Luận án Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay

Tài liệu Luận án Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, ebook Luận án Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay

doc175 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n 24 1.2. Những vấn đề cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên 48 Chương 2 THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN 66 2.1. Thực trạng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên 66 2.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên 100 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 112 3.1. Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và phương hướng, yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay 112 3.2. Những giải pháp tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay 122 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 161 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 163 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Stt Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 01 Ban chấp hành Trung ương BCHTW 02 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐH 03 Các xã, phường, thị trấn Cấp xã 04 Dân tộc thiểu số DTTS 05 Diễn biến hòa bình DBHB 06 Hệ thống chính trị HTCT 07 Hệ thống chính trị cơ sở HTCTCS 08 Hội đồng nhân dân HĐND 09 Tổ chức cơ sở Đảng TCCSĐ 10 Trung học cơ sở THCS 11 Trung học phổ thông THPT 12 Uỷ ban nhân dân UBND 13 Mặt trận Tổ quốc MTTQ 14 Nhà xuất bản Nxb MỞ ĐẦU Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu Xây dựng HTCTCS là một nội dung trọng yếu của đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay, tuy nhiên hiện nay đang có rất nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề về xây dựng HTCT nói chung và HTCTCS xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên nói riêng. Nghiên cứu sinh là một sĩ quan quân đội đã có thời gian công tác ở Tây Nguyên gần 20 năm, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị tiến hành công tác dân vận, tham gia xây dựng HTCTCS, cùng với các lực lượng xử lý “điểm nóng” năm 2001 và năm 2004 tại tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông nhận thấy, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những diễn biến phức tạp, bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên trong thời gian vừa qua bắt nguồn từ sự yếu kém của HTCTCS. Vấn đề cấp thiết đặt ra là làm thế nào để khắc phục được sự yếu kém đó?. Điều này luôn làm cho tác giả suy nghĩ, trăn trở, ấp ủ, hình thành ý tưởng nghiên cứu trong nhiều năm. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án. Quá trình triển khai đề tài, nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo cứu báo cáo của các tỉnh ở Tây Nguyên và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TƯ, Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010; cùng với hệ thống tư liệu, số liệu do nghiên cứu sinh trực tiếp điều tra, khảo sát thực tiễn hoạt động xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 2001 đến nay; đồng thời tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nước ngoài, trong nước có liên quan đến xây dựng và hoạt động của HTCT. Đề tài tập trung luận giải những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên; đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên những năm vừa qua; xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay. Kết cấu của luận án gồm phần mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã được công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Lý do lựa chọn đề tài Hệ thống chính trị cơ sở là cấp chấp hành, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ, huy động mọi nguồn lực của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh ở cơ sở. HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên có trách nhiệm to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chăm lo đời sống cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, BCHTW Đảng khoá IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, các tỉnh Tây Nguyên đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát huy vai trò của HTCTCS. TCCSĐ ở nhiều nơi được củng cố và tăng cường; chính quyền cấp xã được kiện toàn, hoạt động khá hiệu quả; MTTQ và các đoàn thể hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên đã bộc lộ không ít hạn chế, khuyết điểm, một số xã, phường, thị trấn, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng bị hạ thấp, các đoàn thể tồn tại một cách hình thức; hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của bộ máy chính quyền còn yếu. Trình độ, năng lực của phần lớn cán bộ cấp xã còn hạn chế, nhất là cán bộ cấp xã người DTTS; cơ chế và chất lượng hoạt động của HTCTCS còn bất cập; điều kiện, phương tiện làm việc còn thiếu thốn; một số vấn đề về chính sách cán bộ ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức; kinh tế - xã hội phát triển chưa vững chắc, tỷ lệ hộ đói nghèo cao, việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống và xây dựng đời sống văn hoá mới cho đồng bào Tây Nguyên chưa được quan tâm đúng mức; các vụ việc khiếu kiện tập thể liên quan đến quyền lợi đất đai của đồng bào, tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ của đội ngũ cán bộ cơ sở, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân còn xẩy ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương cơ sở. Những yếu kém của HTCTCS ở một số nơi đã và đang làm giảm sút lòng tin của nhân dân, dẫn đến gây hậu quả xấu về kinh tế, chính trị - xã hội. Trong những năm tới, hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên bên cạnh những thuận lợi, phải đối mặt với không ít những khó khăn thách thức: kinh tế – xã hội ở Tây Nguyên vẫn trong tình trạng kém phát triển, tình hình an ninh - chính trị còn nhiều diễn biến phức tạp do điều kiện lịch sử, địa lý, những hạn chế, khuyết điểm chủ quan và các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu, thủ đoạn “DBHB”, bạo loạn lật đổ gây mất ổn định chính trị, mưu toan thành lập “Nhà nước Đê Ga tự trị”. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách phải quan tâm xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên thực sự vững mạnh. Vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” làm đề tài luận án là vấn đề cơ bản, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đề tài luận án không trùng lặp về nội dung với các công trình nghiên cứu đã công bố trong những năm gần đây. 3. Mục đích nghiên cứu Nhằm góp phần xây dựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên vững mạnh, tạo cơ sở vững chắc cho xây dựng Tây Nguyên giàu mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, vững mạnh về quốc phòng – an ninh, phát triển nhanh, bền vững về văn hóa, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên là đối tượng nghiên cứu của luận án. * Phạm vi nghiên cứu Những vấn đề lý luận, thực tiễn, yêu cầu, giải pháp xây dựng HTCTCS vững mạnh bao gồm HTCTCS xã, phường, thị trấn ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng. Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, điều tra, khảo sát điểm một số xã, phường, thị trấn thuộc các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2001 đến năm 2014, thời gian ứng dụng các giải pháp đến năm 2020 và những năm tiếp theo. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài * Đóng góp mới về khoa học - Làm rõ tính đặc thù của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên và quan niệm xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên. - Tổng kết một số kinh nghiệm xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên. - Đề xuất giải pháp xây dựng TCCSĐ, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ người dân tộc bản địa trên địa bàn Tây Nguyên. * Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Góp phần làm rõ thêm những vấn đề cơ bản về HTCTCS và xây dựng HTCTCS các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp cấp uỷ, chính quyền, ban ngành đoàn thể các tỉnh Tây Nguyên xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành xây dựng HTCTCS vững mạnh. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy trong hệ thống các học viện, nhà trường, nhất là ở các trường chính trị tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, quận, thành phố thuộc các tỉnh Tây Nguyên và các học viện, nhà trường quân đội. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án 1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị Một số sách viết về nền chính trị các nước tư bản: Chính trị so sánh - về các nền dân chủ Đức, Mỹ, Pháp, Anh, Ý (1991), Yves Meny [165]; American Government Freedom and Power (sự tự do và quyền lực của chính phủ Mỹ) (1992), Theodore j.Lowi, Benjamin Ginsberg; Chính trị học so sánh (1998), Rolf H.W. Thee và Frank L.Wilson [118]; British Politics (Nền chính trị Anh) (1998), Dennis Kavanagh; Comparative Politics- Aglobal introduction (so sánh các thể chế chính trị trên thế giới) (2000), Michael j.Sodaro; Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ (2002), Jay M.Shafritz [91]; Understanding democracy – An introduction to public choice (nhận thức về dân chủ, một sự lựa chọn công khai) (2003), F.Patrick Gunning. Các học giả trên đều cố gắng luận giải rằng đa nguyên chính trị là đặc trưng của thể chế chính trị tư sản và HTCT tư bản chủ nghĩa. Ở hầu hết các nước tư bản, ngoài các đảng tư sản còn có các đảng cộng sản và các đảng của các tầng lớp xã hội khác. Các đảng phái chính trị, tổ chức quần chúng hoàn toàn độc lập với chính quyền, trong đó, đảng cộng sản được quyền tồn tại hợp pháp với tư cách là tổ chức chính trị đối lập, đối kháng với các đảng tư sản. Bên cạnh đó, quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội cũng ngày càng tăng lên. Hoạt động của các tổ chức đó trên một số phương diện đã làm tăng thêm quyền lực chính trị cho nhân dân. Các công trình trên đã làm rõ những vấn đề về hệ thống chính quyền nhà nước ở các nước tư bản; mối quan hệ giữa đảng phái chính trị và cơ quan nhà nước ở các nước tư bản, chức năng quản lý địa phương do cơ quan hành chính hoặc cơ quan tự quản thực hiện. Ở các nước tư bản cho dù chính quyền địa phương được tổ chức theo mô hình tự quản và xã hội công dân được xem như là độc lập đối với nhà nước nhưng hoạt động của nó vẫn phải nằm trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Các chính trị gia tư sản cho rằng cơ cấu quyền lực chính trị ở các nước tư bản có sự tham gia của nhân dân, có các đảng chính trị cạnh tranh, nhờ đó mà tăng quyền lực chính trị cho nhân dân. Nhưng về thực chất, sự ra đời của HTCT tư bản chủ nghĩa là nhằm bảo vệ quyền lực chính trị của giai cấp tư sản, bản chất của HTCT tư bản chủ nghĩa vẫn là sự thống trị của giai cấp tư sản đối với toàn bộ đời sống xã hội, nhà nước ấy là nhà nước của giai cấp tư sản, hiến pháp, pháp luật là thể hiện ý chí của giai cấp tư sản cầm quyền, nền dân chủ tư sản thực chất chỉ là dân chủ với thiểu số