trong tổ chức các đơn vị hành chính và có ý nghĩa lớn đối với sự
phát triển của đất nước trong những năm tới. Quy định này tạo điều kiện cho một
số địa phương có tiềm năng, điều kiện thuận lợi để phát triển, bứt phá bằng những
mô hình và cơ chế đột phá, phù hợp. Việc thành lập các ĐVHC-KTĐB cũng phù
hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới.
Để cụ thể hóa quy định trên của Hiến pháp, năm 2015 Quốc hội đã thông
qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương để thay thế cho Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) năm 2003. Luật Tổ chức chính
quyền địa phương dành một chương (chương V, từ điều 74 đến điều 77) quy định
về chính quyền địa phương ở ĐVHC-KTĐB.
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã
ghi nhận trên nguyên tắc khả năng thành lập những ĐVHC-KTĐB với tổ chức, bộ
máy quản lý đặc thù, gắn với điều kiện địa lý, không gian riêng, không giống với các
2
đơn vị hành chính hiện có, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, chỉ với một điều luật trong Hiến pháp và bốn điều luật
trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương, việc xây dựng mô hình ĐVHC-KTĐB
trên thực tế là rất khó khăn. Vì vậy, về mặt lý luận, cần tiếp tục nghiên cứu mô hình
tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB để tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập
những đơn vị này ở Việt Nam.
Đây cũng là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm
2016-2020 được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nêu ra: “Hoàn
thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo luật định” [33, tr.180]. Mới
đây, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII nêu chủ
trương: "Nghiên cứu, xây dựng thể chế vượt trội cho những địa phương, vùng kinh
tế động lực, khu hành chính - kinh tế đặc biệt để thực hiện tốt vai trò đầu tàu, thúc
đẩy kinh tế - xã hội" [26, tr. 61].
Về mặt lý luận, hiện nay khái niệm ĐVHC-KTĐB đã được quy định trong các
văn bản bản quy phạm pháp luật, các đặc điểm của loại hình đơn vị này cũng dần được
các nhà khoa học làm sáng tỏ. Tuy nhiên, nhiều vấn đề lý luận cơ bản về quá trình xây
dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB hiện nay, như khái niệm, đặc
điểm, nguyên tắc, nội dung, các điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng thành công mô
hình này vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc. Chủ nghĩa Mác –
Lênin đã khẳng định: lý luận được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, đến lượt
mìn, lý luận dẫn dắt, chỉ đạo, điều chỉnh hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao; lý luận
khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động tự giác, hạn chế tình trạng
mò mẫm, tự phát. Vì vậy, nếu thiếu những nghiên cứu về mặt lý luận thì quá trình xây
dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay sẽ khó
có thể thành công.
Về mặt thực tiễn, Kết luận của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI (số 74-KL/TW ngày 17-10-2013) đã nêu: “Sớm xây dựng, phê duyệt,
triển khai thực hiện một số đề án thành lập khu hành chính - kinh tế đặc biệt” [32, tr.
3
80]. Ba địa điểm gồm Vân Đồn (Quảng Ninh), Phú Quốc (Kiên Giang), Bắc Vân
Phong (Khánh Hòa) đã được lựa chọn. Hiện nay, ba địa phương trên đang nghiên
cứu xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB để trình Quốc hội.
Trong quá trình nghiên cứu cũng nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau trên những vấn đề
cơ bản về quan niệm và thiết kế mô hình tổ chức, hoạt động của loại hình đơn vị
hành chính mới này.
Xuất phát từ những yêu cầu bức thiết về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác
giả chọn đề tài "Xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt ở Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu, viết luận án tiến sĩ chuyên
ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xây dựng
mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB, luận án đề xuất phương hướng
và những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của
ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ cụ
thể sau:
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận về xây dựng mô hình tổ chức và hoạt
động của ĐVHC-KTĐB như: khái niệm, nguyên tắc, nội dung và các điều kiện
bảo đảm xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB; kinh nghiệm
của các quốc gia trên thế giới trong xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của
những đơn vị hành chính lãnh thổ có tính chất đặc biệt.
Ba là, phân tích, đánh giá ưu điểm, hạn chế trong xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay và chỉ ra nguyên nhân của
những ưu điểm và hạn chế đó.
4
Bốn là, xác định những quan điểm và đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm xây dựng thành công mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của
ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay dưới góc độ khoa học Lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật, cụ thể tiếp cận lý luận và lịch sử xây dựng mô hình tổ chức và
hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng
mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB.
- Phạm vi về không gian: Luận án nghiên cứu quá trình xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam. Trong quá trình thực hiện luận
án, tác giả có tham khảo một số mô hình đặc khu kinh tế (ĐKKT), khu kinh tế tự
do (KTTTD) của các quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc... Do khó
khăn trong việc thu thập và tiếp cận tài liệu về quá trình xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của các ĐKKT thành công trên thế giới, nên tác giả chỉ phân tích một
số mô hình ĐKKT, KKTTD như đặc khu Thâm Quyến (Trung Quốc), KKTTD
Incheon (Hàn Quốc) để lựa chọn những yếu tố hợp lý nhằm áp dụng trong việc xây
dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu quá trình xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam từ năm 2013 (năm Quốc hội
thông qua Hiến pháp năm 2013) đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật nói chung, về xây dựng chính
quyền địa phương nói riêng. Luận án khai thác các quan điểm, đường lối của Đảng
5
Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về xây dựng Nhà nước.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình nghiên cứu xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở một số địa phương, có tham khảo thực
tiễn mô hình ĐVHC-KTĐB và ĐKKT, đặc khu hành chính (ĐKHC) ở một số
quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Luận án sử dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu cụ thể: lịch sử và
logic, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, tổng kết thực tiễn, so sánh.
- Phương pháp lịch sử và logic: Bằng phương pháp lịch sử và logic được
sử dụng ở chương 2 và chương 3, tác giả đã khái quát quá trình ra đời, phát triển
để tìm ra quy luật và xu hướng vận động của các đơn vị hành chính lãnh thổ có
tính chất đặc biệt ở Việt Nam, cũng như quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp phân tích được sử dụng
ở tất cả các chương của luận án để làm rõ vấn đề lý luận về xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay như: phân tích khái
niệm, nội dung, nguyên tắc, các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để
tổng hợp các tri thức, số liệu, thông tin có được từ việc phân tích tài liệu, ý kiến
của các chuyên gia nhằm tạo ra một hệ thống lý thuyết về vấn đề nghiên cứu
của luận án.
- Phương pháp diễn dịch và quy nạp: Hai phương pháp này được sử dụng
trong toàn bộ luận án để tác giả đưa ra các giả thiết nghiên cứu và kiểm định tính
đúng đắn của các giả thiết đó.
6
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Phương pháp tổng kết thực tiễn được sử
dụng chủ yếu ở chương 3 để đánh giá mức độ thành công, hạn chế trong thực tiễn
xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam trong thời
gian qua.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng ở chương 2 để có
sự đối chiếu giữa mô hình ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam với mô hình các đơn vị
hành chính lãnh thổ có tính chất đặc biệt khác như ĐKKT, ĐKHC ở một số quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, từ đó rút ra kinh nghiệm và lựa chọn những yếu
tố hợp lý, phù hợp để áp dụng trong việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động
của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống và toàn diện về
việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện
nay. Trong đó, luận án có những điểm mới chủ yếu sau đây:
Một là, đưa ra khái niệm, chỉ ra những đặc trưng cơ bản và sự cần thiết của việc
xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam.
Hai là, làm rõ nội dung, nguyên tắc cơ bản, cũng như những điều kiện bảo
đảm cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB.
Ba là, khái quát quá trình hình thành và phát triển chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động
của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam.
Bốn là, trên cơ sở đánh giá thực trạng việc xây dựng mô hình tổ chức và
hoạt động của ĐVHC-KTĐB, luận án đề xuất quan điểm chỉ đạo và một số giải
pháp chủ yếu, đồng bộ, khả thi để thực hiện tốt việc xây dựng mô hình tổ chức và
hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề
lý luận về xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB, làm phong
7
phú thêm kho tàng lý luận về xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương nói chung ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý
nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động
của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay.
Luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
học tập về bộ máy nhà nước nói chung, về xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động
của ĐVHC-KTĐB nói riêng tại các cơ sở đào tạo chuyên và không chuyên về
Nhà nước và pháp luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các công trình của tác giả liên quan đến đề tài luận án đã công bố, nội dung
luận án gồm 04 chương, 10 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của
đặc khu kinh tế và các mô hình tương tự tại Việt Nam
- Bộ Khoa học và công nghệ, Đề tài “Xây dựng các khu kinh tế mở và các
đặc khu kinh tế ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, [13]. Báo
cáo tổng quan kết quả nghiên cứu của đề tài gồm 06 chương: chương 1: Những
vấn đề lý luận cơ bản về KKTTD; chương 2: Các KKTTD trên thế giới; chương
3: Vấn đề xây dựng các loại hình KKTTD ở Việt Nam; chương 4: Thể chế kinh tế
cho các loại hình KKTTD ở Việt Nam; chương 5: Vấn đề lựa chọn địa điểm và xác
định các tuyến phát triển gắn với các KKTTD ở Việt Nam; chương 6: Những định
hướng vận động đầu tư. Với nội dung 06 chương nêu trên, đề tài đã làm rõ tiêu
chí của KKTTD trong điều kiện mới trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của một số
nước châu Á và trên thế giới. Đề tài cũng đã đánh giá thực trạng việc xây dựng
các khu kinh tế (KKT) mở, khu thương mại tự do ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề
tài đã xây dựng định hướng phát triển cụ thể các KKT mở, ĐKKT ở Việt Nam.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật Tổ chức chính
quyền địa phương” [144]. Trong kỷ yếu hội thảo có bài viết “Những yếu tố góp phần
tạo nên sự thành công một đặc khu kinh tế - bài học từ một số đặc khu kinh tế không
thành công trên thế giới” của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ninh. Bài viết phân
tích những yếu tố góp phần tạo nên sự thành công một ĐKKT. Một là, lựa chọn đúng
địa điểm. Hai là, lựa chọn chiến lược phát triển ngành nghề phù hợp với tiềm năng
khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của địa điểm xây dựng ĐKKT. Ba là, cơ
chế, chính sách ưu đãi cạnh tranh toàn cầu ở mức cao nhất. Bốn là, thể chế đủ mạnh
và ổn định, được trao quyền tự chủ cao. Năm là, có nền hành chính hiện đại; bộ máy
hành chính tinh gọn, hiệu quả; thủ tục hành chính đơn giản, minh bạch và công khai.
Sáu là, cần có quyết tâm chính trị của cấp cao và khát vọng vươn lên của chính quyền
9
và nhân dân địa phương. Bảy là, có sự hỗ trợ ban đầu của Chính phủ cho sự phát triển
hạ tầng và nguồn nhân lực. Tám là, có quy mô và lộ trình phát triển phù hợp. Chín là,
có sự lãnh đạo, điều hành, quản lý xuyên suốt từ Chính phủ đến địa phương với mô
hình Ban Chỉ đạo quốc gia. Bên cạnh đó, các tác giả đã nêu ra một số mô hình ĐKKT
thất bại trên thế giới và chỉ rõ, nguyên nhân chính dẫn tới sự thất bại của các mô hình
đã nêu là do chưa đáp ứng đủ chín yếu tố đã được phân tích ở trên.
