Luận án Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông cửu long hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐOÀN PHÚ HƢNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2018 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐOÀN PHÚ HƢNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 NGƢỜI HƢỚNG DẪN

pdf184 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 444 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông cửu long hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƢƠNG 2. TS. ĐẶNG VĂN THÁI HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tác giả Đoàn Phú Hƣng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 7 ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 7 1.2. Những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề tiếp tục nghiên cứu 20 Tiểu kết Chƣơng 1 23 Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ 24 CÁN BỘ 2.1. Một số khái niệm 24 2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở 29 2.3. Nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội 37 ngũ cán bộ Tiểu kết Chƣơng 2 62 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 63 CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 3.1. Những nhân tố tác động và tình hình đội ngũ cán bộ chủ chốt 63 cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long 3.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở 78 đồng bằng sông Cửu Long Tiểu kết Chƣơng 3 118 Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI 119 NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 4.1. Những nhân tố tác động đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ 119 chốt cấp cơ sở khu vực đồng bằng sông Cửu Long 4.2. Phƣơng hƣớng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở 123 đồng bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2025 theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh 4.3. Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng 134 bằng sông Cửu Long từ nay đến năm 2025 Tiểu kết Chƣơng 4 164 KẾT LUẬN 165 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong mọi chế độ xã hội, các giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách để củng cố vai trò cầm quyền của mình bằng việc xây dựng và củng cố chính quyền nhà nƣớc với hệ thống bộ máy tổ chức đội ngũ quan chức cốt cán trung thành, có tài năng, đủ sức làm tròn nhiệm vụ. V.I. Lênin đã nói: “Trong lịch sử, chƣa hề có một giai cấp nào giành đƣợc quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra đƣợc trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [153, tr.473] Kế thừa, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là ngƣời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề hàng đầu. Trong tiến trình vận động thành lập Đảng, cũng nhƣ trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Ngƣời đã tổ chức xây dựng đội ngũ cán bộ tiên phong cho Đảng và để lại di sản tƣ tƣởng quý giá và phong phú về xây dựng đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và rèn luyện trong mọi hoàn cảnh lịch sử luôn hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng mà nhân dân giao phó. Thấm nhuần tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn luôn quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức và trình độ năng lực đáp ứng đƣợc yêu cầu, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam đang phấn đấu phát huy sức mạnh toàn dân tộc, để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trƣờng hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đƣa nƣớc ta cơ bản trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại. Để thực hiện đƣợc mục tiêu quan trọng đó, đòi hỏi trƣớc hết phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ trình độ và năng lực, đủ đức, đủ tài, mà trực tiếp là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. 2 Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, đổi mới công tác cán bộ nói chung và công tác với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng của Đảng còn nhiều khuyết điểm, yếu kém chậm đƣợc khắc phục, “Tình trạng suy thoái về tƣ tƣởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài” [4]. “Việc đổi mới công tác cán bộ chƣa có đột phá lớn. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhƣng chƣa có những tiêu chí cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục... Chƣa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ tham mƣu, tƣ vấn cấp chiến lƣợc. Công tác quy hoạch ở một số nơi còn khép kín, chƣa bảo đảm sự liên thông gắn kết” [35, tr.194]. Từ kinh nghiệm lịch sử và thực trạng cán bộ hiện nay, vấn đề đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trở nên hết sức cần thiết và cấp bách. Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng kinh tế lớn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc, nên việc phát huy tối đa sức mạnh và lợi thế của vùng này, khắc phục những hạn chế đòi hỏi cần phải có là con ngƣời, trong đó công việc gốc là xây dựng cho đƣợc đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở thật sự vững mạnh. Thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, do nhiều nguyên nhân, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long còn nhiều hạn chế về số lƣợng và chất lƣợng, chƣa theo kịp sự đòi hỏi của tình hình đất nƣớc; trình độ lý luận và chuyên môn, năng lực lãnh đạo và quản lý chƣa đồng đều; vấn đề chuẩn hóa đội ngũ cán bộ của xã, phƣờng, thị trấn còn hụt chuẩn khá xa so với yêu cầu... Thực tế trên đây cho thấy công tác xây dựng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng. Từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “X ộ ũ bộ ấp ơ ở ở bằ ử L ở H M ” làm luận án tiến sĩ ngành Hồ Chí Minh học. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ; luận án làm rõ thực trạng và đề xuất phƣơng hƣớng, hệ thống giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, đánh giá những kết quả đã đạt đƣợc và xác định các vấn đề mà luận án cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu. - Hệ thống hóa và luận giải những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ. - Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ để nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay và những vấn đề đặt ra. - Đề xuất phƣơng hƣớng và hệ thống giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ bao gồm nhiều nội dung phong phú, sâu sắc, trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ thông qua công tác cán bộ là nội dung cơ bản. Trong khuôn khổ của luận án, tác giả tập trung vào nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với tƣ cách là phƣơng thức chủ yếu trong xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng. 4 - Phạm vi nghiên cứu thực trạng: + Về thời gian, đƣợc giới hạn từ năm 2001 đến nay. Lý do chọn thời điểm từ năm 2001 vì từ Đại hội IX (4-2001), Đảng ta đƣa ra định nghĩa đầy đủ về tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và ban hành Chỉ thị 23 (3-2003) về “Đẩ ạ ề ụ ở H M ”, vì vậy mà vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trở thành vấn đề cơ bản, thu hút sự quan tâm nhiều hơn toàn Đảng, toàn dân ta. + Về không gian, là cấp cơ sở xã, phƣờng, thị trấn của 7 tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau và 1 Thành phố Cần Thơ thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Lý do luận án chọn không gian nhƣ vậy là An Giang và Đồng Tháp là 2 tỉnh đại diện phía Bắc đồng bằng sông Cửu Long, có sự tiếp giáp với vùng biên giới Campuchia; Long An và Tiền Giang tiếp giáp với Thành Phố Hồ Chí Minh; Bến Tre nằm nhánh rẽ sang hƣớng đông, tiếp giáp Biển Đông; Cà Mau và Bạc Liêu đại diện cho vùng cực Nam; Thành phố Cần Thơ nằm vị trí trung tâm của vùng. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ, chủ yếu là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu, nhƣ: phƣơng pháp tổng hợp, phân tích, hệ thống, so sánh, khảo sát.v.v., để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống, chủ yếu là phƣơng pháp logic - lịch sử để làm rõ hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phƣơng pháp điều tra xã hội học để đánh giá thực trạng và xác lập căn cứ đề xuất phƣơng 5 hƣớng, hệ thống giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ và thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thông qua việc tổng quan một cách bao quát tình hình nghiên cứu có liên quan. - Hệ thống hóa và phân tích tƣơng đối cơ bản, toàn diện tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ; khẳng định giá trị của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là giá trị về thực tiễn khi vận dụng vào việc nhận diện và giải quyết những vấn đề đặt ra trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. - Làm rõ thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long. - Đề xuất phƣơng hƣớng và hệ thống giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về ý góp phần làm rõ nội dung, khẳng định tính khoa học, cách mạng và nhân văn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ; khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng. Về ễ , kết quả nghiên cứu của luận án có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ các nghiên cứu sâu hơn về xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có giá trị tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý, các tổ chức, cơ quan tổ chức cán bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. 6 7. Kết cấu của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình của tác giả, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án đƣợc kết cấu gồm 4 chƣơng với 10 tiết. ơ 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án. ơ 2: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ. ơ 3: Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. ơ 4: Phƣơng hƣớng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long. 