Luận án Việt Nam trong vai trò ủy viên không thường trực hội đồng Bảo an liên hợp quốc giai đoạn 2008 - 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO ------------------ NGUYỄN VIỆT LÂM VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ ỦY VIÊN KHÔNG THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HỢP QUỐC GIAI ĐOẠN 2008-2009 LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ MÃ SỐ: 9310206 Hà Nội - 2018 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO ------------------ NGUYỄN VIỆT LÂM VIỆT NAM TRONG VAI TRÒ ỦY VIÊN KHÔNG THƯỜNG TRỰC HỘI ĐỒNG BẢO AN LIÊN HỢP QUỐC GIAI ĐOẠN 2008-2009 Chuyên ngành

pdf174 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Việt Nam trong vai trò ủy viên không thường trực hội đồng Bảo an liên hợp quốc giai đoạn 2008 - 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Quan hệ quốc tế Mã số : 9310206 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS. TS Nguyễn Vũ Tùng 2. PGS. TS Đặng Đình Quý Hà Nội - 2018 LỜI CẢM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, kết quả nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án chưa từng được công bố trong bât kì công trình nào khác. Nguyễn Việt Lâm LỜI CẢM ƠN Tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Đặng Đình Quý và PGS. TS Nguyễn Vũ Tùng đã nhận lời hướng dẫn và tận tình chỉ dẫn để tác giả có thể hoàn thành Luận án này. Tác giả cũng xin cảm ơn Gia đình, bạn bè và Khoa sau đại học, Học viện Ngoại giao đã luôn ủng hộ và giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện. Nguyễn Việt Lâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ VÀ QUÁ TRÌNH ỨNG CỬ CỦA VIỆT NAM VÀO VỊ TRÍ UVKTT HĐBA LHQ NHIỆM KỲ 2008-2009 ................................................................................... 19 1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................................. 19 1.1.1. Khái niệm về chủ nghiã đa phương ................................................................................. 19 1.1.2. Chủ nghĩa đa phương trong các trường phái lý thuyết quan hệ quốc tế ....... 22 1.1.3. Đa phương trong chính sách đối ngoại của các quốc gia ....................................... 27 1.1.4. Quá trình phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại đa phương....................................................................................................................................................... 39 1.2. Cơ sở thực tiễn.......................................................................................................... 43 1.2.1. Bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước ..................................................................... 43 1.2.2. Quá trình đi đến quyết định ứng cử UVKTT HĐBA LHQ 2008-2009. ............ 48 1.2.3. Mục tiêu chính sách ................................................................................................................. 51 1.3. Quá trình vận động ứng cử UVKTT HĐBA LHQ 2008-2009 ......................... 53 1.3.1. Giai đoạn 1: từ năm 1997 đến tháng 7 năm 2006: ................................................... 53 1.3.2. Giai đoạn 2: từ tháng 8 năm 2006 đến tháng 10 năm 2007: .............................. 54 CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ, ĐẢM NHIỆM VAI TRÒ UVKTT HĐBA LHQ NHIỆM KỲ 2008-2009 CỦA VIỆT NAM ............................................................................ 64 2.1. Quá trình chuẩn bị ................................................................................................... 64 2.1.1. Về nội dung .................................................................................................................................. 64 2.1.2. Về nhân sự, bộ máy, cơ chế phối hợp, triển khai liên ngành ............................... 67 2.2. Quá trình đảm nhận nhiệm vụ .............................................................................. 69 2.2.1. Phân loại các vấn đề thảo luận tại HĐBA ...................................................................... 71 2.2.2. Cơ chế ra quyết định .............................................................................................................. 73 2.2.3. Tham gia thảo luận giải quyết các vấn đề trong chương trình nghị sự của HĐBA........................................................................................................................................................... 74 2.2.4. Công tác điều hành tại HĐBA LHQ ................................................................................... 81 2.2.5. Tham gia các cơ quan trong HĐBA .................................................................................. 89 2.2.6. Một số nghiên cưú tình huống điển hình ...................................................................... 93 CHƯƠNG 3 THÀNH TỰU, HẠN CHẾ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM ................................. 110 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ............................................................................................ 110 3.1. Thành tựu và Hạn chế ........................................................................................... 111 3.1.1. Thành tựu.................................................................................................................................. 111 3.1.2. Hạn chế ....................................................................................................................................... 119 3.2. Bài học kinh nghiệm .............................................................................................. 121 3.2.1. Bài học về tầm nhìn đối ngoại và tổ chức thực hiện ............................................. 121 3.2.2. Bài học về chuẩn bị lực lượng, xây dựng nội dung ................................................ 122 3.2.3. Bài học chuẩn bị lực lượng và tổ chức thực hiện .................................................. 124 3.2.4. Bài học về triển khai lực lượng tại New York .................. Error! Bookmark not defined. 3.3. Những vấn đề đặt ra .............................................................................................. 121 3.3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước ...................................................................................... 127 3.3.2 Tình hình tại HĐBA LHQ hiện nay .................................................................................. 130 3.3.3 Cơ hội, thách chức và áp dụng bài học kinh nghiệm nhiệm kỳ 2008-2009 131 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 141 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Tên viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt 1 LHQ The United Nations Liên hợp quốc 2 HĐBA United Nations Security Council Hội Đồng Bảo an Liên hợp Quốc 3 ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội quốc gia các nước Đông Nam Á 4 UVKTT Non-permanent member of the United Nations Security Council Ủy viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. 5 WTO World Trade Organiztion Tổ chức Thương mại Thế giới 6 APEC Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương 7 ĐHĐ General Assembly of the United Nations. Đại Hội đồng Liên hợp quốc 8 UVTT Permanent Member of the United Nations Security Council Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 9 ASEM Asia Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á- Âu 10 PKO Peace Keeping Operations Hoạt động gìn giữ hoà bình 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là cơ quan chính trị quan trọng nhất của tổ chức Liên hợp quốc, được giao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, qua đó có vai trò và ảnh hưởng lớn trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống chính trị thế giới. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐBA được quy định tại các điều VI, VII, VIII và XII của Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm: (i) ra khuyến nghị, quyết định về các biện pháp giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế; (ii) xác định sự tồn tại của các mối đe doạ đối với hoà bình, phá hoại hoà bình hoặc hành động xâm lược, khuyến nghị hoặc quyết định các biện pháp cưỡng chế, kể cả sử dụng vũ lực, cần được tiến hành để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế; (iii) khuyến khích việc giải quyết hòa bình các tranh chấp thông qua các cơ chế/tổ chức khu vực, sử dụng các cơ chế khu vực để thực thi các hành động trong quyền hạn của HĐBA và thường xuyên được cung cấp thông tin về các hoạt động do các cơ chế/tổ chức khu vực tiến hành nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; (iv) sử dụng sự hỗ trợ của Hội đồng ủy thác để thực thi các chức năng của Liên hợp quốc liên quan đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội và giáo dục trong các lĩnh vực chiến lược [1]. HĐBA thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao với tư cách thay mặt cho tất cả các thành viên LHQ, là cơ quan duy nhất của LHQ có quyền hạn trong việc dùng hành động để giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế. Các quyết định, nghị quyết của HĐBA, theo chương VII Hiến chương, khi đã được thông qua đều mang tính chất ràng buộc; tất cả các thành viên của LHQ đều có trách nhiệm phải tôn trọng và thi hành. HĐBA gồm 15 nước thành viên, trong đó có 5 nước uỷ viên thường trực Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và 10 thành viên không thường trực do 2 ĐHĐ LHQ bầu ra với nhiệm kỳ hai năm trên cơ sở phân chia công bằng về mặt địa lý, có tính tới sự đóng góp của những nước này cho tôn chỉ và mục đích của LHQ và không được bầu lại nhiệm kỳ kế ngay sau khi mãn nhiệm. 