- Hoàng Xuân Hòa, “Xây dựng và phát triển mô hình đặc khu kinh tế - một
số kinh nghiệm đối với Việt Nam” [52]. Bài viết tập trung vào hai nội dung. Một
là, giới thiệu xu hướng xây dựng và phát triển các ĐKKT ở một số nước đang
phát triển trong khu vực. Hai là, phân tích một số vấn đề rút ra đối với Việt Nam
trong xây dựng và phát triển ĐKKT hiện nay, bao gồm: dự báo, đánh giá đúng
tình hình trong nước, bối cảnh thế giới, tận dụng triệt để thời cơ và thống nhất
trong nhận thức; xác định rõ chức năng cơ bản của ĐKKT; khung pháp lý rõ ràng,
dễ thực hiện, thể chế quản lý linh hoạt, bộ máy gọn nhẹ, hiện lực quản lý cao và
hệ thống chính sách ưu đãi hiệu quả; lựa chọn loại hình kinh tế phù hợp với mục
tiêu xây dựng ĐKKT; chọn địa điểm thích hợp để xây dựng ĐKKT; đa dạng hóa
hình thức huy động vốn phát triển hạ tầng; thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài.
- Võ Đại Lược, “Vấn đề xây dựng các loại hình khu kinh tế tự do ở Việt Nam”
[72]. Trong bài viết của mình, tác giả khẳng định việc xây dựng các loại hình KKTTD
ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết hiện nay. Đồng thời, tác giả chỉ ra những tiêu chí
KKTTD về vị trí địa lý, thể chế kinh tế - hành chính hiện đại, kết cấu hạ tầng hiện đại,
nguồn nhân lực chất lượng cao, phải trong một quy hoạch phát triển liên hoàn của một
vùng hoặc một tuyến tăng trưởng. Bên cạnh đó, tác giả cũng liệt kê các loại hình
KKTTD có thể xây dựng ở Việt Nam: khu chế xuất, cảng tự do, khu kinh tế mở, ĐKKT
hay KKTTD, các thành phố mở, khu thương mại tự do.
- Đặng Phương Hoa, “Một số tiền đề cho việc thành lập khu kinh tế tự do ở
Việt Nam” [49]. Bài viết phân tích: công cuộc đổi mới của Việt Nam đã tạo dựng
được những tiền đề quan trọng cho một thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
10
nói chung và tiền đề xây dựng và phát triển thành công KKTTD hiện đại nói riêng.
Mặc dù các quy chế, chính sách của Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh, nhưng ngày
càng được điều chỉnh theo định hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc
tế. Đặc biệt, việc bước đầu phân cấp quản lý, tạo điều kiện cho các chính quyền
địa phương nơi có khu công nghiệp được tự chủ về tài chính và hành chính là
bước tiến căn bản, tạo tiền đề cho những thể chế tiến bộ hơn về sau này.
- Hoàng Tùng, “Xây dựng đặc khu kinh tế: bắt đầu từ thể chế vượt trội”
[134]. Bài viết phân tích yêu cầu phải xây dựng và ban hành các thể chế hành chính
và kinh tế của các ĐKKT theo hướng hiện đại, mang tầm quốc tế, có sức cạnh tranh
vượt trội với các đặc khu đã hình thành trên thế giới. Để có thể phát triển các ĐKKT
cần sớm xây dựng, thông qua Luật về ĐKKT (hoặc Luật về đặc khu hành chính -
kinh tế), đã có trong chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XIII.
- Nguyễn Thanh Nghị, “Xây dựng và phát triển Phú Quốc thành đặc khu kinh
tế” [78]. Bài viết phân tích những tiềm năng, lợi thế và sự cần thiết xây dựng ĐKKT
Phú Quốc. Tác giả cũng làm rõ những thuận lợi và thách thức trong quá trình xây
dựng ĐKKT Phú Quốc, đưa ra kết luận: để thực hiện mục tiêu và định hướng trên,
một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một hành lang
pháp lý phù hợp với các cơ chế, chính sách và thể chế quản lý đặc thù cho Phú Quốc.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đặc khu kinh tế, khu kinh tế tự do
của nước ngoài và kinh nghiệm đối với Việt Nam
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
- Viện Kinh tế học, Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu chế xuất và đặc
khu kinh tế [143]. Nội dung cuốn sách gồm 02 phần:
Phần thứ nhất: Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu chế xuất (KCX).
Trong phần này, các tác giả đưa ra những thông tin khái quát về KCX và giới
thiệu kinh nghiệm của Ngân hàng thế giới và một số quốc gia trong việc phát triển
các KCX và khuyến nghị đối với Việt Nam.
11
Phần thứ hai: Các ĐKKT và các thành phố ven biển ở Trung Quốc. Ở phần
này, các tác giả tập trung phân tích vai trò, các chính sách phát triển, quản lý hành
chính và cấu trúc pháp luật của các ĐKKT ở Trung Quốc.
Cuốn sách là một tài liệu tham khảo tốt, giúp tác giả hiểu rõ hơn về hệ thống tổ
chức chính quyền địa phương ở các ĐKKT của Trung Quốc thời kỳ trước năm 1994.
- Đặng Thị Phương Hoa, Khu kinh tế tự do - thực tiễn phát triển ở Trung
Quốc và Ấn Độ [51]. Nội dung cuốn sách gồm 3 chương:
Chương 1: Thực tiễn của KKTTD trên thế giới. Trong chương này, tác giả nêu
lên những đặc điểm của KKTTD; phân loại KKTTD; sự cần thiết phải phát triển
KKTTD; thực tiễn phát triển KKTTD trên thế giới; các tiêu chí thành công của KKTTD.
Chương 2: Thực tiễn phát triển KKTTD ở Trung Quốc và Ấn Độ. Ở chương
này, tác giả tập trung phân tích bối cảnh kinh tế; quy trình thành lập và phát triển
KKTTD; những cải cách đột phá về thể chế và kết quả phát triển; khả năng liên
kết của KKTTD; khả năng vượt qua khủng hoảng và triển vọng của các KKTTD
ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Chương 3: Phát triển KKTTD - một số gợi ý. Tác giả phân tích xu hướng
tiếp tục hình thành KKTTD trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế; những bài
học rút ra từ thực tiễn phát triển KKTTD của Trung Quốc và Ấn Độ, kể cả bài
học từ sự thất bại cũng như kinh nghiệm từ sự thành công. Ngoài ra, tác giả đã
đưa ra một số gợi ý khi phát triển KKTTD.
Khác với các nghiên cứu trước đó, cuốn sách tập trung trình bày sự khác
nhau nổi bật giữa các khái niệm cũ và mới về KKTTD để khẳng định KKTTD
trong điều kiện mới phải đổi mới thể chế, chứ không dừng lại ở những ưu đãi tài
chính. KKTTD được tiếp cận theo hướng thử nghiệm cải cách thể chế, dùng yếu
tố hướng ngoại truyền thống của khu vực này để phát triển các vùng khác trong
nước, liên kết vùng và phát triển vùng - một đặc tính then chốt mà khi vận hành
KKTTD nhất thiết phải đảm bảo.
- Cù Chí Lợi (chủ biên), Khu kinh tế tự do - những vấn đề lý luận và thực tiễn,
[68]. Cuốn sách được kết cấu thành ba chương. Chương I: phân tích “Những vấn đề
12
lý luận và kinh nghiệm quốc tế trong việc phát triển khu kinh tế tự do”. Đây là phần
nội dung quan trọng của cuốn sách, giúp người đọc định hình KKTTD hiện đại theo
cách tiếp cận của thế giới mà hiện nay ở Việt Nam chưa xây dựng được. Chương này
cũng phân tích sâu những kinh nghiệm của nước ngoài trong việc xây dựng các KKT,
đặc biệt là Trung Quốc. Chương 2: “Các khu kinh tế ở Việt Nam và bước chuyển
sang khu kinh tế tự do”, tập trung làm rõ các bước xây dựng KKT ở Việt Nam theo
hướng tiến tới KKTTD. Trong chương này, tác giả chủ yếu phân tích kết quả khảo
sát thực tiễn hệ thống các chính sách và thực tế phát triển của một số KKT (KKT đặc
biệt, KKT mở, KKT cửa khẩu) gắn với biển, cửa khẩu, hành lang kinh tế, có cơ
chế hoạt động gần giống với KKT. Chương 3: Dựa trên những đánh giá sự phát triển
KKT và KKTTD ở Việt Nam, cơ sở khoa học cũng như những kinh nghiệm quốc tế,
tác giả đưa ra “Những quan điểm và giải pháp phát triển khu kinh tế tự do ở Việt
Nam”. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, tác giả mới chỉ tập trung vào yếu tố kinh tế,
chưa đi sâu khai thác yếu tố hành chính của mô hình này. Tuy vậy, đây cũng là những
gợi mở cho luận án tiếp tục khai thác và giải quyết.
- Nguyễn Ngọc Dung, Phát triển đặc khu kinh tế ở Trung Quốc và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam, [23]. Tác giả khái quát quá trình hình thành, phát triển
và vai trò của KKT nói chung và ĐKKT nói riêng đối với các nền kinh tế đang
phát triển. Tác giả đã phân tích, đánh giá thực tiễn phát triển của các ĐKKT ở
Trung Quốc (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn và Hải Nam) trên các
phương diện: vị trí địa lý, cơ chế chính sách áp dụng, thành tựu kinh tế và những
vấn đề còn vướng mắc, từ đó rút ra những bài học cho chiến lược xây dựng các
ĐKKT của Trung Quốc. Tác giả đã phân tích điều kiện, khả năng của Việt Nam
và những điểm tương đồng, khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc để làm cơ sở
cho Việt Nam vận dụng những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc
xây dựng và phát triển các ĐKKT của Việt Nam.
- Nguyễn Thị Thanh Hà, Đặc khu kinh tế Thâm Quyến – hai tiến trình phát
triển kinh tế từ khi cải cách, mở cửa đến nay, [42]. Tác giả phân tích một cách
tổng quát và toàn diện tiến trình phát triển kinh tế của đặc khu Thâm Quyến;
13
nghiên cứu sâu về phương thức phát triển kinh tế, những thành tựu đạt được,
những hạn chế và khó khăn của ĐKKT Thâm Quyến nói riêng và của các ĐKKT
của Trung Quốc nói chung. Qua đó, tác giả rút ra các bài học kinh nghiệm cho
việc xây dựng các KKT ở Việt Nam.
- Nguyễn Thị Quỳnh Thúy, Mô hình thí điểm cải cách kinh tế ở Trung Quốc
– nghiên cứu trường hợp các đặc khu kinh tế, [108]. Tác giả tập trung nghiên cứu
các mô hình thí điểm cải cách kinh tế ở Trung Quốc, trong đó có chương 3: Đặc
trưng thí điểm cải cách thông qua nghiên cứu về các đặc khu kinh tế. Nội dung
chương 3 đã khái quát quá trình thành lập các ĐKKT, ý nghĩa của việc xây dựng
các ĐKKT ở Trung Quốc và chỉ rõ tính chất thí điểm chính sách trong sự phát
triển của các ĐKKT ở quốc gia này.