giai cấp tư sản và vì giai cấp tư sản. Ở Liên Xô có công trình bàn về Đảng Cộng sản Liên Xô trong hệ thống chính trị của xã hội Xô Viết (những vấn đề phương pháp luận nghiên cứu) (1986) của V.Ia.Bôn-đa-rơ [161] đã phân tích rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và những bộ phận cấu thành khác trong HTCT; luận giải vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội XHCN, lãnh đạo xã hội; phân tích tác động qua lại của quyền lực nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống quản lý nhà nước gồm Xô Viết tối cao Liên Xô, 15 Xô Viết tối cao của các nước cộng hòa liên bang, 20 Xô Viết tối cao của các nước cộng hòa tự trị, hơn 50 nghìn Xô Viết địa phương hợp thành hệ thống thống nhất của các cơ quan quyền lực nhà nước. Mặc dù hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ năm 1991 nhưng thành quả xây dựng CNXH hơn 70 năm của Đảng Cộng sản Liên Xô là những bài học quí giá về xây dựng HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Ở Trung Quốc có công trình Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX (2002) của Tinh Tinh [131] đã trích dẫn, tổng hợp quan điểm của nhiều lãnh tụ Đảng Cộng sản Trung Quốc trong công cuộc cải cách cơ cấu nền hành chính, xem đó là một cuộc cách mạng. Cuộc cải cách cơ cấu là cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX, dựa trên các nguyên tắc: theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường XHCN, chuyển đổi chức năng của chính quyền, thực hiện chính quyền tách khỏi xí nghiệp; tinh giảm, thống nhất, hiệu quả, điều chỉnh cơ cấu tổ chức chính quyền, thực hiện tinh giảm biên chế; thống nhất quyền hạn và trách nhiệm, xác định chức trách và quyền hạn của các ngành trong bộ máy chính phủ, phân công rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ, ngành, hoàn thiện cơ chế vận hành, hành chính; quản lý nhà nước bằng pháp luật, tăng cường xây dựng pháp chế cho hệ thống hành chính; trọng điểm cải cách là các bộ, ngành thành viên của Quốc Vụ viện. Ngoài văn phòng Quốc Vụ viện, sẽ tinh giảm từ 40 bộ, ngành xuống còn 29 bộ, ngành. Có hơn 4 triệu cán bộ các cấp “rời cương vị”, nguyên nhân của “rời cương vị” là “ điều tiết vô tình và sắp xếp có tình” [131, tr.23]. Các bài viết: “Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ thẩm quyền, tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng chống biến chất và chống rủi ro” của Hạ Quốc Cường; “Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc” của Lý Bội Nguyên; “Kiên trì phương châm quản lý đảng nghiêm minh, triển khai cuộc xây dựng đảng phong liêm chính và đấu tranh chống tham nhũng” của Chu Húc Đông; “Kiên trì xây dựng lý luận tư tưởng là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng” của Trần Tuấn Hồng (2004) in trong kỷ yếu Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc [75]. Các tác giả thống nhất cho rằng Trung Quốc là nước nông nghiệp lớn, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề trọng đại, liên quan đến toàn cục của cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa nông thôn mới XHCN đặc sắc Trung Quốc, điều then chốt là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vùng nông thôn, phát huy đầy đủ vai trò của đảng viên và tổ chức đảng ở nông thôn. Vì vậy, Đảng phải luôn kiên trì vũ trang lý luận khoa học, giáo dục truyền thống, kiên trì vũ trang lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “ ba đại diện”, bồi dưỡng tri thức, văn hóa để thúc đẩy tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên; kết hợp xây dựng tư tưởng, tổ chức với xây dựng tác phong; phương châm là đảng ủy lãnh đạo thống nhất, bộ ngành cơ quan cùng nắm, cùng quản, trên dưới cùng tiến hành và nắm chắc thường xuyên, không lơi lỏng, bình xét đảng viên một cách dân chủ, xử lý nghiêm đảng viên vi phạm tư cách. Lấy “kiên trì tiêu chuẩn, bảo đảm chất lượng, cải thiện cơ cấu, thận trọng phát triển” làm phương châm, trọng điểm là phát triển đảng viên mới trong nông dân.Vận dụng nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác –Lênin, nghiêm chỉnh tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, học tập kinh nghiệm mới mẻ của các đảng cộng sản khác, tiếp thu thành quả bổ ích của văn minh đương đại thì mới có thể quản lý Đảng nghiêm minh, thúc đẩy Đảng tiên phong liêm chính có hiệu quả. Bài viết “Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một cách tích cực” (2009) của Vương Tề Ngạn [164]. Theo tác giả, kể từ cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc xây dựng tổ chức chính quyền cơ sở cấp xã, thị trấn, thiết lập thôn hành chính dưới xã, thị trấn, thôn hành chính bầu ra ủy ban dân làng theo “Luật tổ chức ủy ban dân làng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, thực hiện dân làng tự trị. Hiện nay, Trung Quốc có hơn 40 nghìn tổ chức chính quyền cơ sở, hơn 613 nghìn ủy ban dân làng, kết hợp giữa xây dựng chính quyền xã, thị trấn với phát triển tự trị dân làng góp phần củng cố nền tảng cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thúc đẩy kinh tế, xã hội nông thôn phát triển, tăng cường quản lý xã hội ở cơ sở. Theo tác giả, thúc đẩy hơn nữa xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, bảo đảm dịch vụ công cộng không ngừng tăng lên của đông đảo nông dân; cải thiện dân sinh, phát triển dân chủ, phục vụ xã hội là nội dung quan trọng của xây dựng nông thôn mới XHCN. Để đạt được mục tiêu đó tác giả đề xuất các giải pháp như: khơi thông quan hệ xã, thôn, thực hiện quản lý của chính quyền và tự trị của dân làng thúc đẩy lẫn nhau một cách tích cực; cải tiến phương thức quản lý hành chính cơ sở, xây dựng chính quyền kiểu phục vụ, một mặt cần xác định rõ chức năng, vị trí của xã, thị trấn, thúc đẩy chuyển biến chức năng chính quyền xã, thị trấn, mặt khác cần thay đổi tư duy quản lý và dịch vụ hiệu quả cao hơn, nâng cao hiệu quả quản lý và dịch vụ của chính quyền xã, thị trấn; phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo của TCCSĐ, nắm bắt phương hướng phát triển của tự trị quần chúng cơ sở. 1.1.2. Công trình nghiên cứu của nước ngoài về Tây Nguyên Tây Nguyên là địa bàn chiến lược cực kỳ quan trọng luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, một số công trình của các tác giả người Pháp nghiên cứu về các dân tộc ở Tây Nguyên như: Về người M’nông Ga của G.Condominas; Về người Mạ của Bulbe; Les Jungles mois nghĩa là Rừng người Thượng (1912) của Henri Maitre viết về vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam được xuất bản lần đầu vào năm 1912 tại Pháp [70]. Các tác phẩm Về người Gia Rai; Rừng, Đàn bà và Điên loạn (2002); Miền đất huyền ảo (2003) của Jacques.Dournes [90]. Trong các công trình trên, các tác giả đã khảo cứu về địa lý, nguồn gốc, văn hoá, tín ngưỡng, phong tục của một số dân tộc đã sinh sống lâu đời ở Tây Nguyên. Kết quả nghiên cứu của các công trình này tuy đề cập được một vài nét về đặc điểm văn hóa của đồng bào Tây Nguyên, nhưng chưa toàn diện và ban đầu chỉ nhằm phục vụ cho công cuộc xâm lược của thực dân Pháp đối với nước ta. Trong thời kỳ 1954 - 1975, người Mỹ đã tăng cường nghiên cứu về các dân tộc Tây Nguyên nhằm duy trì ách cai trị của chủ nghĩa thực dân mới trên vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng này. Tài liệu “Tự do trong rừng thẳm”, “Lịch sử các sắc tộc vùng Tây Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến 1976” của Gerald Lormon G.Hickey [65]; “Những nhóm thiểu số ở Cộng hòa Nam Việt Nam” Westmoreland người Mỹ - chủ biên. Trong đó, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc đặc điểm tự nhiên, văn hoá, dân tộc ở vùng Nam Trung bộ, đặc biệt là Tây Nguyên, nhưng mới chỉ nhấn mạnh vấn đề sắc tộc, làm cho người đọc hiểu sai lệch về quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên. Đây là vấn đề cấp thiết cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ đặc điểm địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên địa bàn Tây Nguyên và những giải pháp góp phần phát triển Tây Nguyên bền vững. 1.2. Công trình nghiên cứu ở trong nước 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở. Cuốn sách: Xây Dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền (1992) của PGS.PTS Đỗ Nguyên Phương và PTS Trần Ngọc Đường [113]. Công trình này đã đưa ra khái niệm về HTCT xã hội chủ nghĩa là tổng thể các lực lượng chính trị bao gồm đảng cộng sản, nhà nước, các đoàn thể nhân dân mang tính chất chính trị - xã hội hoạt động theo một cơ chế thống nhất phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, thực hiện đường lối, mục tiêu xây dựng CNXH. Cơ chế đó bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân do đảng cộng sản lãnh đạo. Đồng thời, công trình đã phân tích luận giải khá sâu sắc quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong HTCT nước ta. Quán triệt và thực hiện Nghị quyết 17/NQTW, Hội nghị lần thứ năm, BCHTW Đảng khóa IX (3/2002) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn” [40] đã có các công trình khoa học “Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp” (2002) của TS Vũ Hoàng Công [34]; Sách “Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay”(2003) PGS.TS Tô Huy Rứa, PGS.TS Nguyễn Cúc, PGS.TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) [119]; Sách “Hệ thống chính trị cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới” (2004) TS Chu Văn Thành - chủ biên [123]; Sách “Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay” (2004) của GS.TS Hoàng Chí Bảo - chủ biên [20] dựa trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay”. Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ các vấn đề lý luận về HTCT, HTCTCS ở nước ta như: khái niệm, cấu trúc, bản chất, mục tiêu, cơ sở chính trị - xã hội của HTCT trong quá trình hình thành và phát triển; chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức thành viên và mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT. Luận giải, làm rõ khái niệm HTCTCS, phân tích đặc điểm và tình hình hoạt động của HTCTCS; đồng thời, dự báo những xu hướng biến đổi, phát triển của HTCTCS trong thời gian tới dưới tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội, dân số; yêu cầu xây dựng và thực thi nền dân chủ XHCN; yêu cầu tiếp tục đổi mới chính trị trong thời kỳ CNH,HĐH. Các công trình đều khẳng định bản chất, mục tiêu của đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT là nhằm thực hiện và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Cần tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa HTCTCS với quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, các tác giả mới nghiên cứu HTCTCS ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn đối với loại hình HTCTCS các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên có những đặc thù riêng mà các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu. Cuốn sách “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005- 2020” (2008) của PGS.TS Trần Đình Hoan, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng làm Chủ nhiệm cùng với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, từ kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.10-02 “Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2005-2020” thuộc chương trình KX.10 “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” [73]. Trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong hơn 20 năm qua, các tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ tính tất yếu khách quan của việc đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay, nêu ra các mục tiêu, quan điểm và nguyên tắc đổi mới HTCT; đề xuất phương hướng và các giải pháp đổi mới HTCT ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020. Theo đó, đổi mới HTCT không nhằm mục tiêu tạo ra một HTCT mới hay thay đổi bản chất của HTCT hiện nay, mà thực hiện đổi mới theo hướng hoàn thiện để khắc phục các bất cập, yếu kém, tạo nên sự phù hợp của HTCT với các yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới HTCT nhằm giữ vững ổn định chính trị, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống lại mọi âm mưu “DBHB”. Đổi mới HTCT để củng cố, tăng cường, mở rộng nền tảng xã hội của HTCT, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sự đồng thuận xã hội để thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển. Đổi mới HTCT luôn phải đảm bảo và nâng cao vị trí, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, trong đó, đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới HTCT. Cuốn sách “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”(2008) của GS.TS Nguyễn Phú Trọng - làm chủ nhiệm với sự tham gia của nhiều nhà khoa học [148], khi bàn về đổi mới HTCT, phát huy dân chủ XHCN, các tác giả đã phân tích khá sâu sắc tư duy lý luận của Đảng ta về HTCT đất nước. Theo các tác giả, trải qua 20 năm đổi mới, HTCT nước ta đã tập trung từng bước làm rõ các vấn đề: dân chủ XHCN; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân làm chủ. Mục tiêu cao nhất trong hoạt động của HTCT nước ta là giữ vững định hướng XHCN, gắn độc lập dân tộc với CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cuốn sách chuyên khảo của các tác giả GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS.TS Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) (2008) “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam” [107]; PGS.TS Lê Hữu Nghĩa có bài báo khoa học (2013) “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [108]. Các tác giả khảng định đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội là nội dung chủ yếu và căn bản của đổi mới HTCT ở nước ta hiện nay. Đề cập cơ sở lý luận, thực tiễn, những nhân tố tác động và yêu cầu đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay; sơ lược quá trình hình thành và phát triển quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta; chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế, yếu kém cùng với những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó rút ra bản chất, xác định những quan điểm, nguyên tắc và đề xuất những nội dung, giải pháp chủ yếu của đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, như: đổi mới về nhận thức, về tổ chức cán bộ; đổi mới thể chế, cơ chế và qui chế hoạt động của các tổ chức trong HTCT; đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đổi mới công tác giáo dục tuyên truyền trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và dự báo khoa học các vấn đề chính trị, xã hội phục vụ cho yêu cầu lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và thực hành dân chủ của nhân dân. Các tác giả cho rằng: đổi mới HTCT ở nước ta không có mục đích tự thân mà mục đích sâu xa, bản chất, quan trọng nhất của nó là hướng vào xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ và vai trò làm chủ thực sự của người dân 1.2.2. Những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên và hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên Một số công trình chuyên khảo về dân tộc, quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm cuối thế kỷ XX như: Đề tài cấp Bộ “Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên” (1994 - 1995) do TS Nguyễn Văn Nam - chủ nhiệm [106]; cuốn sách “Vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên” ( 2010) của PGS.TS Nguyễn Văn Nam [105]. Sách “Tây Nguyên – nơi hội tụ văn hóa truyền thống và tình đoàn kết các dân tộc” (2006) của các tác giả Đậu Xuân Luận, Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Văn Lượng [98]. Sách “Tây Nguyên – vùng đất, con người” (2006) của các tác giả Đinh Văn Thiên, Lê Quang Lợi, Nguyễn Trường Sơn [126]. Các công trình trên đã nghiên cứu, khái quát về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và truyền thống trong đấu tranh cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ; nêu bật những thành tựu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội Tây Nguyên. Sưu tầm, biên soạn những đặc điểm văn hóa cộng đồng, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, các công trình kiến trúc của các dân tộc Tây Nguyên. Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận động quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, các tác giả đã xác định phương hướng, giải pháp xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây Nguyên như: đẩy mạnh phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của điều kiện tự nhiên ở Tây Nguyên; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề dân tộc, xây dựng quan hệ dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau; tích cực củng cố, đổi mới, xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT các cấp, đặc biệt là cơ sở; kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu "DBHB" chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Tuy đã nhấn mạnh đến xu hướng xích lại gần nhau giữa các dân tộc, nhưng nhóm nghiên cứu chưa đề cập những mầm mống, nguyên nhân làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc từ tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc ở Tây Nguyên. Cùng với các công trình trên, cuốn sách: “ Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên” (2010) của TS Bùi Minh Đạo [47] đã đề cập nhiều đặc trưng văn hóa, xã hội, con người Tây Nguyên hình thành từ những tác động của điều kiện tự nhiên - xã hội. Trong đó, yếu tố quan trọng được tác giả luận giải sâu sắc về hình thái tổ chức xã hội cổ truyền “làng” (plei, plơi, buôn, bon) là đơn vị xã hội độc lập và duy nhất, mỗi buôn làng Tây Nguyên đều tồn tại thiết chế xã hội tự quản, làm nhiệm vụ quản lý và điều tiết các mối quan hệ giữa con người với nhau và các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thông qua luật tục và phong tục tập quán có sẵn tự ngàn xưa. Tuy nhiên, hiện nay làng của các DTTS Tây Nguyên không còn là một thực thể đơn nhất, mà bao trùm lên nó là hệ thống thiết chế chính trị của Nhà nước. Vì vậy, buôn làng trở thành “cánh tay nối dài” của chính quyền cơ sở đến các hộ gia đình và từng người dân. Đặc trưng xã hội này là cơ sở xác định yếu tố tác động đến xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên. Luận án tiến sĩ triết học “Phát huy vai trò bộ đội địa phương trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của địch trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay” ( 2009) của Nguyễn Trường Sơn [121]. Trong đó, tác giả đã làm rõ bản chất, â..., không thể coi nhẹ chức năng nào. Tuy nhiên, mỗi tổ chức có tôn chỉ, mục đích và điều lệ riêng, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các tổ chức đã được xác định rõ trong các luật, pháp lệnh của Nhà nước và điều lệ của các tổ chức đó. Vì vậy, cần căn cứ vào các đạo luật và điều lệ của từng tổ chức để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mỗi đoàn thể nhân. 1.1.3. Mối quan hệ và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên Thứ nhất, mối quan hệ của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên. HTCTCS có nhiều mối quan hệ đan xen, đa dạng, nhiều tầng, nhiều chiều, trực tiếp và gián tiếp. Những mối quan hệ trực tiếp duy trì sự tồn tại và hoạt động của HTCTCS: Một là, mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCTCS. Quan hệ giữa TCCSĐ với HĐND, UBND cấp xã. Đây là quan hệ giữa lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo, TCCSĐ vừa là tổ chức lãnh đạo, vừa là tổ chức thành viên của HTCTCS; luôn tôn trọng và phát huy tính chủ động, sáng tạo của HĐND, UBND cấp xã; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, tôn trọng Luật tổ chức HĐND, UBND. Sự lãnh đạo của TCCSĐ đối với HĐND, UBND cấp xã là điều kiện bảo đảm cho HĐND, UBND cấp xã hoạt động đúng Hiến pháp, pháp luật. HĐND, UBND cấp xã là tổ chức công quyền thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. TCCSĐ không thực hiện quyền lực của HĐND, UBND, không bao biện, làm thay công việc của HĐND, UBND. HĐND, UBND cấp xã thực hiện phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực trong quản lý kinh tế - xã hội ở cơ sở trong khuôn khổ của luật pháp. Hiện nay, ở địa bàn Tây Nguyên phần lớn cấp xã đều thực hiện mô hình bí thư kiêm chủ tịch HĐND. Do vậy, bí thư là người chủ trì hoạt động của HĐND, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho gắn bó chặt chẽ ý Đảng với lòng dân. Bí thư Đảng ủy có quyền yêu cầu chủ tịch báo cáo, có quyền chỉ thị, chỉ đạo, đôn đốc chủ tịch thực hiện chức trách của mình. Quan hệ giữa người đứng đầu tổ chức đảng, với người đứng đầu chính quyền là quan hệ thường xuyên, hàng ngày nhằm giải quyết những công việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương. Quan hệ giữa TCCSĐ với ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. TCCSĐ cấp xã vừa là thành viên của HTCTCS, vừa là tổ chức thành viên của MTTQ cấp xã, đồng thời cũng là lực lượng lãnh đạo MTTQ. Vì vậy, TCCSĐ có nhiệm vụ lãnh đạo, tạo điều kiện cho ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ. TCSSĐ lãnh đạo bằng nghị quyết, thông qua các hoạt động của ban chấp hành, thường vụ đảng ủy, bí thư đảng ủy, các đảng ủy viên, người đứng đầu ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân. Đảng ủy, thường vụ đảng ủy có quyền chỉ đạo hoạt động của ban chấp hành, hoặc tỏ thái độ đồng tình hay không đồng tình với các biện pháp, chủ trương của ban chấp hành các đoàn thể. Bí thư đảng ủy thay mặt đảng ủy, thường vụ chỉ đạo, đôn đốc đảng ủy viên, người đứng đầu các đoàn thể nhân dân. TCCSĐ lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân bằng chủ trương, quan điểm; bằng công tác cán bộ; bằng phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên; bằng công các chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, không áp đặt, quan liêu, mệnh lệnh. Trên cơ sở nghị quyết, chủ trương của đảng ủy cấp xã, ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân quán triệt, triển khai sâu rộng và thực hiện có hiệu quả nghị quyết của TCCSĐ; đồng thời, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở có những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến đóng góp để bổ sung cho nghị quyết của đảng ủy được đúng đắn, kịp thời. Đảng ủy cơ sở không ra lệnh, áp đặt, mà phát huy vai trò hạt nhân chính trị để hiệp thương, thuyết phục cho thấu tình đạt lý để Mặt trận và các đoàn thể thực hiện Quan hệ giữa HĐND, UBND với ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Đây là mối quan hệ giữa quản lý điều hành bằng pháp luật, kế hoạch với chấp hành; quan hệ hiệp thương phối hợp công tác, tạo điều kiện để cùng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. MTTQ tập hợp lực lượng, động viên các tầng lớp nhân dân xây dựng chính quyền và thực hiện các chương trình, mục tiêu mà đại hội đảng bộ và HĐND đề ra. MTTQ chủ trì hiệp thương để lập danh sách những ứng cử viên bầu vào HĐND. MTTQ là một thành phần của hội đồng bầu cử, tham gia tổ chức và giám sát cuộc bầu cử HĐND cấp xã. Mỗi năm hai lần, Chủ tịch HĐND phải thông báo bằng văn bản đến MTTQ xã về tình hình hoạt động của HĐND và nêu những kiến nghị với MTTQ. Ngược lại, trong kỳ họp HĐND, người đứng đầu ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân báo cáo về hoạt động của MTTQ và các đoàn thể trong việc xây dựng chính quyền. Người đứng đầu ủy ban MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở được tham dự các cuộc họp thường lệ của HĐND cấp xã về những vấn đề có liên quan [71, tr.61-62]. Mối quan hệ giữa HĐND, UBND với MTTQ và các đoàn thể là mối quan hệ hiệp thương phối hợp công tác. Hai bên có quyền kiến nghị với nhau. MTTQ, các đoàn thể nhân dân tập hợp, động viên các giới, các tầng lớp thực hiện pháp luật và các quy định của chính quyền, giúp chính quyền hoàn thành chức năng, nhiệm vụ. Nếu coi nhân dân là đối tượng chung thì chính quyền (HĐND, UBND) và MTTQ cùng các đoàn thể tác động vào đối tượng đó bằng các phương thức khác nhau, song có tác dụng hỗ trợ cho nhau. Một bên bằng biện pháp hành chính, một bên bằng biện pháp tuyên truyền, vận động, thuyết phục, giáo dục các đối tượng thi hành chính sách. Để đạt được các mục tiêu đề ra, giữa chính quyền và MTTQ, các đoàn thể nhân dân cần phải cộng tác, phối hợp với nhau, không bên nào được ép buộc, ra lệnh hoặc chỉ đạo, chỉ thị cho bên nào. Quan hệ giữa MTTQ ở cơ sở với các tổ chức thành viên và cá nhân tiêu biểu. Đây là mối quan hệ hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động theo các nguyên tắc thương lượng, dân chủ, thống nhất hành động, tôn trọng tính độc lập của tổ chức thành viên, thân ái giúp đỡ nhau cùng hoạt động. Ở cơ sở, các tổ chức thành viên của MTTQ phối hợp thống nhất hành động luôn có quan hệ mật thiết với nhau; đồng thời, giữ tính độc lập của mình, có hình thức tổ chức và hoạt động riêng nhằm phát huy thế mạnh của mỗi tổ chức, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả HTCTCS. Các tổ chức thành viên cần tôn trọng và thực hiện phương hướng và chương trình, mục tiêu chung do MTTQ đề ra, vì lợi ích của toàn dân, trong đó có lợi ích của từng tổ chức thành viên. MTTQ thực hiện chức năng tập hợp và đoàn kết liên minh, liên hiệp các tổ chức thành viên. Không có sự liên minh, liên hiệp ấy, MTTQ không thể hình thành, tồn tại và phát triển, trong đó vai trò chủ trì là ủy ban MTTQ ở cơ sở. Cá nhân tiêu biểu là những người đứng đầu trong các tổ chức, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo. Dựa vào đó, MTTQ tập hợp lực lượng, phát huy trí tuệ của các tầng lớp nhân dân. MTTQ tập hợp và đoàn kết toàn dân, gồm công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, cựu chiến binh, dân tộc, tôn giáo., các tổ chức đó nằm trong MTTQ, phối hợp cùng hành động với mục đích xây dựng, củng cố, đoàn kết toàn dân. Hai là, mối quan hệ giữa HTCTCS với các tổ chức, các lực lượng. Quan hệ giữa HTCTCS với HTCT cấp trên. Đây là quan hệ giữa lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn với phục tùng theo chiều dọc từ Trung ương xuống tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), đến huyện (quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), đến xã (phường, thị trấn); HTCTCS phải luôn quan hệ chặt chẽ, mật thiết, phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của HTCT cấp trên. Quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ HTCTCS phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của HTCT cấp trên một cách cụ thể, thiết thực và thường xuyên. HTCT cấp trên phải chỉ đạo, giúp đỡ, kiểm tra HTCTCS thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đôn đốc, nhắc nhở, chấn chỉnh HTCTCS hoạt động đúng thẩm quyền, trách nhiệm. Quan hệ giữa HTCTCS với nhân dân. Đây là mối quan hệ giữa cơ quan đại diện cho quyền làm chủ với nhân dân là người làm chủ ở cơ sở. HTCTCS lãnh đạo, tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ cho nhân dân nâng cao nhận thức và thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của địa phương. HTCTCS đại diện và bảo đảm quyền làm chủ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, lợi ích thiết thực và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Nhân dân chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của đảng ủy cấp xã, sự quản lý điều hành của chính quyền, tham gia các phong trào, các chương trình hành động cách mạng ở địa phương, tham gia xây dựng HTCTCS vững mạnh. Quan hệ giữa HTCTCS với các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, LLVT trên địa bàn Tây Nguyên. Đây là mối quan hệ phối hợp công tác, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cơ quan, đơn vị và khối đại đoàn kết toàn dân trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở cơ sở. Các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, LLVT, tổ chức xã hội, tuy có chức năng, nhiệm vụ cụ thể, nhưng đều có trách nhiệm chung là tham gia xây dựng HTCTCS, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Căn cứ vào tình hình, nhiệm vụ, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, LLVT chủ động phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương để xây dựng HTCTCS vững mạnh. Thứ hai, phương thức hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên là tổng thể các cách thức, phương pháp hoạt động theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HTCTCS. Theo đó, hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên bao gồm tổng thể các phương thức hoạt động của các tổ chức sau: Một là, phương thức lãnh đạo của TCCSĐ đối với HTCTCS và nhân dân bằng việc đề ra nghị quyết, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh cho các tổ chức trong HTCTCS và nhân dân thực hiện. Lãnh đạo xây dựng các tổ chức và đội ngũ cán bộ của các tổ chức trong HTCTCS; Lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng và đảng viên làm việc trong các tổ chức của HTCTCS. Lãnh đạo thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức trong HTCTCS trong việc thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phương pháp lãnh đạo của TCCSĐ là dân chủ, nêu gương, thuyết phục vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, qui chế, qui ước cộng đồng dân cư và các phong trào thi đua yêu nước; tiên phong trong đấu tranh phòng chống các hiện tượng tiêu cực trong Đảng và ngoài xã hội. Hai là, phương thức hoạt động của chính quyền cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên. Hội đồng nhân dân cấp xã do nhân dân trong xã bầu ra theo Điều 9, Luật bầu cử đại biểu HĐND năm 2003 và khoản 3 Điều 12, Qui chế hoạt động của HĐND. Phương thức hoạt động của HĐND cấp xã là thông qua các kỳ họp để quán triệt nghị quyết của TCCSĐ, ra nghị quyết về các vấn đề kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh cho UBND và nhân dân thực hiện; nghe UBND báo cáo việc chấp hành các nghị quyết của HĐND; thông qua kế hoạch quản lý, điều hành của UBND, xem xét, đánh giá kết quả, ưu khuyết điểm trong hoạt động của UBND và những đề nghị của UBND kết hợp với ý kiến của cử tri để ra nghị quyết, quyết định các biện pháp thực hiện các lĩnh vực sát đúng. Bầu và phê duyệt các chức danh hành chính ở xã theo luật định. Thực hiện chế độ tiếp xúc cử tri và tiếp công dân của đại biểu HĐND, qua đó tổng hợp ý kiến, kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân để HĐND xem xét giải quyết kịp thời và đúng qui định của pháp luật. Nhân dân (cử tri) có quyền phê bình, chất vấn HĐND và đại biểu HĐND. Đồng thời, HĐND và đại biểu HĐND được phê bình, chất vấn phải trả lời trước dân những vấn đề dân yêu cầu với tinh thần cầu thị và tôn trọng cử tri. Thực hiện chức năng giám sát của HĐND, thường trực HĐND, các ban của HĐND và đại biểu HĐND. Thực hiện nghiêm túc qui chế phối hợp hoạt động giữa HĐND và UBND trong tổ chức các kỳ họp, trong việc tiếp xúc cử tri [116, tr.10-12]. Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước ở địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được pháp luật qui định, thông qua hệ thống tổ chức, công vụ, các hoạt động tập thể của UBND, chủ tịch, các phó chủ tịch UBND, các thành viên UBND và các chức danh chuyên môn thuộc UBND. UBND cấp xã hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề cao trách nhiệm cá nhân và tinh thần chủ động sáng tạo của chủ tịch, các phó chủ tịch UBND, các thành viên UBND. Mỗi thành viên UBND cấp xã chịu trách nhiệm cá nhân về lĩnh vực được phân công. UBND cấp xã chấp hành sự chỉ đạo, điều hành của cơ quan nhà nước cấp huyện, tỉnh và sự lãnh đạo của đảng ủy, sự giám sát của HĐND xã; thực hiện tốt các qui chế phối hợp công tác với MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong quá trình triển khai thực hiện mọi nhiệm vụ. Tuyên truyền pháp luật trong nhân dân nhằm nâng cao ý thức, trình độ và sự hiểu biết về pháp luật. Giải quyết các công việc của công dân và tổ chức đúng thẩm quyền, phạm vi trách nhiệm và đúng pháp luật; bảo đảm công khai, minh bạch, kịp thời và hiệu quả; đúng trình tự, thủ tục, thời hạn qui định và chương trình, kế hoạch công tác của UBND cấp xã. Cán bộ, công chức cấp xã là những người được bầu hoặc được bổ nhiệm là “công bộc” của nhân dân, tận tuỵ phục vụ và tôn trọng nhân dân, hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của uỷ ban nhân dân [116, tr.38-40]. Ba là, Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở hoạt động theo phương thức hiệp thương, dân chủ, phối hợp thống nhất hành động theo Điều 3 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. MTTQ là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của nhiều tổ chức, nhiều giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Tổ chức và hoạt động của MTTQ đều do hiệp thương cử ra, không tuân theo biểu quyết bỏ phiếu lấy kết quả đa số. Nguyên tắc hiệp thương dân chủ lấy đồng thuận làm tiền đề. Đồng thuận có thể đạt được tối đa khi vấn đề đưa ra được tất cả đồng tình. Thực hiện nguyên tắc này cho phép MTTQ tập hợp rộng rãi các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các cá nhân tiêu biểu trên cơ sở những tổ chức và mọi cá nhân tự giác, tự nguyện thừa nhận cương lĩnh và chương trình hành động của MTTQ. Nhờ hiệp thương dân chủ, các quyết định đưa ra đảm bảo tính đúng đắn và tính khả thi vì những người ra quyết định cũng chính là những người thực hiện quyết định. Hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động là nguyên tắc, đồng thời là phương thức hoạt động của MTTQ. Đó là phối hợp hoạt động giữa các thành viên trong MTTQ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ công chức nhà nước theo qui định của pháp luật, vận động toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bằng các cuộc vận động toàn dân, các hình thức phối hợp rộng rãi, đa dạng, tập hợp và phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân mà MTTQ cơ sở qui tụ và tập hợp mọi giai cấp, các tầng lớp nhân dân địa phương vào MTTQ, làm cho tổ chức MTTQ ngày càng sâu, rộng trong nhân dân, tính quần chúng của MTTQ ngày càng được tăng cường, tính đại diện của MTTQ ngày càng được mở rộng. Tổ chức hoạt động tự quản của nhân dân thông qua Ban công tác Mặt trận ở cộng đồng dân cư trực tiếp vận động các nhân sỹ, trí thức tiêu biểu, các chức sác tôn giáo, người tiêu biểu, các thương gia, những người cao tuổi có uy tín ở địa phương cơ sở là cách thức hoạt động có hiệu quả thiết thực của MTTQ xã, phường, thị trấn. Thông qua hình thức hoạt động này, MTTQ cơ sở vận động, tập hợp, khơi dậy truyền thống đoàn kết, yêu nước, nguồn lực và sức mạnh của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương [44, tr.86-87], [57], [114]. Bốn là, phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Các đoàn thể nhân dân trong HTCTCS là sự liên minh tự nguyện của những người theo tầng lớp, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp để thực hiện những chức năng xã hội nhất định, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Vì thế, phương thức hoạt động của các tổ chức này có tính đặc thù và có điểm chung là hoạt động dựa vào pháp luật và điều lệ của mỗi tổ chức, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh ở cơ sở; giáo dục, thuyết phục nâng cao nhận thức, giác ngộ chính trị, tự giác chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương, tạo ra sự đồng thuận về tư tưởng, chính trị trong tổ chức của đoàn viên, hội viên; thu thập ý kiến của nhân dân, đề xuất với cấp uỷ đảng và chính quyền những chủ trương, biện pháp giải quyết; tham gia xây dựng Đảng và chính quyền; điều chỉnh các mối quan hệ nội bộ thông qua điều lệ và các nghị quyết của mỗi tổ chức; hoạt động phối hợp, hiệp thương, dân chủ trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc, phương thức hoạt động của từng tổ chức, thành viên; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo đảm, thực hiện phát huy quyền làm chủ, chăm lo lợi ích của đoàn viên, hội viên; kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền [44, tr. 87], [50], [52], [53], [54], [55], [56]. 1.1.4. Đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên Một là, hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên hoạt động trong điều kiện địa giới, tổ chức hành chính các cấp chia tách nhiều lần, địa bàn rộng, khá phức tạp, sự phân bố dân cư không đồng đều, trình độ dân trí thấp. Trước thế kỷ XIX vùng đất Tây Nguyên vốn là vùng đất tự trị, địa bàn sinh sống của các bộ tộc thiểu số, sau khi người Pháp nắm được quyền kiểm soát Việt Nam, họ đã thực hiện hàng loạt các cuộc thám hiểm và chinh phục vùng đất Tây Nguyên. Trước 1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Cao nguyên Trung phần thành 7 tỉnh: KonTum, Plêiku, Phú Bổn, ĐắkLắk, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng với gần một triệu dân. Từ 1976 đến đầu thập niên 1990, Tây Nguyên gồm 3 tỉnh là Gia Lai-Kon Tum, Đắk Lắk, Lâm Đồng. Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ chín Quốc hội khóa VIII ( từ ngày 27-7-1991 đến 12-8-1991) tỉnh Gia Lai – Kon Tum được chia tách thành hai đơn vị hành chính là Gia Lai và Kon Tum. Từ ngày 01- 01- 2004 tỉnh Đắk Nông được thành lập theo Nghị quyết số 22/2003/QH 11 ngày 26 - 11 - 2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đắk Lắk. Hiện tại, địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng [95], [96],[97]. Địa bàn các xã, phường, thị trấn ở Tây Nguyên rất rộng, diện tích bình quân một xã gấp 2-3 lần các xã ở các tỉnh miền xuôi, dân số bình quân 6.264 người/xã, bình quân 35 người/1Km2 [109], địa hình hiểm trở, chia cắt phức tạp; dân cư xen lẫn với cả rừng cây, vườn đồi, sống phân tán, đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa, thông tin liên lạc bị hạn chế nhiều bởi đồi núi hiểm trở làm ảnh hưởng đến việc quản lý xã hội và hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HTCTCS. Trình độ dân trí của khu vực Tây Nguyên vẫn còn thấp, số người có trình độ học vấn cao vừa rất ít lại vừa có nguy cơ “chảy” sang vùng khác [phụ lục 40; 41]. Hai là, hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên chất lượng thấp, không đồng đều giữa các địa bàn, địa phương. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số nơi tỏ ra yếu kém, không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, khi có những vấn đề, vụ việc phức tạp không kịp thời giải quyết hoặc giải quyết không đúng, hoặc đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên. Một số bộ phận trong HTCTCS bị quan liêu, hành chính hóa, xa dân không nắm được tình hình thực tế trên địa bàn nên bị động trước diễn biến của tình hình. Nhiều thiết chế đặt ra chỉ là hình thức, không hoạt động, hoặc hoạt động kém hiệu quả, đặc biệt là các tổ chức quần chúng. Một số nơi, mọi việc đều do bí thư, chủ tịch giải quyết, hoặc đợi lệnh của bí thư, chủ tịch. Nhiều người được cơ cấu vào các thiết chế của HTCTCS nhưng năng lực yếu kém nên không hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác, do cơ cấu đặt ra còn mang tính hình thức, có chức nhưng không có quyền, không được tạo điều kiện để phát huy khả năng, vai trò của mình, trong khi đó một số cán bộ chủ chốt trong HTCTCS lại bao biện, làm thay, hoặc giải quyết các công việc không đúng chức trách, nhiệm vụ. Hiện tượng bí thư đảng làm thay công việc của chính quyền, chủ tịch UBND làm thay công việc của các đoàn thể quần chúng là khá phổ biến. Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ thấp so với yêu cầu, nhiệm vụ. Hiện nay, số cán bộ ở vùng dân tộc và miền núi Tây Nguyên có trình độ đại học, cao đẳng trở lên chiếm 2,1%, trình độ cán bộ ở các xã đặc biệt khó khăn còn thấp hơn nhiều. Số lượng đảng viên là người DTTS chiếm tỷ lệ thấp, nhiều thôn, bản vùng sâu, vùng xa ở Tây Nguyên chưa có đảng viên. Hoạt động của cấp uỷ, chính quyền và các đoàn thể nhiều nơi chưa hiệu quả. Nhiều cán bộ công tác ở vùng dân tộc không biết tiếng dân tộc, không yên tâm gắn bó với địa phương nơi công tác [14]. Sau sự kiện biểu tình năm 2001 và năm 2004 ở Tây Nguyên cho thấy, bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp ở Tây Nguyên nói chung và đội ngũ cán bộ cơ sở nói riêng còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ, đảng viên là DTTS vừa thiếu, vừa yếu, bản lĩnh chính trị không vững vàng, không dám đấu tranh trực diện với bọn phản động FULRO. Khả năng xử lý tình huống của một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt bộc lộ rõ sự yếu kém, bị động, lúng túng trước các tình huống, còn trông chờ ỷ lại vào trên. Cấp ủy, chính quyền ở những địa bàn trọng điểm chưa đáp ứng được yêu cầu tự xử lý những vấn đề khó khăn, phức tạp, nhất là khi có vấn đề phát sinh về an ninh, chính trị. Cán bộ đảng, chính quyền ở một số nơi bị tác động, vô hiệu hóa khi FULRO hoạt động mạnh. Ba là, hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên thường xuyên đối mặt với vấn đề bức xúc về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh. Nhìn chung kinh tế ở các xã vùng dân tộc, miền núi của Tây Nguyên chậm phát triển, một bộ phận đồng bào DTTS tại chỗ thiếu đất ở và đất sản xuất. Đối với đồng bào DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên, đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội, văn hóa, chính trị. Một số nơi xẩy ra tình trạng tranh chấp đất đai giữa đồng bào địa phương với các nông, lâm trường nhà nước, ảnh hưởng đến niềm tin của đồng bào vào chủ trương, chính sách của Đảng, tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch chống phá, chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên. Công tác giáo dục, đào tạo cho con em đồng bào DTTS còn gặp nhiều khó khăn; mặc dù mạng lưới trường lớp phổ thông hầu như phủ khắp các xã, phường, thị trấn; hệ thống trường dân tộc nội trú cũng phát triển khá mạnh, đến nay đã có ở hầu hết các huyện và thị xã trên toàn vùng Tây Nguyên. Tuy nhiên, điều kiện cơ sở vật chất, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên và học sinh, chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều bất cập. Qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Tây Nguyên là một trong những địa bàn trọng điểm được các thế lực phản động trong và ngoài nước lựa chọn chống phá HTCT, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đất đai, dân chủ, nhân quyền để chống phá. Với cái gọi là “Nhà nước Đê Ga”, chúng kích động tư tưởng ly khai, gây ra hai vụ bạo loạn chính trị đầu năm 2001 và năm 2004 làm mất ổn định chính trị, xã hội trên địa bàn một số tỉnh Tây Nguyên. Bốn là, hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên chịu sự ảnh hưởng mạnh của phong tục, tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số Tây Nguyên còn tồn tại một hệ thống già làng có vai trò khá quan trọng trong việc quản lý các buôn, làng, nhất là những lúc khó khăn về sản xuất và mâu thuẫn giữa các dòng họ, các thành viên trong buôn, làng rất chờ mong ý kiến của các già làng. Cũng có khi các già làng được mời tham dự vào việc phân xử, giải quyết tranh chấp, kiện tụng trong buôn làng. Ở một số xã vùng sâu, vùng xa, các thiết chế xã hội cổ truyền vẫn tiếp tục tồn tại và được sử dụng vào việc điều hành hoạt động của xã hội. Phần đông các buôn làng ở các tỉnh Tây Nguyên hiện nay vẫn còn mang tính nửa tự quản. Trong từng buôn, làng dù có nằm trong tổ chức kinh tế nhà nước hay tập thể, cuộc sống người dân vẫn cơ bản diễn ra theo luật tục, tập tục cổ truyền, mà vai trò của già làng, chủ làng, chủ đất có ảnh hưởng chi phối rất lớn đến hoạt động của chính quyền cơ sở. 1.1.5. Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên Một là, hệ thống chính trị cơ sở trực tiếp lãnh đạo, quản lý, tuyên truyền, vận động tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong HTCTCS, đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo chính quyền cơ sở tổ chức thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; thực hiện quản lý nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được giao. HTCTCS trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, vận động, tổ chức các tầng lớp nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. HTCTCS có vai trò rất quan trọng trong duy trì sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở. Thông qua việc trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, để cộng đồng được ổn định, ai cũng có cuộc sống no ấm, giữ gìn được trật tự trị an và sự bình yên trên địa bàn. HTCTCS trực tiếp góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ, động viên mọi khả năng sáng tạo, sáng kiến của nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. HTCTCS còn có vai trò quan trọng đối với việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, chống lại sự xâm nhập của văn hóa xấu độc, phản văn hóa đang ảnh hưởng ngày càng sâu rộng trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, nhất là trong thanh, thiếu niên DTTS. Hai là, hệ thống chính trị cơ sở trực tiếp củng cố, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Hệ thống chính trị cơ sở là “cầu nối” giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước là người trực tiếp nắm bắt, giải quyết những nguyện vọng, yêu cầu chính đáng của nhân dân; HTCTCS trực tiếp nắm tình hình mọi mặt ở cơ sở, những bức xúc trong đời sống của nhân dân hoặc thông qua sự phản ánh của nhân dân, của cử tri để kịp thời phản ánh, kiến nghị lên cấp trên giải quyết. Vai trò làm “cầu nối” giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên được biểu hiện không chỉ qua truyền đạt và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách mà quan trọng hơn là hiện thực hóa đường lối, chủ trương, chính sách ngay tại địa phương; từ hiện thực đời sống nhân dân ở cơ sở, phản ánh kịp thời với cấp trên về tình hình cơ sở, phát hiện những nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định, bổ sung, sửa đổi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm cho đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với thực tiễn, hợp với lòng dân. Ba là, hệ thống chính trị cơ sở trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức nhân dân đấu tranh làm thất bại âm mưu “DBHB”, bạo loạn lật đổ của các thể lực thù địch. Tây Nguyên hiện nay đang là tiêu điểm chống phá của các thế lực phản động, thù địch với nhiều thủ đoạn chia rẽ dân tộc, giành dân, vô hiệu hoá hoạt động của HTCTCS, chia rẽ Đảng, Nhà nước với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, lôi kéo quần chúng gây mất ổn định chính trị - xã hội, biến Tây Nguyên thành một vùng tự trị với cái gọi là “ nhà nước Đề – Ga độc lập”. Thực chất và cốt lõi của cuộc đấu tranh chống “DBHB” trên địa bàn Tây Nguyên là cuộc đấu tranh giành dân và giữ dân, bảo vệ dân để dân yên tâm xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong đấu tranh chống “DBHB” của các thế lực thù địch, HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn nhân dân đấu tranh chống mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù. HTCTCS là lực lượng nòng cốt tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước; bản chất, âm mưu, thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch đối với Tây Nguyên. HTCTCS là người bảo vệ, chỗ dựa cho quần chúng, phát huy sức mạnh của nhân dân trong đấu tranh chống “DBHB”, chống vượt biên, truyền đạo trái phép, phát hiện và triệt phá các tổ chức phản động FulRo 1.2. Những vấn đề cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên 1.2.1. Quan niệm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên * Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên Hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên là tổng hòa kết quả đổi mới, hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, thể chế chính trị, đáp ứng yêu cầu phát huy tốt dân chủ ở cơ sở, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, phát huy tối đa vai trò, sức mạnh của nhân dân làm cho tình hình chính trị luôn ổn định; kinh tế - xã hội phát triển bền vững; bản sắc văn hóa Tây Nguyên được giữ gìn, phát huy; đời sống vật chất, văn hóa – tinh thần của nhân dân được cải thiện; quốc phòng – an ninh luôn được củng cố vững chắc. Hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên được khảng định là vững mạnh khi đáp ứng những tiêu chuẩn sau: Một là, tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn thường xuyên được củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh, giữ vững vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân và các ban ngành chức năng ở xã, phường, thị trấn thường xuyên được củng cố, kiện toàn đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ sở. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở được xây dựng vững chắc, hoạt động đúng chức năng đại diện và thực hiện quyền làm chủ của các thành viên, hội viên, phát huy sức mạnh đoàn kết của các tầng lớp nhân dân tham gia có hiệu quả vào thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước và mở cửa hội nhập quốc tế. Hai là, chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, quản lý phát triển kinh tế - xã hội của HTCTCS không...ựng HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên vững mạnh đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Trong những năm qua, quán triệt Nghị quyết của Đảng về xây dựng HTCTCS xã, phường, thị trấn, các tỉnh trên địa bàn Tây Nguyên đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và củng cố HTCTCS, bước đầu được củng cố và tăng cường về mọi mặt. TCCSĐ từng bước được củng cố, thực hiện tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo HTCTCS. Chính quyền cấp xã, phường, thị trấn đã được kiện toàn một bước, chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành từng bước được nâng lên. Mặt trận và các đoàn thể được đổi mới tổ chức và hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, công tác xây dựng và hoạt động của HTCTCS trên địa bàn Tây Nguyên đã bộc lộ không ít hạn chế, khuyết điểm. Những thành tựu, ưu điểm và hạn chế khuyết điểm trong xây dựng HTCTCS ở Tây Nguyên bắt đầu từ nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan; trong đó, những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu quyết định. Thực tiễn xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên đã để lại nhiều kinh nghiệm quí báu cần được tiếp tục vận dụng và phát huy. 3. Trong xu thế đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào môi trường quốc tế và khu vực, việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện HTCT nói chung và HTCTCS nói riêng là điều kiện tất yếu bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Những nguyên tắc và yêu cầu về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động HTCT cấp vĩ mô chiến lược chi phối rất lớn đến quá trình đổi mới và hoàn thiện HTCT cấp cơ sở ở Tây Nguyên. Xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên là nhiệm vụ rất quan trọng của chiến lược phát triển Tây Nguyên trong tình hình mới. 4. Xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên cần phải quán triệt phương hướng, yêu cầu và tiến hành đồng bộ các giải pháp cơ bản, trọng tâm là tạo chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành; xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân vững mạnh; phát huy sức mạnh của các tổ chức, lực lượng tham gia xây dựng HTCTCS vững mạnh; Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo ở cơ sở. 5. Xây dựng HTCTCS vững mạnh trên địa bàn Tây Nguyên là quá trình phức tạp, lâu dài đòi hỏi phải vận dụng linh hoạt hệ thống các giải pháp cơ bản, tập trung phát huy hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, uy tín của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền; tạo nên sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể và nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; nâng cao dân trí và cải thiện một bước đời sống cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên ./. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Phan Sỹ Thanh (2009), Về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở tỉnh Đăk Nông hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 05, tr 61 – 64. 2. Phan Sỹ Thanh (2009), Một số kinh nghiệm xây dựng thế trận lòng dân của lực lượng vũ trang tỉnh Đăk Nông, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Học viện Chính trị, số 2 (114), tr 49 – 52. 3. Phan Sỹ Thanh (2009), Bồi dưỡng phương pháp, tác phong công tác đội ngũ chính trị viên ban chỉ huy quân sự cấp huyện trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân quân Tự vệ giáo dục quốc phòng, Cục Dân quân Tự vệ - Bộ Tổng Tham mưu, số 19 (63), tr 39 – 42 4. Phan Sỹ Thanh (2009), Về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7 (224), tr 63 – 66. 5. Đại tá. PGS.TS Phạm Đình Nhịn và Phan Sỹ Thanh (2010), Vận dụng tư tưởng “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác dân vận của quân đội hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Học viện Chính trị, số 2 (120), tr 34 – 37. 6. Phan Sỹ Thanh (2011), Về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên ( 2005 – 2010) , Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11 (252), tr 65 – 68. 7. Phan Sĩ Thanh (2011), Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở các xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số 11, tr 57 – 61. 8. Phan Sỹ Thanh (2012), Phát huy vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tây Nguyên trong đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực , Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7 (260), tr 35 – 40. 9. Đại tá,PGS,TS Phạm Văn Thắng và Trung tá Phan Sỹ Thanh (2013), thực tiễn, kinh nghiệm công tác quân sự, quốc phòng địa phương của tỉnh Quảng Trị và những vấn đề đổi mới, xây dựng chương trình môn công tác đảng, công tác chính trị trong đào tạo chính ủy, chính trị viên cơ quan quân sự địa phương hiện nay, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Học viện Chính trị, số 2 (138), tr 37 – 41. 10. Phan Sỹ Thanh (2013), Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn Tây Nguyên trong thời kỳ mới, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3, tr 67 – 70. 11. Phan Sỹ Thanh (2013), Công tác dân vận của lực lượng vũ trang tỉnh Đắk Nông, thực trạng và một số kinh nghiệm, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Một số vấn đề về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng trong thời kỳ hiện nay”, giữa Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh Đắk Nông, tháng 7 năm 2013, tr.213-219. 12. Phan Sỹ Thanh (2013), Công tác phát triển đảng trong đồng bào các tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên (2005-2012), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9 (274), tr.53 – 57 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Ban Bí Thư Trung ương Đảng khóa IX (2004), Quy định số 94/QĐ-TW ngày 03/3 về việc qui định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn. Ban Bí Thư Trung ương Đảng khóa IX (2004), Quy định số 95/QĐ-TW ngày 03/3 về việc qui định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã. Ban Chấp hành Trung ương (2002), Nghị quyết số 10/NQ-TW, ngày 18/01 của Bộ chính trị, về phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm quốc phòng – an ninh vùng Tây Nguyên 2001 – 2010, Lưu hành nội bộ. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Quy định số 123/QĐ-TW của Bộ Chính trị, một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người có đạo và đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo, Lưu hành nội bộ. Ban Chấp hành Trung ương (2004), Thông báo số 160/TB-TW của Ban Bí thư về một số chủ trương công tác đối với đạo Tin lành, Lưu hành nội bộ. Ban Chấp hành Trung ương (2011), Kết luận số 12/KL-TW ngày 24/10 của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục thực hiện nghị quyết 10- NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011 – 2020. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2003), Kết luận của ban chỉ đạo Tây nguyên về Tin lành Tây Nguyên, số 20/BC-BCĐTN, ngày 10/6. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2004), nhiệm vụ và tình hình Tây Nguyên năm 2003 và giải pháp năm 2004, ngày 03/02. Ban Chỉ đạo Tây nguyên (2004), Báo cáo của thường trực ban chỉ đạo Tây Nguyên về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở Tây Nguyên, số 17, ngày 18/3. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2009), Báo cáo tình hình hoạt động của phó bí thư chuyên trách xây dựng hệ thống chính trị cấp xã, Lưu hành nội bộ. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2009), Báo cáo tình hình thực hiện chính sách đối với cán bộ thôn, buôn, tổ dân phố ở các tỉnh Tây Nguyên, Lưu hành nội bộ. Ban Chỉ đạo Tây nguyên (2009), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện Thông báo 160-TB/TW của Ban Bí thư khoá IX “Về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành”, số 79/BC-BCĐTN ngày 22/4. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2011), Báo cáo số 07/BC-BCĐTN về tổng kết Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 18-01-2002 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001-2010. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2012), Báo cáo số 56/BC- BCĐTN, ngày 25/10/2012, Kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” vùng Tây Nguyên. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2012), Báo cáo về tình hình thu hẹp số thôn, buôn, tổ dân phố chưa có đảng viên tại chỗ và chưa có chi bộ đảng ở vùng Tây Nguyên đến năm 2011, ngày 24/02. Ban Tổ chức Trung ương (2005), Hướng dẫn thực hiện quyết định số 123 /QĐ-TW của Bộ Chính trị về kết nạp Đảng viên đối với người có đạo và Đảng viên có đạo tham gia sinh hoạt tôn giáo, số 40 – HD/BTCTW, Lưu hành nội bộ. Ban Tôn giáo Chính phủ (2001), Đề án về công tác đối với đạo Tin lành ở Tây Nguyên, số 24/ DA-TGCP, Lưu hành nội bộ. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hà Ban, Nguyễn Diễn, Trần An Phong, Đoàn Gia Dũng (2005), Bàn về định hướng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh Tây Nguyên, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Kinh tế miền trung - Tây Nguyên tiềm năng - động lực và giải pháp, Nxb Đà Nẵng. Hoàng Chí Bảo (chủ biên) (2005), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đăk Nông (2011), Báo cáo kết quả công tác dân vận và tuyên truyền đặc biệt năm 2001 - 2011, Lưu hành nội bộ. Bộ quốc phòng (2002), Chỉ thị 123/CT-BQP về việc củng cố kiện toàn hoạt động của tổ đội công tác trên địa bàn Tây bắc, Tây nguyên, Tây Nam bộ, ngày 16/9. C.Mác và Ph. Ăngghen (1848), “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1995, tr.591-646. Chính phủ (2001), Quyết định 168/QĐ-TTg, tháng 10/2001 của Thủ tướng Chính phủ Về việc định hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001- 2005 và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, Lưu hành nội bộ. Chính phủ (2002), Quyết định số 132/QĐ-TTg ngày 08/10 của Thủ tướng Chính phủ Về việc giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên, Lưu hành nội bộ. Chính phủ (2003), Quyết định 253/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Phê duyệt Đề án một số giải pháp củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2002- 2010, Lưu hành nội bộ. Chính phủ (2004), Quyết định số 107/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, Lưu hành nội bộ. Chính phủ (2006), Quyết định 34/2006/QĐ-TTg ngày 08/02 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn người dân tộc thiểu số giai đoạn 2006-2010, Lưu hành nội bộ. Chính phủ (2006), Nghị định số 134/NĐ-CP, Về quy định chế độ cử tuyển vào cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, Lưu hành nội bộ. Chính phủ (2007), Quyết định số 20/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Chính phủ (2008), Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01/02, Về phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính phủ (2011), Quyết định 1951/QĐ-TTg ngày 02/11, Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh Tây Nguyên và huyện miền núi của các tỉnh giáp Tây Nguyên giai đoạn 2011-2015. Chính phủ (2012), Quyết định 936/QĐ-TTg ngày 18/7, Phê duyệt qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên đến năm 2020. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá đội lên CNXH, Nxb, Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Nghị quyết số 13/NQ-TW, ngày 16/8, Hội nghị lần thứ bảy, BCHTW Đảng, khóa VIII, Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 17/NQ-TƯ ngày 18/3, Hội nghị lần thứ năm, BCHTW Đảng khoá IX “Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, BCHTW Đảng khoá IX, Về công tác dân tộc, Về công tác tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết số 12/NQ-TW ngày 16/01 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Hội nghị lần thứ tư, BCHTW khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Kết luận số 64/KL-TƯ, ngày 28/5, Hội nghị lần thứ bảy, BCHTW Đảng khóa XI, “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở”. Bùi Minh Đạo (2010), Tổ chức và hoạt động buôn làng trong phát triển bền vững vùng Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Bùi Minh Đạo (2012), Một số vấn đề của xã hội Tây Nguyên trong phát triển bền vững, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Khoa Điềm (2003), “Công tác tư tưởng - văn hóa góp phần ổn định chính trị, tư tưởng các tỉnh Tây Nguyên”, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 9. Điều lệ Công đoàn Việt Nam (2008), (Đại hội Công đoàn toàn quốc lần thứ X). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), (Đại hội đại biểu toàn quốc khóa XI), Nxb Chính trị quốc gia. Điều lệ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2007), (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX). Điều lệ Hội Cựu chiến binh Việt Nam (2007), (Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV). Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), (Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XI). Điều lệ Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam (2010), (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2010-2015, Phê duyệt kèm theo Quyết định số 176/QĐ-BNV ngày 14/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam (2008), (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V). Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2010), (Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII), Nxb Chính trị quốc gia. Kiều Bình Định (2008), Ổn định dân di cư tự do ở Ea Súp, Báo Quân đội nhân dân, số 16887, ngày 25/4/2008, tr.6. Nguyễn Hữu Đổng (chủ biên) (2009), Đảng và các tổ chức chính trị- xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trương Minh Dục (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây nguyên (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trương Minh Dục (2011), “Phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên trong những năm 2001 – 2010: từ chính sách đến thực tiễn”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 3(3), tr.9-16 Nguyễn Thành Dũng (2012), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Tiến Dũng (2010), Hoạt động tham gia xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh của các đơn vị quân đội trên địa bàn Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học, Học viện Chính trị. Nguyễn Tuấn Dũng (2005), Binh đoàn Tây Nguyên tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 3. Gerald Lormon G.Hickey, “Tự do trong rừng thẳm”, “Lịch sử các sắc tộc vùng Tây Nguyên Việt Nam từ năm 1954 đến 1976”, bản dịch thư viện Dân tộc học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, ký hiệu L 319. Nguyễn Văn Hào (2012), Tính tiền phong của đảng viên nông thôn các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Phạm Hảo, Trương Minh Dục (đồng chủ biên), (2003), Một số vấn đề xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đức Hạt, chủ biên, (2009), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Trần Hậu (2011), Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam quá khứ và hiện tại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Henri Maitre (2009), Les Jungles mois, nghĩa là Rừng người Thượng, Nxb Tri thức dịch sang tiếng Việt và ấn hành. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Nhị Hòa (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng trên địa bàn Tây Nguyên từ năm 1996 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Đình Hoan (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Học viện Lục quân (2005), Quân đội tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Tây nguyên trong điều kiện mới, Đề tài cấp Bộ Quốc phòng, Lưu hành nội bộ. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc (2004), về Xây dựng đảng cầm quyền kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. khoa toàn thư mở Wikipedia, mục: Tây Nguyên. thương mại.com.vn: Tây Nguyên: Những thành tựu sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 10 ( khóa IX). phủ.vn. (Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Lắk) (Cổng thông tin điện tử tỉnh Đắk Nông) Cộng sản.vn (Cổng thông tin điện tử tỉnh Kon Tum) (Cổng thông tin điện tử tỉnh Lâm Đồng) chí Cộng sản.org.vn chí Xây dựng Đảng.org.vn (Cổng thông tin điện tử UBND tỉnh Gia Lai) Lê Thị Phú Hương (2009), Công tác khoa giáo của các cấp ủy đảng trong xóa đói, giảm nghèo ở Tây Nguyên, Nxb, Chính trị quốc gia. Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2007), Hệ thống chính trị Anh, Pháp, Mỹ - mô hình tổ chức và hoạt động, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Thu Huyền (15/9/2011), “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ ở Kon Tum”, Tạp chí Xây dựng Đảng.org.vn Jacques.Dournes (2002), Về người Gia Rai; Rừng, Đàn bà và Điên loạn, sách dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. JayM.Shafritz (2002) Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia. Đào Huy Khuê (2011), “Một số yếu tố bất lợi cho sức khỏe trong thực hành phong tục tập quán cổ truyền của đồng bào Tây Nguyên”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 2(2), tr.35-42 Nguyễn Ngọc Lâm (2013), “Đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 2+3 tr.12-15. Nguyễn Thị Lan (2012), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng sự đồng thuận xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước. Nxb Chính trị quốc gia. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (1975- 2005),(2010), Nxb Chính trị quốc gia. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Nông (1930 – 2005),(2006), Nhà in Đắk Nông. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai, 2 tập,(2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đậu Xuân Luận, Nguyễn Kim Ninh, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Văn Lượng (2006), Tây Nguyên – nơi hội tụ văn hóa truyền thống và tình đoàn kết các dân tộc, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,tr.249-250. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, (2011), Nxb CTQG, Hà Nội,tr.269-339. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, ( 2011), Nxb CTQG, Hà Nội, tr.232-234. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, (2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,tr.518-520. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, “Điện gửi Đồng bào, chiến sỹ và cán bộ Tây nguyên”, (30/11/1968),( 2011), Nxb CTQG, Hà Nội,tr. 520-521. Nguyễn Văn Minh (2011), “Một số vấn đề đội ngũ cán bộ cơ sở và buôn làng ở Tây Nguyên”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 4 (4), tr.11-21 Nguyễn Văn Nam - chủ nhiệm (2010), Vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Nam - chủ nhiệm (1994 - 1995), Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên, Đề tài cấp bộ. Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên) (2008), Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Hữu Nghĩa (2013), “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1- tr.25 Niên giám thống kê (2011), Tổng Cục thống kê, Nxb Thống kê. OVLitvinốp (2005) “Đổi mới cơ cấu xã hội và hệ thống chính trị của Cộng hòa nhân dân Trung hoa”, H.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên – 2012), Phát huy vai trò các tổ chức xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Vũ Văn Phúc - chủ biên (2012), Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Nguyên Phương - Trần Ngọc Đường (1992) “Xây Dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền”, Nxb Sự Thật.Hà Nội. Quốc hội (1999), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Số 14/1999/QH10, ngày 12/06. Quốc hội (2005), Luật Thanh niên, Số 53/2005/QH11, ngày 29/11. Quốc hội (2003), Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Số 11/2003/QH11, ngày 26/11. Nguyễn Duy Quý (chủ biên) (2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Rolf H.W. Thee và Frank L. Wilson (1998), Chính trị học so sánh (bản dịch của Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), tr.108. Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên) (2003), Các giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Xuân Sang (2004), “Binh đoàn 15 đoàn kết gắn bó mật thiết với đồng bào Tây Nguyên, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6/2004. Nguyễn Trường Sơn (2009), Phát huy vai trò bộ đội địa phương trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở làm thất bại chiến lược “diễn biến hoà bình” của địch trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học - Học viện chính trị. Nguyễn Văn Thảng (2007), “Lực lượng vũ trang Quân khu 5 – tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6. Chu Văn Thành - chủ biên (2004), Hệ thống chính trị cơ sở - thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Nguyễn Phúc Thanh (2004), “Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh trên địa bàn chiến lược các tỉnh Tây Nguyên”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6. Thu Thảo (2011), “Tỉnh ủy Đắk Lắk sơ kết 5 năm thực hiện công tác cán bộ người dân tộc thiểu số”, Tạp chí Xây dựng Đảng.org.vn, ngày 3/4. Đinh Văn Thiên, Lê Quang Lợi, Nguyễn Trường Sơn (2006), Tây Nguyên – vùng đất, con người, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Trần Thiết (2011), “Gia Lai tuyển chọn sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở công tác - kết quả và kinh nghiệm”, Tạp chí Xây dựng Đảng.org.vn, ngày 19/9. Nguyễn Duy Thiệu (2012), “Luật tục và vai trò của luật tục trong đời sống xã hội hiện đại ở một số dân tộc bản địa Tây Nguyên”, Tạp chí Khoa học xã hội Tây Nguyên, số 1(5), tr.11-19. Ngô Đức Thịnh (2008), “Văn hóa truyền thống Tây Nguyên – Tiềm năng, thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong bảo tồn và phát triển”, Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung – Tây Nguyên, số 1. Vũ Thu Thủy (2013), “Những khó khăn, bất cập và giải pháp xây dựng hệ thống chính trị cơ sở”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5,tr.5-8. Tinh Tinh - chủ biên (2002), Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX, Nxb Công an nhân dân dịch tiếng Trung Quốc sang tiếng Việt và phát hành. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2005), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ, khoá XIII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010, Lưu hành nội bộ. Tỉnh ủy Đắk Nông (2006), Nghị quyết số 07/NQ-TU ngày 24/7, Về công tác cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 -2010 và định hướng đến năm 2020. Tỉnh ủy Đắk Nông (2008), Nghị quyết số 19/NQ-TU ngày 29/9, Về xóa cơ bản nhà tạm, dột nát giai đoạn từ 2008 đến năm 2010. Tỉnh ủy Đắk Nông (2009), Báo cáo số 238/BC-BTC ngày 08/9 của Ban tổ chức Tỉnh ủy, Về kết quả khảo sát thực trạng tổ chức đảng và hệ thống chính trị các xã biên giới tỉnh Đắk Nông. Tỉnh ủy Đắk Nông (2009), Báo cáo số 287/BC-TU ngày 20/7, Về kết quả hoạt động của đồng chí Phó bí thư cấp ủy chuyên trách xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở đối với các huyện và xã trọng điểm. Tỉnh ủy Đắk Nông (2011), Báo cáo số 62/BC-TU ngày 03/8, Về sơ kết thực hiện nghị quyết số 22 của BCHTW Đảng (khóa X) về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên”. Tỉnh ủy Đắk Nông (2011), Báo cáo số 71/BC-TU ngày 20/9, Về công tác qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số giai đoạn 2006 – 2010. Tỉnh ủy Đắk Nông (2011), Báo cáo số 82/BC-TU ngày 16/11, Về hệ thống chính trị cơ sở. Tỉnh ủy Đắk Nông (2012), Báo cáo số 150/BC-TU ngày 10/8 về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn”. Tỉnh uỷ Gia Lai (2004), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng, củng cố các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn từ 2001 đến nay, Lưu hành nội bộ. Tỉnh uỷ Gia Lai (2012), Báo cáo số 154/BC-TU ngày 9/8, Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn” và Nghị quyết 10-NQ/TU (khoá XII) của Tỉnh uỷ về “Công tác cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Tỉnh uỷ Kon Tum (2005), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, khoá XII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Lưu hành nội bộ. Tỉnh uỷ Lâm Đồng (2005), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, khoá XII trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, Lưu hành nội bộ. Tổng Cục Chính trị (2006), Quân đội tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Tây Nguyên trong điều kiện mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà nội Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2009), số 1902/HD-TLĐ, ngày 10/11, Về tổ chức và hoạt động của công đoàn cơ sở cơ quan xã, phường, thị trấn. Phạm Ngọc Trâm (2011), Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (1986-2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Phú Trọng (2008), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội. Nguyễn Như Trúc (2007), Vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong công tác vận động đồng bào có tôn giáo ở Tây Nguyên hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội. Từ Điển Tiếng Việt (1996), Nxb Đà Nẵng,tr.1096, 1105. Nguyễn Viết Tư (2013), “Xây dựng lực lượng nòng cốt ở Tây Nguyên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5,tr.30-32. Đỗ Quang Tuấn (2003), “Củng cố cơ sở, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Tây Nguyên”, Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.540 – 559. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của Thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2003), “Báo cáo chuyên đề Tổng quan về các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Nguyên”, Hà Nội. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, Ban chỉ đạo giảm nghèo (2012), Báo cáo 01/BC-BCĐGN ngày 01/2, Tổng kết công tác giảm nghèo năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giảm nghèo năm 2012. V.I.Lê nin (1904), “Một bước tiến, hai bước lùi”, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.559-576. V.I.Lê nin, Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.55, 478. V.I.Lê nin (1920), “Thư gửi các đảng bộ Đảng Cộng sản Nga về việc chuẩn bị Đại hội Đảng”, Toàn tập, Tập 40, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.161-166. V.I.Lê nin, Toàn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,tr.30, 66. V.I.Lê nin (1902), “Làm gì”, Toàn tập, tập 45, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. V.Ia.Bôn-đa-rơ (1986), Đảng Cộng sản Liên Xô trong hệ thống chính trị của xã hội Xô Viết ( những vấn đề phương pháp luận nghiên cứu), Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Chính trị học, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự (2006), Quân đội tham gia xây dựng cơ sở chính trị- xã hội ở các khu kinh tế - quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Vương Tề Ngạn (2009), Thúc đẩy xây dựng chính trị dân chủ cơ sở nông thôn, thực hiện quản lý của chính quyền cơ sở và tự trị của quần chúng thúc đẩy lẫn nhau một cách tích cực, Hội thảo lý luận lần thứ tư giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.438 – 450. Yves Many (1991), “Chính trị so sánh- về các nền dân chủ Đức, Mỹ, Pháp, Anh, Ý”, Nxb Montchrestien, Pari, bản dịch của Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tiếng Anh 1. Dennis Kavanagh (1998), British Politics, OxFord University Press. 2. F.Patrick Gunning (2003), Understanding democracy – An introduction to public choice, Copyright by James PatrickGunning. 3. Michael J.Sodaro (2000), Comparative Politics- A global introduction, Vol II, George Washington University. 4. Theodore J.Lowi, Benjamin Ginsberg (1992), American Government Freedom and Power, Copyright by W.W. Norton&Company,Inc.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_xay_dung_he_thong_chinh_tri_coc_so_vung_manh_tren_di.doc
  • docBIA L.A.doc
  • docBia tom tat L.A (Tieng Anh).doc
  • docBia tom tat L.A (Tieng Viet).doc
  • docPHU LUC 1.doc
  • docPHU LUC 2.doc
  • docPHU LUC 3.doc
  • docPHU LUC 4.doc
  • docPHU LUC 5.doc
  • docThong tin mang (Tieng Anh).doc
  • docThong tin mang (Tieng Viet).doc
  • docTom tat L.A (Tieng Anh).doc
  • docTom tat L.A (Tieng Viet).doc
Tài liệu liên quan