10 nước thành viên không thường trực được bầu theo sự phân bổ khu vực địa lý gồm: 5 nước thuộc châu Phi và châu Á; 1 nước thuộc Đông Âu; 2 nước thuộc vùng Mỹ Latinh và Caribê; 2 nước thuộc Tây Âu và các nước khác. Với vai trò và ảnh hưởng quan trọng của HĐBA LHQ trong các vấn đề hệ trọng của thế giới có liên quan đến hòa bình và an ninh quốc tế như đã nêu, đa số các nước đều nhận thức rằng, việc đảm nhiệm vị trí uỷ viên không thường trực HĐBA là cơ hội tốt để theo đuổi lợi ích và nâng cao vị thế quốc tế của quốc gia ở cả khía cạnh đa phương và song phương. Là thành viên không thường trực HĐBA, các quốc gia có điều kiện tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến hòa bình, an ninh quốc tế, đặc biệt những vấn đề có liên quan đến lợi ích trực tiếp của họ; lồng ghép những vấn đề họ có lợi ích vào chương trình nghị sự của LHQ; tranh thủ tăng cường quan hệ với các thành viên thường trực và không thường trực khác qua đó thúc đẩy các mục tiêu quốc gia; nâng cao uy tín quốc tế thông qua việc thể hiện khả năng và trách nhiệm của quốc gia trong xử lý các công việc chung của thế giới. Thực tiễn cho thấy, tranh thủ vị trí thành viên HĐBA, nhiều nước đã thu được kết quả cụ thể với các nước, nhóm nước, tổ chức quốc tế, như góp phần tháo gỡ vướng mắc trong quan hệ, tăng cường quan hệ thương mại, viện trợ, lao động, tham gia ký kết các hợp đồng cung ứng hàng hoá cho LHQ, các hoạt động gìn giữ hoà bình LHQ (PKO) Chính vì vậy, việc tham gia ứng cử và trở thành Uỷ viên không thường trực HĐBA là một mục tiêu quan trọng của ngoại giao đa phương mà các thành viên LHQ hướng tới. Nhiều nước đã nhiều lần làm thành viên không thường trực HĐBA. Có 8 nước làm thành viên HĐBA 6 lần trở lên, 14 nước 3 làm từ 4-5 lần, 47 nước làm từ 2-3 lần. Chi tính riêng trong ASEAN, Phi-líp- pin đã làm UVKTT HĐBA 3 lần, Ma-lai-xi-a làm UVKTT HĐBA 4 lần (trong đó có nhiệm kỳ 1 năm), In-đô-nê-xi-a làm UVKTT HĐBA 3 lần, Xinh- ga-po và Thái Lan mỗi nước đã 1 lần làm thành viên HĐBA. Từ năm 1997, Việt Nam đã có chủ trương ứng cử Uỷ viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) nhiệm kỳ 2008- 2009 [9]. Sáng ngày 16 tháng 10 năm 2007 (giờ New York), với 183/190 phiếu ủng hộ, Đại hội đồng LHQ Khoá 62 đã bầu Việt Nam làm Ủy viên Không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009 [158]. Từ năm 2012, Việt Nam công khai Kế hoạch ứng cử vận động vị trí UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2020-2021. Theo lộ trình tháng 6 năm 2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc sẽ bỏ phiếu bầu Uỷ viên Không thường trực HĐBA cho nhiệm kỳ 2020-2021. Do vậy hiện nay đã là giai đoạn nước rút trong quá trình vận động và chuẩn bị ứng cử cũng như đảm nhiệm nếu ứng cử thành công. Những tiền đề (chủ trương và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thế và lực của đất nước hiện nay) cùng kiến thức và kinh nghiệm thu được sau nhiệm kỳ thứ nhất là nền tảng quan trọng cho quá trình chuẩn bị lần này. Tại các cuộc tiếp xúc cấp cao Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam [163] đều đã vận động Lãnh đạo các nước [2] ủng hộ Việt Nam ứng cử làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (UVKTT HĐBA LHQ) giai đoạn 2020-2021 [3]. Ngày 24 tháng 9 năm 2016, phát biểu tại Phiên thảo luận cấp cao Đại hội Đồng Liên hợp quốc khoá 71, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã chính thức thông báo Việt Nam quyết định tham gia ứng cử nhiệm kỳ UVKTT HĐBA 2020-2021. Chính vì vậy, việc có một nghiên cứu toàn diện về về quá trình ứng cử và đảm nhiệm vai trò là UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009 của Việt Nam 4 là rất cần thiết, trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn. Nhưng đến nay, chưa có công trình đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về quá trình Việt Nam vận động ứng cử và đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009. Các nghiên cứu từ trước đến nay cả ở trong và ngoài nước mới chỉ nêu khái quát (cả từ góc độ học thuật và góc độ chính sách) về việc thực hiện các vấn đề về lợi ích-quốc gia dân tộc (an ninh, phát triển, và ảnh hưởng) và nhận thức về lợi ích quốc gia-dân tộc, quá trình hoạch định, triển khai chính sách đối ngoại liên quan đến việc ứng cử làm UVKTT HĐBA và xây dựng bản sắc quốc gia của Việt Nam. Công trình nghiên cứu này sẽ góp phần làm rõ những nguyên nhân đưa tới thành công của Việt Nam trong quá trình vận động ứng cử và đảm nhiệm vai trò UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009; phân tích những khó khăn và hạn chế trong quá trình đó nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình chuẩn bị ứng cử nhiệm kỳ thứ hai của Việt Nam 2010-2021. Công trình cũng góp phần trả lời một trong cáccâu hỏi then chốt nhất phục vụ việc ứng cử trong nhiệm kỳ tới, đó là: Việt Nam cần phải chuẩn bị gì cho quá trình vận động tái cử và đảm nhiệm thành công vai trò UVKTT HĐBA LHQ trong nhiệm kỳ hai nếu trúng cử? Theo đó, công trình nghiên cứu đó không chỉ có ý nghĩa về học thuật như là cung cấp và bổ sung nguồn tài liệu, phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, mà nó còn hữu ích cho quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và đối ngoại đa phương nói riêng. Nghiên cứu này hi vọng đóng góp vào cuộc thảo luận về lý thuyết hiện nay về việc theo đuổi lợi ích quốc gia dân tộc và xây dựng bản sắc quốc gia thông qua công cụ đa phương qua trường hợp cụ thể của Việt Nam; đồng thời đóng góp vào quá trình hoạch định và triển khai thực hiện kế hoạch vận động và ứng cử nhiệm kỳ UVKTT HĐBA 2020-2021 nói 5 riêng, chiến lược hội nhập quốc tế và chiến lược đối ngoại của Đại hội XII nói chung. Luận án này sẽ tận dụng lợi thế của “người trong cuộc” để thực hiện mục tiêu này. Đó là do (i) nghiên cứu sinh đang công tác tại Bộ Ngoại giao, có thể tiếp cận hồ sơ, tài liệu liên quan đến giai đoạn Việt Nam vận động và thực hiện vai trò UVKTT HĐBA nhiệm kỳ 2008-2009, (ii) nghiên cứu sinh đã có một nhiệm kỳ công tác tại Phái đoàn đại diện Thường trực của Việt Nam tại Liên hợp quốc (2012-2015), New York, Hoa Kỳ, có điều kiện trực tiếp quan sát, tham gia hoạt động của Việt Nam tại Liên hợp quốc, chứng kiến và trải nghiệm sự vận hành của Liên hợp quốc, và có điều kiện trao đổi với các đồng chí, đồng nghiệp đã trực tiếp làm ở Vụ Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, hoặc tại Liên hợp quốc trong khoảng thời gian đó, liên quan đến nhiệm kỳ UVKTT HĐBA của Việt Nam. Với những lí do trên, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài: “Việt Nam trong vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giai đoạn 2008-2009” cho luận án tiến sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước Nhìn một cách tổng quan, các công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan tới đề tài tập trung vào một số nhóm vấn đề nổi bật như: (i) phân tích, đánh giá các chức năng, nhiệm vụ của HĐBA; (ii) vai trò và cuộc chơi của các uỷ viên thường trực HĐBA (UVTT HĐBA – P5); (iii) quyền phủ quyết (veto); (iv) cải tổ HĐBA – tăng thêm số lượng UVKTT và tăng cường sự tham gia của UVKTT trong quá trình tham vấn, xây dựng Nghị quyết của HĐBA; (v) bầu UVKTT HĐBA. Đi sâu vào các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp tới vấn đề nghiên cứu của luận án, có thể thấy có các có các nghiên cứu, đánh giá kinh 6 nghiệm làm UVKTT HĐBA (E10)1 của các nước trong và ngoài khu vực có vị thế, đặc điểm tương đối giống Việt Nam như Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po và một số nước khác như Ấn Độ, Úc và Niu Di-lân, trong đó có một số nước đã có nhiều lần đảm nhiệm vai trò UVKTT HĐBA. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau: Trong cuốn “The Little Read Dot: Reflections by Singapore’s Diplomats” [121] và cuốn “50 years of Singapore and the United Nations” [167], Giáo sư Kishore Mahbubani đã đánh giá nhiệm kỳ UVKTT HĐBA của Singapore giai đoạn 2001-2002. Theo đó, nhờ có chỉ đạo của Bộ Ngoại giao Xinh-ga-po về việc xây dựng một Khung chung đối với các vấn đề quan trọng được thảo luận tại HĐBA (như vấn đề I-rắc và Trung Đông), Phái đoàn Singapore tại LHQ đã có thể chủ động và tác chiến thành công tại các cuộc họp của HĐBA. Trong nhiệm kỳ 2001-2002 của mình, tác giả cho rằng Xinh- ga-po dường như đã tham gia vào “hai HĐBA”. Cụ thể, giai đoạn trước sự kiện 11 tháng 9 năm 2001, Singapore đã trải nghiệm công việc, chương trình nghị sự của HĐBA tương tự như giai đoạn cuối những năm 1990. Tuy nhiên, giai đoạn sau 11 tháng 9 năm 2001, HĐBA LHQ có nhiều thay đổi nhanh và bất ngờ, các hoạt động, chương trình nghị sự tập trung nhiều vào việc thảo luận, thông qua các Nghị quyết chống khủng bố, hợp pháp hoá cuộc chiến tại Áp-ga-nít-xtan và xây dựng một đồng thuận mới về vấn đề I-rắc. Vì vậy, khối lượng công việc của Phái đoàn Xinh-ga-po giai đoạn này nhiều lên gấp đôi trong khi với số cán bộ ngoại giao làm việc không thay đổi. Giai đoạn này, một quốc gia nhỏ như Xinh-ga-po đã được trải nghiệm, tham gia giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của HĐBA, qua đó giúp nâng cao uy tín giá trị và vị thế của Xinh-ga-po tại LHQ. Giáo sư Kishore Mahbubani khẳng định rằng “uy tín này là tài sản quốc gia quan trọng của Xinh-ga-po, không được coi 1E10 tên tiếng Anh là Non-permament members of UNSC: Tên gọi tắt của 10 nước UVKTT HĐBA LHQ. 7 nhẹ, cần được giới thiệu và quán triệt đến các thệ hệ nhà ngoại giao sau này của Xinh-ga-po”. Một số công trình nghiên cứu đề cập tới quá trình vận động, đấu tranh chính trị trong HĐBA và quan hệ giữa các nước P5 và E10 trong HĐBA. Tác phẩm “Perlious Interventions: The Security Council and the Politics of Chaos” [125] của Hardeep Singh Pur, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Ấn Độ, Liên hợp quốc đã tiết lộ những thông tin đáng chú ý về việc gây ảnh hưởng và đấu tranh chính trị giữa các nước thành viên HĐBA trong quá trình xây dựng và ban hành Nghị quyết về sử dụng vũ lực tại một số nước trên thế giới như Li- bi, Xi-ri Cuốn sách “Five to Rule Them All: The UN Security Council and the Making of the Modern World” [112] của tác giả David L. Bosco, là công trình nghiên cứu công phu, đúc rút qua vài chục cuộc phỏng vấn các cựu Đại sứ, Trưởng Phái đoàn các nước làm UVKTT HĐBA qua các thời kỳ. Cuốn sách được đánh giá là biên niên sử các cuộc tranh đấu chính trị và va chạm giữa các cá nhân (nhà ngoại giao) trong các cuộc họp kín và công khai của HĐBA. David Bosco cho rằng, về lý thuyết khi các nước P5 đoàn kết lại, HĐBA có thể tiến hành các cuộc chiến tranh, áp đặt lệnh cấm vận, vẽ lại các đường biên giới Tuy nhiên, trên thực tế nền chính trị hiện nay, các thành viên của HĐBA đều có những lợi ích đa dạng và khác biệt, do vậy sẽ không tránh khỏi xung đột, nhưng sẽ không dẫn đến đổ vỡ vì 5 nước UVKTT HĐBA vẫn có những vai trò nhất định trong việc bảo đảm hoà bình, an ninh trên thế giới. Bài viết của Thom Woodroofe với nhan đề “Australia’s Two Years on the UN Security Council” [166] đăng trên trang bình luận của Viện Nghiên cứu quốc tế - AIIA, The Australian Institute of International Affairs năm 2012 nhấn mạnh việc Úc đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA 4 lần là cơ hội để Úc tiếp nối các chính sách đa phương, mục tiêu và thực hiện lợi ích quốc gia của 8 mình ở cấp độ toàn cầu. Tác giả cho rằng nếu muốn được quốc tế công nhận là thành viên chủ động, tích cực và xây dựng của HĐBA giai đoạn 2013- 2014, Ốt-xtrây-li-a cần phải đầu tư nhiều nỗ lực để hiểu cuộc chơi, thủ tục, quyền lực của các nước P5 tại HĐBA, cũng như quan hệ của các Nhóm nước, cách định hướng chương trình nghị sự của HĐBA cũng như thường xuyên cập nhật thông tin về trong nước để tạo sự đồng thuận trong nội bộ. Bài viết “Eyes on the Prize: The Quest for Nonpermanent Seats on the UN Security Council) [123, tr. 3-23] của Malone, David M tập trung nghiên cứu trả lời cho câu hỏi tại sao các nước lại theo đuổi việc ứng cử làm UVKTT HĐBA. Malone nghiên cứu cụ thể giai đoạn 1999-2000, qua trường hợp các nước gồm Hà Lan, Hy Lạp và Canada trong Nhóm Tây Âu đấu tranh để được giới thiệu trong Nhóm (Nhóm Tây Âu giai đoạn này có 2 ghế tại HĐBA) ra tranh cử ghế UVKTT HĐBA tại cuộc bầu cử năm 1998 tại New York, Hoa Kỳ. Bài viết “Mexico’s Experience on the UN Security Council 2009-2010” của tác giả Guillermo Puente Ordorica, Phó Trưởng phòng, Đại sứ quán Mê- xi-cô tại Can-be-ra, Ốt-xtrây-li-a, phân tích quá trình tham gia ứng cử UVKTT HĐBA 2009-2010 của Mê-xi-cô với mục đích, chiến dịch vận động và những cam kết khi tham gia ứng cử. Ordiorica cho rằng