- Cù Chí Lợi và Hoàng Thế Anh, “Đặc khu kinh tế Thâm Quyến Trung Quốc
- những đột phá và phát triển” [67]. Bài viết đã khái quát sự phát triển của ĐKKT
Thâm Quyến, tiến trình cải cách, mở cửa thị trường tại ĐKKT này. Bên cạnh đó, các
tác giả đã chỉ ra những điều kiện và đột phá chính sách góp phần tạo nên sự thành
công của Thâm Quyến, trong đó nhấn mạnh sự phân quyền lập pháp kinh tế ở đây.
- Nguyễn Văn Lịch, “Đặc khu kinh tế của Ấn Độ” [65]. Bài viết giới thiệu
quá trình hình thành và đặc điểm của các ĐKKT ở Ấn Độ. Trên cơ sở đó, tác giả
đưa ra một số kết luận về các ĐKKT ở Ấn Độ: các ĐKKT ở đây chủ yếu vẫn dựa
vào ưu đãi về chính sách còn thể chế kinh tế và hành chính về cơ bản vẫn chưa có
sự vượt trội. Đây là điểm yếu cơ bản khiến các đặc khu của quốc gia này không
thể phát triển mạnh mẽ.
- Hà Thị Hồng Vân, ““Đặc khu kinh tế mới” ở Trung Quốc - trường hợp
Trùng Khánh”, [142]. Bài viết gồm ba phần chính: phần một điểm lại sự phát triển
của các ĐKKT từ năm 1978 đến nay; phần hai phân tích về đặc khu thử nghiệm phối
hợp phát triển nông thôn – thành thị Trùng Khánh; phần ba so sánh về sự khác nhau
cơ bản giữa ĐKKT cũ và đặc khu Trùng Khánh.
- Nguyễn Minh Hằng và Trịnh Thị Hiên, “Bàn về đặc khu kinh tế của Trung
Quốc”, [44]. Bài viết giới thiệu những loại hình KKTTD của Trung Quốc và chỉ ra
14
những đặc điểm của các ĐKKT ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, các tác giả cũng phân
tích thành tựu phát triển và những thách thức mới của các ĐKKT ở Trung Quốc.
- Lê Văn Sang và Nguyễn Minh Hằng, “Các đặc khu kinh tế của Trung
Quốc và những gợi ý cho Việt Nam”, [109]. Bài viết đã giới thiệu khái quát về các
loại hình ĐKKT của Trung Quốc. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra một số kết
luận về sự phát triển các ĐKKT của Trung Quốc: về sự lựa chọn địa điểm xây
dựng ĐKKT; các đặc điểm của các ĐKKT Trung Quốc. Từ đó, các tác giả nêu
một số gợi ý cho Việt Nam khi xây dựng các ĐKKT.
- Đặng Thị Phương Hoa, “Các khu kinh tế tự do Hàn Quốc”, [47]. Bài viết
đã phân tích những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các KKTTD ở Hàn
Quốc và thực tiễn việc xây dựng các KKTTD ở Hàn Quốc hiện nay.
- Đặng Thị Phương Hoa, “Khu kinh tế tự do: khái niệm, đặc điểm, vai trò
và sự phát triển”, [50]. Bài viết đã nêu khái niệm KKTTD, các đặc điểm của
KKTTD (có chế độ ưu đãi đặc biệt, cơ cấu hành chính, các lĩnh vực ngành nghề
trong KKTTD). Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra vai trò của các KKTTD trong phát
triển KT-XH: thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; đẩy mạnh tạo việc làm; nâng
cao xuất khẩu; khuyến khích tạo ra những liên kết trong nước thông qua việc sử
dụng công nghệ và nguyên liệu địa phương.
- Nguyễn Văn Cường, “Chính sách, thể chế cho các khu kinh tế tự do: kinh
nghiệm thế giới” [22]. Bài viết đã phân tích bảy chính sách, thể chế được áp dụng
ở các KKTTD trên thế giới (chính sách thuế, chính sách đất đai, chính sách lưu
thông tiền tệ, chính sách tiêu thụ hàng hóa, chính sách bảo hộ thuế linh hoạt, chính
sách môi trường, thể chế hành chính và kinh tế hiện đại).
- Trần Duy Đông, “Kinh nghiệm phát triển các khu kinh tế tự do tại Hàn Quốc”,
[39]. Bài viết giới thiệu quá trình hình thành và phát triển cũng như một số vấn đề cụ
thể trong phát triển của các KKTTD tại Hàn Quốc. Bên cạnh đó, bài viết cũng nêu ra
một số nhận xét, đánh giá, một số kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát triển KKTTD
và khả năng vận dụng tại Việt Nam như: cần xem xét thực hiện thí điểm hình thành
15
một số khu công nghi...iền đề cho việc thành lập các đơn vị này trên thực tế
như: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, nội dung, điều kiện bảo đảm xây dựng mô
hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB.
Hai là, phân tích, đánh giá ưu điểm, hạn chế trong xây dựng mô hình tổ
chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam hiện nay và chỉ ra nguyên nhân
của những ưu điểm và hạn chế đó.
Ba là, xác định những quan điểm và đề xuất các giải pháp xây dựng mô
hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.2.3.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Để xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB cần tiến
hành những công việc gì, tuân thủ những nguyên tắc nào và cần có những điều
kiện bảo đảm gì?
- Quá trình quá trình xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-
KTĐB ở Việt Nam hiện nay có những kết quả và hạn chế gì? Nguyên nhân của
những kết quả, hạn chế đó?
- Cần có quan điểm và giải pháp gì để tiếp tục xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt Nam trong thời gian tới?
1.2.3.2. Giả thuyết nghiên cứu
Việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở Việt
Nam hiện nay nhằm tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm đổi mới, hoàn thiện tổ
29
chức bộ máy thuộc hệ thống chính trị. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang
có dấu hiệu phát triển chậm lại, sức hút của các mô hình KTT, KCN, KCX, khu
công nghệ cao giảm dần, thiếu động lực phát triển đột phá và các quốc gia trong
khu vực đang tích cực xây dựng các ĐKKT để thu hút đầu tư, việc xây dựng mô
hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-KTĐB ở nước ta hiện nay là rất cần thiết.
Thực trạng quá trình xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-
KTĐB ở Việt Nam hiện nay đã có một số kết quả bước đầu và cũng còn không
ít hạn chế. Những kết quả và hạn chế đó do các nguyên nhân chủ quan và khách
quan. Mỗi ĐVHC-KTĐB cần có hệ thống các cơ quan, tổ chức trong hệ thống
chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thể chế vượt trội, đủ sức cạnh tranh khu vực
và quốc tế, nhưng vẫn phù hợp với Hiến pháp và các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, bảo đảm quốc phòng, an ninh, quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân. Vì vậy, muốn thành công trong xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động
của ĐVHC-KTĐB, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cần thực hiện
đồng bộ, kịp thời các nhóm giải pháp khác nhau.
30
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT
2.1.1. Khái niệm xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt và một số khái niệm có liên quan
2.1.1.1. Một số khái niệm liên quan
Cho đến nay, Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới đưa ra khái niệm
ĐVHC-KTĐB. Trên thế giới hiện tồn tại một số mô hình tổ chức chính quyền địa
phương với tư cách những “khu vực đặc biệt” – những khu vực có thể chế hành chính
và kinh tế đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của quốc gia. Nổi bật nhất trong số
đó là: ĐKKT (Special Economic Zone) và ĐKHC (Special Aministrative Region).
Đặc khu kinh tế:
Theo tác giả Dobronogov A. và Farole T, ĐKKT được hiểu là:
Tất cả các hình thức của một khu vực địa lý được phân định trong một quốc
gia, với các chế độ hành chính, quản lý và tài chính khác so với phần còn
lại của đất nước. Các quy tắc khác nhau được áp dụng trong các khu vực
này thường liên quan đến các điều kiện về đầu tư, thuế và các quy định
thương mại quốc tế và thường nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh tự do
hơn với các chính sách và các quy tắc được áp dụng có hiệu quả hơn từ góc
độ hành chính so với phần còn lại của nền kinh tế trong nước [147, tr. 5].
Có rất nhiều dạng thức của ĐKKT như: KCX, khu tự do, khu thương mại
tự do, KCN với sự khác biệt về quy mô, phạm vi kinh doanh và mục tiêu. Nhìn
một cách khái quát, ĐKKT có các đặc trưng cơ bản sau:
Về vị trí: ĐKKT là một khu vực có ranh giới xác định. ĐKKT có thể trực
thuộc trung ương hoặc trực thuộc cấp tỉnh.
Về thể chế hành chính: các ĐKKT có tính tự chủ tương đối cao, thể hiện ở
thẩm quyền quyết định của chính quyền địa phương ở ĐKKT đối với những vấn
31
đề của đặc khu, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý kinh tế như: quyền cho thuê đất,
quyền cấp giấy phép đầu tư
Về thể chế kinh tế: ĐKKT được áp dụng những cơ chế, chính sách ưu đãi
so với các khu vực còn lại của đất nước nhằm thu hút đầu tư nước ngoài để phát
triển kinh tế trong nước.
Về cơ cấu kinh tế: ĐKKT có cơ cấu kinh tế đa ngành, với nhiều mô hình
khác nhau như: khu thương mại tự do, KCX, KCN, khu cảng tự do, khu công nghệ
cao, khu chuyên dụng
Về mục đích thành lập: mục đích thành lập các ĐKKT chủ yếu là mục đích
kinh tế.
Đặc khu hành chính:
Bên cạnh mô hình ĐKKT, trên thế giới hiện tồn tại một mô hình khác cũng
mang những đặc trưng về thể chế kinh tế - chính trị khác biệt so với phần lãnh thổ
còn lại của đất nước, đó là ĐKHC. Mô hình ĐKHC được thành lập tại một số quốc
gia trên thế giới như Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên,
Inđônêxia, trong đó hai ĐKHC nổi bật nhất trên thế giới là ĐKHC Hồng Kông
và ĐKHC Ma Cao của Trung Quốc.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Luật Luật cơ bản Hồng Kông và Luật cơ bản Ma Cao, có thể hiểu ĐKHC như sau:
Đặc khu hành chính là một phần không thể tách rời của Trung Quốc và là
các khu vực hành chính địa phương trực thuộc Chính phủ Trung ương.
Mối quan hệ giữa Chính phủ Trung ương và đặc khu hành chính là mối
quan hệ giữa Chính phủ Trung ương và các đơn vị địa phương trong một
nhà nước đơn nhất. Các đặc khu hành chính có quyền tự chủ cao do cơ
quan trung ương uỷ quyền nhưng không có quyền hạn, chức năng ngoại
giao và quốc phòng tối cao, và không phải là các thực thể chính trị độc lập
hoặc bán độc lập. Tư cách pháp lý của họ tương đương với các tỉnh, khu
và thành phố tự trị thuộc Chính phủ Trung ương [199].