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ nói riêng là một nội dung đặc biệt quan trọng trong hệ thống tƣ tƣởng của Ngƣời, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. Chính vì thế, cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Có thể thấy một số công trình tiêu biểu nhƣ sau: - Sách “B H ớ p ờ ” của Phan Hiền [57] nói lên sự vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vun đắp cho sự nghiệp “trồng ngƣời”: từ cách quan tâm đến sử dụng, bồi dƣỡng chăm lo cho con ngƣời, cũng nhƣ cách sử dụng cán bộ trong bộ máy Nhà nƣớc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một điển hình đặc sắc trong chăm lo, bồi dƣỡng và sử dụng con ngƣời. - Sách " ở H M ề bộ bộ" của Bùi Đình Phong [116] là một trong những công trình khoa học đã cung cấp cho ngƣời đọc có những thông tin mới và cách nhìn khá đầy đủ nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, bao gồm quá trình hình thành nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. Đồng thời tác giả cũng nêu lên những quan điểm chủ yếu về vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. - “ ở H M ề bộ bộ” của tác giả Mạch Quang Thắng với Cổng thông tin tƣ liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh [125] w.w.w.thehehochiminh.net mô tả khái quát nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ; về yêu cầu đối với cán bộ cách mạng. Trong đó, tác giả nhấn mạnh yêu cầu về tƣ cách: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu 8 hy sinh cho lý tƣởng của Đảng; phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trƣớc hết; phải có một đời tƣ trong sáng, là một tấm gƣơng sáng trong cuộc sống. Yêu cầu về phẩm chất, năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân; có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Cán bộ phải có phong cách tốt. Tác giả đã nêu lên các quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ: Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng ngƣời đúng chỗ, đúng việc”; Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phƣơng, hẹp hòi; Phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ; Phải đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ - “ ở H M ề bộ bộ”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2008), các tác giả đã trình bày những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó, một trong những vấn đề đƣợc đề cập sâu là công tác cán bộ và những tiêu chí xây dựng cán bộ trong xã hội mới. - Sách “V ụ ở H M ề ấ ề bộ bộ p ổ ớ ” Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh [59] khái quát những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ để trên cơ sở đó, nêu lên phƣơng cách để vận dụng tƣ tƣởng của Ngƣời về công tác cán bộ trong giai đoạn mới cho phù hợp. - Sách “Q ể ở H M ề - ộ ũ bộ ộ ” của Nguyễn Quang Phát (chủ biên) [114] là công trình nghiên cứu tập trung vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội. Tác giả đi sâu vào hai tiêu chuẩn không thể thiếu đối với ngƣời cán bộ, đảng viên, đó là đức và tài, đồng thời đi sâu làm rõ những yêu cầu về đạo đức cũng nhƣ tài năng cần có của ngƣời cán bộ trong quân đội. 9 - “Mộ ấ ề ý ề Đ ớ ộ ề ã ạ p ĩ ã ộ ” (KX.03.10) của Đặng Xuân Kỳ (chủ nhiệm) [78]. Trong phần mở đầu, tác giả viết: “Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta thƣờng xuyên quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng luôn luôn đƣợc coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng; bởi lẽ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự trong sạch, vững mạnh của các tổ chức đảng từ trên xuống dƣới và của đông đảo đội ngũ cán bộ, đảng viên đã trở thành nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng”. - Bài viết " ở H M ề ò ạ ạ ấ ữ " của Bùi Đình Phong [117], chỉ ra nguồn động lực to lớn, thƣớc đo phẩm chất của ngƣời cán bộ đó là đạo đức cách mạng. Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh cao cả của sự nghiệp cách mạng đặt ra, ngƣời cán bộ chỉ với đức không thì chƣa đủ, mà phải có tài. Tác giả chỉ ra sự thống nhất hòa quyện giữa đức và tài trong một, chính sự thống nhất đó tạo nên một con ngƣời hoàn chỉnh, đó là ngƣời cán bộ. - Sách “H M ạ bộ ọ ụ ” của Đức Vƣợng [171] đã khái lƣợc cơ bản quá trình đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong suốt quá trình ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc cho đến năm 1969. Quyển sách nêu rõ trong suốt quá trình tìm đƣờng cứu nƣớc, cũng nhƣ qua các giai đoạn của lịch sử từ đấu tranh giành chính quyền cho đến xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Chính đội ngũ cán bộ đƣợc Ngƣời quan tâm xây dựng đã góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng. - Sách “H M ờ ” của Mạch Quang Thắng [124]. Với 4 chƣơng, tác giả đã dành trọn 1 chƣơng “triết lý phát triển qua cuộc sống” để nói về đạo đức của con ngƣời, đặc biệt của ngƣời cán bộ, đó chính là nền tảng để xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời đại mới. 10 1.1.2. Tình hình nghiên cứu vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ ở nƣớc ta và xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay - Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là một vấn đề cơ bản, thƣờng xuyên và có ảnh hƣởng sâu sắc tới hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đây cũng là vấn đề đã và đang đƣợc cả xã hội hết sức quan tâm. Việc nghiên cứu và làm rõ nội hàm của hai vấn đề này là một đòi hỏi mang tính cấp bách đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ sau: - Sách “Đổ ớ ở ớ ”, Lê Quốc Lý (chủ biên) [82] đã chia ra ba phần rõ rệt. Phần I, tác giả tập hợp những bài viết để làm rõ “những luận điểm cơ bản về hệ thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam”; Phần II, những chuyên đề xoay quanh làm rõ “thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị ở nƣớc ta trong quá trình đổi mới”. Đặc biệt ở phần III, khi tác giả tập hợp các chuyên đề tập trung đƣa ra “quan điểm, phƣơng hƣớng và giải pháp cụ thể để đổi mới hệ thống chính trị ở nƣớc ta”, có đề cập đến “Thực trạng về công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay” và “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nƣớc ta”. - Sách “Mộ ấ ề ề ộ ũ bộ ấp ờ ộ ở N ” của Lê Hữu Nghĩa (chủ biên) [110] đã tập trung phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện ngƣời dân tộc ở Tây Nguyên trƣớc sự tác động, ảnh hƣởng của vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, văn hóa - xã hội, trình độ nhận thức của ngƣời dân cũng nhƣ đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên tác động làm ảnh hƣởng đến công tác cán bộ. Qua đó, tác giả đề xuất giải pháp nhằm quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụngđội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ngƣời dân tộc ở Tây Nguyên. 11 - Sách “G p p ổ ớ ạ ộ ở ỉ ề ú ớ ” của Tô Huy Rứa - Nguyễn Cúc - Trần Khắc Việt (đồng chủ biên), đã nêu bật đặc điểm các tỉnh miền núi ảnh hƣởng tới hoạt động của hệ thống chính trị các địa phƣơng trong vùng. Cuốn sách còn chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi từ sau bắt đầu đổi mới; trên cơ sở đó, đề ra những quan điểm chỉ đạo và các giải pháp cơ bản đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi. - Sách “X ộ ũ bộ ộ ể ở ớ ờ ỳ ẩ ạ p ạ - L p p”, của Lê Phƣơng Thảo - Nguyễn Cúc - Doãn Hùng (đồng chủ biên năm 2003), đã luận giải khoa học cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nƣớc ta thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tác giả làm nổi bật thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nƣớc ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa, đồng thời đề ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số trên một số lĩnh vực chuyên môn. - Sách “L ọ ấ ộ ũ bộ ờ ỳ ẩ ạ p ạ ấ ớ ” do Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm chủ biên [121] đã trình bày các khái niệm, lý giải các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức và đƣa ra những kiến nghị về phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lƣợng, số lƣợng và cơ cấu. - “X ộ ũ bộ p ò ỏ N ớ p p ề ã ộ ĩ ” của tác giả Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phƣơng. Các tác giả đã làm rõ chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí ngƣời cán bộ, yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó, tìm hiểu những bài học kinh nghiệm về việc tuyển chọn và sử dụng nhân tài, nhƣ kinh 12 nghiệm xây dựng nền công vụ chính quy hiện đại của một số nƣớc trên thế giới. Chỉ rõ hệ thống các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. - “Về ộ ụ V N ”, do Nguyễn Trọng Điều chủ biên, có phân tích một cách toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn của chế độ công vụ và cải cách công vụ Việt Nam qua từng thời kỳ, luận giải và đƣa ra lộ trình thích hợp cho việc hoàn thiện chế độ công vụ Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu của tác giả nƣớc ngoài: - Sách “Đ H M ” của Ê.Cô-bê-Lép [42] đã sơ lƣợc xuất thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời tổng kết quá trình đầy sóng gió của Ngƣời khi bôn ba tìm đƣờng giải phóng cho dân tộc. Tác giả nhấn mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ngƣời nói rằng, cũng nhƣ trong bất cứ cuộc chiến tranh du kích nào, cái chính không phải là giữ đất, mà là bằng mọi giá, giữ vững các tổ chức chính quyền cách mạng, các lực lƣợng vũ trang nhân dân và các căn cứ kháng chiến” [42, tr.332]. Để thực hiện đƣợc mục đích đó, chỉ có thể xây dựng đội ngũ cán bộ đủ mạnh thông qua việc tác giả dẫn chứng “Công việc của Nguyễn Ái Quốc một phần đƣợc thực hiện tại Văn phòng của Tƣớng Bôrôđin...là việc tập hợp và thành lập Hội Việt Nam cách Mạng thanh niên... nhằm chuẩn bị lực lƣợng hành động trong tƣơng lai” [42, tr.43]. - Sách “H M ộ ộ ờ ” của William J. Duiker [172] với XV chƣơng, 542 trang, tác giả đã tổng kết cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lúc sống ở quê nhà “ ớ ấ ” cho đến khi trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam “ ừ ộ ờ ớ ộ ề ạ ”. Tác giả đã dẫn giải việc Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam: “Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng sức mạnh của phong trào thông qua việc tuyển mộ những cán bộ kế cận đáng tin cậy” [172, tr.253]. 13 Chính vì vậy “trong vòng một vài tháng sau khi đến Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc đã tuyển đƣợc một nhóm những ngƣời cấp tiến trẻ có thể lãnh đạo một phong trào kháng chiến dân tộc mới và mạnh mẽ trong tƣơng lai” [172, tr.134]. - Sách “H M Ô ã ” SUPRIDA PHANOMJONG (chủ biên) [122], với 186 trang, tác giả chia ra XII phần và đã làm nổi bật quá trình Hồ Chí Minh hoạt động nhiều nơi trên thế giới từ khi “ra thế giới rộng lớn” [122, tr.22] đến khi “Việt Nam thống nhất” [122, tr.166]. - Sách “H M ộ ờ Á ọ ờ ạ ”, Nxb Chính trị quốc gia [120], đã tập hợp hơn 70 bài viết của các cá nhân ngƣời nƣớc ngoài và hơn 10 tờ báo của các nƣớc trên thế giới ca ngợi về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các bài viết có đề cập đến công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ của Ngƣời. Trong bài viết “H M b ờ ạ ”, R. ARIXMENĐI nói rõ: “...Trong những yêu cầu của việc thành lập Đảng, đồng chí Hồ Chí Minh... đào tạo nên những lãnh tụ của mình và các lãnh tụ đó trở nên vĩ đại trong quá trình sát cánh cùng nhân dân đấu tranh và phục vụ Đảng” [120, tr.53]. Trong bài “G ở H M ờ ạ ”, TÊSHÔM KÊBÊĐE khẳng định: “Việc xây dựng đảng đòi hỏi sự gắn bó của những cán bộ đảng, nhà nƣớc và cán bộ của các tổ chức quần chúng. Nếu không có một chính sách cán bộ đúng, không thể thực hiện đƣợc vai trò tiên phong của đảng” [120, tr.219]. Trong bài “ ụ H M ộ ờ ử”, RISỚT UOÁCĐƠ đã đánh giá: “Sự vĩ đại của Cụ một phần là ở chỗ đã đào luyện nên những ngƣời Việt Nam ƣu tú nhất và tài giỏi nhất để tiếp tục con đƣờng cách mạng. Những đồng chí gần gũi của Cụ nhƣ Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng, Trƣờng Chinh, Võ Nguyên Giáp và các đồng chí khác đều là những ngƣời kế tục xứng đáng, những ngƣời đã đƣợc tôi luyện” [120, tr.438]... Ngoài ra còn cố một số công trình khác nhƣ: - Sách “Q ạ bộ ã ạ ý” của tác giả Đỗ Minh Cƣơng, trình bày rõ quan điểm, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng ta về quy hoạch cán bộ. 14 Từ đó, tác giả dành trọn một chƣơng (52 trang) tổng kết tình hình thực hiện công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị nƣớc ta hiện nay. Trong đó, tác giả chỉ ra thực trạng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị trong thời gian gần đây và nêu lên một số giải pháp nâng cao chất lƣợng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. - Sách “ ở H M ờ ạ V N ” của Võ Nguyên Giáp (chủ biên) [43] với 348 trang đƣợc chia làm 3 phần. Trong phần thứ hai về những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, tác giả dành 1 chƣơng “tƣ tƣởng Hồ chí Minh về xây dựng Đảng, Mặt trận và Nhà nƣớc”, trong đó có đề cập đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ. - Sách “P ể ấ ấ ớ ” của Nguyễn Đắc Hƣng [61]. Tác giả nêu bật lên nguồn gốc, đặc điểm và các giai đoạn phát triển của nhân tài của các quốc gia trên thế giới. Ở chƣơng IV, tác giả làm rõ những nội dung cơ bản về phát triển nhân tài, đồng thời nêu lên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về trí thức và nhân tài. - Sách “X p V N p ụ ụ p ấ ấ ớ ” của Nguyễn Văn Khánh [73] đã tập hợp 27 bài viết là công trình khoa học cấp nhà nƣớc và đƣợc chia làm bốn phần: I: Trí tuệ và nguồn lực trí tuệ - những vấn đề lý luận chung. II. Nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong lịch sử và hiện tại. III. Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hƣng đất nƣớc. IV. Phát triển và sử dụng nguồn lực trí tuệ - tiếp cận từ kinh nghiệm nƣớc ngoài. Chủ để cuốn sách làm rõ nguồn lực, tìm kiếm nhân tài phát triển của đất nƣớc. Trong chuyên đề đầu tiên ở phần II, với tiêu đề “Vấ ề ạ p ể ử ụ ờ p ở V N ”, tác giả Lâm Bá Nam đã dẫn lại lời nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung trên bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1442): “H ề 15 ớ ạ ớ ấp è V b ơ ờ ụ é ọ ẽ ĩ ọ ” [73, tr.131] và nêu ra tiêu chuẩn lựa chọn hiền tài là: Tuyệt đối trung thành; thứ hai phải là ngƣời chính trực, ngay thẳng, không xu nịnh, luôn kết hợp có cả đức và tài, đức là gốc. Tác giả cũng đã tổng hợp các hình thức đào tạo, tuyển dụng nhân tài trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, nhƣ: tiến cử, tự tiến cử và qua khoa cử. - Sách “Đ ạ ử ụ V N ớ ờ P p ộ ”của Nguyễn Văn Khánh và Trƣơng Bích Hạnh [46] làm rõ công tác đào tạo cán bộ của những nhà yêu nƣớc trong các phong trào Đông Du, Duy Tân, đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Ngay sau khi thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng đến việc mở các lớp huấn luyện chính trị, bồi dƣỡng nhân cách và đạo đức và phƣơng pháp làm việc của ngƣời làm cách mạng. - Sách “Đ ã ạ ộ ũ bộ ớ ” của Trần Văn Thắng với 4 chƣơng, chủ yếu nói lên sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nƣớc thời kỳ trƣớc, trong thời kỳ đầu đổi mới và trong thời kỳ đẩy mạnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Ở đó, tác giả dành Chƣơng 4 để nói lên “Một số kinh nghiệm và đề ra một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hiện nay”. - Sách “B bộ ở ớ ạ p p” của Trƣơng Thị Thông và Lê Kim Việt [162] gồm ba chƣơng, nêu rõ nguồn gốc, bản chất và những tác hại của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ; một số biểu hiện chủ yếu và nguyên nhân của bệnh quan liêu trong công tác cán bộ; phƣơng hƣớng và giải pháp chủ yếu nhằm đề phòng, khắc phục bệnh quan liêu trong công tác cán bộ. 16 - Sách “H M ộ ớ ” của Nguyễn Đài Trang (sách tham khảo) [139] có đề cập đến vấn đề cán bộ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, khi tác giả nói lên sự ảnh hƣởng của nho giáo đến triết lý xã hội và chính trị Việt Nam: “Hồ Chí Minh sử dụng triệt để khái niệm ngƣời quân tử để xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, phục vụ cách mạng và sống gƣơng mẫu, tận tụy với dân. Các bộ không nên trở thành quan cách mạng, nói thì phải làm, phải sống gƣơng mẫu để đƣợc dân tin, phải giúp dân sống tự do và hạnh phúc” [139, tr.58]. - Sách “H M ă p ể ” của Nguyễn Đài Trang [140] với 7 chƣơng với 382 trang, tác giả đã dành phần lớn nói lên “lợi ích trăm năm thì phải trồng ngƣời”, lãnh đạo vững chắc lo trƣớc thiên hạ, vui sau thiên hạ, vấn đề đối với con ngƣời...Tác giả nhấn mạnh: “Nói tóm lại, những điều Hồ Chí Minh dạy về xây dựng đời sống mới, trọng dụng nhân tài, xây dựng vốn nhân lực càng hết sức quan trọng trong điều kiện hiện nay” [140, tr.278]. Tác giả còn nêu bật việc Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ, “Những lớp huấn luyện chính trị ở Tĩnh tây Trung Quốc trƣớc đây, nay lại đƣợc mở ở Pác Bó. Bên ngoài rìa bản sừng sửng một ngọn núi đá và trên sƣờn ngọn núi đá có một cái đình. Đằng sau đình ngƣời ta phát hiện thấy một hẻm núi sâu, kín đáo, có thể ngồi đƣợc vài chục ngƣời. Chính đây là nơi tiến hành học tập” [140, tr.226]. Tác giả còn nhấn mạnh việc Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn lúc nào cũng quan tâm đến cán bộ, “Ngƣời cũng làm hết sức mình cho việc củng cố đội ngũ cán bộ của Đảng, thống nhất, đoàn kết mọi đảng viên xung quanh mục đích đấu tranh mà Đảng đã nêu lên” [140, tr.333]. - Tài liệu Bồi dƣỡng lý luận và nghiệp vụ...hìn con ngƣời, với một tập hợp lớn, đa dạng, phức tạp biết bao nhiêu vấn đề về việc làm, mƣu sinh, về tồn tại và phát triển, từ kinh tế, chính trị, văn hóa và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội khác cần đƣợc giải quyết một cách kịp thời, đúng đắn. , cán bộ chủ chốt cơ sở là ngƣời chủ động đề xuất đổi mới và góp phần vào việc hoàn thiện thể chế ở cơ sở. Họ hiểu rõ đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc để có những quyết định đúng đắn, kịp thời, đồng thời tích cực góp ý kiến nhằm sửa đổi những điểm chƣa đúng, những điều còn thiếu, những nội dung chƣa hoàn thiện để chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc ngày càng phù hợp với thực tiễn. Vai trò của cán bộ chủ chốt cơ sở ở đây đƣợc thể hiện không chỉ là sự tuân thủ một cách nghiêm túc trong việc thực hiện chủ trƣơng, chính sách của cấp trên mà còn chủ động tìm tòi đề xuất, thử nghiệm và góp phần hoàn thiện thể chế ở cơ sở; mạnh dạn từ bỏ những lỗi thời, không phù hợp với thực tế của địa phƣơng. Cán bộ chủ chốt cơ sở phải biết lãnh đạo, chỉ đạo việc vận dụng đƣờng lối của Trung ƣơng vào điều kiện của địa phƣơng nhƣng không trái với chủ trƣơng, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, không vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân. b , cán bộ chủ chốt cơ sở là ngƣời trực tiếp tác động đến lợi ích của ngƣời dân, đồng thời là đại diện hợp pháp cho lợi ích chính đáng của Nhân dân, đƣợc nhân dân thừa nhận, tin yêu và sẵn sàng bảo vệ. Là ngƣời đứng đầu, trực tiếp nắm và chỉ đạo thực hiện các vấn đề trọng yếu, các khâu trung tâm của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ chủ chốt cơ sở là ngƣời chủ trì, điều khiển và chịu trách nhiệm đến cùng các mặt công tác, các lĩnh vực hoạt động của hệ thống đó. Mặc khác, là ngƣời nắm giữ quyền lực và quyết định việc phân bổ lợi ích, nên họ phải minh bạch, công bằng, gƣơng mẫu để duy trì phƣơng thức lãnh đạo dân chủ và phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, năng lực lãnh đạo, thật sự tâm huyết với công việc mới thể hiện đƣợc vai trò của ngƣời lãnh đạo, ngƣời đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 34 Là ngƣời đại diện hợp pháp cho lợi ích, nguyện vọng của dân, cán bộ chủ chốt cơ sở phải thƣờng xuyên chăm lo đời sống, giải quyết thỏa đáng các nhu cầu, lợi ích của dân, làm cho dân yên ổn, phấn khởi làm ăn, sinh sống, cố kết cộng đồng, tin tƣởng và tự giác tham gia vào các phong trào cách mạng của địa phƣơng, cơ sở. Hơn nữa, cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, quan hệ với dân là quan hệ nền tảng sâu xa nhất, bản chất nhất, quy định và chi phối mọi quan hệ khác của hệ thống chính trị. Muốn giữ vững đƣợc ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở phải tập hợp đƣợc lực lƣợng nơi dân, phát huy nguồn lực trong dân, đƣợc nhân dân đồng tình ủng hộ. Có làm đƣợc nhƣ vậy mới xây dựng đƣợc khối đoàn kết toàn dân từ cơ sở và tạo ra sự đồng thuận xã hội, giải quyết mọi khó khăn và phức tạp trong thực tiễn. Đối với ngƣời dân, lợi ích của họ không phải là cái gì xa vời, hình thức mà trái lại nó là cái hết sức cụ thể, thiết thực, liên quan trực tiếp đến đời sống, quyền lợi hàng ngày, tới những nhu cầu thiết thân và những quyền chính đáng, cả bổn phận, nghĩa vụ công dân mà họ phải thực hiện. Cho nên, muốn đƣợc dân yêu mến, giúp đỡ và đồng tình ủng hộ, ngƣời cán bộ cơ sở phải đảm bảo đƣợc an sinh, an ninh cho dân; đảm bảo an dân và khuyến dân, phát triển đƣợc cuộc sống của dân, phát huy tính tích cực của dân; thực hiện vai trò là chủ và làm chủ của dân để phát triển sức dân, phải minh bạch, công bằng trong phân bổ lợi ích và cơ hội phát triển, bảo vệ quyền lợi và quyền lực của dân. Làm đƣợc điều đó, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở xứng đáng là ngƣời đại diện của dân, đƣợc nhân dân tin yêu, giúp đỡ, ủng hộ, bảo vệ và thừa nhận là ngƣời lãnh đạo của họ. Cơ sở tuy không phải là cấp hoạch định đƣờng lối, chính sách nhƣng lại là cấp tổ chức hiện thực hóa chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc, do vậy, cán bộ chủ chốt cơ sở phải gần dân, hiểu dân, gắn bó với dân, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của dân, nắm bắt kịp thời tâm tƣ, nguyện vọng của dân, nghe dân nói, nói cho dân nghe, vận động, mách bảo dân thực hiện các công việc ích nƣớc, lợi nhà. Vai trò của cán bộ chủ chốt cơ sở ở đây chính là vai trò tập hợp 35 dân, tổ chức dân, giáo dục, thuyết phục dân, thúc đẩy họ tích cực tham gia vào các phong trào cách mạng, đem tài dân, sức dân để phục vụ dân, làm lợi và mƣu cầu hạnh phúc cho dân. Cán bộ chủ chốt cơ sở còn là cầu nối trực tiếp giữa Đảng và dân, thắt chặt mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với nhân dân, củng cố niềm tin của dân đối với Đảng và chế độ. Thông qua họ mà ý chí, nguyện vọng của dân đƣợc phản ánh đầy đủ với Đảng, nhà nƣớc để xây dựng chủ trƣơng, chính sách phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng. Sống và làm việc hàng ngày với dân, gần gũi trực tiếp, thƣờng xuyên tiếp xúc với dân, bám sát dân, thấu hiểu dân, nên cán bộ cơ sở có điều kiện phản ánh đầy đủ, trung thực nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân với Đảng và Nhà nƣớc. Mặt khác, thông qua những biến đổi thực tế về công ăn việc làm, đời sống và các quan hệ xã hội, qua thái độ và hành vi của cán bộ chủ chốt cơ sở đối với nhân dân mà dân cảm nhận đƣợc tính ƣu việt của chế độ; đánh giá đƣợc chất lƣợng, hiệu quả của đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc đƣợc triển khai và hiện thực hóa trong cuộc sống; phẩm chất, năng lực của cán bộ chủ chốt cơ sở có đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thực tiễn hay không. Do vậy, họ có ảnh hƣởng rất hệ trọng đến tình cảm, thái độ, niềm tin của dân đối với Đảng, Nhà nƣớc và cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở nói riêng. cán bộ chủ chốt cơ sở là ngƣời chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt đời sống xã hội ở cơ sở. Thực tế cho thấy, những nơi có cán bộ chủ chốt cơ sở có tinh thần chủ động, quyết đoán đúng đắn, kịp thời những vấn đề nảy sinh ở cơ sở, ở đó thƣờng có sự ổn định và phát triển, ngƣời dân tin tƣởng vào sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, ngay cả khi tình huống bất thƣờng xảy ra vẫn giữ vững đƣợc ổn định tình hình. Vai trò cán bộ chủ chốt cơ sở còn đƣợc thể hiện ở năng lực sáng tạo của họ. Đó là khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn, vận dụng cái chung trong 36 những tình huống cụ thể; khả năng cụ thể hóa, hiện thực hóa đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc; khả năng tổ chức, tập hợp lực lƣợng dân chúng thành phong trào hành động. Vai trò đó còn đƣợc thể hiện ở kỹ năng xử lý công việc, ở năng lực quan hệ, năng lực cảm hóa, tập hợp lực lƣợng để hiện thực hóa đƣờng lối, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc trong cuộc sống. Gắn bó với dân, cán bộ chủ chốt cơ sở là ngƣời thấu hiểu tâm tƣ, nguyện vọng của dân, biết kịp thời tháo gỡ những vƣớng mắc của dân trong sản xuất cũng nhƣ trong cuộc sống. Họ là ngƣời khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của cơ sở; giúp dân phát triển kinh tế, thoát nghèo, vƣơn lên làm giàu; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân. Họ là ngƣời trực tiếp thúc đẩy sự phát triển các mặt đời sống xã hội, đảm bảo cho cơ sở phát triển năng động, sáng tạo và bền vững. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, sự khác biệt về hình thức, bƣớc đi, cách làm giữa các cơ sở ngày càng rõ nét, tính độc lập, tự chủ của các cơ sở dần đƣợc khẳng định. Kinh tế thị trƣờng ngày càng phát triển, ngƣời nông dân cũng luôn phải tính đến sản xuất, nuôi trồng để có khả năng tiêu thụ sản phẩm và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điều đó đòi hỏi cán bộ chủ chốt cơ sở phải có tầm nhìn, khả năng dự báo và am hiểu thị trƣờng để tìm hƣớng đi cho dân. Cán bộ chủ chốt cơ sở phải biết xây dựng kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của địa phƣơng, biết mở rộng quan hệ đối tác để tìm kiếm thị trƣờng cho sản phẩm kinh tế của địa phƣơng. Chính nền kinh tế thị trƣờng luôn đặt ra yêu cầu rất mới, đòi hỏi cán bộ chủ chốt cơ sở phải tích cực, chủ động, sáng tạo mới thực sự là ngƣời dẫn dắt, định hƣớng cho sự phát triển của cơ sở. ă , cán bộ chủ chốt cơ sở là ngƣời giải tỏa các mâu thuẫn, xung đột ở cơ sở để tạo ra sự đồng thuận trong đời sống cộng đồng. Họ là ngƣời thiết lập sự lãnh đạo, chỉ huy thống nhất để giải quyết tình huống, duy trì quyền lực của hệ thống chính trị ở cơ sở và cũng là ngƣời đề ra chủ trƣơng, biện pháp, là lực lƣợng giải quyết đúng đắn, kịp thời những mâu thuẫn, xung đột xảy ra ở cơ sở. Trong điều kiện đó, cán bộ chủ chốt cơ sở phải thật sự bình tĩnh, chủ động đối 37 phó, không bị động, có nhiều phƣơng án xử lý, đề phòng phƣơng án xấu nhất có thể xảy ra, kiên quyết không để rơi vào thế bị động, đối phó. Tập trung nắm chắc tình hình, phối hợp thật tốt các lực lƣợng tham gia. Để thực hiện đƣợc những vấn đề này, cán bộ cơ sở phải làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết dứt điểm những vấn đề mà nhân dân khiếu nại, tố cáo. Cán bộ chủ chốt cơ sở là hạt nhân đoàn kết trong Đảng và ngoài xã hội; bình tĩnh, kiên trì tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục và chủ động đối thoại với dân ngay tại thôn xóm, kể cả với số cầm đầu, chỉ huy và những đối tƣợng quá khích, gây rối mà không áp dụng các biện pháp hành chính, mệnh lệnh đơn thuần ngay từ đầu. Khi tuyên truyền, vận động quần chúng, cần kịp thời vạch mặt bọn cầm đầu, quá khích, tìm cách cô lập, chỉ rõ những hành vi vi phạm và thủ đoạn thâm hiểm của chúng để quần chúng hiểu và không bị mắc mƣu. Ngƣời cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải thƣờng xuyên nắm bắt diễn biến tình hình tƣ tƣởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, phải đi đầu trong việc giữ vững kỷ luật Đảng và thực hiện nghiêm túc pháp luật của Nhà nƣớc trên địa bàn. Là những ngƣời đứng đầu và giữ những chức vụ trọng yếu ở một cấp, nên đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vị trí và vai trò hết sức quan trọng, vừa giữ vai trò nòng cốt, điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức cấp cơ sở, vừa thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, vừa bảo đảm việc thực hiện quyền lực chính trị của chính quyền, vừa bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở. 2.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 2.3.1. Tính tất yếu phải xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Nói đến cán bộ, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên những tƣ tƣởng cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của giai cấp công nhân. Trong quá trình truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác khẳng định: “Muốn thực hiện tƣ tƣởng thì cần có những con ngƣời sử dụng lực lƣợng thực tiễn” [13, tr.181]. Khi cách mạng chƣa giành đƣợc chính quyền, 38 C.Mác và Ph.Ăngghen quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ những nhà tuyên truyền cổ động, truyền bá tƣ tƣởng cộng sản, lãnh đạo, tổ chức các phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm kết hợp với phong trào công nhân để lập ra chính đảng của giai cấp công nhân. Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đặt biệt coi trọng đội ngũ “những nhà chính trị của giai cấp thực sự của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà trị của giai cấp tƣ sản” [153, tr.80, 81]. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề cán bộ lại càng có ý nghĩa quan trọng. Tổng kết những năm đầu của cách mạng, V.I.Lênin khẳng định: “Nghiên cứu con ngƣời, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn” [156, tr.449]. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, khi nói đến xây dựng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đó là vấn đề tất yếu, nhất là đối với một đảng cầm quyền. Tính tất yếu đó, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Đó là ngƣời truyền tải thông tin, là ngƣời nối liên lạc giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân, là ngƣời đem chủ trƣơng của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nƣớc đến với dân, giải thích cho dân hiểu rõ, cùng với nhân dân thực hiện tốt chủ chƣơng chính sách đó. Đồng thời, cán bộ còn là ngƣời “đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên của Đảng đều có thể đƣợc xem là cán bộ và Ngƣời hay dùng khái niệm “cán bộ, đảng viên” để chỉ đội ngũ cán bộ nói chung, đồng thời coi đây là lực lƣợng quyết định sự thành bại của mọi công việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, ngƣời cán bộ tạo nên sự liên kết giữa các bộ phận của bộ máy, là cái dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì dù động cơ tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Muốn bộ máy hoạt động trơn tru, sợi dây chuyền phải chắc, phải tốt. Vai trò 39 của ngƣời cán bộ còn đƣợc Ngƣời xác định là làm nhiệm vụ “truyền tải thông tin”, là nhịp cầu nối liền mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Cán bộ là ngƣời đem đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nƣớc xuống dân, đồng thời cũng chính là ngƣời đem tâm tƣ, nguyện vọng của nhân dân trình lên Đảng và chính phủ để đặt chính sách cho đúng. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của ngƣời cán bộ đƣợc thể hiện qua bốn mối quan hệ phải giải quyết là: với đƣờng lối, chính sách; với bộ máy (cơ quan lãnh đạo, quản lý); với công việc; với nhân dân. Chỉ khi nào giải quyết tốt các quan hệ đó thì ngƣời cán bộ mới thực hiện đúng vai trò của mình. Để giải quyết có hiệu quả mối quan hệ trên, mỗi cán bộ phải đặt mình trong một tổ chức những ngƣời cùng chí hƣớng - đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích” [97, tr.636]. Vai trò của đội ngũ cán bộ là cùng nhau xây dựng một tập thể đoàn kết, thống nhất, lấy lợi ích dân tộc làm tiêu chí, thƣớc đo; theo đó, cùng nhau tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc. Với vai trò đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ luôn là vấn đề cốt tử. Đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở thì việc xây dựng cho đƣợc đội ngũ ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng đặt ra thì càng trở thành vấn đề cấp bách và mang tính tất yếu của mọi giai đoạn lịch sử. Bởi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những ngƣời đứng đầu và giữ những chức vụ trọng yếu, điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức cấp cơ sở, vừa thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, vừa bảo đảm việc thực hiện quyền lực chính trị của chính quyền, vừa bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở. Là đội ngũ gắn kết các cấp lãnh đạo với dân, nên ngƣời cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có một trình độ, năng lực nhất định về lý luận, thực tiễn, về chuyên 40 môn nghiệp vụ hết sức phong phú và đa dạng; phải có đạo đức phải thật sự trong sáng và gƣơng mẫu. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là ngƣời vừa tiếp nhận chủ trƣơng, đƣờng lối, sự chỉ đạo từ cấp trên phổ biến xuống cấp dƣới và tổ chức thực hiện trong toàn thể nhân dân, đồng thời cũng là ngƣời tiếp thu những đóng góp ý kiến từ nhân dân trình lên cấp có thẩm quyền để đề ra chủ trƣơng cho phù hợp. Do đó, đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc có đƣợc thực thi một cách có hiệu quả hay không và tâm tƣ, nguyện vọng của ngƣời dân có đƣợc phản ánh đúng hay không đòi hỏi ở phẩm chất và năng lực của ngƣời cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Chủ trƣơng đƣờng lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nƣớc đề ra là nhằm để thực thi trong phạm vi chung trong cả nƣớc. Đƣờng lối đó có phù hợp với từng vùng miền, địa phƣơng hay không là phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Quan tâm đến cán bộ các cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã - cấp cơ sở. Ngƣời viết: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm đƣợc việc thì mọi công việc đều xong xuôi.” [97, tr.460]. Mặt khác, Ngƣời cũng nói rõ: “Chủ trƣơng, chính sách, đƣờng lối của Đảng đúng đắn Đến tỉnh đã hơi cong, đến huyện đã “tả hữu”, đến xã đã sai lệch. Vì sao? Vì cán bộ làm không đúng, không nắm chắc chủ trƣơng, đƣờng lối, không gần gũi dân, không chịu làm “đầy tớ nhân dân” mà chỉ muốn làm “quan cách mạng” [5, tr.405, 406]. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là lực lƣợng chính trong việc triển khai, cụ thể hóa đƣờng lối và sự chỉ đạo đó vào thực tiễn của địa phƣơng mình, bằng cách xây dựng kế hoạch, đề ra mục tiêu, phƣơng hƣớng để thực hiện các kế hoạch đã đặt ra, tổ chức vận động và cùng nhân dân thực hiện một cách có hiệu quả cao nhất. Bởi thực tế, không phải bất cứ chủ trƣơng, chính sách hay sự chỉ đạo nào của cấp trên cũng đều đƣợc toàn dân đồng tình ủng hộ, chƣa kể đến một số phần tử, nhóm thiểu số cố tình không thực hiện, thậm chí còn tìm mọi cách lôi kéo xúi giục nhân dân đi ngƣợc lại chủ trƣơng, chính sách đó. Trong điều kiện 41 nhƣ vậy, vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần đƣợc phát huy một cách tối đa để tổ chức, giải thích, động viên nhân dân thực hiện tốt chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc và sự chỉ đạo của cấp trên; tăng cƣờng sự đoàn kết, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời ngăn chặn đẩy lùi mọi tƣ tƣởng, hành vi của những phần tử xấu. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn là đội ngũ trực tiếp hoạch định ra đƣợc kế hoạch phát triển kinh tế của địa phƣơng. Có đƣợc cán bộ chủ chốt giỏi, tầm nhìn xa, có tính quyết đoán, dám làm dám chịu trách nhiệm, vì lợi ích của nhân dân, thì cơ sở đó sẽ mạnh và phát triển. Việc địa phƣơng này phát triển hơn địa phƣơng khác, ngoài việc có lợi thế về điều kiện tự nhiên, địa hình địa lý, điều cần thiết và có tính chất quyết định là vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp đó. Là ngƣời trực tiếp lãnh đạo, đứng đầu và chịu trách nhiệm chính với cấp trên về mọi việc ở cơ sở, cán bộ chủ chốt phải là ngƣời có đủ năng lực để giải quyết mọi khó khăn của thực tiễn và yêu cầu chính đáng của nhân dân đặt ra; đủ trình độ để giải thích tất cả những chủ trƣơng, chính sách để nhân dân hiểu và thực hiện một cách tự giác; có đạo đức để đoàn kết nhân dân và đƣợc nhân dân tin cậy. Có nhƣ vậy, ngƣời dân mới nói lên mọi tâm tƣ, nguyện vọng của mình một cách thật lòng và mạnh dạn. Mặt khác, các chức danh cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay hầu hết là do bầu cử và là cấp cuối cùng thƣờng xuyên tiếp xúc với dân, giải quyết công việc hằng ngày của dân không chỉ với tƣ cách là ngƣời lãnh đạo, mà còn trên quan hệ huyết thống, xóm làng, chứa đựng những phong tục tập quán lâu đời, có khi mang cả những thói quen lạc hậu. Cho nên, nó đòi hỏi ngƣời cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải có đầy đủ tài năng và đức độ để tháo gỡ những vƣớng mắc, đem lại sự đồng thuận trong nhân dân để tạo đƣợc sự đoàn kết nhất trí trong tổ chức đảng, trong chính quyền và trong nhân dân. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là ngƣời đại diện, ngƣời thay mặt Đảng và Chính phủ chăm lo trực tiếp đến đời sống của ngƣời dân. Những việc làm cụ thể đó thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với từng ngƣời dân. Ngƣợc lại, nếu đội 42 ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở yếu, “vô đức, thiếu tài”, hách dịch, lên mặt làm “quan cách mạng”, ức hiếp quần chúng nhân dân, sẽ tạo cho ngƣời dân những “ác cảm” về đội ngũ cán bộ. Họ nhìn cán bộ một cách tiêu cực, làm hại cho uy tín của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đã là cán bộ, trƣớc hết là cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, “phải làm sao cho dân yêu mến. Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân nhƣ nƣớc, mình nhƣ cá. Lực lƣợng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ” [97, tr.116]. Đội ngũ cán bộ đó có thật sự trong sạch và liêm khiết thì đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng mới đƣợc phát huy và đi vào cuộc sống của nhân dân. Với vai trò và vị trí của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hết sức quan trọng nhƣ vậy, nên việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có chất lƣợng, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra là điều tất yếu, hiển nhiên. 2.3.2. Các khâu chủ yếu trong xây dựng đội ngũ cán bộ 2.3.2.1. Lựa chọn cán bộ Lựa chọn cán bộ là khâu đầu tiên của nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, gắn trực tiếp đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Lựa chọn cán bộ không đúng, sẽ tạo điều kiện cho kẻ hủ bại, thoái hóa “chen chân” vào trong bộ máy của Đảng, của nhà nƣớc để trục lợi cá nhân, làm sụp đổ tiền đồ, sự nghiệp của nhân dân mà trực tiếp nhất là làm hỏng đội ngũ cán bộ. Lựa chọn cán bộ giữ một vị trí quan trọng và cần kíp, quyết định trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ là nhằm sàn lọc, tìm kiếm, phát hiện để bố trí, sử dụng những cán bộ có đức, có tài, có tâm huyết cống hiến cho Tổ quốc. Nếu bố trí, sử dụng cán bộ giữ vai trò quyết định sự thành bại của quá trình thực hiện chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc thì lựa chọn cán bộ là tiền đề trực tiếp góp phần vào sự thành, bại đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chọn ngƣời và thay ngƣời cũng là một vấn đề quan trọng trong việc lãnh đạo” [97, tr.326]. 43 Chủ tịch Hồ Chí Minh thƣờng nhắc nhở trong công tác lựa chọn cán bộ phải linh động, sáng tạo, tránh bảo thủ, không nên quá cố chấp. Ngƣời nói: “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tƣ tƣởng của ngƣời cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa” [97, tr.317]. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ vào đức độ và tài năng, căn cứ vào năng lực, sự cống hiến của ngƣời cán bộ đó; tránh vì ngƣời thân thuộc, gửi gắm đồng thời cũng không nên vì một chút sai lầm của cán bộ mà trù dập hay có định kiến không tốt. Một con ngƣời trong quá trình sống và làm việc chắc chắn sẽ có mắc sai lầm, điều đó không quan trọng, quan trọng là ngƣời mắc sai lầm đó có biết nhận ra và biết khắc phục, sửa chữa hay không. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Một ngƣời cán bộ khi trƣớc có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi Quá khứ, hiện tại và tƣơng lai của mọi ngƣời không phải luôn giống nhau” [97, tr.317, 318]. Tuy nhiên, nói nhƣ vậy không phải trong công tác lựa chọn cán bộ chúng ta xem xét một cách qua loa, mà phải xem xét đánh giá một cách tổng hợp và toàn diện, từ hình thức cho đến nội dung, từ suy nghĩ đến hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ” [97, tr.317]. “Đảng phải chọn lựa những ngƣời rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài [97, tr.290]. Xác định đƣợc tầm quan trọng đó, bƣớc đầu tiên trong lựa chọn cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng bộ tiêu chuẩn để lựa chọn. Đó là những tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, năng lực trí tuệ, khả năng đoàn kết, tập hợp quần chúng, lề lối làm việc, tác phong công tác và sức khỏeTiêu chuẩn cán bộ là cơ sở để xem xét, đánh giá, lựa chọn, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử; bố trí công tác, giao nhiệm vụ; quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng; luân chuyển, khen thƣởng, kỷ luật và giải quyết chế độ chính sách đối với cán bộ. Đồng thời, đó còn là căn cứ 44 để hoạch định các chính sách vĩ mô phục vụ cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nƣớc. Tiêu chuẩn cũng là cơ sở để từng ngƣời cán bộ phấn đấu, tự rèn luyện để hoàn thiện mình. - ẩ ấ : Muốn làm cách mạng trƣớc hết “cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng” [97, tr.289]. Bởi "Không có lý luận cách mạng thì không thể có vận động cách mạng” [99, tr.127] và Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đây là tiêu chí đầu tiên của ngƣời làm cách mạng, ngƣời cán bộ, đảng viên. Ngƣời cho rằng “Lý luận rất quan trọng”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các phong trào đấu tranh chống Pháp, đó là thiếu một lý luận tiên phong soi đƣờng. Từ khi có Đảng lãnh đạo, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới và liên tiếp giành nhiều thắng lợi vô cùng to lớn. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ “vì trình độ lý luận thấp kém cho nên đứng trƣớc nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm” [103, tr.91]. Do đó, để khắc phục và sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm, Ngƣời yêu cầu “phải học tập lý luận, phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, trƣớc hết là của cán bộ cốt cán của Đảng” [103, tr.92]. Nâng cao trình độ lý luận là một trong những tiêu chuẩn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra cho cán bộ, đảng viên. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trang đầu tiên của tác phẩm Đ ờ M Ngƣời đã trích lời dạy của Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận độngChỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” [94, tr.279]. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng khuyết điểm có nhiều thứ cần phải sửa, trong đó khuyết điểm to nhất là bệnh chủ quan, mà nguyên nhân là kém lý luận, khinh lý luận, hoặc lý luận suông. Do đó, cần phải nâng cao trình độ lý luận trong cán bộ đảng viên. Ngƣời é ý là những ngƣời chỉ biết làm việc theo cảm tính, thiếu nguyên tắc, nghĩ sao thì làm vậy, làm không có căn cứ, không biết giải thích, 45 không có sự cân nhắc suy tính kỹ lƣỡng. Lớp ngƣời này thƣờng không nắm vững đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc, nên dễ rơi vào tình trạng tự ý làm sai, hoặc thậm chí đi ngƣợc lại đƣờng lối của Đảng. Ngƣời ý , là những ngƣời đề cao, coi trọng kinh nghiệm bản thân, lấy chút ít kinh nghiệm do làm lâu ngày mà có đƣợc để làm nền tảng, làm căn cứ trong công việc, và cứ thế dựa vào đó mà làm, xem nhẹ việc học lý luận, coi lý luận chỉ là một thứ “lý thuyết suông”. Chẳng những họ không thấu hiểu đƣợc “Thực tiễn không có lý luận hƣớng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng”, mà còn sẵn sàng bác bỏ mọi ý kiến, lý luận trái với suy nghĩ của mình. Những ngƣời này làm việc một cách cứng nhắc, rập khuôn, máy móc, không có óc sáng tạo và thƣờng mắc phải căn bệnh chuyên quyền độc đoán. Họ không hiểu đƣợc rằng “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng nhƣ một mắt sáng, một mắt mờ” [96, tr.274]. Điểm lƣu ý trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về việc học lý luận, đó là lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau. Lý luận đi liền với thực tiễn luôn đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt thực hiện một cách nhất quán. Từ trong tƣ duy đến hành động của Ngƣời là một. Lý luận gắn với thực tiễn trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh là hai mệnh đề gắn chặt và hòa quyện nhau. Hiểu biết lý luận là để vận dụng vào thực tiễn. Tiếp thu, hoạt động thực tiễn là để bổ sung, hoàn chỉnh lại kiến thức lý luận của mình. Lý luận không thể tách rời thực tiễn, ngƣợc lại thực tiễn không thể thiếu vai trò của lý luận. Năm 1925, sau khi về Quảng Châu, thấu hiểu đƣợc sự cần thiết dành cho cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là phải có lý luận soi đƣờng, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay vào việc đào tạo cán bộ cho cách mạng. Mục đích đào tạo cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “sau khi huấn luyện cẩn thận lại gửi họ về nƣớc” để thâm nhập vào quần chúng, hƣớng dẫn quần chúng đấu tranh cách mạng, tức là hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình việc những ngƣời chỉ biết chút ít lý luận rồi ra vẻ ta đây, tự cho mình là ngƣời học cao hiểu rộng, coi thƣờng những ngƣời khác, coi khinh thực tiễn, rồi từ đó sinh ra bệnh quan liêu, chỉ ngồi một chỗ để 46 chỉ đạo. Làm cách mạng cũng nhƣ khoa học nên biết tính đúng đắn của lý luận là nằm ở thực tiễn, vì chỉ có thực tiễn là nơi kiểm nghiệm chính xác nhất tính đúng, sai của lý luận. Những ngƣời đề cao, coi trọng lý luận, xem thƣờng thực tế, chính là những ngƣời kém sâu sắc, trong công việc kém hiệu quả, họ chỉ giỏi “khua môi, múa mép”, “Họ không biết rằng “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem đƣợc hàng ngàn hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách” [97, tr.274]. Hiệu quả của công việc đƣợc đánh giá đúng thực chất, khi chỉ đƣợc chứng minh qua thực tiễn của cuộc sống. Những ngƣời học lý luận và đƣợc cho là am hiểu lý luận một cách thấu đáo, sâu sắc, chỉ khi lý luận đó đƣợc đƣa vào thực tiễn. Lý luận đƣợc xem là đúng chỉ khi nào đƣợc chứng minh và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn. Vì thực chất “Nếu đƣa một lý luận rất đúng ra nói, rồi xếp nó lại một xó, không đƣa ra thực hành, thì lý luận ấy thành lý luận suông” [99, tr.127]. - ẩ : Phải có tính đảng. Tính đảng rất cần cho mỗi cán bộ, đảng viên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, có tính đảng, cán bộ, đảng viên sẽ đánh bại và loại bỏ đƣợc tính tự tƣ tự lợi, loại bỏ đƣợc tƣ tƣởng “trục lợi cá nhân”. Có đƣợc tính đảng, thì trong lòng của mỗi cán bộ, đảng viên lúc nào cũng chỉ biết nghĩ đến lợi ích của dân tộc, của đồng bào; đồng thời, trong quá trình thực thi nhiệm vụ mà nhân dân giao phó sẽ không có tƣ tƣởng kèn cựa, không câu nệ, mà luôn xem đó là nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả. Cán bộ, đảng viên phải luôn ghi nhớ một điều, đƣợc phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc là niềm vinh hạnh, là sự tự hào. Muốn đƣợc dân tin, dâu yêu, dân quý, dân giao trọng trách, thì mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn tự rèn luyện cho mình tính đảng. Có tính đảng sẽ làm cho cán bộ, đảng viên tự tin, đủ sức mạnh vƣợt qua khó khăn, gian khổ, vƣợt qua mọi cám dỗ chông gai để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm đƣợc việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên” [9...ành động. Bởi lực lƣợng này có nhiệt huyết, hăng say, thời gian công tác rất 160 dài. Thiết nghĩ, để tạo bƣớc đột phá trong việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ cấp phƣờng, xã cần phải thay đổi quan niệm cũ về sử dụng cán bộ theo kiểu “sống lâu lên lão làng”. Theo đó, cần mạnh dạn loại bỏ những cán bộ có trình độ chuyên môn thấp, trong khi tuổi đời cao, nhất là cán bộ chủ chốt. Tuy nhiên, thực hiện giải pháp này đòi hỏi đội ngũ làm công tác cán bộ phải cân nhắc kỹ lƣỡng khi quyết, thực hiện phải có lộ trình, có sự “trộn lẫn” giữa đội ngũ cán bộ trẻ và đội ngũ cán bộ già, để vừa tạo sự đột phá nhƣng đồng thời vừa tạo đƣợc sự học hỏi kinh nghiệm. Kiên quyết không tuyển dụng, quy hoạch, phân công, bố trí những cán bộ non kém về năng lực lãnh đạo hoặc “có vấn đề” trong việc sử dụng bằng cấp giả vào những vị trí chủ chốt. Song song với đó, cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, khen thƣởng hợp lý hơn đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý cơ sở; đồng thời, có các chính sách đồng bộ nhằm thu hút trí thức trẻ về công tác tại các phƣờng, xã. Điều kiện trƣớc tiên phải vì nhiệm vụ chung, vì công việc; phân công nhiệm vụ phải phù hợp với năng lực, sở trƣờng của cán bộ; tránh vì mối quan hệ riêng tƣ hay lợi ích cá nhân, nhất là công tác luân chuyển cán bộ về cơ sở. tùy theo chức năng nhiệm vụ, chuyên ngành, chuyên môn, mà cơ quan chủ quản có thể “gửi” cán bộ của đơn vị mình về cơ sở để “thử lửa” với thực tế. Tuy nhiên, công việc “gửi” cán bộ có thể dẫn đến có hại cho cán bộ, nếu cơ quan, đơn vị “gửi” nhầm vào “địa chỉ” không phải chuyên môn, sở trƣờng của cán bộ. Do đó, khi đƣa cán bộ về cơ sở, các cấp lãnh đạo cần chú ý vào “cơ sở”. Có nhƣ vậy cán bộ mới có điều kiện phát huy hết năng lực của mình. ă với lịch sử chính trị của vùng đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng chịu sự áp bức tàn bạo của địch, do không chịu nổi chính sách áp bức bóc lột của kẻ thù, để tránh đòn roi, tra tấn, một bộ phận những ngƣời dân chấp nhận đi theo địch, nhƣng không thuộc diện ác ôn. Do vậy, trong công tác cán bộ cần có quan điểm lịch sử cụ thể, cần có quan điểm “mở”, tránh hẹp hòi, định kiến, áp đặt. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ phải học tập cách dùng 161 ngƣời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ máy nhà nƣớc sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Ngƣời làm công tác cán bộ phải gần gũi, tìm hiểu cán bộ. Tìm hiểu để nắm lịch sử của cán bộ, mối quan hệ của cán bộ, tìm hiểu cả sinh hoạt đời thƣờng của cán bộ tâm tƣ nguyện vọng của cán bộ; tìm hiểu để biết năng lực, tức trình độ chuyên môn cũng nhƣ nghiệp vụ của cán bộ; biết rõ đạo đức tác phong của cán bộ. Tìm hiểu cán bộ là để nghiên cứu, để khai thác, phát huy thế mạnh của cán bộ, đồng thời động viên, khắc phục những mặt khuyết để cán bộ dần hoàn thiện hơn; hơn thế nữa chính thông qua đó, ngƣời làm công tác cán bộ tự hoàn thiện mình. Hoàn thiện mình trong quá trình làm công tác cán bộ, hoàn thiện mình tức là nâng cao khả năng cũng nhƣ kinh nghiệm “nhìn ngƣời”, đánh giá con ngƣời. Trong việc sử dụng, bổ nhiệm cán bộ không nên quá nặng nề về lý lịch, mà chủ yếu dựa vào quá trình cống hiến của bản thân ngƣời cán bộ đó. Điều quan trọng là sau khi chúng ta bổ nhiệm phải có chế tài quản lý cán bộ. muốn dùng, muốn sử dụng cán bộ, phải biết giúp cán bộ cho đúng. Giúp cán bộ là định hƣớng cho cán bộ, động viên, an ủi, chỉ ra cái đúng, cái sai, chứ không phải mƣợn cớ giúp để lôi kéo “gây bè kéo cánh”. Giúp cán bộ là giúp những lúc khó khăn, giúp trong công việc, đời sống sinh hoạt hằng ngày. Giúp là để giữ cán bộ, giúp bằng sự chân thành trong mọi tình huống, trong ứng xử, giải quyết công việc, giúp bằng tấm gƣơng của bản thân, giúp cán bộ bằng việc cơ chế, chế độ, bằng chính sách, môi trƣờng làm việccó nhƣ vậy cán bộ mới thật sự an tâm cống hiến sức mình cho công việc. Có chính sách đoàn kết tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng những ngƣời có đức, có tài trong Đảng và ngoài Đảng, ngƣời ở trong nƣớc và ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Phát hiện, lựa chọn và giới thiệu những ngƣời đủ tiêu chuẩn trong các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế tham gia các tổ chức chính trị, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để họ đóng góp vào các công việc chung của đất nƣớc. 162 Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Các cấp uỷ, thủ trƣởng các cơ quan phải nắm chắc từng cán bộ, cả về đức, tài và tình trạng sức khỏe. Trên cơ sở đó có kế hoạch sử dụng, đề bạt, giúp đỡ, khen thƣởng đúng mức những cán bộ có thành tích, xử lý kỷ luật kịp thời và nghiêm minh những cán bộ vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nƣớc. Yếu tố rất quan trọng trong việc giúp cán bộ an tâm phát huy năng lực và sở trƣờng của mình, đó là mỗi cơ quan đơn vị nên có khu tập thể dành cho cán bộ; dĩ nhiên phải có tiêu chí, tiêu chuẩn để xét, nhƣ: thời gian công tác, chức vụ hoặc mức hoàn thành nhiệm vụ hằng năm. Khi cán bộ hết tuổi hoặc luân chuyển công tác thì sẽ nhƣờng lại cho ngƣời sau. Làm đƣợc điều này đem lại nhiều điểm lợi: - Tạo điều kiện cho cán bộ có chỗ ở ổn định, trên cơ sở đó cán bộ an tâm công tác và đem lại hiệu quả công việc cao, vì có an cƣ mới lạc nghiệp. Đồng thời còn vừa tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí đi lại, vừa giảm, tránh đƣợc rủi ro, nhất là khi mùa mƣa lũ về. - Cán bộ có đi công tác xa hay học hành thì cũng an tâm về vấn đề an ninh trật tự cho gia đình, an toàn cho con của họ. - Giải quyết công việc cần thiết, cấp bách khi đã hết giờ hành chính. - Có điều kiện tiếp khách đơn vị bạn đến giao lƣu, học hỏi Tóm lại việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đồng bằng sông Cửu Long phải đúng theo tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải xuất phát và đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn, theo tinh thần “đổi mới việc đánh giá, quy hoạch, bồi dƣỡng cán bộ, đặc biệt quan tâm nguồn cán bộ trẻ; làm tốt công tác luân chuyển cán bộ, coi đây là giải pháp quan trọng, một khâu đột phá trong công tác cán bộ; đổi mới và nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ,; tăng cƣờng công tác quản lý cán bộ, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, chế độ phân công, phân cấp cán bộ” [118, tr.671]. Ngoài những giải pháp cụ thể đƣợc trình bày trên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ phải đƣợc kết hợp, gắn liền với công tác kiểm tra, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm theo hằng năm, để từ đó có phƣơng hƣớng cụ thể, kịp thời trong từng giai đoạn. 163 Cấp uỷ và tổ chức đảng có trách nhiệm xây dựng chế độ kiểm tra cán bộ và công tác cán bộ. Kịp thời nêu gƣơng cán bộ tốt, giúp đỡ cán bộ gặp khó khăn, ngăn chặn những biểu hiện lệch lạc, cơ hội, thoái hóa, biến chất. Kịp thời kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến cán bộ để đánh giá chính xác cán bộ. Phát hiện và uốn nắn những cơ sở, thiếu sót trong công tác cán bộ. Cùng với đó là việc tổ chức nghiên cứu học tập công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của các địa phƣơng khác trong vùng, thậm chí trên cả nƣớc. 164 Tiểu kết Chƣơng 4 Sự hƣng thịnh hay suy vong của mọi chế độ xã hội đều bắt nguồn từ đội ngũ cán bộ trong chế độ xã hội đó. Vì vậy, xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ thật sự kiên trung, đủ năng lực, đƣa xã hội tiến tới phồn vinh luôn là vấn đề trọng tâm và cấp bách. Tuy nhiên, vấn đề đó không phải dễ dàng, mà đòi hỏi ở nhân tố đóng vai trò quyết định là ở đội ngũ những ngƣời làm công tác cán bộ. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tùy vào đặc điểm của từng địa phƣơng, đơn vị, đặc điểm của ngànhmà những ngƣời làm công tác cán bộ có kế hoạch, phƣơng hƣớng xây dựng cho mình một đội ngũ cán bộ đủ sức giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ tại địa phƣơng, đơn vị mình đặt ra. Đối với các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, để giải quyết những khó khăn, yếu kém, góp phần đƣa đất nƣớc vững bƣớc trên con đƣờng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, căn cứ vào những nhân tố tác động, những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, cũng nhƣ những thuận lợi và khó khăn trên cơ sở quy định của Đảng, Nhà nƣớc đặt ra về công tác cán bộ, việc xây dựng một đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở luôn là vấn đề nóng bỏng và cần thiết, đòi hỏi các cấp, các ngành mà trƣớc hết là các cấp ủy đảng thuộc đồng bằng sông Cửu Long cần chú trọng và quan tâm sâu sắc. Với hệ thống giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đồng bằng sông Cửu Long theo tƣởng Hồ Chí Minh, hi vọng trong thời gian tới, đội ngũ cán bộ này đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn cách mạng của khu vực cũng nhƣ trên cả nƣớc, trở thành lực lƣợng hậu bị to lớn cho Đảng và Nhà nƣớc. 165 KẾT LUẬN 1. Tƣ tƣởng về xây dựng đội ngũ cán bộ là một trong những tƣ tƣởng lớn trong toàn bộ hệ thống tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là thực tiễn công tác xây dựng cán bộ của Ngƣời mà những ngƣời làm công tác cán bộ của chúng ta càng phải nghiên cứu, học tập. Việc áp dụng một cách đúng đắn và có hiệu quả tƣ tƣởng của Ngƣời về xây dựng đội ngũ cán bộ sẽ góp phần quyết định đƣa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Nghiên cứu tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đó là nghiên cứu cách thức tổ chức xây dựng cán bộ, cách sử dụng, cách bố trítrên cơ sở những tiêu chuẩn cần có đối với cán bộ. Nắm vững cách tổ chức, xây dựng đó của Ngƣời chính là cơ sở để xây dựng đƣợc đội ngũ cán bộ đầy đủ phẩm chất đạo đức, năng lực hoàn thành nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Những tiêu chuẩn đó còn là những căn cứ để Đảng và Nhà nƣớc ta hoạch định công tác cán bộ. Ngay từ buổi đầu khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc đào tạo cho cách mạng Việt Nam một đội ngũ cán bộ kiên trung và chính đội ngũ những ngƣời kiên trung đó đã làm rạng rỡ sự nghiệp cách mạng. Từ việc nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Mình, cũng nhƣ thực tiễn các nƣớc trên thế giới và cách mạng Việt Nam có thể thấy sự thành bại của mọi công việc là do cán bộ. Với vị trí là ngƣời gần dân, thƣờng xuyên tiếp xúc dân, đóng vai trò tổ chức thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, nên đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải đƣợc trang bị đầy đủ những tiêu chuẩn, những chuẩn mực của một ngƣời cán bộ thời đại mới. 2. Từ thực tiễn hơn 30 đổi mới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, sự nghiệp cách mạng đạt đƣợc những thành tựu hết sức rực rỡ, đất nƣớc từng bƣớc tiến lên, nền kinh tế - xã hội có sự chuyển mình mạnh mẽ, vị thế của đất nƣớc Việt Nam ngày càng đƣợc khẳng định trên trƣờng quốc tế. Thành tựu đó là sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, sự cống hiến của các nhà khoa học, sự phấn đấu của mỗi cá nhân từng cán bộĐó là do Đảng ta đã 166 làm tốt công tác cán bộ, xây dựng một đội ngũ cán bộ phù hợp với từng vị trí mà cán bộ đảm nhiệm. Chính những thành tựu đó sẽ làm tiền đề để chúng ta bắt tay vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ tƣơng lai cho đất nƣớc. Thực tế cho thấy, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, thì nền kinh - tế xã hội của Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn, nguyên nhân chính là bắt nguồn từ cán bộ. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ còn mắc phải nhiều thiếu sót, từng lúc, từng nơi công tác cán bộ chƣa đƣợc quan tâm hoặc làm theo cảm tính, vẫn còn tình trạng nâng đỡ, “ô dù”. Một bộ phận cán bộ thiếu kiên trung, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà bất chấp mọi thủ đoạn, đục khoét của công, gây tổn hại cho ngân sách nhà nƣớc, tổn hại đến niềm tin của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, khi tất cả đã bƣớc vào giai đoạn toàn cầu hóa, với vị thế của mình, Việt Nam đang đứng trƣớc nhiều cơ hội lớn để vƣơn mình ra thế giới, nhƣng cũng đặt ra nhiều thách thức không nhỏ khi mà một bộ phận cán bộ của chúng ta vẫn chƣa “gột rữa hết lòng tà”. Trong điều kiện nhƣ thế, nghiên cứu và thực hiện tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ càng trở thành yêu cầu cấp thiết, càng phải đƣợc Đảng và các cấp triển khai sâu rộng và có hiệu quả, mà trƣớc hết là việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là vấn đề càng trở nên cấp bách. 3. Với đồng bằng sông Cửu Long, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở theo tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cả một quá trình đi tuần tự từ tất cả các khâu, các bƣớc. Đòi hỏi ngƣời làm công tác cán bộ phải công tâm, phải có óc nhạy bén, sắc xảo, tinh tế, phải biết nhìn thấu suốt cán bộ, phải hiểu rõ cán bộ. Điểm đặc biệt và là căn cứ căn bản nhất là phải bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn. Trên cơ sở đó, từng địa phƣơng, đơn vị có kế hoạch, phƣơng án xây dựng cho phù hợp, đồng thời hoạch định chiến lƣợc lâu dài cho cả giai đoạn từ nay đến 2025 và các giai đoạn sau Có nhƣ vậy, trong từng giai đoạn lịch sử, chúng ta luôn có một đội ngũ cán bộ xứng tầm, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hoàn thành sứ mệnh lịch sử - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Đoàn Phú Hƣng (2014), “Đảng bộ tỉnh Cà Mau lãnh đạo công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, ạp L ử Đ , Số 3 (280), tháng 3, tr.98 - 100. 2. Đoàn Phú Hƣng (2015), “Công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ các cấp của Đảng bộ tỉnh Cà Mau nhiệm kỳ 2015-2020”, ạp L ử Đ , (229), tháng 10, tr.108, 109. 3. Đoàn Phú Hƣng (2017), “Đảng bộ tỉnh Cà Mau lãnh đạo công tác cán bộ thời kỳ mới”, K ọ ơ ọ Họ K IV, Số 01(6). 4. Đoàn Phú Hƣng (2017), “Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về cán bộ trong tác phẩm Sử ổ với công tác sử dụng, bổ nhiệm cán bộ hiện nay”, ạp L ử Đ (322), tháng 9, tr.41-44. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Ngọc Liên, Nguyên An (2002), B H M ơ p I H M ớ ụ - ạ , Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 2. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên) (2004), ở ă H M ớ ụ ộ ũ bộ , Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 3. Ban Chấp hành Trung ƣơng (1997), N 03-NQ/TW B ấp ơ VIII ề bộ ờ ỳ ẩ ạ công nghi p ạ ấ ớ 4. Ban Chấp hành Trung ƣơng (2009), K L 37-KL/TW ề p ụ ẩ ạ bộ ừ ă 2020. 5. Ban Tuyên giáo Trung ƣơng - Trung tâm thông tin công tác tƣ tƣởng (2007), 117 ể ề ấ ơ ạ H M Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Chí Bảo (2009), “Ngƣời cán bộ tổ chức học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh”, Tạp chí X Đ , (1+2), tr. 71-73. 7. Nguyễn Khánh Bật (2001), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo”, G ụ (04). 8. Bộ Chính trị (2004), N 42-NQ/TW ề ạ bộ ã ạ ý ờ ỳ ẩ ạ p ạ ấ ớ 9. Bộ Chính trị (2008), B S 145/ LHN, (Trình Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X) 10. Bộ Chính trị (2010), Q 286-QĐ/ W ề b bộ . 11. Bộ Nội vụ (2004), Q Bộ ở Bộ Nộ ụ ề b ẩ ụ ể ớ bộ ã p ờ ấ 12. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), p, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), p, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), p, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Thành Châu (2006), “Tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về yêu cầu phẩm chất ngƣời cán bộ, đảng viên vừa là ngƣời công bộc của dân, vừa lãnh đạo nhân dân”, ở ý , (12), tr. 38-42. 16. Chính phủ (2003), N P 114/2003/NĐ- P ề bộ ã p ờ ấ 17. Chính phủ (2003), N P 121/2003/NĐ- P ề ộ ớ bộ ở ã p ờ ấ 18. Chính phủ (2009), N 92/2009/NĐ-CP ề ộ ộ ớ bộ ở ã p ờ ấ ữ ờ ạ ộ ở ấp ã 19. Chính phủ (2010), N 18/2010/NĐ- P ề ạ b ỡ 20. Chính phủ (2010), N 24/2010/NĐ-CP quy ề ể dụ ử ụ và lý công 21. Chính phủ (2010), N ử ổ bổ ộ ề N 92/2009/NĐ-CP 22 10 ă 2009 C p ề ộ ộ ớ bộ ở ã p ờ ấ ữ ờ ạ ộ ở ấp ã. 22. Đỗ Minh Cƣơng (2009), Q ạ bộ ã ạ ý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Vă Đạ ộ ạ b ể VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Vă Đạ ộ ạ b ể VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) Vă Đạ ộ ạ b ể VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Vă Hộ b B ấp ơ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Vă Đạ ộ ạ b ể IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Vă Hộ B ấp ơ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Vă Đạ ộ ạ b ể X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Vă Hộ ă B ấp hành Trung ơ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Vă Hộ b B ấp ơ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Vă Hộ B ấp ơ Đ X - Hội nghị lần thứ ba, tƣ, năm, sáu bảy và chín - Lƣu hành nội bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Vă Hộ B ấp ơ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Vă Đạ ộ ạ b ể XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Vă Đạ ộ ạ b ể XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Phan Hữu Dật (1994), P ơ ù ờ ử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Thẩm Vinh Hoa, Ngô Quốc Diệu (Chủ biên) (2008), ọ ọ - ớ ă ă ấ ấ ớ (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Nguyễn Đắc Hƣng, Phan Xuân Dũng (2004), N p ể , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Nguyễn Lân Dũng (2006), “Lựa chọn, bồi dƣỡng hiền tài - Truyền thống và yêu cầu bức thiết của cuộc sống”, ạ , (4), (25). 40. Trần Đƣơng (2008), B H ớ ĩ , Nxb Thanh niên, Hà Nội. 41. Thành Duy (2001), ở H M ớ p ờ V N p ể (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. Ê.Cô-bê-Lép (1985) “Đ H M ”, Nxb Thanh niên, Hà Nội, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 43. Võ Nguyên Giáp (2008) “ ở H M ờ ạ V N ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Thanh Hà (2005), “Để hiền tài thực sự là nguyên khí quốc gia”, Tia Sáng, (13). 45. Võ Văn Hải (2010), “Yêu cầu về phẩm chất, năng lực cán bộ theo chuẩn mực đức - tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Lý , (08). 46. Nguyễn Văn Khánh và Trƣơng Bích Hạnh (2009), “Đ ạ ử ụ V N ớ ờ P p ộ ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Chu Hảo (2002), “Cần thêm gì vào tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời đại kinh tế tri thức”, X Đ (02). 48. Vũ Thị Phƣơng Hậu (2002), “Truyền thống tôn trọng hiền tài trong nền văn hiến Việt Nam” Lý (01). 49. HĐND huyện Tân Phú Đông tỉnh Tiền Giang (2008), Nghị quyết số 196/2008/NQ-HĐND (ngày 06 /12/2008) ấp ớ bộ , Tiền Giang. 50. HĐND tỉnh An Giang (2013), nghị quyết số 03/2013/NQ-HĐND của Về ỗ bộ ạ bộ p p ơ ớ b tỉnh An Giang. 51. HĐND tỉnh Bạc Liêu (2010) N S 22/2010/NQ-HĐND ề ử ổ bổ N 11/2008/NQ-HĐND 24 10 ă 2008 Hộ N ỉ VII ề ộ ớ bộ Bạc Liêu. 52. HĐND tỉnh Cà Mau (2013) (Khóa VIII, kỳ họp thứ bảy), N S 21/2013/NQ-HĐND ề ỗ p ạ ú ỉ Cà Mau, Cà Mau. 53. HĐND tỉnh Cà Mau (2013) (Khóa VIII, kỳ họp thứ sáu), N S 03/2013/NQ-HĐND ộ ộ ớ ữ ờ ạ ộ ở ã p ờ ấ ấp b ỉ Cà Mau, Cà Mau. 54. HĐND tỉnh Kiên Giang (2013), nghị quyết số 10/2013/NQ-HĐND (ngày 10/7/2013) Về ử ổ ộ ạ b ỡ bộ ú Kiên Giang. 55. HĐND tỉnh Long An (2012), Nghị quyết HĐND Khóa VIII, kỳ họp thứ 5, về p ụ ấp bộ ở ã p ờ ấ ạ 2 ạ 3 p ụ ấp ớ B P b Đ bộ p ở ấp p B P b bộ ộ Đ bộ bộ p b ỉ L Long An. 56. HĐND tỉnh Long An, nghị quyết số 59/2012/NQ-HĐND (ngày 13/7/2012) Về ỗ ể b ớ bộ của tỉnh Long An. 57. Phan Hiền (2007), B H ớ p ờ Nxb Trẻ. 58. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện xây dựng Đảng (2006), G Đ (H ử ), Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội. 59. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh (1997), V ụ ở H M ề ấ ề bộ côn bộ p ổ ớ Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 60. Bùi Kim Hồng (2009), H M ớ ổ bộ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 61. Nguyễn Đắc Hƣng (2007), P ể ấ ấ ớ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 62. Nguyễn Đắc Hƣng (2008), V N ù ờ ạ (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. Nguyễn Duy Hùng (chủ biên): L ọ ộ p p ộ ũ bộ ã ạ p ờ Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2008). 64. Đặng Hữu (2005), “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên tri thức ở nƣớc ta hiện nay”, ộ , (04). 65. Huyện ủy huyện Thoại Sơn (2006), K ạ ề ể N 42 Bộ ỉ 04- / U B ờ ụ ỉ ă b ề bộ ạ bộ ã ạ ý, An Giang. 66. Huyện ủy huyện Thoại Sơn (2006): Báo cáo ơ ạ bộ ỳ 2010 - 2015, An Giang. 67. Huyện ủy huyện Thoại Sơn (2011), B ổ 42 ề ạ bộ 11 Bộ IX ề ể bộ ã ạ ý ờ ỳ ẩ ạ p ạ ấ ớ An Giang. 68. Huyện ủy huyện Thoại Sơn (2012), B ơ 5 ă ỉ 16- / U B ờ ụ ỉ ề ă ạ ộ bộ Đ ừ ỉ ơ ở An Giang. 69. Huyện ủy huyện Thoại Sơn (2013), Báo ổ 7 ă ạ ý ạ 2006 - 2012, An Giang 70. Huyện ủy huyện Thoại Sơn (năm 2014), B b ỡ ạ bộ An Giang. 71. Trần Đình Huỳnh (2004), “Nhân tài và vấn đề sử dụng nhân tài”, Xây d Đ (04). 72. Đặng Trọng Khánh (2010), “Tạo đột phá phát triển cần có nhân tài”, Xây Đ , (07). 73. Nguyễn Văn Khánh (2010), X p V N p ụ ụ p ấ ấ ớ Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 74. Vũ Khoan (2009), “Phát hiện, đào tạo, sử dụng nhân tài”, X Đ (04). 75. Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (2014), ý B H ể Nxb Thanh niên. 76. Nguyễn Huy Kiệm (2008), N ấ ộ ũ bộ ơ ở ù bằ ử L , Tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc Số 7. 77. Đặng Xuân Kỳ (2002), “Tiếp tục nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý tại học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”, Lý (05). 78. Đặng Xuân Kỳ (chủ nhiệm) “Mộ ấ ề ý ề Đ ớ ộ ề ã ạ p ĩ ã ộ ” (KX.03.10). 79. Bùi Đức Lại (2007), "Phát triển và sử dụng tài năng", X Đ (08). 80. Bùi Đức Lại (2010), "Chạy chức và trách nhiệm", Xây Đ , (2+3). 81. Nguyễn Bá Linh (2005), ở H M ề ộ p ộ ĩ ã ộ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 82. Lê Quốc Lý (2014), "Đổ ớ ở ớ ", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 83. Hồ Chí Minh (2005), B ể ử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 84. Hồ Chí Minh (2006), B ể ử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 85. Hồ Chí Minh (2006), B ể ử, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 86. Hồ Chí Minh (2006), B ể ử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 87. Hồ Chí Minh (2006), B ể ử, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 88. Hồ Chí Minh (2008), B ể ử, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 89. Hồ Chí Minh (2008), B ể ử, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 90. Hồ Chí Minh (2008), B ể ử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 91. Hồ Chí Minh (2009), B ể ử, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 92. Hồ Chí Minh (2009), B ể ử, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn p, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 94. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 95. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 96. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 97. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 98. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 99. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 100. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 101. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 102. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 103. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 104. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 105. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 106. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 107. Hồ Chí Minh (2011), p, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 108. Nguyễn Đăng Nam (2010), ""Trồng ngƣời" - Tƣ tƣởng nhân văn cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh", G ụ , (238). 109. Phạm Quang Nghị (1988), Đ ạ bộ ấ ề ụ - ở , Nxb Tuyên Huấn, Hà Nội. 110. Lê Hữu Nghĩa (2001) “Mộ ấ ề ề ộ ũ bộ ấp ờ ộ ở N ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 111. Lê Hữu Nghĩa (2005), "Tƣ tƣởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cán bộ, đảng viên hiện nay", Tạp chí ộ , (11), tr. 16-25. 112. Sơn Tùng, Trần Đƣơng, Trần Đại Nghĩa (2006), B H ề , Nxb Thông tấn, Hà Nội. 113. Đỗ Văn Ninh (2000), Vă b Q ử G H Nộ , Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 114. Nguyễn Quang Phát (2000), "Góp phần tìm hiểu quan niệm trồng ngƣời của Hồ Chí Minh", Lý (06). 115. Nguyễn Quang Phát (2006), Q ể ở H M ề - tài ộ ũ bộ ộ , Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 116. Bùi Đình Phong (2002), ở H M ề bộ bộ, Nxb Lao động, Hà Nội. 117. Bùi Đình Phong (2003), “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài”, ạp Lý , số 1 118. Nguyễn Trọng Phúc (Chủ biên) (2006), Đạ ộ ạ b ể Hộ B ấp ơ Đ ộ V N (1930- 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 119. Quốc hội (2008), L bộ , Luật số 22/2008/QH12, Hà Nội. 120. Sách “H M ộ ờ Á ọ ờ ạ ” (2010), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 121. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003), L ọ ấ ộ ũ bộ ờ ỳ ẩ ạ p ạ ấ ớ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 122. SUPRIDA PHANOMJONG, (2012) “Hồ Chí Minh Ông Tiên sống mãi”, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội. 123. Văn Tạo (2007), "Vận hội mới và yêu cầu đào tạo nhân tài", ở ă hóa (01). 124. Mạch Quang Thắng (2010), H M ờ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 125. Mạch Quang Thắng (2012), ở H M ề bộ cán bộ Cổng thông tin tƣ liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh w.w.w.thehehochiminh.net. 126. Song Thành (2007), "Văn hóa đạo đức và vấn đề giáo dục đạo đức ở thời kỳ hiện nay", Lý , (05). 127. Song Thành (2010), H M ă ấ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 128. Thông tƣ liên tịch (2010) số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH của Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội-Bộ Nội vụ-Bộ Tài chính. 129. Thủ tƣớng Chính phủ (2009), Q 492/QĐ- p ề p ù ọ ể ù bằ ử L 130. Thủ tƣớng Chính phủ (2016), Q 225/QĐ-TTg p ạ ớ ạ 2016 - 2020. 131. Tỉnh ủy tỉnh Bến Tre (2011), Nghị quyết số 04-NQ/TU 20/10/2011, ề ấ ỉ B ạ 2011- 2015 ớ ă 2020 Bến Tre. 132. Tỉnh ủy tỉnh Bến Tre (2012), Đề án số 01-ĐA/TU, ngày 12/6/2012 ề b ử ụ bộ ữ bộ ẻ ữ ã ạ ý ỉ B ạ 2011-2015 ớ ă 2020 Bến Tre. 133. Tỉnh ủy tỉnh An Giang (2013), B ổ 5 ă ơ ộ 12- / U ỉ ơ 5 (K X) ề p ụ ổ ớ p ơ ã ạ Đ ớ ạ ộ An Giang. 134. Tỉnh ủy tỉnh Cà Mau (2012), Đề án số 01 ĐA/TU (04/5/2012) Tuyển dụng, đào tạo trí thức trẻ của tỉnh về công tác của xã, phƣờng thị trấn, Cà Mau. 135. Tỉnh Ủy tỉnh Cà Mau (2015), K 222-KL/ U B ấp Đ bộ ỉ p ụ 03-NQ/ U ỉ ề ấ ỉ M ạ 2011 - 2015 ớ ă 2020, Cà Mau. 136. Tỉnh Ủy tỉnh Cà Mau (2016), Báo cáo cáo số 126-BC/TU “ ề ấ ỉ M ạ 2011 - 2015 và ớ ă 2020”, Cà Mau. 137. Tỉnh Ủy tỉnh Cà Mau (2016), K S 52-KL/ U B ấp Đ bộ ỉ p ụ N 03-NQ/ U ỉ ề ấ ỉ M ạ 2011 - 2015 ớ ă 2020, Cà Mau. 138. Tọa đàm trực tuyến “Phát triển nhanh và bền vững đồng bằng sông Cửu Long” (2012) tại thành phố Cần Thơ. 139. Nguyễn Đài Trang (2010), H M ộ ớ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 140. Nguyễn Đài Trang (2013), H M ă p ể , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 141. Nguyễn Hoàng Lƣơng, Phạm Hồng Tung (2008), ă ắ ụ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 142. Phạm Hồng Tung (2008), L ề p ạ ử ụ ử V N , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 143. ổ ẻ ă (1993), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 144. Bùi Quang Tuyến (2007), "Về quan niệm hiền tài là nguyên khí quốc gia", (01/2007). 145. UBND tỉnh An Giang (2016), Quyết định số 1949/QĐ-UBND (ngày 13/7/2016) ề p ạ b ỡ bộ ã ă 2016 1956/QĐ-TTg, An Giang. 146. UBND tỉnh Cà Mau (2011), Quyết định số 1714/QĐ-UBND, ngày 04/11/2011, p ạ ổ ể p ể ụ ạ ỉ M ă 2020, Cà Mau. 147. UBND tỉnh Cà Mau (2012), Quyết định số 1360/QĐ-UBND ngày 27/9/2012, p ạ p ể ỉ M ạ 2011 - 2020, Cà Mau. 148. UBND tỉnh Cà Mau (năm 2014), b ớ thi hành N 22/2013/NQ-HĐND 05/12/2013 Hộ N ỉ ề ể ọ ẻ ở ã p ờ ấ b ỉ Cà Mau, Cà Mau. 149. UBND tỉnh Tiền Giang (2013), Quyết định số 12/2013/QĐ-UBND ngày 09 tháng 5 năm 2013, ẩ ụ ể ớ bộ ã p ờ ấ b ỉ Tiền Giang. 150. UBND tỉnh Tiền Giang (2013), Quy định số 2368/QĐ-UBND b ề ạ b ỡ bộ ấp ỉ b ỉ ề G ạ 2013 - 2015 ớ ă 2020 Tiền Giang. 151. UBND tỉnh Tiền Giang (2013), Q 1669/2013/QĐ-UBND ngày 17 7 ă 2013 Đề ạ b ỡ ộ ũ bộ ấp ã b ỉ ề G ạ 2013 - 2020 ề G 152. UBND tỉnh Sóc Trăng (2009), Q 07/2009/QĐ-UBND, ngày 21 01 ă 2009 “ ộ ớ bộ, công ể b ỉ S ă ”, Sóc Trăng. 153. V.I. Lênin (1977), p, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 154. V.I. Lênin (1977), p, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 155. V.I. Lênin (1978), p, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 156. V.I. Lênin (1978), p, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 157. V.I. Lênin (1978), p, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 158. V.I. Lênin (1979), p, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 159. Nguyễn Thị Hồng Vân (2010), "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay", G ụ , (244). 160. Viện ngôn ngữ học (1996), ừ ể V , Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng. 161. Lê Kim Việt (2009), "Đạo đức, nhân cách cán bộ, đảng viên theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý , (6), tr. 3-9. 162. Trƣơng Thị Thông, Lê Kim Việt (đồng chủ biên - 2010), B bộ ở ớ ạ p p Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 163. Nguyễn Văn Vinh (2010), "Chăm lo phát hiện, đào tạo, bồi dƣỡng nhân tài", X Đ (2+3). 164. Vũ Quang Vinh (2002), "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ lãnh đạo", Lý (05). 165. Phạm Văn Vũ (1999), Mã ã ờ B H , Nxb Lao động, Hà Nội. 166. Đàm Đức Vƣợng (2010) (Chủ nhiệm đề tài), B ổ p ề : X ộ ũ V N ạ 2011 - 2020 (Chƣơng trình KX.04/06-10, đề tài KX.04.16/06-10), Hà Nội. 167. Đức Vƣợng (2008), "Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam: Để tạo ra nhiều nhân tài, hiền tài cho đất nƣớc", ngày 20/09. 168. Đức Vƣợng (2008), "Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới", ngày 08/10. 169. Đức Vƣợng (2009), "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh vào xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc", Công an nhân dân, (01). 170. Đức Vƣợng (2009), "Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức", Ban Tuyên ơ (10). 171. Đức Vƣợng (2010), H M ạ bộ ọ ụ , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 172. William J. Duiker “H M ộ ộ ờ ”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_xay_dung_doi_ngu_can_bo_chu_chot_cap_co_so_o_dong_ba.pdf
  • pdfTÓM TẮT TIẾNG ANH.pdf
  • pdfTÓM TẮT TIẾNG VIỆT.pdf
  • pdfTrang thon tin Doan phu Hung.pdf
Tài liệu liên quan