việc xây dựng và đạt đồng thuận giữa các thành viên HĐBA LHQ là một quá trình phức tạp, không hề dễ dàng [132]. Mê-xi-cô luôn bám sát nguyên tắc lập trường của mình (quy định trong Hiến pháp Mê-xi-cô) và nắm chắc vấn đề được đưa ra thảo luận để phục vụ việc xây dựng lập trường của mình tại HĐBA. Ví dụ năm 2009, HĐBA LHQ ra Nghị quyết 1860 đối với cuộc khủng hoảng tại Ga- da, Mê-xi-cô lúc đó cùng các thành viên mới được bầu (Úc, Nhật Bản, Mê-xi- cô, Thổ Nhĩ Kỳ và Uganda) đã tham gia đóng góp cho HĐBA xây dựng dự thảo Nghị quyết cả về số lượng và chất lượng nhằm tạo đồng thuận trong 9 HĐBA để ban hành Nghị quyết trên. Ngoài ra, bài viết “The Permanent and Elected Council Members” [120] trong cuốn sách “The UN Security Council: From the Cold War to the 21st Century” của Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Xinh-ga-po tại LHQ, Kishore Mahbubani đã tập trung phân tích, đánh giá mối quan hệ giữa 5 nước UVTT HĐBA (P5) và 10 nước UVKTT HĐBA (E10). Kishore Mahbubani nhận định các nước E10 thường sẽ ít lợi thế trong việc thương lượng, thảo luận chương trình nghị sự tại HĐBA, hay nói cách khác, các nước P5 giữ vai trò “thống trị” cuộc chơi tại HĐBA. Tác giả Kuziemko & Werker với bài viết “How much is a seat on the Security Council Worth” [164] đăng trên Journal of Political Economy, tập trung làm rõ việc (i) các nước P5 sử dụng các biện pháp viện trợ kinh tế để mua phiếu của các nước E10 đối với các chương trình nghị sự cụ thể tại HĐBA và ngược lại (ii) các nước E10 sử dụng lá phiếu của mình ủng hộ vấn đề có lợi cho một trong các nước P5 để tranh thủ thúc đẩy quan hệ song phương cũng như tiếp nhận viện trợ về kinh tế qua nhiều hình thức khác nhau, trong đó có các khoản viện trợ từ cơ quan hỗ trợ phát triển của LHQ. Có thể thấy các công trình nghiên cứu ngoài nước về HĐBA tương đối phong phú, đa dạng, có nhiều thông tin, nghiên cứu, thực tiễn của nhiều trường hợp khác nhau từ các nước lớn, nước tầm trung và nước nhỏ tham gia và các vấn đề liên quan đến HĐBA. Các nhà nghiên cứu thường sử dụng khung phân tích phù hợp với từng nhóm nước (nước lớn, nước nhỏ/nước tầm trung) tham gia vào HĐBA. Chính trị cường quyền thường được thấy trong cách hành xử, chính sách đối ngoại của các nước lớn. “Hành xử phù hợp, linh hoạt” để hài hoà quan hệ với các nước P5 và tối đa hoá lợi ích quốc gia là cách tiếp cận thường được áp dụng khi phân tích về việc tham gia vị trí UVKTT HĐBA của các nước nhỏ/tầm trung. Những nghiên cứu trên là một 10 nguồn tham khảo, đối chiếu hữu dụng trong quá trình thực hiện Luận án này. 2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước: Tới nay, ở Việt Nam không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, sách chuyên khảo đề cập trực tiếp tới vấn đề nghiên cứu của luận án. Các công trình nghiên cứu ở có liên quan tới đề tài tập trung vào một số nhóm vấn đề nổi bật như: (i) hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc [52]; (ii) vai trò của HĐBA trong việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế; (iii) cải tổ HĐBA; (iv) các nhóm vấn đề chính được thảo luận tại HĐBA như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên; trẻ em và phụ nữ trong xung đột vũ trang Có thể nêu ra đây một số công trình tiêu biểu có liên quan tới vấn đề nghiên cứu của đề tài: Cuốn sách “Ngoại giao đa phương trong hệ thống quan hệ quốc tế đương đại” [50] do tác giả Lưu Thuý Hồng chủ biên đề cập tới các khái niệm, đánh giá về hệ thống đa phương đương đại và đưa ra một số đánh giá khái quát chung về UVKTT HĐBA. Công trình nghiên cứu của về “Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [66] do Tiến sĩ Lê Hoài Trung chủ biên đã có những nghiên cứu sâu về chủ nghĩa đa phương, quá trình hình thành tư duy đối ngoại đa phương của Việt Nam, đánh giá quan hệ Việt Nam với các tổ chức đa phương như Liên hợp quốc, phong trào Không Liên kết, IMF, WTO, World Bank qua đó đề ra định hướng chính sách Đối ngoại đa phương Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế thời gian tới. Cuốn sách của tác giả Nguyễn Hồng Thao “Việt Nam và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc” [62] đưa ra bức tranh chung, cập nhật các vấn đề của HĐBA LHQ. Đáng chú ý cuốn sách này được xuất bản trong giai đoạn Việt Nam bắt đầu đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA. Công trình Liên hợp quốc và lực lượng gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc 11 của tác giả Nguyễn Hồng Quân và Nguyễn Quốc Hùng đã giới thiệu về nhiệm vụ, vai trò hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc [52]. Luận án Tiến sĩ của tác giả Phạm Lan Dung về “Địa vị pháp lý, thực tiễn hoạt động và vấn đề nâng cao vai trò của UVKTT HĐBA” đã đề cập phần nào thành quả nhiệm kỳ UVKTT lần một (2008-2009) của Việt Nam [30]. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác đề cập tới các vấn đề chung của Liên Hợp quốc như cuốn sách “Cơ cấu tổ chức của Liên hợp quốc” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2000) của tác giả Trần Thanh Hải chủ biên và cuốn “Hệ thống Liên hợp quốc” (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004) tác giả Võ Anh Tuấn chủ biên đã cung cấp một số nghiên cứu tổng quan về cơ cấu tổ chức, của LHQ. Cuốn “Các tổ chức quốc tế và Việt Nam” do Bộ Ngoại giao xuất bản (2005) giới thiệu khái quát về vai trò, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, phong trào Không Liên kết, Cộng đồng các nước sử dụng tiếng Phápvà quan hệ của Việt Nam với các tổ chức này trong giai đoạn 1980-2005. Cuốn sách “30 năm Đổi mới và phát triển ở Việt Nam” do các tác giả Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền và Nguyễn Viết Thông đồng chủ biên, đã đưa ra nhiều đánh giá thực chất quá trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam, trong đó đều nhấn mạnh đến nhiệm kỳ UVKTT HĐBA của Việt Nam, tập trung vào việc phát huy vai trò, vị thế, và sự phát triển của Việt Nam sau khi hoàn thành nhiệm kỳ trên.. Tóm lại, đã có những công trình nghiên cứu về LHQ, HĐBA LHQ và chính sách của Việt Nam, nhưng đa số mới chỉ dừng ở mức giới thiệu về LHQ, HĐBA và các lĩnh vực có thể hợp tác giữa Việt Nam và LHQ. Ngoài ra, không có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá toàn diện, chi tiết, sâu sắc về việc Việt Nam đảm nhiệm vị trí UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008- 2009, nhất là nghiên cứu, tìm hiểu quyết sách của Việt Nam trong giai đoạn 12 này và qua trình triển khai quyết định từ vận động đến đảm nhiệm thành công vai trò sau khi được bầu vào HĐBA. Luận án “Việt Nam trong vai trò Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc giai đoạn 2008-2009” sẽ bổ sung vào mảng kiến thức còn chưa đầy đủ này. 2.3. Nhận xét Trong khuôn khổ của những công trình nghiên cứu mà tác giả luận án tiếp cận được, có thể thấy: Thứ nhất, các công trình nghiên cứu có liên quan tới Liên Hợp quốc chủ yếu tập trung vào đề cập tới các vấn đề chung của Liên Hợp quốc như về cơ cấu, chức năng hay nhiệm vụ cũng như các hoạt động và ảnh hưởng chung của tổ chức này. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về Hội đồng Bảo an của Liên Hợp quốc lại thường tập trung nghiên cứu về vai trò và của các uỷ viên thường trực HĐBA chứ không chú trọng nhiều tới các ủy viên không thường trực. Thứ ba, các công trình bàn về vai trò của thành viên không thường trực của HĐBA LHQ cũng thường tập trung vào các nước ủy viên là nước lớn, tầm trung. Các nước nhỏ như Việt Nam ít được quan tâm đến. Thứ tư, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Hội đồng Bảo an và về vai trò của các Uỷ viên không thường trực trong Hội đồng Bảo an không nhiều, chủ yếu là nghiên cứu về Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác. Xuất phát từ thực trạng nêu trên, luận án có thể bổ sung vào những khoảng trống nghiên cứu ở cả trên thế giới và Việt Nam về vai trò của các nước là ủy viên không thường trực của HĐBA LHQ nói chung và về vai trò của Việt Nam nói riêng. Kế thừa các công trình nghiên cứu quốc tế và trong nước, luận án dự kiến triển khai nghiên cứu về vai trò của Việt Nam với tư cách là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc giai đoạn 2008-2009, phân tích những chính sách mà Việt Nam đã áp dụng trong quá 13 trình quyết định ứng cử vận động ứng cử và thực hiện nhiệm vụ sau khi trúng cử; làm rõ những thành công cũng như hạn chế của Việt Nam trong nhiệm kỳ một, từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm, những phân tích những vấn đề đặt ra cho Việt Nam khi ứng cử lần hai vào vị trí UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2020-2021 và việc áp dụng các bài học kinh nghiệm cho quá trình vận động ứng cử, đảm nhận nhiệm vụ nếu ứng cử thành công lần hai vị trí UVKTT HĐBA LHQ. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ ...g, cho rằng việc tham gia vào các dàn xếp đa phương sẽ làm tổn hại lợi ích quốc gia, tiểu biểu là chính sách đối ngoại thiên về cách tiếp cận song phương của chính quyền Trump hiện nay hay cách tiếp cận “đơn phương khi có thể, đa phương khi cần thiết” của chính quyền Bush con trước đây. Dù còn một số hạn chế nhưng thế mạnh và vai trò của đa phương trong chính sách đối ngoại của các quốc gia đều được công nhận rộng rãi. Hầu như tất cả quốc gia tham gia vào hệ thống quốc tế hiện đại từ các nước vừa và nhỏ (Phi-líp-pin, Xinh-ga-po), các cường quốc hạng trung (Canada, Hàn Quốc) cho đến các siêu cường tại vị (Mỹ) hay đang trỗi dậy (Trung Quốc) ở các mức độ và hình thức khác nhau đều xem ngoại giao đa phương là một trong những công cụ chủ yếu trong chính sách đối ngoại, là một phương thức quan trọng để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia. Đối với các nước lớn, đối ngoại đa phương là công cụ để các nước này thể hiện vai trò dẫn dắt, lãnh đạo, định hình cuộc chơi, hợp tác và cạnh tranh ảnh hưởng với nhau. Thông qua các cơ chế đa phương khu vực và quốc tế, 31 các nước lớn tìm cách thiết lập và thúc đẩy các luật chơi có lợi cho mình nhằm duy trì củng cố hoặc tìm cách điều chỉnh, thay đổi hệ thống quốc tế hiện hành theo hướng có lợi cho mình. Đối với các quốc gia tầm trung (In-đô-nê-xi-a, Hàn Quốc, Canada), các diễn đàn đa phương là phương tiện để các nước này duy trì tình trạng cân bằng tương đối với các nước lớn, không để nước lớn nào chiếm vai trò áp đảo hoặc chi phối cục diện, đồng thời phát huy tầm ảnh hưởng ở cấp độ tiểu khu vực. Đối với các nước vừa và nhỏ (Xinh-ga-po, Thái Lan), việc tham gia vào các thể chế đa phương là một trong những lựa chọn chính sách đối ngoại hàng đầu nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài, xây dựng các tập hợp lực lượng bảo vệ lợi ích chung, là công cụ để cân bằng, ràng buộc các nước lớn và hóa giải các sức ép trong quan hệ với các nước lớn hơn. Một trong những ví dụ tiêu biểu về ngoại giao đa phương của các nước nhỏ là sự hình thành nhóm G-77 đại diện cho các nước đang phát triển ở Á-Phi - Mỹ latinh trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc hay nhóm các quốc đảo thúc đẩy Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS). Trên thực tế chủ nghĩa đa phương hiện đại bị ảnh hưởng lớn bởi tư duy của