32
Nhìn chung, khác với ĐKKT được thành lập với mục đích tạo ra những khu
vực thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, ĐKHC được thành lập “thường là vì lý
do chính trị. Nó có thể là một vùng đất đang tranh chấp, hoặc được trao trả, hoặc
đòi ly khai. Việc tồn tại của mô hình này có thể nhằm mục đích giữ gìn sự ổn định
của vùng đất đó mà vẫn đảm bảo cho sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia” [112].
Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt:
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về ĐVHC-KTĐB.
Theo TS Trần Anh Tuấn, khái niệm ĐVHC-KTĐB được hiểu theo nghĩa
rộng, có thể bao hàm cả ĐKKT và nhấn mạnh vào các chính sách ưu đãi được áp
dụng ở đơn vị này:
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt là một vùng lãnh thổ của quốc gia có
địa giới hành chính được xác định, với các tên gọi khác nhau, trong đó chính
quyền địa phương được tổ chức một cách đặc biệt nhưng không trái với Hiến
pháp, được Nhà nước bảo đảm về thể chế và cho hưởng các chính sách ưu
đãi về thuế, hải quan, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, tài chính, ngân hàng,
lao động... để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư, tạo sức lan tỏa trong phạm vi
vùng, miền và quốc gia. [130, tr. 10]
Theo tác giả Nguyễn Thị Ngọc Lan, ĐVHC-KTĐB là “một đơn vị hành
chính lãnh thổ gắn với một phạm vi lãnh thổ nhất định có những điều kiện phát
triển kinh tế, xã hội hoặc an ninh, quốc phòng đặc biệt, có thể được xây dựng trên
một đơn vị hành chính hoặc nhiều đơn vị hành chính gộp lại, gắn liền với hoạt
động quản lý hành chính của chính quyền Trung ương” [60, tr. 14]. Khái niệm
nêu trên tập trung vào tính chất đặc biệt về tổ chức hành chính tại ĐVHC-KTĐB
và mối quan hệ giữa ĐVHC-KTĐB với chính quyền Trung ương.
Khái niệm ĐVHC-KTĐB được quy định tại điều 74 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015: “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội
quyết định thành lập, được áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt về kinh tế - xã
hội, có chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó”.
33
Trên cơ sở phân tích khái niệm cũng như những đặc điểm cơ bản của hai mô
hình ĐKKT và ĐKHC trên thế giới có thể thấy, ĐVHC-KTĐB được quy định trong
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 của Việt
Nam có nhiều nét tương đồng với mô hình ĐKKT. Bởi, ĐVHC-KTĐB của Việt
Nam được xây dựng nhằm mục đích tạo điều kiện cho một số địa phương có tiềm
năng, điều kiện thuận lợi để phát triển, bứt phá bằng những mô hình và cơ chế đột
phá, phù hợp, chứ không phải vì mục đích chính trị hay lịch sử như các ĐKHC.
Từ khái niệm ĐVHC-KTĐB được nêu trong Luật Tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 có thể thấy, những đặc trưng cơ bản của đơn vị này gồm:
Một là, ĐVHC-KTĐB là một đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam. Khoản 1 Điều 110 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính
tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Như vậy, ĐVHC-KTĐB là một đơn vị hành chính của Việt Nam. Đơn vị
hành chính là thuật ngữ được sử dụng để chỉ:
Một bộ phận lãnh thổ và dân cư trong một quốc gia được Nhà nước phân
định theo cấp độ về phạm vi địa lý với tổ chức chính quyền nhà nước tương
ứng được thành lập và hoạt động theo đúng thẩm quyền mà pháp luật quy
định để thực hiện quyền lực nhà nước và quản lý mọi mặt của xã hội trên
cơ sở quyền làm chủ của nhân dân, phát huy tiềm năng kinh tế - xã hội của
từng vùng lãnh thổ và dân cư đó [54, tr. 112].
34
ĐVHC-KTĐB là một loại đơn vị hành chính; vì vậy, nó mang đầy đủ những
đặc trưng cơ bản của một đơn vị hành chính: là một đơn vị lãnh thổ, một địa bàn
dân cư và có tổ chức chính quyền theo quy định của pháp luật.
Đây là đặc điểm để phân biệt ĐVHC-KTĐB với các mô hình đã và đang
tồn tại ở nước ta thời gian qua như: KKT, KCN, KCX. Theo quy định tại Điều 2
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14-3-2008 của Chính phủ quy định về KCN,
KCX và KKT thì: “Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này”; “Khu
chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp
quy định tại Nghị định này”; “Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng
biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư,
có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy
định tại Nghị định này”. Cũng theo Điều 36 Nghị định trên, KCN, KCX, KTT
được quản lý bởi các ban quản lý - “là cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với khu công nghiệp, khu
kinh tế trên địa bàn tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại
Nghị định này và pháp luật có liên quan; quản lý và tổ chức thực hiện chức năng
cung ứng dịch vụ hành chính công và địch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến hoạt
động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong khu công nghiệp, khu
kinh tế”. Như vậy, KCN, KCX, KKT không phải là một loại đơn vị hành chính,
chỉ là một khu vực được thành lập trên địa bàn tỉnh hoặc thành phố trực thuộc
Trung ương, được quản lý bởi các ban quản lý - cơ quan trực thuộc UBND cấp
tỉnh, chứ không có chính quyền địa phương theo quy định của pháp luật.
Hai là, ĐVHC-KTĐB được áp dụng các cơ chế, chính sách đặc biệt về hành
chính và kinh tế.
35
Với tên gọi là ĐVHC-KTĐB, đơn vị này phải thể hiện tính chất đặc biệt về
mặt hành chính và kinh tế.
Về mặt hành chính, ĐVHC-KTĐB phải có bộ máy hành chính khác biệt so
với các đơn vị hành chính khác trên cả nước và khác biệt so với các mô hình KCN,
KCX, KKT đã và đang tồn tại ở Việt Nam. Do phát triển kinh tế là mục đích của
việc thiết lập ĐVHC-KTĐB, nên để đạt được mục đích đó, hệ thống các cơ quan
nhà nước ở các đơn vị này cần được tổ chức một cách đặc biệt để tạo môi trường
thúc đẩy phát triển kinh tế, thu hút đầu tư. Bộ máy của các tổ chức trong HTCT
của ĐVHC-KTĐB phải tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong đó bộ máy
hành chính phải có thẩm quyền mạnh, đội ngũ cán bộ, công chức được lựa chọn
bài bản, có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng đòi hỏi của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
Về mặt kinh tế, các ĐVHC-KTĐB phải được áp dụng thể chế kinh tế vượt trội
so với thể chế kinh tế hiện tại được áp dụng trong cả nước. “Gọi là “hành chính -
kinh tế dặc biệt” vì ở các đơn vị này, chức năng kinh tế là điểm nhấn cơ bản và là
mục tiêu chính” [130, tr. 9]. Để các ĐVHC-KTĐB có thể trở thành vùng động lực
tăng trưởng cho đất nước, điều kiện tiên quyết là phải có mô hình và cơ chế đột phá.
Các ĐVHC-KTĐB được áp dụng các cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế, hải
quan, sử dụng đất, xuất nhập cảnh để tạo môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt
thuận lợi, thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, nhằm thúc đẩy phát triển nhanh
công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Những chính sách này có tính chất ưu đãi cao
hơn, thuận lợi hơn so với những chính sách hiện đang áp dụng tại các KCN, KCX,
KKT, khu công nghệ cao ở trong nước và có thể so với cả những ĐKKT, KKTTD
tại các nước trong khu vực, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, những quy
định về thủ tục hành chính tại các ĐVHC-KTĐB cũng phải đơn giản, thuận tiện hơn
so với quy định hiện hành, tăng tính công khai, minh bạch nhằm tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư trong tiếp cận và thực hiện các thủ tục đầu tư.
Ba là, ĐVHC-KTĐB có chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp với
đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát triển KT-XH của ĐVHC-KTĐB.
36
Như đã phân tích, ĐVHC-KTĐB là một đơn vị hành chính ở Việt Nam, vì
vậy nó cũng mang đặc trưng của một đơn vị hành chính – có chính quyền được tổ
chức theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt về hành chính
của mình, đơn vị này có thể có chính quyền địa phương được tổ chức khác biệt
với các đơn vị hành chính khác, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát
triển KT-XH của ĐVHC-KTĐB đó. Vì vậy, tùy thuộc vào tính chất đặc biệt được
trao cho từng ĐVHC-KTĐB để có thể lựa chọn một cơ cấu tổ chức bộ máy chính
quyền tương ứng.
Những đặc trưng cơ bản nêu trên của ĐVHC-KTĐB chính là cơ sở để xác định
ĐVHC-KTĐB và phân biệt đơn vị này với các mô hình ĐKKT, ĐKHC và các mô
hình tương tự trên thế giới, cũng như mô hình KCN, KCX, KKT mở ở Việt Nam.
Trên cơ sở những phân tích trên, có thể hiểu: ĐVHC-KTĐB là một đơn vị
hành chính nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, được áp dụng các cơ chế, chính
sách đặc biệt về KT-XH, có chính quyền địa phương được tổ chức phù hợp với
đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu phát triển KT-XH của ĐVHC-KTĐB đó.
2.1.2.2. Khái niệm xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt
Thuật ngữ "mô hình" có nguồn gốc từ tiếng latinh là modus (hoặc modulus),
nghĩa là "đại lượng", "hình ảnh", "phương pháp". Theo Từ điển Bách khoa Việt
Nam, khái niệm mô hình có thể được hiểu ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa
hẹp, mô hình là “mẫu, khuôn, tiêu chuẩn theo đó mà chế tạo ra sản phẩm hàng
loạt; cũng ở nghĩa hẹp này, mô hình còn được hiểu là thiết bị, cơ cấu tái hiện hay
bắt chước cấu tạo và hoạt động của cơ cấu khác (của nguyên mẫu hay cái được
mô hình hóa) vì mục đích khoa học và sản xuất” [135, tr. 932]. Còn theo nghĩa
rộng, mô hình được hiểu là “hình ảnh (hình tượng, sơ đồ, sự mô tả...) ước lệ của
một khách thể, các quá trình hoặc hiện tượng” [135, tr. 932]. Theo Từ điển Tiếng
Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn, mô hình là “hình thức diễn đạt hết sức gọn
theo một ngôn ngữ nào đó các đặc trưng của một đối tượng để nghiên cứu đối
tượng ấy” [145, tr. 638]. Cách định nghĩa này tương tự cách định nghĩa “mô hình”
theo nghĩa rộng trong Từ điển Bách khoa Việt Nam.
37
Trong khoa học pháp lý, mô hình là thuật ngữ được sử dụng để chỉ hình hài
của một tổ chức, là căn cứ để phân biệt giữa tổ chức này với tổ chức khác. Nội
hàm của mô hình (ở đây hiểu là mô hình tổ chức) bao gồm bốn yếu tố cơ bản: vị
trí pháp lý của tổ chức; chức năng của tổ chức; cơ cấu của tổ chức và cơ chế vận
hành của tổ chức.
Luận án tiếp cận khái niệm mô hình tổ chức và hoạt động của ĐVHC-
KTĐB trong khoa học pháp lý. Theo đó, mô hình tổ chức và hoạt động của
ĐVHC-KTĐB là sự mô tả những đặc trưng cơ bản của ĐVHC-KTĐB về vị trí
pháp lý, chức năng, cơ cấu và cơ chế hoạt động của ĐVHC-KTĐB.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “xây dựng” là “làm cho
hình thành một tổ chức hay một chỉnh thể về xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa
theo một phương hướng nhất định” hoặc là “tạo ra, sáng tạo ra cái có giá trị tinh
thần, có ý nghĩa trừu tượng” [145, tr. 1145].
Trên cơ sở các khái niệm “xây dựng” và “mô hình tổ chức và hoạt động
của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt” có thể hiểu: xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của ĐVHC-KTĐB là hoạt động tạo ra mô hình tổ chức và hoạt động
của ĐVHC-KTĐB, thông qua việc xác định vị trí pháp lý, chức năng, cơ cấu và
cơ chế hoạt động của ĐVHC-KTĐB.
2.1.2. Đặc điểm của việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Do tính chất đặc biệt cả về mặt hành chính và kinh tế của ĐVHC-KTĐB,
nên việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị này cũng mang nhiều
đặc trưng, khác biệt với việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của các đơn
vị hành chính lãnh thổ tương đương khác.
Một là, về thẩm quyền quyết định thành lập ĐVHC-KTĐB.
Việc xác định thẩm quyền quyết định thành lập ĐVHC-KTĐB thuộc về
Quốc hội đã được nhắc đến nhiều lần trong Hiến pháp. Khoản 9 điều 70 Hiến
pháp năm 2013 quy định: Quốc hội có thẩm quyền “quyết định thành lập, bãi bỏ
bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh
địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính -
38
kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và
luật” [93]. Khoản 1 điều 110 Hiến pháp năm 2013 cũng một lần nữa khẳng định:
“Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” [93]. Nội dung này
tiếp tục được ghi nhận trong Điều 74 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm
2015: “Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quyết định thành lập”
[99]. Toàn bộ cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của chính quyền địa
phương ở ĐVHC-KTĐB do Quốc hội quy định: “Số lượng đại biểu Hội đồng
nhân dân, số lượng thành viên Ủy ban nhân dân, cơ cấu tổ chức của Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân và nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định
khi thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt đó” (Khoản 2 Điều 75 Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015). Việc quy định thẩm quyền quyết định
thành lập ĐVHC-KTĐB thuộc về Quốc hội tiếp tục được thể hiện trong Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014 (tại Điều 14).
Thẩm quyền quyết định thành lập ĐVHC-KTĐC thuộc Quốc hội là một đặc
điểm cơ bản khiến việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị này
khác biệt so với việc xây dựng các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh. Đối với các
đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì thẩm quyền quyết
định thành lập các đơn vị này thuộc về Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan
thường trực của Quốc hội. Khoản 8 Điều 74 Hiến pháp năm 2013 quy định Ủy ban
thường vụ Quốc hội có quyền: “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều
chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” [93].
Quy định trên cũng được ghi nhận tại Điều 56 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
Việc quy định Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam – là cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập các
ĐVHC-KTĐB đã thể hiện vị trí của đơn vị này trong hệ thống các đơn vị hành
chính lãnh thổ ở nước ta và cũng thể hiện tính chất quan trọng của việc xây dựng
mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị này so với việc xây dựng mô hình tổ chức
và hoạt động của đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh khác.
39
Hai là, về trình tự, thủ tục quyết định thành lập ĐVHC-KTĐB.
Theo Điều 76 Luật Tổ chức chính quyền địa phương, trình tự, thủ tục quyết định
thành lập ĐVHC-KTĐB được quy định rất chặt chẽ, gồm nhiều giai đoạn khác nhau,
với sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Có thể khái quát trình tự,
thủ tục quyết định thành lập ĐVHC-KTĐB thành bốn giai đoạn cụ thể như sau:
Giai đoạn 1: Chính phủ xây dựng đề án thành lập ĐVHC-KTĐB trình Quốc
hội. Đề án thành lập ĐVHC-KTĐB phải lấy ý kiến Nhân dân địa phương theo quy
định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
Giai đoạn 2: Ủy ban Pháp luật của Quốc hội thẩm tra đề án thành lập
ĐVHC-KTĐB do Chính phủ trình. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội thành
lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra đề án thành lập ĐVHC-KTĐB.
Giai đoạn 3: Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về đề án
thành lập ĐVHC-KTĐB trước khi trình Quốc hội.
Giai đoạn 4: Quốc hội xem xét, thông qua đề án thành lập ĐVHC-KTĐB
theo quy trình tại một hoặc nhiều kỳ họp Quốc hội.
Trong khi đó, trình tự, thủ tục quyết định thành lập một đơn vị hành chính
cấp huyện được quy định đơn giản hơn.
Giai đoạn 1: Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập
đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh (Khoản 2 Điều 23 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015).
Giai đoạn 2: Ủy ban của Quốc hội thẩm tra đề án về việc thành lập đơn vị
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Khoản 2 Điều 56 Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014).
Giai đoạn 3: Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập đơn vị hành
chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo đề nghị của Chính phủ
(Khoản 2 Điều 56 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014).
2.1.3. Sự cần thiết xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của đơn vị
hành chính - kinh tế đặc biệt
Một là, ĐVHC-KTĐB tạo động lực để khuyến khích phát triển kinh tế
quốc gia.
40
Các ĐVHC-KTĐB được hình thành với mục đích chính là phát triển kinh tế.
Các ĐVHC-KTĐB - với bộ máy quản lý tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, thủ
tục hành chính thông thoáng, thuận lợi, có các chính sách ưu đãi đặc biệt, vượt
trội (nhất là chính sách thuế, chính sách sử dụng đất) - sẽ tạo động lực mạnh mẽ
cho việc phát triển kinh tế của địa phương thông qua việc thu hút nguồn lực từ
bên ngoài, nhất là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); tạo việc làm một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp; đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên
tiến; tiếp thu các phương pháp quản lý hiện đại của nước ngoài; tạo nguồn thu lớn
cho ngân sách nhà nước.
Không chỉ có tác động đến kinh tế địa phương, các ĐVHC-KTĐB ra đời còn
tạo tác động lan tỏa cho sự phát triển KT-XH ở các vùng chung quanh trong lãnh thổ
Việt Nam và cả khu vực. Các ĐVHC-KTĐB được xây dựng nhằm khai thác tiềm
năng khác biệt, cơ hội nổi trội, thu hút đầu tư, hình thành mô hình động lực mới thúc
đẩy phát triển đột phá về kinh tế đối với các địa phương, các vùng và cả nước.
Vai trò này của các ĐVHC-KTĐB đã được khẳng định trong Thông báo
Kết luận số 21-TB/TW ngày 23-3-2017 của Bộ Chính trị về các Đề án xây dựng
ĐVHC-KTĐB Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú
Quốc (Kiên Giang). Bộ Chính trị đã kết luận: mục tiêu xây dựng ba ĐVHC-KTĐB
nêu trên là “nhằm khai thác tốt nhất các tiềm năng khu vực có lợi thế vượt trội, thu
hút mạnh nguồn vốn đầu tư, công nghệ cao, phương thức quản lý mới tiên tiến,
hình thành khu vực tăng trưởng cao, tạo thêm nguồn lực và động lực, góp phần thúc
đẩy nhanh phát triển và tái cơ cấu kinh tế cho tỉnh, vùng và cả nước” [12].
Trong giai đoạn từ năm 1991 đến nay, tại Việt Nam đã hình thành và phát
triển các mô hình KKT khác nhau. Theo Báo cáo tổng kết hoạt động các mô hình
KCN, KKT và các mô hình tương tự khác của Ban Soạn thảo Luật ĐVHC-KTĐB,
tính đến hết năm 2017, Việt Nam đã xây dựng 06 mô hình KKT, trong đó có: 16
KKT ven biển, 26 KKT cửa khẩu, 03 khu công nghệ cao, 07 khu công nghệ thông
tin tập trung, 09 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và 325 KCN, KCX.
Trong đó, các KKT ven biển, KKT cửa khẩu và khu công nghệ cao được hưởng
41
chính sách ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, đến
nay, việc phát triển và thu hút đầu tư của các KKT này đã có nhiều hạn chế:
Thứ nhất, cơ chế, chính sách ưu đãi tại các KKT không còn đủ sức cạnh
tranh trong khu vực.
Thứ hai, bộ máy quản lý của các KKT bị hạn chế về thẩm quyền khiến cho
hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao, thủ tục hành chính, rườm rà, chưa thông
thoáng; việc phân cấp, ủy quyền cho ban quản lý KKT còn chưa được thực hiện
đầy đủ, nhất quán và mạnh mẽ nên cơ chế “một cửa, tại chỗ” cho nhà đầu tư chưa
được thực hiện tốt.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực của đa số các KCN chưa đáp
ứng yêu cầu và chưa tạo được sự liên kết, tương hỗ giữa các KKT làm cho sức
cạnh tranh thấp.
Những hạn chế trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội của
các KKT chủ yếu dựa vào ngân sách Trung ương trong khi ngân sách nhà nước
hạn chế, nên không đáp ứng đủ yêu cầu của nhà đầu tư.
Thứ hai, các KKT có mục tiêu phát triển và ngành, lĩnh vực tương đối giống
nhau, chưa định hướng thu hút các ngành, lĩnh vực có lợi thế so sánh, dẫn tới tình
trạng cạnh tranh không hiệu quả giữa các KKT.
Thứ ba, các KCN chưa tạo được những thể chế, chính sách đặc thù, đột phá,
nên giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Thứ tư, cơ quan có thẩm quyền quản lý các KKT là các ban quản lý. Cơ quan
này mới chỉ được phân cấp, ủy quyền trong một số lĩnh vực nhất định về kinh tế, đầu
tư, thương mại, lao động, đất đai, xây dựng, môi trường, chưa được giao thực hiện
các nhiệm vụ quản lý về hành chính, dân cư trên địa bàn KKT.
Những hạn chế và nguyên nhân nêu trên đã khiến cho các KCN, KCX,
KKT ở Việt Nam trong thời gian qua chưa phát triển tương xứng với tiềm năng
và mục tiêu xây dựng. Vì vậy, việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của
42
ĐVHC-KTĐB với những đặc điểm “vượt trội” về thể chế kinh tế và hành chính
trong thời điểm này để tạo động lực phát triển kinh tế là rất cần thiết.
Hai là, các ĐVHC-KTĐB giúp tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc xây dựng các ĐVHC-KTĐB trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới không chỉ là nhu cầu tất yếu, mà còn là giải
pháp tốt để Việt Nam tận dụng các lợi thế so sánh của đất nước. Nếu các ĐVHC-
KTĐB được xây dựng và hoạt động thành công, các đơn vị này sẽ góp phần tạo
niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài (đặc biệt là những nhà đầu tư chiến lược)
vào môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và minh bạch ở nước sở tại;
nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là, các ĐVHC-KTĐB là môi trường thể nghiệm thể chế quản trị nhà
nước hiện đại.