cựu Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson về một trật tự thế giới mới. Nhìn vào trường hợp phát triển của LHQ, sự phát triển của chủ nghĩa đa phương thời gian qua đã có những tác động tích cực đối với bốn quy tắc quan trọng khác của ngoại giao đa phương mà LHQ ủng hộ. Thứ nhất, Hiến chương LHQ đã đặt một tiêu chuẩn rõ ràng cho một quy tắc quan trọng rằng vũ lực chỉ được sử dụng để phòng vệ có ý nghĩa rất quan trọng đối với các cuộc đối thoại ngoại giao hiện đại về chủ đề chiến tranh. Thứ hai, ngoại giao đa phương LHQ được thực hiện bên cạnh ngoại giao song phương truyền thống, tiếp tục khuyến khích quy tắc về tiếp đối thoại ngoại giao. Thứ ba, thảo luận về một nền ngoại giao mới sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã giúp đẩy 32 mạnh một quy tắc là ngoại giao nên cởi mởi hơn đối với công chúng, hay nói cách khác những kết quả đàm phán, thương lượng ngoại giao nên được công bố cho công chúng. Bốn là, nhiều nhà quan sát của LHQ đã ghi nhận rằng các cuộc thảo luận của họ được tiến hành với phong cách/qui tắc rất lịch thiệp (civility) [165, tr. 16-17]. Như đã thấy, các quốc gia đều có điểm chung quan tâm đến đa phương là vì sự hợp tác, thực hiện tối đa lợi ích của mình. Và thực tế trong LHQ, các nước thành viên đều tích cực tham gia ứng cử vào các vị trí của các cơ quan trong hệ thống LHQ, trong đó có HĐBA LHQ. Việc tham gia với tư cách UVKTT HĐBA LHQ thực tế đã giúp rất nhiều nước nhỏ/trung bình điều chỉnh hành vi đối với các vấn đề khó khăn/phức tạp khi được đưa ra thảo luận, giải quyết tại HĐBA. Những nước đã tham gia vị trí UVKTT HĐBA đều bày tỏ ý định tham gia ứng cử thêm một lần nữa tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và khoảng thời gian nhất định. Giáo sư Kishore Mahbubani trong cuốn “50 years of Singapore and the United Nations” đã đưa ra ba sự thật mềm (soft truth) và ba sự thật cứng (hard truth) và về LHQ (trong đó có HĐBA LHQ). Về ba sự thật cứng: Sự thật cứng thứ nhất là các nước P5 kiểm soát HĐBA thông qua sức mạnh và vị thế thường trực của họ. Các nước P5 thường bất đồng về nhiều vấn đề thực chất, (đến mức thô bạo - violently) trước HĐBA. Tuy nhiên, các nước này thường rất đoàn kết, đồng quan điểm rằng P5 nắm vai trò điều hành HĐBA. Một nhà Ngoại giao của Pháp ở LHQ đã thể hiện rõ quan điểm của P5 đối với các nước E10 khi ông này miêu tả các nhà ngoại giao E10 là các “khách du lịch” [122, tr. 37]. Đối với Xinh-ga- po, Đại sứ các nước P5 chưa bao giờ có thái độ khiếm nhã (rude) với các nhà ngoại giao Xinh-ga-po, đối xử rất hiếu khách, khuyến khích Xinh-ga-po đóng góp nhiều sáng kiến. Tuy nhiên, khi Xinh-ga-po thuyết phục hãng tư vấn McKinsey giúp nghiên cứu, nâng cao phương pháp làm việc của HĐBA thì 33 họ bị khước từ. Các nước P5 muốn giữ nguyên trạng quy trình thủ tục của HĐBA để họ có thể can dự bằng cách hành xử độc đoán (arbitrary behaviour). Gíao sư Mabhubani nói thêm rằng, các nước P5 là những nhà độc tài không do dân cử (unelected dictatorships) của nhân loại. Tệ hơn là nhân viên Ban Thư ký HĐBA thường có cảm giác bị ép phải tuân thủ ý muốn độc đoán của các nước P5. Họ không có lựa chọn nào khác, nếu chống lại, họ sẽ bị điều chuyển công tác. Đáng buồn hơn là truyền thông phương Tây chưa bao giờ đưa vấn đề này ra trước công chúng [122, tr. 37]. Sự thật cứng thứ hai là trong thực tế, về lý thuyết, HĐBA LHQ hoạt động trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc Luật quốc tế trong việc đưa ra các quyết định. Tuy nhiên, thực tế thì lợi ích của các nước P5 luôn thắng các nguyên tắc của Luật pháp quốc tế. Ngoài ra, các nước P5 thường có nguyên tắc “nếu anh đâm sau lưng tôi, tôi sẽ đâm lưng anh”. Có rất nhiều thoả thuận kín giữa các nước P5 chưa được phanh phui. Sự thật cứng thứ ba là về lý thuyết, các nước P5 luôn hoan nghênh việc cải tổ thành viên HĐBA, bổ sung thêm các uỷ viên thường trực. Trên thực tế, các nước này đã phản đối kịch liệt vấn đề này [122, tr. 38]. Mặc dù có những thực tế phũ phàng như nêu trên, Giáo sư Mahbubani cho rằng Xinh-ga-po không nên từ bỏ LHQ, mặc dù thực tế trong nội bộ Xinh-ga-po lại có những quan điểm khác. Ba sự thật mềm (soft truth) dưới đây sẽ góp phần lý giải tại sao Xinh-ga-po vẫn nên kiên trì niềm tin của mình vào LHQ và tiếp tục là một trong những nước có quan điểm bảo vệ mạnh mẽ nhất đối với thể chế này. Và điều này luôn được Đại sứ Tommy Koh ủng hộ [122, tr. 50]. Thứ nhất, mặc dù còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, nhưng LHQ (bao gồm cả HĐBA LHQ) đã kiến tạo một thế giới an toàn hơn cho các nước nhỏ như Xinh-ga-po. Thực tế là trước Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước nhỏ bị xâm lược và chiếm đóng thường xuyên. Tuy nhiên, từ lúc Hiến Chương 34 LHQ được thông qua ngày 24 tháng 10 năm 1945, thế giới thực sự đã trở nên an toàn hơn đối với các nước nhỏ. Mặc dù cam kết của các nước P5 đối với các nguyên tắc của Hiến chương LHQ trong nhiều trường hợp là “đạo đức giả” nhưng rõ ràng các nước này đều biết rằng họ không thể phớt lờ những nguyên tắc này. Biểu đồ hình 1 cho thấy từ năm 1945 đến năm 1985, số lượng các nước tìm kiếm vũ khí hạt nhân biến thiên không đều (nhiều nhất là vào các năm 1958, 1973, 1986) và đến năm 1988 đến 2003 thì con số này giảm liên tục chỉ còn duy nhất một nước đó là Li-bi [126, tr. 332-339]. Biểu 1: các nước không có hạt nhân dừng việc khai thác vũ khí hạt nhân giai đoạn 1945-2010 [126, tr. 332-339]. 35 Biểu đồ 2 cho thấy từ năm 1651 đến năm 2000, tỷ lệ phần trăm các cuộc xung đột dẫn đến thay đổi, phân bổ lại lãnh thổ trên thế giới biến thiên giảm dần, cụ thể các năm tăng cao nhất là năm 1675 là 80%, năm 1725 là 89% và năm 1926 là 90% , nhưng đến năm 1978 thì đã giảm xuống mức 0%. Biểu đồ 2: tỷ lệ phần trăm các cuộc chiến tranh lãnh thổ dẫn đến sự thay đổi và phân bố lại về lãnh thổ từ năm 1651 đến năm 2000 [126, tr. 332-339]. Biểu đồ 3 thể hiện sự suy giảm về số tháng quy định nghĩa vụ quân sự của 48 nước (được thành lập rất lâu) trên thế giới trong giai đoạn 1970-2010, cụ thể năm 1972 là 18 tháng, 1980 là 15 tháng, 1990 là 14 tháng và đến năm 2010 là dưới 10 tháng. 36 Biểu đồ 3: Chiều hướng giảm về số tháng quy định nghĩa vụ quân sự của 48 nước trên thế giới từ năm 1970 đến năm 2010 [126, tr. 332-339]. Biểu đồ 4 thể hiện sự giảm về số lượng quân của Mỹ và Châu Âu được tính theo số lượng binh lính trên 1000 người dân từ năm 1950 đến năm 2000. Theo đó, từ năm 1950 đến năm 1975, số lượng quân của Châu Âu ít hơn và giảm nhanh hơn Mỹ. Tuy nhiên, từ năm 1976 đến năm 2000 thì chiều hướng ngược lại, có nghĩa là số lượng quân của My giảm nhanh và nhiều hơn là Châu Âu. 37 Biểu đồ 4: Sự suy giảm về số lượng quân của Mỹ và Châu Âu từ năm 1950 đến năm 2000 [126, tr. 332-339]. Sự thật mềm thứ hai là tiếng nói vì sự chính nghĩa đã được quan tâm. “Khi tôi nói chuyện với những nhà Ngoại giao trẻ của Xinh-ga-po, những người đặt mục tiêu đăng ký đi nhiệm kì công tác tại Phái đoàn Xinh-ga-po tại LHQ, New York, Hoa Kỳ, tôi nói với họ rằng, những vũ khí duy nhất mà các Nhà Ngoại giao Xinh-ga-po mang theo khi đại diện cho cho một nước nhỏ tại LHQ là sự chính nghĩa, logic và nét hấp dẫn (charm). Đó là lý do tại sao, Đại sứ Tommy Koh đã rất thành công trên cương vị Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Xinh-ga-po tại LHQ [122, tr. 58]. Thứ ba, Xinh-ga-po là một trong những nước có ảnh hưởng, nếu không muốn nói là một nước nhỏ có ảnh hưởng nhất tại LHQ. Nếu không có LHQ, có lẽ Xinh-ga-po đã không thể có ảnh hưởng trên toàn cầu [122, tr. 58]. Tóm lại, các lý luận về đa phương giúp giải thích vì sao các quốc gia nên/không nên và trên thực tế lựa chọn/không lựa chọn đa phương làm một 38 trong những phương tiện để theo đuổi lợi ích quốc gia. Tổng kết các trường phái lý thuyết cơ bản liên quan đến thể chế quốc tế, có thể thấy các chủ thuyết quan hệ quốc tế đồng nhất ở chỗ coi các thể chế quốc tế ban đầu đều là sản phẩm được lập ra bởi ý chí chủ quan của các quốc gia, dựa trên những tính toán lợi ích họ có thể thu được thông qua hợp tác đa phương trong khuôn khổ thể chế. Tuy nhiên, các thuyết lại có cách nhìn nhận khác nhau về sự tồn vong và mức độ tạo ảnh hưởng của các thể chế. Thuyết hiện thực cho rằng thể chế là công cụ quyền lực của nước mạnh, hết quyền lực hoặc hết lợi ích là hết thể chế và thể chế không có ảnh hưởng gì đối với các quốc gia. Trong khi đó, thuyết tự do và thuyết kiến tạo lại cho rằng các thể chế quốc tế sau khi được thành lập và vận hành sẽ có sự tồn tại độc lập và ảnh hưởng nhất định đối với các quốc gia thành viên. Những người theo chủ nghĩa Mác nhìn nhận thể chế quốc tế là công cụ đem lại quyền lực cho nước yếu nhằm chống lại sự chi phối của nước mạnh. Dù được tiếp cận dưới góc độ nào, ngoại giao đa phương thường được xem là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. Theo đó, chính sách đối ngoại của một quốc gia có liên quan mật thiết với sự vận động và phát triển của hệ thống các thể chế quốc tế và khu vực. Thông qua việc tham gia tích cực, chủ động vào hệ thống quốc tế, đóng góp và tuân thủ các luật chơi chung tại các thể chế đa phương (như tự do hóa thương mại, tôn trọng luật pháp quốc tế, tự do hàng hải, hàng không, bảo vệ môi trường), các quốc gia có thêm nhiều cơ hội để thúc đẩy các lợi ích của mình. Đây chính là cơ sở lý luận của việc các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều lựa chọn tham gia và nỗ lực nâng cao vai trò tại các thể chế đa phương chủ chốt, điển hình là LHQ - thể chế đa phương lớn nhất và quan trọng nhất toàn cầu. Thực tiễn quan hệ quốc tế cũng đã chứng minh hành vi ứng xử của một nước nhỏ/trung bình cũng có ảnh hưởng nhất định tại các cơ chế đa phương nói riêng và toàn cầu nói chung. Thực tế, đến nay, có rất nhiều nước 39 nhỏ/trung bình quyết định tham gia ứng cử UVKTT HĐBA LHQ hơn một lần như In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan, Niu Di-lân, Ô-xtrây-li-a Tựu chung lại, có thể thấy, đa phương là (i) một mảng quan trọng trong tất cả các dòng lý luận chính, (ii) giúp lý giải hành vi của nhà nước theo đuổi lợi ích qua các biện pháp hợp tác, tức là có tính đến lợi ích của nước khác và (iii) tạo ra các thể chế để việc hợp tác được thuận lợi hơn. 1.1.4. Quá trình phát triển tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về đối ngoại đa phương Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng nhãn quan chiến lược của mình, đã đặc biệt nhấn mạnh việc xây dựng quan hệ đối tác/hợp tác với các quốc gia trên thế giới. Trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Hồ Chí Minh khẳng định, “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời Người tuyên bố: Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, “Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui long hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam” [49]. Trong những năm đầu của cuộc trường kỳ kháng chiến, Người đã 9 lần gửi thư cho Liên hợp quốc để tranh thủ vai trò của tổ chức quốc tế lớn nhất về ngoại giao đa phương trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân dân ta. Suốt 70 năm qua, từ Hội nghị Geneva 1954 đến Hội nghị Paris 1973 cũng như trên nhiều diễn đàn quan trọng khác, đối ngoại đa phương đã góp phần thiết yếu vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ các lợi ích an ninh và phát triển, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với Đổi mới tư duy về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng từng bước đổi mới tư duy về đối ngoại. Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khoá V (tháng 7/1986) chủ trương chuyển từ đối đầu sang đối thoại, đấu tranh trong 40 cùng tồn tại hoà bình. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là "... tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc"... và xác định rõ ngoại giao phải tưu tiên giữ vững hoà bình để phát triển kinh tế" [33, tr. 99]. Năm 1988, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI lần đầu tiên đưa ra khái niệm “đa dạng hóa quan hệ” trên cơ sở “thêm bạn, bớt thù”, có thể được coi là nền tảng cho chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa” sau này của Đảng ta. Nghị quyết là một bước chuyển mạnh mẽ về tư duy, mục tiêu đối ngoại, quan hệ bạn thù và cách thức tập hợp lực lượng. Ngoài ra, nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị- xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, tồn tại hòa bình để phát triển, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới [33, tr. 65]. Đại hội VI đặc biệt nhấn mạnh việc “mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế... trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình và bình đẳng và cùng có lợi” [33, tr. 100]. Đây là cách tiếp cận của Đảng cộng sản Việt Nam về ngoại giao đa phương của thời kỳ Đổi mới. Chỉ trong vòng chưa đầy 4 năm thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở kết hợp ngoại giao song phương và đa phương theo tư duy mới, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng và sự bao vây cấm vận của các lực lượng thù địch, giải tỏa những bế tắc trong quan hệ với các nước láng giềng và hầu hết với các nước lớn cũng trong thời kỳ này, Việt Nam đã tích cực tham gia đa phương tầm khu vực và liên khu vực trong khuôn khổ Liên hợp quốc, các cơ quan chuyên môn của LHQ và Phong trào Không Liên kết. Đáng chú ý, quan 41 hệ giữa nước ta với các nước ASEAN được khai thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc Việt Nam gia nhập ASEAN và hội nhập khu vực giai đoạn sau. Đại hội VII (tháng 6/1991) đã khẳng định “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [34, tr. 147], nhấn mạnh chủ trương “đa phương, đa dạng hóa, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước”...và đặc biệt nhấn mạnh việc “góp phần làm cho Liên hợp quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu của nhân loại, hợp tác với các tổ chức tài chính, tổ chức chuyên môn của Liên hợp Quốc và các tổ chức phi chính phủ, ủng hộ phong trào Không liên kết” [35]. Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành TW khóa VII (1992) cũng nêu rõ các nhiệm vụ đối ngoại đa phương về kinh tế đối ngoại, đó là “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) ... mở rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á – Thái Bình Dương [36]. Trước những biến động nhanh, khó lường của thế giới và khu vực, Đại hội VIII đã có những đánh giá, phân tích thách thức, thời cơ và đưa ra những chính sách cụ thể phát triển đối ngoại đa phương liên quan đến Tổ chức các nước sử dụng tiếng Pháp (Francophonie), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đặc biệt, Đại hội VIII đã đề ra nhiệm vụ “mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển” [38]. Điều này mở ra một giai đoạn mới liên quan đến phát triển ngoại giao nhân dân và quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, thể hiện tư duy mới của Đảng về đối ngoại đa phương. Thời kỳ này, Đảng cũng đề ra các nhiệm vụ cụ thể về đa phương trên lĩnh vực kinh tế, gồm “tiến hành khẩn trương, gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương 42 (APEC) và Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có kế hoạch cụ thể để chủ động cam kết gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)” [39]. Tại Đại hội IX (2001), Đảng ta tuyên bố “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” và “thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu” [40, tr. 121]. Việc thay đổi từ “làm bạn” từ Đại hội VII (1996) sang “là bạn” cho thấy sự chủ động, tự tin về một vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế và các diễn đàn đa phương. Giai đoạn này cũng đánh dấu cho sự khởi đầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết 07 và Nghị quyết Trung ương 9 Đại hội IX đã thể hiện rõ sự thống nhất trong nội bộ của Việt Nam về chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, theo đó nhấn mạnh “chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)” [41]. Từ đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã xây dựng chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế ở các cấp độ phương và song phương. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thư X năm 2006 đưa ra chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” và “chủ động và tích cực hợp tác với các nước trong các cuộc đàm phán đa phương về một trật tự kinh tế quốc tế mới, công bằng hơn” [41]. Đến Đại hội XI, chủ trương này được chuyển thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Trên cơ sở đó, hội nhập quốc tế giờ đây không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội.... Ngoài ra, giai đoạn này Đảng ta cũng chính thức đưa ra phương châm cho công tác đối ngoại 43 nhân dân “chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả; tích cực tham gia các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới” [43, tr. 121]. Tóm lại, việc Đảng tiến hành Đổi mới đã giúp tạo sự chuyển biến, lan toả trong đổi mới tư duy về đối ngoại nói riêng và đối ngoại đa phương nói chung. Trên cơ sở các bước đổi mới tư duy từ “thêm bạn, bớt thù”, “làm bạn”, “là bạn”, “đối tác tin cậy”, “thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, Việt Nam đã có thể tham gia ngày càng sâu rộng vào các cơ chế đa phương trong khu vực và toàn cầu; từ mở rộng hợp tác quốc tế đã nâng lên thành tham gia, hội nhập quốc tế. Không những thế, Đảng đã chuyển tư duy từ “thụ động” sang “chủ động và tích cực” khi nhấn mạnh việc “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, tham gia định hình các thể chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước * Bối cảnh thế giới, khu vực Về mặt thực tiễn, việc Việt Nam đưa ra quyết định tham gia ứng cử vị trí UVKTT HĐBA LHQ năm 1997 xuất phát từ những mục tiêu lợi ích và yêu cầu đặt ra đối với đất nước trong bối cảnh quốc tế và trong nước nửa cuối thập niên 1990 nửa đầu thập niên 2000. Gần một thập kỷ sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, hòa bình, hợp tác vì phát triển ngày càng trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế cũng như trong chính sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia không còn được tiếp cận theo góc độ sức mạnh quân sự và chạy đua vũ trang mà được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển, dựa trên sức mạnh kinh tế. Xây dựng sức mạnh tổng hợp thay thế cho chạy đua vũ trang trở thành yêu cầu cấp thiết của hầu hết các quốc gia dù lớn hay nhỏ, theo đó các nước đều điều chỉnh chiến lược lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, theo đuổi chính 44 sách kinh tế mở và tăng cường hội nhập quốc tế để tận dụng các nguồn lực bên trong và bên ngoài. Ngay cả những nước có tiềm năng và thị trường rộng lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga và cả một số nước vốn khép kín theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần dần mở cửa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Về tình hình các nước lớn: (i) Mỹ tiếp tục là siêu cường duy nhất với sức mạnh vượt trội cả về kinh tế và quốc phòng, và nắm ưu thế trong phát triển khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, sức mạnh của Mỹ có chiều hướng đi xuống do tác động của khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, tiếp tục gặp khó khăn tại Áp-ga-nít-xtan và I-rắc, mất uy tín trong cộng đồng quốc tế, kể cả ở các nước đồng minh. (ii) Trung Quốc vươn lên về kinh tế, quân sự (GDP liên tục ở mức 9% trong 3 thập kỷ, nắm giữ 1000 tỷ đô-la Mỹ trái phiếu Chính phủ Mỹ, chi phí quốc phòng tăng 3 lần trong 10 năm); mở rộng ảnh hưởng và hiện diện tại nhiều khu vực trên thế giới như Châu Phi và Mỹ La tinh (iii) Nga đang cố gắng khôi phục vị trí siêu cường một thời (triển khai máy bay chiến lược, thử tên lửa SR-8, hành động kiên quyết để duy trì khu vực ảnh hưởng tại Causacus); EU độc lập hơn với Mỹ (nhiều nước thành viên rút quân khỏi I- rắc, Áp-ga-nít-xtan, không đi với Mỹ trên nhiều vấn đề, điển hình là phản ứng của Pháp, Đức trong xung đột Nam Ossetia/Gru-di-a). Những thành tựu của cách mạng khoa học – công nghệ cùng với sự thúc đẩy mạnh mẽ của nhu cầu phát triển kinh tế làm cho khả năng giao lưu và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, trước hết là về kinh tế, ngày càng gia tăng. Các dòng tiền, kỹ thuật, hàng hóa và thông tin được lưu chuyển nhanh hơn, đẩy nhanh tốc độ phát triển quan hệ, hợp tác giữa các nước lên mức độ mới. Theo đó, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa phát triển nhanh chóng. Vòng đàm phán Uruguay kết thúc, Hiệp định Marakesh được ký kết, Tổ chức thương mại quốc tế ra đời từ ngày 01/01/1995 thu hút 136 quốc gia làm thành 45 viên sáng lập. Bên cạnh sự ra đời của WTO, nhiều tổ chức tiểu vùng, khu vực, liên khu vực như các tam giác, tứ giác phát triển, các khu vực mậu dịch tự do (AFTA, NAFTA), những tổ chức liên kết toàn châu lục (EU) hoặc giữa các châu lục (APEC) được thành lập. Về chính trị, xu thế đa cực hóa với cục diện “nhất siêu đa cường” ngày càng rõ nét, trong đó các nước lớn vừa hợp tác vừa cạnh tranh, kiềm chế ảnh hưởng lẫn nhau. Quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước càng buộc các nước phải vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhưng tránh đối đầu, xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, trong đó nổi lên là cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng giữa các nước lớn trong khi các khu vực, trong đó có khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, tranh chấp về biên giới, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra, Cộng đồng quốc tế đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu như suy thoái môi trường, bùng nổ dân số, nghèo đói, bệnh tật hiểm nghèo, các vấn đề xã hội “xuyên quốc gia” mà trước đây vốn bị lấn át bởi thế đối đầu hai cực nay có điều kiện bùng phát buộc các nước phải hợp tác cùng đối phó vì đã vượt khỏi khả năng xử lý riêng lẻ của bất kỳ quốc gia nào. Tại Đông Nam Á, sau nhiều thập kỷ chiến tranh, đối đầu, khu vực đã có hòa bình, tuy còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây bất ổn định nhưng xu thế hợp tác để phát triển cũng không ngừng gia tăng. Việc ASEAN mở rộng thành viên với việc kết nạp Việt Nam (1995), sau đó là Lào và Mi-an-ma (1997) đã mở ra giai đoạn mới cho hòa bình và hợp tác khu vực dựa trên tiềm năng địa - chính trị và địa – kinh tế, độ lớn thị trường, tài nguyên phong phú, lao động dồi dào và quan hệ quốc tế rộng mở. Trong bối cảnh quốc tế như vậy, ngoại giao đa phương, với xuất phát 46 điểm từ ý thức độc lập tự chủ của mỗi quốc gia dân tộc ngày càng cao trong bối cảnh tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia về kinh tế cũng như an ninh ngày càng chặt chẽ, đã trở nên ngày càng phổ biến, trở thành công cụ được các nước lựa chọn để theo đuổi lợi ích quốc gia của mình. Sự suy giảm tương đối sức mạnh quốc gia của Mỹ cùng xu thế đa cực hóa (Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga, đã vươn lên để xác lập trật tự mới và đòi hỏi sự chia sẻ quyền chi phối đời sống quốc tế), phụ thuộc lẫn nhau trong kỷ nguyên toàn cầu hóa cùng sự xuất hiện của ngày càng nhiều các vấn đề toàn cầu khiến cho Mỹ phải dựa vào các nước lớn khác và các tổ chức quốc tế để bảo vệ các lợi ích của mình và các lợi ích chung. Đáng chú ý hơn là ngoại giao đa phương giai đoạn này đã không còn là độc quyền nước lớn, mà mỗi thành viên của cộng đồng quốc tế đều có cách vận dụng riêng để bảo vệ lợi ích của mình. Các vấn đề mới nảy sinh ở mức độ toàn cầu vượt ngoài khả năng xử lý đơn phương và song phương. Do đó, LHQ với tư cách là thể chế toàn cầu lớn nhất và quan trọng nhất trở thành công cụ đa phương hàng đầu mà các nước cả lớn và nhỏ hướng tới. * Bối cảnh Việt Nam Sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề và điều kiện để bước vào giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Tăng trưởng GDP đạt mức cao (bình quân đạt 8%/năm, cao nhất là 9,3% vào năm 1995), nền kinh tế bắt đầu có tích lũy, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Những thành tựu này vừa là kết quả vừa tạo cơ sở quan trọng để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế trong giai đoạn sau. Việt Nam là nước đang phát triển duy nhất đã trải qua nhiều hoạt động ngoại giao đa phương lớn, trong đó có các đợt đàm phán nhiều bên phức tạp, dài ngày để lập lại hoà bình ở Đông Dương đã tổ chức thành công các hội nghị cấp cao của các tổ chức lớn như Cộng đồng Pháp ngữ, Phong trào Không 47 Liên Kết, ASEAN, ASEM, APEC. Qua đó, Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về diễn đàn quốc tế và đa phương. Hơn nửa thập kỷ sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và Mỹ bình thường hóa, Việt Nam cũng đã có môi trường và điều kiện thuận lợi hơn để mở rộng hoạt động đối ngoại với định hướng tăng cường tham gia vào các công việc tại các tổ chức quốc tế chủ chốt, đặc biệt là LHQ, và đóng góp thỏa đáng vào những nỗ lực vì hòa bình, độc lập và phát triển. Quyết định ứng cử HĐBA LHQ được đưa ra vào thời điểm sau khi Việt Nam đã đảm nhiệm thành công nhiều sự kiện, hoạt động là những dấu mốc của ngoại giao đa phương Việt Nam như trở thành thành viên của ASEAN (1995), tham gia thành lập Ủy hội sông Mê Công (1995), ký Hiệp định khung hợp tác Việt Nam - EU, tham gia Diễn đàn hợp tác Á – Âu (1996). Ngay sau khi quyết định ứng cử, Việt Nam đã đăng cai tổ chức thành công Hội nghị cấp cao Pháp ngữ (1997), sau đó là Hội nghị cấp cao ASEAN VI (1998), Hội nghị cấp cao ASEM 5 (2004) và APEC (2006). Tại LHQ, Việt Nam giữ chức Phó Chủ tịch ĐHĐ/LHQ năm 1997, được bầu vào Hội đồng kinh tế - xã hội (ECOSOC) nhiệm kỳ 1997-2000, Hội đồng thống đốc IAEA nhiệm kỳ 1991-1993, 1997-1999 và 2003-2005, Ủy ban nhân quyền nhiệm kỳ 2001-2003, tham gia vào quá trình thương lượng và là thành viên chính thức của Công ước cấm vũ khí hóa học năm 1998, tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện năm 1996, tham gia Hội nghị giải trừ quân bị từ tháng 6 năm1996. Đáng chú ý, thời kỳ này Việt Nam đã thể hiện được khả năng linh hoạt, mềm dẻo trong xử lý các vấn đề, đặc biệt là các vấn đề nhạy cảm, và tham gia nhiều hơn vào các chương trình hành động quốc tế, nhờ đó vai trò của Việt Nam được đề cao hơn, đóng góp của Việt Nam tại các tổ chức đa phương 48 quốc tế mang tính thực chất hơn và được ghi nhận nhiều hơn. Ví dụ, từ năm 1995, Việt Nam đã tham gia và báo cáo đều đặn cho cơ chế đăng kiểm vũ khí của LHQ. Từ năm 1996, Việt Nam bắt đầu tham gia đóng góp vào ngân sách cho các hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ và bắt đầu nghiên cứu khả năng tham gia các hoạt động này. Sự tham gia của Việt Nam trong các tổ chức và thể chế đã cho thấy bước trưởng thành mới của ngoại giao đa phương Việt Nam và là cơ sở thực tiễn quan trọng cho quyết định ứng cử vào một tron...xác định đối ngoại đa phương là một định hướng chiến lược của đối ngoại Việt Nam, và (iii) định hình tư duy “chủ động đóng góp, khởi xướng và tham gia định hình” các sân chơi, luật chơi chung trong đó LHQ là ưu tiên hàng đầu. Điều này được thể hiện qua phát biểu của Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tại Phiên Thảo luận cấp cao Khóa họp 71 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc (New York, Hoa Kỳ) ngày 24 tháng 9 năm 2016, chính thức thông báo đến các nước về việc Việt Nam tham gia ứng cử ủy viên không thường trực HĐBA nhiệm kỳ 2020-2021. Tuyên bố này thể hiện sự tiếp nối về chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trên tinh thần 146 "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế", đồng thời khẳng định sự sẵn sàng của “Việt Nam chủ động tham gia vào diễn đàn Liên hợp quốc” [60] và việc tiếp tục ứng cử UVKTT HĐBA LHQ nhiệm kỳ thứ hai (2020-2021) là nhằm trực tiếp triển khai định hướng chiến lược này. Về mặt lý luận, việc Việt Nam đảm nhiệm thành công nhiệm kỳ UVKTT HĐBA LHQ 2008-2009 và tiếp tục ứng cử nhiệm kỳ 2020-2021 có thể được xem là minh chứng cho tính đúng đắn của cách tiếp cận coi đa phương là công cụ hữu hiệu để các nước vừa và nhỏ theo đuổi và bảo vệ lợi ích quốc gia. Theo đó, việc tham gia vào các thể chế đa phương là một trong những lựa chọn chính sách đối ngoại hàng đầu nhằm (i) tranh thủ nguồn lực bên ngoài, xây dựng các tập hợp lực lượng bảo vệ lợi ích chung; (ii) tạo công cụ để cân bằng, ràng buộc các nước lớn và hóa giải các sức ép trong quan hệ với các nước lớn hơn, nâng cao vị thế quốc tế của quốc gia. Điều này cũng phù hợp với chủ trương, đường lối đối ngoại Đại hội XII, đó là “nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây dựng Cộng đồng vững mạnh” và “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác” [82]./. 147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Nguyễn Việt Lâm (2017), “Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Đối ngoại đa phương”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Số 6 (115)- 2017. 2. Nguyễn Việt Lâm (2017), “Việt Nam trong nhiệm kỳ Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ 2008-2009: Kết quả và bài học kinh nghiệm”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, Số 1 (106), Tháng 3/2017. 3. Nguyễn Việt Lâm, Đặng Cẩm Tú (đồng tác giả) (2017), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại đa phương vào thực tiễn Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 899, tháng 9/2017. 4. Nguyễn Việt Lâm, Đặng Cẩm Tú (đồng tác giả) (2017), “Quá trình phát triển đối ngoại đa phương Việt Nam: giai đoạn 1975-1986”, Tạp chí nghiên cứu quốc tế, Số 3 (110), tháng 9/2017. 5. Nguyễn Việt Lâm, (2018), “Recommendations for Viet Nam if elected as Non-permanent membership of the United Nations Security Council in the term 2020 – 2021”, Diễn giả, tham luận tại Hội thảo quốc tế “Viet Nam’s preparations for non-permanent membership of the United Nations Security Council in the 2020-2021 term”, do Học Viện Ngoại giao và Quỹ KAS của Đức tổ chức ngày 30 tháng 3 năm 2018 tại Hà Nội. 148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2013), Hiến chương Liên hợp quốc, Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM. 2. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, “Thủ tướng Chính phủ đón và hội đàm với Thủ tướng Bangladesh”. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2017 tại thu-tuong-bangladesh-232598.vov. 3. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, “Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hội đàm với Ngài Lý Hiển Long” truy cập tháng 5 năm 2017 tại : ngai-ly-hien-long-224598.vov. 4. Báo điện tử Nhân Dân, “Việt Nam được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ,” truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2017 tại www.nhandan.com.vn. 5. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, “Việt Nam thành công trong vai trò uỷ viên Hội đồng Bảo an,” truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2017 tại hungary.org/vnemb.vn/tinkhac/ns080723150401. 6. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, “2 năm đảm nhận cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ: Củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2017 tại vien-khong-thuong-truc-hoi-dong-bao-an-lhq-cung-co-vi-the-cua-viet- nam-tren-truong-quoc-te-250.html. 149 7. Báo điện tử Nhân Dân (2007), “Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ”, truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2017 tại 8. Báo điện tử an ninh thế giới, “Việt Nam hoàn thành trọng trách Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đăng năm 2008, truy cập lúc 1 am ngày 10 tháng 12 năm 2017 tại trong-trach-Chu-tich-luan-phien-Hoi-dong-Bao-An-Lien-Hiep-Quoc- 292247/. 9. Báo điện tử Sài gòn Giải phóng (2007), “Việt Nam được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ,” truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016 tại 10. Báo điện tử Tổ Quốc, “Việt Nam hoàn thành chức trách Chủ tịch HĐBA LHQ ngày 30 tháng 12 năm 2009, truy cập lúc 1h10 ngày 10 tháng 12 năm 2017 thanh-chuc-trach-chu-tich-hdba-lhq-94709.html. 11. Báo điện tử Tổ quốc, “Việt Nam hoàn thành chức trách Chủ tịch HĐBA LHQ”, truy cập lúc 1h30 am ngày 12 tháng 10 năm 2017 tại tich-hdba-lhq-94709.html. 12. Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, “Việt Nam đảm nhận thành công Chủ tịch HĐBA LHQ,” Đài tiếng nói Việt Nam, 02 tháng 9 2009, truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2017 tại dam-nhan-thanh-cong-chu-tich-hdba-lhq-125740.vov. 150 13. Báo Quốc tế (2005), “Phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, Trưởng đoàn Đại biểu Việt Nam tại Khoá họp 60 Đại hội Đồng Liên hợp quốc,” tr. 4, Hà Nội. 14. Ban Thư ký ASEAN (2002), Tuyên bố chung Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 35, Bandar Seri Begawan. 15. Ban Thư ký LHQ, Các biên bản họp của HĐBA LHQ, [Trực tuyến]. Available: www.un.org/en/sc. 16. Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao, Tờ trình số 90-BCSĐ-TCQT ngày 15 tháng 01 năm 2008, Hà Nội. 17. Ban cán sự Đảng Bộ Ngoại giao (2008), Báo cáo số 313/BC-BCSĐ- TCQT ngày 11 tháng 4 năm 2008, lưu trữ tại Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, Hà Nội. 18. Bộ Ngoại giao (2004), “Báo cáo số 205 ngày 27 tháng 2 năm 2004 về việc xây dựng Lộ trình chuẩn bị cho việc ứng cử và tham gia HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009”, Hà Nội. 19. Bộ Ngoại Giao (2007), Đề án số 15-ĐA/BNG-TCQT ngày 8/2/2007 về việc tiếp tục vận động và chuẩn bị làm Uỷ viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Hà Nội. 20. Bộ Ngoại giao (2007), “Tờ trình số 525/TTr-BNG-TCQT ngày 15 tháng 2 năm 2007”, Hà Nội. 21. Bộ Ngoại giao, (2007), “Báo cáo số D152 ngày 4 tháng 9 năm 2007”, Hà Nội. 22. Bộ Ngoại giao (2007), Đề án số 28-ĐA/BCSĐ-TCQT ngày 14 tháng 9 năm 2007, Hà Nội. 23. Bộ Ngoại giao (2007), “Báo cáo số 226-BC/BCSĐ-TCQT ngày 16 tháng 10 năm 2007”, Hà Nội. 151 24. Bộ Ngoại giao (2009), Báo cáo kết quả chuyến thăm Nga của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, tháng 10/2009, lưu tại Vụ Châu Âu. 25. Bộ Ngoại giao Lào, Thông điệp gửi Đại sứ quán Việt Nam tại Lào, Viêng Chăn, 2009. 