Có thể coi các ĐVHC-KTĐB là phòng thí nghiệm cho đổi mới thể chế và
thực nghiệm các chính sách mới. Những mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống
các cơ quan quản lý cũng như các chính sách quản lý mới (trọng tâm là chính sách
phát triển kinh tế) sẽ được thể nghiệm áp dụng tại các ĐVHC-KTĐB. Tại đây, Nhà
nước có thể kiểm tra, đánh giá ưu điểm, hạn chế, mức độ phù hợp và hiệu quả, cũng
như xem xét sự tác động của các mô hình, chính sách đó trên thực tế. Trên cơ sở
đó, Nhà nước có thể tu chỉnh các mô hình, chính sách đó và nhân rộng những mô
hình, chính sách phù hợp trong phát triển và quản lý KT-XH của cả nước.
Vai trò này của các ĐVHC-KTĐB đã được chứng minh trên thực tế. Nhiều
quốc gia trên thế giới đã sử dụng các ĐKKT (mô hình có nhiều điểm tương đồng,
gần gũi với mô hình ĐVHC-KTĐB của Việt Nam) làm khu vực mô hình để kiểm
tra tác động của các chính sách mới được thiết kế để cải thiện môi trường kinh
doanh. Ví dụ: các ĐKKT của Trung Quốc đã thử nghiệm các chính sách định
hướng thị trường, FDI và đất đai trước khi mở rộng cho tất cả các doanh nghiệp.
Cốtxta Rica đã sử dụng các ĐKKT làm cơ chế hiệu quả để thu hút đầu tư nước
ngoài trước khi mở rộng hơn các cách tiếp cận này tới các doanh nghiệp. Tại
Giamaica, các dịch vụ viễn thông tốc độ cao đã bị mất độc quyền trong ĐKKT tại
43
vịnh Montego trước khi bãi bỏ quy định về viễn thông ở cả nước. Các ĐKKT ở
Panama và Ấn Độ đang được sử dụng để kiểm tra các chính sách lao động của Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) linh hoạt hơn và theo định hướng thị trường hơn các
phương pháp hiện tại [158, tr. 42].
Bốn là, các ĐVHC-KTĐB góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho
người dân tại các đơn vị này.
Các ĐVHC-KTĐB có tác động mạnh mẽ đến môi trường xã hội của người
dân trên địa bàn và các khu vực lân cận. Trên cơ sở thu hút nguồn đầu tư lớn trong
và ngoài nước vào việc xây dựng các dự án kinh tế, các ĐVHC-KTĐB sẽ tạo thêm
nhiều việc làm cho người dân sở tại, đồng thời cũng kích thích các ngành dịch vụ
phục vụ cho các cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật từ các quốc gia và vùng
lãnh thổ khác đến sinh sống và làm việc. Điều này giúp nâng cao thu nhập của
người dân tại các ĐVHC-KTĐB.
Bên cạnh đó, Nhà nước và các nhà đầu tư cũng quan tâm đến việc xây dựng
hệ thố... 2020 và tầm nhìn đến năm
2030, Hà Nội.
11. Bộ Chính trị (2012), Thông báo số 108-TB/TW ngày 01-10-2012 về Đề án
phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững và bảo đảm vững chắc quốc
phòng, an ninh, cũng như thí điểm xây dựng hai Đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt Vân Đồn, Hà Nội.
12. Bộ Chính trị (2017), Thông báo Kết luận số 21-TB/TW ngày 23-3-2017 của
Bộ Chính trị về các Đề án xây dựng Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt
Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên
Giang), Hà Nội.
13. Bộ Khoa học và công nghệ (2010), Chương trình KX01/06-10, Đề tài
KX01.07/06-10 “Xây dựng các khu kinh tế mở và các đặc khu kinh tế ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Hà Nội.
14. Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa (1949), Nghị định số 142-NV/3 ngày 19-7-1949 về việc thành lập
Đặc khu Hồng Gai từ khu Hồng Gai (Hòn Gay), Hà Nội.
15. Chính phủ (2017), Hồ sơ dự án Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt của
Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (kèm theo Tờ trình
số 363/TTr-CP ngày 31-8-2017 của Chính phủ), Hà Nội.
16. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14-3-2008 quy định về
khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, Hà Nội.
17. Chính phủ (2017), Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 31-8-2017 phiên họp Chính
phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 8 năm 2017, Hà Nội.
18. Chính phủ (2017), Tờ trình số 78/TTr-CP ngày 10-3-2017 của Chính phủ gửi
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị của Chính phủ về Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2018; điều chỉnh Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2017, Hà Nội.
155
19. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1955) Sắc lệnh số 230/SL
ngày 29-4-1955 thành lập Khu tự trị Thái – Mèo, Hà Nội.
20. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1956) Sắc lệnh số 268/SL
ngày 7 năm 6 thành lập Khu tự trị Việt Bắc, Hà Nội.
21. Bùi Hồng Cường (2013), Xây dựng khu kinh tế tự do: kinh nghiệm các nước
châu Âu , tạp chí Những vấn đề kinh tế chính trị thế giới, (8, 208).
22. Nguyễn Văn Cường (2011), Chính sách, thể chế cho các khu kinh tế tự do: kinh
nghiệm thế giới, tạp chí Những vấn đề kinh tế chính trị thế giới, (5, 181).
23. Nguyễn Ngọc Dung (2008), "Phát triển đặc khu kinh tế ở Trung Quốc và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Ngọc Dung (2016), Kinh nghiệm quốc tế về phát triển mô hình đặc
khu kinh tế, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, (2).
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (lưu hành nội bộ), Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
38. Thái Văn Đoàn (2018), Một số vấn đề về mô hình “Đặc khu kinh tế” ở Việt Nam,
_hinh_Dac_khu_kinh_te_o_Viet_Nam (truy cập ngày 13/6/2018).
39. Trần Duy Đông (2011), Kinh nghiệm phát triển các khu kinh tế tự do tại Hàn
Quốc, tạp chí Khu Công nghiệp Việt Nam, (2).
40. Bùi Trường Giang (2012), Khu kinh tế tự do trên thế giới: quan niệm và nền tảng
lý thuyết, tạp chí Những vấn đề kinh tế chính trị thế giới, (12).
41. Lê Thu Hà (2018), Tổ chức tòa án tại đặc khu hành chính – kinh tế đặc biệt,
tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, luatvietphong.vn/to-chuc-toa-an-tai-dac-
khu-hanh-chinh-kinh-te-dac-biet-n9785.html, truy cập ngày 20-7-2018.
42. Nguyễn Thị Thanh Hà (2010), Đặc khu kinh tế Thâm Quyến – hai tiến trình
phát triển kinh tế từ khi cải cách mở cửa đến nay, Luận văn thạc sĩ Khu vực
học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
43. Nguyễn Thu Hà (2014), Đặc khu kinh tế - thực tiễn của Trung Quốc và bài
học rút ra cho Việt Nam, tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội, (107),
tháng 11.
44. Nguyễn Minh Hằng, Trịnh Thị Hiên (2009), Bàn về đặc khu kinh tế của Trung
Quốc, tạp chí Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, (287), tháng 11.
157
45. Đoàn Thị Bích Hiền (2016), Vài kinh nghiệm về khu kinh tế tự do của môt số
nước trên thế giới, Tạp chí Khu Công nghiệp Việt Nam, (2).
46. Bùi Đức Hiển (2018), Thực trạng các quy định về bảo vệ môi trường trong
Dự thảo Luật Tổ chức đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, Tạp chí Môi
trường, (2).
47. Đặng Thị Phương Hoa (2009), Các khu kinh tế tự do Hàn Quốc, tạp chí Những
vấn đề kinh tế chính trị thế giới, (2, 154).
48. Đặng Phương Hoa (2008), Đặc khu kinh tế Thâm Quyến, tạp chí Những vấn
đề kinh tế và chính trị thế giới, (6, 146).
49. Đặng Phương Hoa (2009), Một số tiền đề cho việc thành lập khu kinh tế tự do ở Việt
Nam, tạp chí Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, (10, 285).
50. Đặng Thị Phương Hoa (2010), Khu kinh tế tự do: khái niệm, đặc điểm, vai trò và
sự phát triển, tạp chí Những vấn đề kinh tế chính trị thế giới, (3, 167).
51. Đặng Thị Phương Hoa (2012), Khu kinh tế tự do – thực tiễn phát triển ở Trung
Quốc và Ấn Độ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Hoàng Xuân Hòa (2008), Xây dựng và phát triển mô hình đặc khu kinh tế - một số
kinh nghiệm đối với Việt Nam, tạp chí Quản lý kinh tế, (360), tháng 5.
53. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Cao cấp lý luận chính
trị, Khối kiến thức thứ ba Các vấn đề khoa học chính trị và lãnh đạo, quản lý,
môn Khoa học lãnh đạo, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
54. Học viện Hành chính, Viện Nghiên cứu khoa học hành chính (2009), Thuật
ngữ hành chính, Hà Nội.
55. Nguyễn Vân Hồng (chủ biên) (2003), Trung Quốc cải cách và mở cửa – những
bài học kinh nghiệm, Nxb Thế giới, Hà Nội.
56.
57. Đặng Vũ Huân (2018), Điều chỉnh pháp luật đối với đặc khu kinh tế ở Việt
Nam – Nhu cầu và định hướng,
bat.aspx?ItemID=47
158
58. Vũ Thiện Hương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và xây dựng con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2014), Bàn về xây dựng tổ chức chính quyền của đặc khu
hành chính – kinh tế ở nước ta, tạp chí Quản lý nhà nước, (8, 223).
60. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2015), Chính quyền địa phương tự quản trong tổ chức
chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ở Việt Nam,
tạp chí Tổ chức nhà nước, (5).
61. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2015), Tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ đặc thù ở Việt
Nam từ 1945 đến nay, tạp chí Quản lý nhà nước, (6, 233).
62. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), Tổ chức chính quyền tại các đơn vị hành chính –
kinh tế đặc biệt phù hợp điều kiện hiện nay, tạp chí Quản lý nhà nước, (4, 243).
63. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức các
đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt, tạp chí Tổ chức nhà nước, (4).
64. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2017), Tổ chức chính quyền địa phương tại các đơn
vị hành chính – kinh tế đặc biệt ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
65. Nguyễn Văn Lịch (2008), Đặc khu kinh tế của Ấn Độ, tạp chí Những vấn đề
kinh tế và chính trị thế giới, (7, 147).
66. Trịnh Mạnh Linh (2015), Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế ở một số
nước châu Á và bài học rút ra cho Việt Nam, tạp chí Thông tin và dự báo
kinh tế - xã hội, (11, 119).
67. Cù Chí Lợi, Hoàng Thế Anh (2008), Đặc khu kinh tế Thâm Quyến - những
đột phá và phát triển, tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (5, 84).
68. Cù Chí Lợi (chủ biên) (2013), Khu kinh tế tự do những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Võ Đại Lược (chủ biên) (2008), Thâm Quyến: Phát triển thần kỳ - Hiện đại
hóa – Quốc tế hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
159
70. Võ Đại Lược (2009), Khu kinh tế tự do ở Dubai, Hàn Quốc và Trung Quốc,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Võ Đại Lược (2012), Khu kinh tế tự do: Những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Võ Đại Lược (2009), Vấn đề xây dựng các loại hình khu kinh tế tự do ở Việt Nam,
tạp chí Những vấn đề kinh tế chính trị thế giới, (10, 162).
73. Võ Đại Lược (2011), Khu kinh tế tự do trên thế giới, tạp chí Những vấn đề
kinh tế chính trị thế giới, (5, 181).
74. Phan Minh Mẫn (2012), Quan điểm xây dựng và phát triển khu kinh tế ở Việt
Nam hiện nay, tạp chí Đại học Đông Á, (8).
75. Guangwen Meng (Đặng Thị Phương Hoa dịch) (2009), Kinh nghiệm và triển
vọng của khu kinh tế tự do Trung Quốc sau hơn 20 năm, tạp chí Những vấn
đề kinh tế chính trị thế giới, số (6 ,158).
76. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Nguyễn Thanh Nghị (2015), Xây dựng và phát triển Phú Quốc thành đặc khu
kinh tế, tạp chí Cộng sản, (3, 869).
79. Trần Minh Ngọc (2018), Các đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt trên thế giới
và những gợi ý đối với Việt Nam, tạp chí Cộng sản, (5, 907).
80. Trần Thị Diệu Oanh (2017), Một số vấn đề trong thực hiện Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015, tạp chí Tổ chức nhà nước, (9).
81. Quốc hội (1946), Hiến pháp Việt Nam năm 1946, Hà Nội.
82. Quốc hội (1959), Hiến pháp Việt Nam năm 1959, Hà Nội.
83. Quốc hội (1975), Nghị quyết “về việc cải tiến các đơn vị hành chính”, ngày
27-12-1975, Hà Nội.
84. Quốc hội (1979), Nghị quyết về việc thành lập đặc khu kinh tế Vũng Tàu, Côn
Đảo trực thuộc Trung ương, ngày 30-5-1979, Hà Nội.
85. Quốc hội (1980), Hiến pháp Việt Nam năm 1980, Hà Nội.
86. Quốc hội (1992), Hiến pháp Việt Nam năm 1992, Hà Nội.
160
87. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
88. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
89. Quốc hội (2003), Luật Biên giới quốc gia, Hà Nội.
90. Quốc hội (2003), Luật Tổ chức Hội đồng nhân và Ủy ban nhân dân, Hà Nội.
91. Quốc hội (2004), Luật An ninh quốc gia, Hà Nội.
92. Quốc hội (2005), Luật Quốc phòng, Hà Nội.
93. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
94. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư, Hà Nội.
95. Quốc hội (2014), Luật Nhập cảnh xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
96. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội, Hà Nội.
97. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Hà Nội.
98. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
99. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Hà Nội.
100. Quốc hội (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
101. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Chính phủ, Hà Nội.
102. Quốc hội (2015), Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Hà Nội.
103. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 142/2016/QH13 ngày 12-4-2016 về kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020, Hà Nội.
104. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08-11-2016 về kế hoạch
cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
105. Quốc hội (2017), Luật Quy hoạch, Hà Nội.
106. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 34/2017/QH14 ngày 08-6-2017 về việc điều
chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018, Hà Nội.
107. Đinh Hữu Quý (2008), Nghiên cứu xây dựng mô hình khu kinh tế đặc biệt,
Luận án Tiến sĩ, Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
108. Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (2014), Mô hình thí điểm cải cách kinh tế ở Trung
Quốc – nghiên cứu trường hợp các đặc khu kinh tế, Luận văn thạc sĩ Khu
161
vực học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
109. Lê Văn Sang, Nguyễn Minh Hằng (2009), Các đặc khu kinh tế của Trung Quốc và
những gợi ý cho Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (2, 90).
110. Nguyễn Văn Sơn (2012), Một số khuynh hướng phát triển khu kinh tế tự do,
tạp chí Giao thông vận tải, (12).
111. Võ Kim Sơn (2018), Về mô hình tổ chức chính quyền địa phương tại đơn vị
hành chính – kinh tế đặc biệt, tạp chí Tổ chức nhà nước, (2).
112. Nguyễn Quốc Sửu (2016), Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt trong Hiến
pháp 2013,
te.aspx?ItemID=92.
113. Nguyễn Quang Thái (2010), Vấn đề phát triển các khu kinh tế mở hiện đại
ven biển Việt Nam, Nxb Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
114. Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Hạnh (2013), Góp ý chương Chính
quyền địa phương (Chương IX Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992), tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, (3).
115. Lê Minh Thông (2015), Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Luật Tổ
chức chính quyền địa phương năm 2015, tạp chí Tổ chức nhà nước, (4).
116. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17-9-
2001 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2001–2010, Hà Nội.
117. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 786/2006/QĐ-TTg ngày 31-5-
2006 về việc phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội khu kinh tế Vân
Đồn, Hà Nội.
118. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 120/2007/QĐ-TTg ngày 26-7-
2007 về việc thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của khu kinh tế Vân
Đồn, Hà Nội.
162
119. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 1151/2007/QĐ-TTg ngày 30-8-
2007 về phê duyệt Quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt - Trung đến
năm 2020, Hà Nội.
120. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 1353/2008/QĐ-TTg ngày 23-9-
2008 phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển Việt
Nam đến năm 2020”, Hà Nội.
121. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 34/2009/QĐ-TTg ngày 02-3-
2009 về phê duyệt quy hoạch phát triển vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc
Bộ đến năm 2020, Hà Nội.
122. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1269/2009/QĐ-TTg ngày 19-8-2009
về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng khu kinh tế Vân Đồn, Hà Nội.
123. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 948/2017/QĐ-TTg ngày 05-7-
2017 về việc thành lập Hội đồng thẩm định 03 đề án thành lập đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; Bắc Vân Phong, tỉnh
Khánh Hòa; Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Hà Nội.
124. Nguyễn Thị Quỳnh Thúy (2013), Mô hình thí điểm cải cách kinh tế ở Trung
Quốc – nghiên cứu trường hợp các đặc khu kinh tế, Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Châu Á học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
125. Vũ Thư (2014), Chính quyền địa phương trong Hiến pháp sửa đổi, tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, (4).
126. Nguyễn Ngọc Toán (2014), Đổi mới tổ chức đơn vị hành chính theo Hiến
pháp năm 2014, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (3).
127. Phan Thị Thùy Trâm (2014), Phát triển và quản lý đặc khu kinh tế - kinh nghiệm
quốc tế và bài học cho Việt Nam, tạp chí Thông tin đối ngoại, (10).
128. Nguyễn Thị Thiện Trí (2014), Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt: vấn đề nhận
thức và vận dụng ở nước ta hiện nay, tạp chí Nhà nước và Pháp luật (10).
163
129. Nguyễn Thị Thiện Trí (2018), Một số bất cập của mô hình đơn vị hành chính kinh
tế đặc biệt theo Dự thảo Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Phú Quốc, Vân
Đồn, Bắc Vân Phong, tạp chí Nghiên cứu lập pháp (361).
130. Trần Anh Tuấn (2017), Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị
hành chính – kinh tế đặc biệt, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (10).
131. Trần Anh Tuấn (2017), Tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính
– kinh tế đặc biệt, tạp chí Lý luận chính trị, (11).
132. Dương Quang Tung (2017), Tổ chức chính quyền địa phương ở đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt, tạp chí Tổ chức nhà nước, (8).
133. Đinh Thanh Tùng (2018), Một góp ý về mô hình đơn vị hành chính – kinh tế
đặc biệt ở Việt Nam, tạp chí Lý luận chính trị, (1).
134. Hoàng Tùng (2014), Xây dựng đặc khu kinh tế: bắt đầu từ thể chế vượt trội,
tạp chí Thông tin tài chính, (8), kỳ 2, tháng 4.
135. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
136. Đào Trí Úc (2014), Hiến pháp năm 2013 và việc xây dựng Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, tạp chí Tổ chức nhà nước, (4).
137. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2017), Dự thảo Đề án thành lập đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt Bắc Vân Phong thuộc tỉnh Khánh Hòa, Khánh Hòa.
138. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2014), Đề án số 294/ĐA-UBND ngày 12-
02-2014 về thành lập Khu Hành chính - Kinh tế đặc biệt Phú Quốc, tỉnh
Kiên Giang, Kiên Giang.
139. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2017), Đề án thành lập Khu Hành chính
- Kinh tế đặc biệt Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang.
140. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Dự thảo Đề án thành lập đơn vị
hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Quảng Ninh.
141. Văn phòng Quốc hội (2009), Tuyển tập hiến pháp một số nước trên thế giới,
Nxb Thống kê, Hà Nội
142. Hà Thị Hồng Vân (2009), “Đặc khu kinh tế mới” ở Trung Quốc - trường
hợp Trùng Khánh, tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, (12, 100).
164
143. Viện Kinh tế học (1994), Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu chế xuất và
đặc khu kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
144. Viện Nghiên cứu lập pháp (2015), Kỷ yếu hội thảo khoa học “Góp ý hoàn thiện Dự
thảo Luật Tổ chức chính quyền địa phương”, Nxb Lao động, Hà Nội.
145. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
146.
B. Tiếng Anh
147. Dobronogov A. and Farole T. (2012), An Economic Intergration Zone for
the East African Community: Exploiting regional potential and addressing
commitment challenges, World Bank Policy Research Working Paper 5967,
Wasington DC.
148. Andray Abrahamian (chủ biên) (2014), The ABCs of the North Korea’s SEZs
tại www.uskoreainstitute.org.
149. Andray Abrahamian - Curtis Melvin (2015), North Korea’s Special econmic
zones: Plans vs Progress, www.38north.com.
150. Jose Daniel Amado (2014), Free industrial zones: Law and industrial development
in the new international division of labor, University of Pennsylvania Journal of
International Law, Vol.11, Issue 1(2014), Art.2.
151. Asian Development Bank (2007), Special Economic Zones and
Competitiveness: A Case Study of Shenzhen, China, PRM (Pakistan
Resident Mission) Policy Note. Islamabad.
152. Aggarwal Aradhna (2010), Economic Impacts of SEZs: Theoretical
Approaches and Analysis of Newly Notified SEZs in India, Department of
Business Economics, University of Delhi, India. 23. February. MPRA Paper
No. 20902. February.
153. S. Chandrachud, Dr. N. Gajalakshmi (2014), A study on special economic
zones (SEZs) in Tamilnadu State, IOSR Journal of Humanities and Social
science Volume 19, Issue 3, Ver.III (Mar.2014), PP. 35-41.
165
154. China Development Zones Association (2011), China Development zones
Yearbook, China Financial Economic Publising House, Beijing.
155. Stephen Creskoff, Peter Walkenhorst (2009), Implications of WTO
disciplines for Special economic zones in developing countries,
156. Jona Aravind Dohrmann (2008), Special economic zones in India – An
introduction, ASIEN 106, S.66-80.
157. Thomas Farole (2011), Special economic zones: What have we learn?,
www.worldbank.org/economicprimise.