26. Bộ Chính trị , Nghị quyết 22 - NQ/TW của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế,” 10 4 2013, 9/ns140805203450. [Đã truy cập 20 3 2017]. 27. Các Mác và Ăng-ghen(1995), Các Mác và Ph. Ăng-ghen. Toàn Tập, tập 4, Hà Nội, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995. 28. Các Mác và Ph. Ăngghen (2002) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 29. Cổng thông tin điện tử Bộ Ngoại giao, VN hoàn thành trọng trách Ủy viên không thường trực, truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2017 tại ns091230083217. 30. Phạm Lan Dung (2014), Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc: Địa vị pháp lý,thực tiễn hoạt động và vấn đề nâng cao vai trò, Luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt Nam, Mã số: 62310206. 31. Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Croatia tại Liên hợp quốc (2009), Trả lời phỏng vấn đài Truyền hình Việt Nam. Tháng 12 năm 2009. 32. Đại sứ quán Việt Nam tại Phần Lan, Việt Nam làm tốt vai trò trong nhiệm kỳ Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an, truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2017 tại finland.org/vnemb.vn/tin_hddn/ns090311092336. 152 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự Thật. 34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự thật. 35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII”, Nhà Xuất bản chính trị quốc gia. 36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 37. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.. 39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 43. Đảng Cộng sản Việt Nam(2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 44. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 153 45. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2 năm đảm nhận cương vị Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc: Củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, 4 1 2010. [Trực tuyến]. Available: vien-khong-thuong-truc-hoi-dong-bao-an-lhq-cung-co-vi-the-cua-viet- nam-tren-truong-quoc-te-250.html. [Đã truy cập 5 1 2017]. 46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị,. 47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 48. Học viện Ngoại giao (2005), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 49. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, tập 5, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia. 50. Lưu Thuý Hồng (2015), Ngoại giao Đa phương trong hệ thống quan hệ quốc tế đương đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 51. Vũ Dương Huân (2004), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp Đổi mới (1975-2002), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 52. Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Hồng Quân (2008), “Việt Nam và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 53. Phạm Gia Khiêm (2008), “Trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Việt Nam của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm”, Hà Nội. 54. V. Lênin (2000), V.I.Lênin, Toàn tập, 12 tập, xuất bản lần thứ 2, Hà Nội, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 55. V. Lê-nin. (2005), V.I. Lê-nin. "Báo cáo về tình hình quốc tế và về những nhiệm vụ cơ bản của quốc tế cộng sản", Toàn Tập, tập 41, Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 154 56. Phạm Bình Minh (2016), “Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29: Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế - Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII” Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, tập 3, số 108, Hà Nội. 57. Phạm Bình Minh (2011), Đường lối đối ngoại Đại hội XI và những phát triển quan trọng trong tư duy đối ngoại của Đảng ta, 20 5 2011. [Trực tuyến]. Available: 110520170239. [Đã truy cập 20 3 2017]. 58. Phái đoàn Pakistan tại Liên hợp quốc, Công hàm của Phái đoàn Pakistan tại LHQ (Số Cand-1/6/2017 (14) gửi các nước Nhóm Châu Á ngày 17 tháng 11 năm 2017 cập nhật tình hình thành viên Nhóm Châu Á ứng cử các cơ quan LHQ trong đó có HĐBA. 59. Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, “Viet Nam highlights children protection at UNSC’s debate”, truy cập lúc 00h28 ngày 4/1/2017” tại un.org/en/news.php?id=56&cid=2,. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Việt Nam trong Phim tài liệu ngắn sau hai năm Việt Nam làm UVKTT HĐBA LHQ, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm tháng 1 năm 2010. [Phỏng vấn]. 60. Đặng Đình Quý (2016), Những điểm mới về đối ngoại trong Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng, 26 3 2016, diem-moi-ve-doi-ngoai-trong-van-kien-dai-hoi-toan-quoc-lan-thu- 3083. [Đã truy cập 8 1 2017]. 155 61. Đặng Đình Quý (2016), Đại hội XII và những điểm mới về đường lối đối ngoại, tại duong-loi-doi-ngoai-34736.html, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2017. 62. Nguyễn Hồng Thao (2008), Việt Nam và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 63. Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại Họp báo Tổng kết hai năm Việt Nam tham gia HĐBA ngày 29 tháng 12 năm 2009. 64. Đặng Cẩm Tú (2017), “Đối Ngoại đa Đa phương Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”, Nghiên cứu quốc tế, tập 1, tr. 49-62, Tháng 3/2017. 65. Đặng Cẩm Tú, Nguyễn Việt Lâm (2017), “Quá trình phát triển đối ngoại đa phương Việt Nam: giai đoạn 1975-1986”, Nghiên cứu quốc tế, tập 3. 66. Lê Hoài Trung (2017), Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 67. Lê Hoài Trung (2017), Đối ngoại đa phương Việt Nam trong thời kỳ chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 68. Saigon Giai phong Online, “Việt Nam được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ”, Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016 tại khong-thuong-truc-hoi-dong-bao-an-lhq-184456.html. 69. Bùi Thanh Sơn (2015), “Đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu,” Available: quan-he-uu-tien-vao-chieu-sau/201510/22302.vgp. [Đã truy cập 5 1 2017]. 156 70. Văn phòng Chính phủ (1997), Công văn về việc Báo cáo xin ý kiến Thường vụ Bộ Chính trị về các vấn đề sẽ nêu trong Khoá họp thứ 52 Đại hội Đồng LHQ, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, Ngày 6 tháng 9 năm 1997. 71. Văn phòng Chính phủ (2007), “Công văn số 1115/VPCP-QHQT ngày 1/2/2007” Hà Nội. 72. Văn phòng Chính phủ, “Công văn số 561/VPCP-QHQT ngày 3 tháng 6 năm 2008.”. 73. Văn phòng Chính phủ, Công văn số 992/VPCP-QHQT về việc Đề án Việt Nam lần thứ hai đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, Ngày 24 tháng 9 năm 2008. 74. Văn phòng Chính phủ, Công văn của Văn phòng Chính phủ về việc tranh chấp ở đền Preah Vihear, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội, Ngày 28 tháng 7 năm 2008. 75. Văn phòng Trung ương Đảng (2007), “Công văn số 100-CV/TW ngày 25 tháng 4 năm 2007”, Hà Nội. 76. Văn phòng Trung ương Đảng, Công văn số 100-CV/TW về việc ta vận động và chuẩn bị làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009”, Hà Nội. 77. Văn phòng Trung ương Đảng (2007), Công văn số 2925-CV/VPTW ngày 17 tháng 8 năm 2007, Hà Nội. 78. Văn phòng Trung ương Đảng (2007), Công văn số 3199-CV/VPTW ngày 22 tháng 9 năm 2007, Hà Nội. 79. Văn phòng trung ương Đảng, Công văn số 4290-CV/VPTW ngày 25 tháng 1 năm 2008, lưu trữ tại Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, New York, 2008. 157 80. Văn phòng Trung ương Đảng, Công văn số 135-CV/TW ngày 21 tháng 12 năm 2007, Hà Nội. 81. Văn phòng Trung ương Đảng, Công văn số 4290-CV/VPTW ngày 25 tháng 1 năm 2008, Hà Nội. 82. Văn phòng Trung ương Đảng, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng năm 2016. 83. “Việt Nam hoàn thành trọng trách Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc,,” [Trực tuyến]. 84. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao (1997), Tờ trình số 05-97 ngày 10 tháng 1 năm 1997 về việc Việt Nam ứng cử vị trí Uỷ viên Không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Hà Nội. 85. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (1997), Tờ trình số 156/VP- TCQT ngày 3 tháng 9 năm 1997 về việc tham gia Khoá họp thứ 52 Đại hội Đồng LHQ”. 86. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, “Báo cáo cập nhật tình hình vận động ứng cử Uỷ viên Không thươngf trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009 ngày 28/9/2006” Hà Nội. 87. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao (2006), “Cập nhật tình hình vận động các nước ủng hộ Việt Nam vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009”. 88. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2006), “Một số vấn đề liên quan đến việc Việt Nam tham gia làm Uỷ viên Không thường trực Hội đồng Bảo an, Tài liệu phục vụ trao đổi chuyên để khoa học của Bộ” . 89. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), Kế hoạch tiếp tục vận động các nước ủng hộ Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Hà Nội. 158 90. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), Báo cáo số D113/TCQT ngày 7 tháng 6 năm 2007 của Vụ các Tổ chức quốc tế, Hà Nội. 91. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao, Báo cáo (số D113/TCQT) công tác vận động trong tháng 5/2007 về việc ta ứng cử làm thành viên không thường trực HĐBA LHQ, Hà Nội. 92. Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), Đề án số 575/ĐA- BNG-BC ngày 7 tháng 6 năm 2007, Hà Nội. 93. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), Tờ trình số 525/TTr- BNG-TCQT v/v cử Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng làm Đặc phái viên của Thủ tướng Chính phủ đi vận động một số nước Châu Mỹ La tinh ủng hộ Việt Nam làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Hà Nội. 94. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), Kế hoạch vận động nước rút cho việc ta ứng cử làm Uỷ viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009 (tháng 9/2007), Hà Nội. 95. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), Báo cáo (số D132/TCQT) Kế hoạch vận động nước rút cho việc ta ứng cử làm Uỷ viên không thường trực HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009, Hà Nội. 96. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao, Tờ trình số D212/TCQT ngày 26 tháng 12 năm 2006. 97. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2007), “Báo cáo kết quả chuyến đi Trung Quốc, Nga và Anh trong tháng 11/2007 trao đổi về HĐBA LHQ ngày 12 tháng 12 năm 2007.,” Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2007. 159 98. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao, Báo cáo Kết quả chuyến đi Trung Quốc, Nga và Anh trao đổi về Hội đồng Bảo an, Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, Ngày 12 tháng 12 năm 2007. 99. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao, Đề án số 597/ĐA-BNG- TCQT ngày 27 tháng 5 năm 2008. 100.Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao, Một số công việc chuẩn bị cho tháng Việt Nam làm Chủ tịch HĐBA tháng 10 năm 2009,” Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao., Hà Nội. 101.Vụ Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao, “Báo cáo về tranh chấp chủ quyền đền Preah Vihear,” Vụ Đông Nam Á, Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2008. 102. Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2008), Báo cáo số D03 TCQT ngày 3 tháng 1 năm 2008, 103. Vụ Tây Á- Châu Phi, Bộ Ngoại giao (2008), Báo về tình hình Dim- ba-bu-bê tại HĐBA. 104.Vụ Tây Á-Châu Phi, Bộ Ngoại giao (2008), Báo cáo về vấn đề Dim- ba-bu-ê tại HĐBA. 105.Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2008), Báo cáo số 313/BC- BCSĐ-TCQT ngày 11 tháng 4 năm 2008. 106.Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2009), Báo cáo số 467- BC/BCSĐ-TCQT ngày 5 tháng 2 năm 2009. 107.Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2009), Báo cáo số 625- BC/BCSĐ-TCQT ngày 31 tháng 7 năm 2009. 108.Vụ các Tổ chức Quốc tế, Bộ Ngoại giao (2010), Báo cáo số 841- BC/BCSĐ-TCQT ngày 11 tháng 5 năm 2010,” Bộ Ngoại giao, Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh 160 109. ASEAN Secretariat, Joint Communique of the 44th ASEAN Foreign Minister Meeting, 19 July 2011, content/uploads/images/archive/documents/44thAMM-PMC- 18thARF/44thAMM-JC.pdf, truy cập 30th May 2016. 110.ASEAN Secretariat, Joint Communique of the O35th ASEAN Ministerial meeting Bandar Seri Begawan, 29-30 July 2002,” 29th-30th July 2002, asean-ministerial-meeting-bandar-seri-begawan-29-30-july-2002. [Đã truy cập 20th November 2016]. 111.Akahata, ngày 15/7/2017;Sankei, ngày 22/7/2009;The National Interest, ngày 1/7/2008; The cutting Edge, ngày 7/7/2008;RFI, ngày 21/7/2008.. 112. D. L. Bosco (2009), Five to Rule Them All: The UN Security Council and the Making of the Modern World, Oxford University Press. 113. J. P. N. T. Caroline Bouchard (2010), Multilateralism in the 21st Century: Europe’s Quest for Effectiveness, Routledge. 114.S. Forman (2002), “Multilateralism as a matter of fact: U.S. leadership and the management of the international public sector,” in In Multilateralism and U.S. foreign policy: Ambivalent engagement, ed. S. Pattrick and Forman, Boulder, CO: Lynne Rienner. 115.K. a. J. N. Hüfner (1990), “Are the Moral and Value Foundations of Multilateralism Changing?,” International Political Science Review, ep 11, No 3, July. 116.R. O. Keohane (1990), “Multilateralism: An Agenda for Research,” International Journal, ep 45, no 4, pp. 731-764. 161 117.M. Kabler (1993), “Multilateralism with Small and Large Numbers,” in Multilateralism Matters The Theory and Praxis of An Institutional Form, New York, Columbia University Press. 118.M. Kahler (1992), “Multilateralism with Small and Large Numbers,” International Organization, ep 46, No 3, pp. 681-708. 119.J. Krause (2004), “Multilateralism: Behind European Views,” The Washington Quarterly, ep 27, no 2, pp. 43-59. 120. K. Mahbubani (2004), The Permanent and Elected Council Members,” trong The UN Security Council: From the Cold Ward to the 21st century, Lynne Rienner, pp. 253-266. 121. K. Mahbubani (2005), The Little Red Dot: Reflections by Singapore's Diplomat, Wolrd Scientific Publishing Co. Pte. Ltd. 122.K. Mahbubani (2015), “Singapore and Security Council,” in 50 years of Singapore and United Nations, World Scienctific. 123. D. M. Malone (2000), “Eyes on the Prize: The Quest for Nonpermanent Seats on the UN Security Council,” Global Governance, ep VI, No 1, pp. 3-23. 124.R. O. K. a. J. S. Nye (2011), Power and Interdependence: World Politics in Tránsition, Boston: Litte, Boston: Longman. 125. H. S. Pur (2016), Perlious Interventions: The Security Council and the Politics of Chaos, Haper Collins Publisher India. 126. S. Pinkers (2011), The Better Angels of Our Nature: Why Violence Has Declined, Penguin. 127.J. Robert O. Keohane and Joseph S. Nye (1985), “Two Cheers for Multilateralism,” Foreign Policy, ep 60, pp. 148-167. 128.J. G. Ruggie (1992), “Multilaterlism: the anatomy of an institution,” International Organization, ep 46, no 3, pp. 561-598. 162 129.M. G. Schecter (2011), “Systemic Change, International Organizations, and the Evolution of Multilateralism,” in The New Dynamics of Mulitlateralism: Diplomacy, Intertnational Organizations, and Global Governance, Westview Press. 130.Security Council Report (2007), SECURITY COUNCIL REPORT FEB 2008 FORECAST Monthly,” Security Council Report, New York. 131.Security Council Report (2008), SECURITY COUNCIL REPORT FORECAST MAR2008, Security Council Report, Inc, New York. 132. The Australian Institute of International Affairs , Mexico's experience on the UN Security Council 2009-2010, 2012. content/uploads/2014/01/australia-and-the-security-council-final- web.pdf . [Đã truy cập 16th December 2017]. 133.United Nations Security Council, 6172nd meeting, S/PV/6172, 28th July 2009. truy cập 20th January 2017. 134.United Nations Security Council, 6254th meeting, S/PV.6254, 23rd December 2009, truy cập 15th Feburary 2017. 135.United Nations, Repertoire of the Practice of the Security Council Supplement 2008-2009, New York: United Nations publication, 264. 136.United Nations Security Council (2009), “Provisional rules of procedure and related procedural developments,” in Repertoire of the Practice of the Security Council, 2008-2009, New York, United Nations Press. 163 137.United Nations Security Council (2008), Biên bản các cuộc họp lần thứ 5691 của Hội đồng Bảo an, United Nations Security Council, New York, 2008. 138.United Nations Security Council (2009), Biên bản các cuộc họp lần thứ 5953 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, United Nations Security Council, New York. 139. United Nations Security Council (2009), Biên bản các cuộc họp lần thứ 5952 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, United Nations Security Council, New York. 140.United Nations Security Concil (2008), 5951th meeting, S/PV.5951 ngày 8 tháng 8 năm 2008, United Nations Press, New York. 141.United Nations Security Council (2008), 5952nd Meeting, S/PV.5952 on 8th August 2008, United Nations Press. 142.United Nations Security Council (2009), 6143 Meeting of the United Nations Security Council, United Nations Press. 143. United Nations Security Council (2008), Statement by the President of the Security Council (S/PRST/2008/5), United Nations Security Council, New York. 144.Untied Nations Security Council (2008), Biên bản cuộc họp lần thứ 5843 của Hội đồng Bảo an (S/PV.5843),” United Nations Security Council, New York. 145. United Nations Security Council (2008), Statement by the President of the Security Council (S/PRST/2008/6), United Nations Security Council, New York. 146. United Nations Security Council (2008), Biên bản cuộc họp số 5847 của Hội đồng Bảo an (S/PV.5847), United Nations Security Council, New York. 164 147. United Nations Security Council (2008), Biên bản cuộc họp lần thứ 5848 của Hội đồng Bản an (S/PV.5848), Untied Nations Security Council, New York. 148. United Nations Security Council (2008), Biên bản cuộc họp lần thứ 5854 của Hội đồng Bảo an (S/PV.5854), United Nations Security Council, New York. 149. United Nations Security Council (2008), SECURITY COUNCIL PRESS STATEMENT ON HAITI, 08 April 2008, https://www.un.org/press/en/2008/sc9293.doc.htm, truy cập 20 March 2018. 150. United Nations Security Council (2008), Biên bản cuộc họp lần thứ 5874 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (S/PV.5874), United Security Council, New York. 151. United Nations Security Council (2008), 6028 meeting, S/PV.6028, tr.18-19, United Nations Press, New York. 152. United Nations Security Council (2008), Statement by the President of the Security Council (S/PRST/2008/13), United Security Council , New York. 153. United Nations Security Council (2008), Statement by the President of the Security Council (S/PRST/2008/160, United Security Council, New York. 154. United Nations Security Council (2008), Statement by the President of the Security Council (S/PRST/2008/18), United Naitons Security Council. 155. United Nations Security Council (2008), Statement by the President of the Security Council (S/PRST/2008/20),United Nations Security Council, New York. 165 156. United Nations Security Council (2008), Biên bản cuộc họp lần thứ 6066 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (S/PV.6066), United Nations Security Council, New York. 157. United Nations Press (2007), General Assembly elects Burkina Faso, Costa Rica, Croatia, Li-bi, Viet Nam to two-year terms on security council, truy cập lúc 00h26 ngày 4/1/2017). 158. United Nations, General Assembly elects Burkina Faso, Costa Rica, Croatia, Li-bi, Viet Nam to two-year terms on security council, 16 October 2007, truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016. 159. United Nations (1945), Charter of the UN and Statute of the International court of Justice, https://treaties.un.org/doc/publication/ctc/uncharter.pdf 160. UN Press, Security Council Urges Renewed Measures to Improve Women's Participation in Peace Processes, Reaffirming Key Role Women Can Play in Rebuilding War-Torn Societies, 5th October 2009, [Đã truy cập 8th January 2017]. 161. UN Press, Security Council Adopts Text Mandating Peacekeeping Missions to Protect Women, Girls from Sexual Violence in Armed Conflict 30th September 2009. https://www.un.org/press/en/2009/sc9753.doc.htm, truy cập 8th January 2017. 162. United Nations Security Council (2008), 6028th meeting of the United Nations Security Council, United Nations Press, New York. 166 163. Viet Nam News Agency, Viet Nam makes bilateral leap with Ukraine towards prosperity, 17 November 2012, laws/232913/viet-nam-makes-bilateral-leap-with-ukraine-towards- prosperity.html#4Q48ijAqHxRs4zXB.99. [Đã truy cập 5 May 2017]. 164. I. a. Eric Werker (2006), “How much is a seat on the Security Council Worth? Foreign Aid and Bribery at the United Nations,” Journal of Political Economy, ep 114, số 5, pp. 905-930, October 2006. 165. G. Wiseman (2011), “Norms and Diplomacy: The Diplomatic Underpinnings of Multilateralism,” in The New Dynamics of Multilateraism Diplomacy, International Organziations and Global Governance, Westview Press,. 166. T. Woodroofe (2012), Australia's Two Years on the UN Security Council, The Australian Institute of International Affairs, pp. 35-42. 167. K. T. L. L. J. T. Yan (2015), Singapore and the Security Council,” trong 50 years of Singapore and the United Nations, World Scientific./. 167

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_viet_nam_trong_vai_tro_uy_vien_khong_thuong_truc_hoi.pdf
  • pdfTóm tắt luận án_Nguyễn Việt Lâm.pdf
  • docTrang thông tin luận án_Nguyễn Việt Lâm.doc