158. FIAS (2008), Special Economic Zone: Performance, Lessions learned, and
Implication for Zone development, World Bank, Washington DC.
159. Durantan Gilles (2008): Cities: Engies of Growth and Prosperity for
Developing Countries', University of Toronto, Toronto, Canada.
160. Shankar Gopalakrishnan (2007), Negative aspects of SEZ in China,
Economic and Politicial Weekly 28-4-2007.
161. Wanda Guo and Yueqiu Feng (2007): Special Economic Zones and
Competitiveness: A Case Study of Shenzhen, the People's Republic of China.
162.
163.https://www.doe.gov.ph/sites/default/files/pdf/ocsp/ra7916_special_econom
ic_zone_act_of_1995.pdf
164.https://japarliament.gov.jm/attachments/article/341/The%20Special%20Eco
nomic%20Zones%20Act,%202016%20No.%207.pdf
165. https://jic.gov.jo/portal/Documents/en/ASEZA%20law_English.pdf
166.https://www.wto.org/english/thewto_e/acc_e/rus_e/WTACCRUS58_LEG_
324.pdf
167. Indian Council for research on international economic realations (2007),
Impact of special economic zones on employment, poverty and human
development, India.
166
168. International Property Reduction Center in China và UNDP (2015), If Africa
builds nests, will the birds come? Comparative Study on Special Economic
Zones in Africa and China, Working Paper series, No.06.2015.
169. Wang J. (2013), The economic impact of special economic zones:
Evidence from Chinese municipalites, Journal of Development
Economics, 101, 133-147.
170. White J. (2011), Foster innovation in developing economies through
SEZs, Special Economic Zones, 183.
171. Rob Jenkins (2007), The politics of Indian’s s special economic zones, Researh
Colloquium: “India’s Great Transformation?”, Columbia University.
172. Ruan Jianqing and Xiaobo Zhang (2008), Finance and cluster – based
industrial development in China, International Fool Policy Research
Institute Discussion Paper 768, May 2008.
173. Hammad Altaf Khan (2016), Special economic zones, Business recorder,
Pakistan.
174. Hazakis K.J. (2014), The rational of special economic zones (SEZs): An
institutional approach, Regional Science Policy, Vol.6/1, 85-101.
175. Michael Levien (2011), Special economic zones and accumulation by
dispossession in India, Journal of Agraian Change, 11 (4), 454-483.
176. Michael Levien (2012), The land question: special economic zones and the
political economy of dispossession in India, The Journal of Peasant Studies,
39:3-4, 933-969, DOI: 10.1080/03066150.2012.656268.
177. Ishida M. (2009), Special economic zones and economic corridors, ERIA
Discussion Paper Series, ERIA-DP-2009-16.
178. Sandni-Jallab M. and Banco de Armat (2002): A Review of Role and Impact
of Export processing Loues in World Trade, The cae of Mexico, Working
paper 02-07, Insitute of Developing Study, Brighton, June.
179. Andrew M. Marton, Wei Wu (2003), A case study of the development of the
Shanghai Pudong New Area, International Business Journal Vol.2, Issue 1.
167
180. Guangwen Meng (2003), The Theory and Practice of Free Economic Zones: A
Case Study of Tianjin/People's Republic of China, Peter Lang Press.
181. Koyama N. (2011), SEZs in the Context of regional integration: Creating
Synergies for Trade and Investment, Special Economic Zones, 127.
182. Li Nanling, Chen Yani (2000), The Great Project - SEZ's Historic Contribution to
China's Open Policy and Refrom, People's Daily 14-11-2000.
183. Thomas Parole, Gokhan Akind (2011), Special economic zones. Progress,
emerging challenges and future direction, World Bank.
184. Patchree Pakdeenurit, Nanthi Suthikarnnarunai, Wanchai Rattanawong
(2017), Location and key success factors of special economic zone in
Thailand, Marketing and Branding research 4 (2017), 169-178.
185. Susan Pozo, José R.Sánchez – Fung, Amelia U.Santos-Paulino (2010),
Economic development Strategies in the Dominican Republic, Working
Paper No.2010/115.
186. Meng Quang-wen (2005): Evolutionary Model of Free Economic Zones:
Differrent Generations and Structure Feateres, Chinesse Geographical
Science, Vol.15, No. 2, June.
187. Ram Krishna Ranjan (2006), SEZ, Are they good for the country? Working
paper No.l 56, Centre for Civil Society.
188. Prihodko S., Volovik N., Hecht A., Sharpe B., Mandres M. (2007), Special
economic zones, Moscow tại địa chỉ
189. Farole Thomas (2011), Special Economic Zone in Africa: Comparing
performance and learning from global experience, World Bank,
Washington DC.
190. UNIDO country office in Vietnam (2015), Economic zones in the Asean
industrial parks, special economic zones, eco industrial parks, innovation
district as strategies for industrial competitiveness tại
https://www.unido.org/fileadmin/user_media_upgrade/Resoures/Publicati
ons/UCO_Viet_Nam_Study_FINAL.pdf
168
191. Milberg W. (2007), Exporting Processing Zones. Industrial Upgrading and Economic
Development: A Survey, SCEPA Working Papers 2007-10, Schwartz Center for
Economic Policy Analysis (SCEPA), New School University.
192. Jin Wang (2013), The economic Impact of Special Economic Zones:
Evidence from Chinese municipalities, Journal of Development
Economics. Volume 101, March.
193. Sean Woolfrey (2013), Special economic zones and regional integration in
Africa, Tralac Working Paper, No. S13 WP10/2013 (7/2013).
194. World Bank (2007), India: land policies for growth and poverty
reduction, Oxford University, New Delhi.
195. Website chính thức của Khu kinh tế tự do Incheon
https://www.ifez.go.kr/eng/en/m1/ifez2/screen.do
196. Website chính thức của đặc khu kinh tế Thâm Quyến
197. Eric Yong-Joong Lee (2003), The Special economic zones and North Korea
Economic reform with a viewpoint of international law, Fordham
International law Journal, Volume 27, Issue 4, Article 5.
198. Wang Yu (2008), The Study of the Constitutional Spirit of “One Country, Two
System”, Guangdong People’s Publishing House, Guangzhou.
199. Wang Yu, A Brief Review of the Special Administrative Regions and the Special
Administrative Region system,
https://www.google.com.vn/url?sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=r
ja&uact=8&ved=0ahUKEwjhuu3h8pnVAhWBj5QKHSbZA3wQFggpMAA&url=
http%3A%2F%2Fwww.ipm.edu.mo%2Fcntfiles%2Fupload%2Fdocs%2Fresearch
%2Fcommon%2F1country_2systems%2Facademic_eng%2Fissue3%2F07.pdf&usg
=AFQjCNHlCTSI4UZRpkQLM9d9Xu7uLud6pA
200. Yeung Yue-man, J. Lee and G. Kee (2009), China’s Special economic zones at 30,
Eurasian Geography and Economics, Vol.50, No.2, pp.222-240.
169
201. Douglas Zhihua Zeng (2011), How Do Special Economic Zones and
Industrial Clusters Drive China's Rapid Development? Policy Research
Working Paper No. 5583.
202. Douglas Zhihua Zeng (2015), Global Experiences with Special economic
Zones focus on China and Africa, Policy research working paper No. 7204,
World Bank.
203. Zeng Douglas Zhihua (2010), Building engines for growth and
competitiveness in China: Experience with Special economic zones &
industrial clusters, World Bank, Washington DC.
204. Huang Zuhui, Xiaobo Zhang and Yunwei Zhu (2008), The role of clustering
in rural industrialization: A case study of the footwear industry in Wenzhou,
China Economic Review, 19, 409-420.
170
PHỤ LỤC
Bảng 1: Các đặc khu kinh tế ở khu vực Đông Nam Á
(tính đến tháng 12 năm 2017)
STT
TÊN QUỐC GIA SỐ LƯỢNG
ĐẶC KHU
KINH TẾ
TÊN
ĐẶC KHU KINH TẾ
1 Brunây 01 Khu xuất khẩu Muara
2 Campuchia 22 - Đặc khu kinh tế Sihanoukville
- Đặc khu kinh tế Neang Kok Koh Kong
- Đặc khu kinh tế Suoy Chheng
- Đặc khu kinh tế S.N.C
- Đặc khu kinh tế Stung Hav
- Đặc khu kinh tế N.L.C
- Đặc khu kinh tế Manhattan (Svay Reing)
- Đặc khu kinh tế Poipet O’Neang
- Đặc khu kinh tế Doung Chhiv Phnom Den
- Đặc khu kinh tế Phnom Penh
- Đặc khu kinh tế Kampot
- Đặc khu kinh tế Sihanoukville
- Đặc khu kinh tế Tai Seng Bavet
- Đặc khu kinh tế Oknha Mong
- Đặc khu kinh tế Goldfame Pak Shun
- Đặc khu kinh tế Thary Kampong Cham
- Đặc khu kinh tế Sihanoukville 2
- Đặc khu kinh tế D&M Bavet
- Đặc khu kinh tế Kiri Sakor Koh Kong
- Đặc khu kinh tế Kampong Saom
- Đặc khu kinh tế Pacific
3 Đông Timo 0
4 Lào 10 - Đặc khu kinh tế Savan-Seno
- Đặc khu kinh tế Golden Triangle
- Đặc khu kinh tế Boten Beautiful Land
- Khu công nghiệp và thương mại Vientiane
- Khu phát triển Saysettha
- Đặc khu kinh tế Phoukyou
- Đặc khu kinh tế Thatluang Lake
- Đặc khu kinh tế Longthanh - Vientiane
- Đặc khu kinh tế Dongphosy
- Đặc khu kinh tế Thakhek
5 Malaixia 02 - East Coast Economic Region
- Port Klang Free Zone
6 Myanma 03 - Đặc khu kinh tế Dawei
- Đặc khu kinh tế Thilawa
- Đặc khu kinh tế Kyuakpyu
171
7 Philippin 358 - 73 Khu kinh tế sản xuất
- 243 Trung tâm Công nghệ thông tin
- 21 Khu kinh tế nông - công nghiệp
- 19 Khu kinh tế du lịch
- 2 Trung tâm Du lịch Y tế
8 Xingapo 05 - Khu thương mại tự do Keppel
- Khu thương mại tự do Jurong Port
- Khu thương mại tự do Sembawang Wharves
- Khu thương mại tự do Pasir Panjang
Wharves
- Airport Logistics Park of Singapore
9 Thái Lan 10 - Đặc khu kinh tế Kaeo
- Đặc khu kinh tế Trat
- Đặc khu kinh tế Chiang Rai
- Đặc khu kinh tế
- Đặc khu kinh tế Nakhon Phanom
- Đặc khu kinh tế Nong Khai
- Đặc khu kinh tế Narathiwat
- Đặc khu kinh tế Songkhla
- Đặc khu kinh tế Kanchanaburi
- Đặc khu kinh tế Tak
10 Việt Nam 384 - 16 khu kinh tế ven biển
- 26 khu kinh tế cửa khẩu
- 03 khu công nghệ cao
- 07 khu công nghệ thông tin tập trung
- 09 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao
- 325 khu công nghiệp, khu chế xuất
Tổng cộng 797
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp