HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN SƠN
VỀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN SƠN
VỀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH
171 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 372 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. TRẦN NGỌC LINH
2. PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
đúng quy định.
Tác giả
Nguyễn Văn Sơn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 5
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 18
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 27
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 35
Chương 2: QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 39
2.1. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 39
2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 62
Chương 3: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA 75
3.1. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam 75
3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay 117
Chương 4: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT
HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU
CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 127
4.1. Phương hướng chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay 127
4.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay 132
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HTX : Hợp tác xã
LLSX : Lực lượng sản xuất
QHSX : Quan hệ sản xuất
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế 101
Bảng 3.2: Cơ cấu GDP của các thành phần kinh tế năm 2010-2014 110
Bảng 3.3: Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các
doanh nghiệp 113
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các quy luật xã hội thì quy luật: “quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi
vì đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt, chi phối quá trình phát triển của xã hội
loài người.
Ở Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
đã được xác lập một cách nôn nóng, chúng ta đã xóa bỏ các loại quan hệ sản
xuất khác; trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ sản
xuất mới đi quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất, kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất, đã dẫn đến cuộc khủng hoảng về kinh tế -xã hội.
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có sự nhận thức lại, vận dụng
đúng đắn, sáng tạo quy luật: “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất”, điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất, bằng cách phát triển đa dạng các loại hình quan hệ sản xuất,
trong đó có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, từ đó tạo ra bước ngoặt căn
bản của kinh tế-xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn
còn yếu kém, bất cập, quan hệ sản xuất còn có mặt chưa phù hợp, hạn chế
trong việc giải phóng lực lượng sản xuất. Do đó, cần tiếp tục, điều chỉnh quan
hệ sản xuất cho phù hợp với lực lượng sản xuất để giải phóng lực lượng sản
xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Hiện nay, có nhiều nhân tố tác động đến quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác hóa, khu vực hóa đang
diễn ra mạnh mẽ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu điều chỉnh quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa để thúc đẩy sản xuất phát triển làm cho nước ta hòa nhập với
xu thế của thời đại là hết sức cần thiết.
Trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau như: quan hệ sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa, quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong đó,
2
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn được xác định đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với quá trình đổi mới đất nước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được đổi mới, hoàn
thiện. Đảng khẳng định xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ
ở nước ta rất cần thiết song cũng rất khó khăn, phức tạp, vì đây là con đường
đi chưa có tiền lệ, vừa phải xây dựng, vừa phải tìm tòi thử nghiệm. Do đó,
qua mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, phải điều chỉnh quan hệ sản xuất để thúc đẩy
sản xuất phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn thực hiện
được điều này cần phải nghiên cứu sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa từ khi được hình thành đến nay, nhất là thời kỳ đổi mới.
Chính vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: “Về sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam”
để nghiên cứu.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta, luận án góp phần đưa ra một số phương
hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, để thúc đẩy
sản xuất phát triển.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
- Nghiên cứu một số quan điểm lý luận cơ bản về quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa và các nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3
- Góp phần đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát
huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Luận án còn kế thừa những quan điểm lý luận của các nhà khoa học về
những nội dung có liên quan.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để luận giải các nội dung đặt
ra, trong đó chú trọng các phương pháp: lịch sử-logic, phân tích, tổng hợp,
so sánh, quy nạp - diễn dịchđể triển khai nhiệm vụ đặt ra.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới được xác định trong hai thành phần
là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án nghiên cứu sự vận động, biên đổi của kinh tế nhà nước và kinh
tế tập thể từ 1986 đến nay.
Trong kinh tế nhà nước, luận án không nghiên cứu toàn bộ thành phần
kinh tế này, mà đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát về các doanh nghiệp nhà
nước, bộ phận nòng cốt của kinh tế nhà nước. Trong thành phần kinh tế tập
thể, luận án tập trung khảo sát các hợp tác xã, bộ phận trụ cột của kinh tế tập
thể, để từ đó góp phần đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy biến
4
đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án nghiên cứu tổng hợp những nhân tố tác động đến sự biến đổi
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Luận án nghiên cứu vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ trong thời
kỳ đổi mới ở nước ta.
Luận án làm rõ thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Luận án góp phần phân tích những vấn đề còn tồn tại của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận án bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của quan hệ sản xuất
nói chung và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói
riêng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy và những người quan tâm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những quan điểm và giải pháp được luận án đề xuất có thể gợi mở cho
các cơ quan quản lý, những người lãnh đạo có những điều chỉnh phù hợp để
phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã
công bố của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM
Trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, chúng tôi nhận thấy đã có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về quan hệ sản xuất (QHSX) xã hội
chủ nghĩa (XHCN). Các công trình này, nghiên cứu QHSX XHCN trên các
bình diện khác nhau. Điển hình là những công trình nghiên cứu dưới đây.
Với công trình: “Quan niệm của C.Mác về sở hữu và một vài suy nghĩ
về sở hữu ở nước ta hiện nay” [125] của Vũ Hồng Sơn. Đây là một bài báo
khoa học, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm của C.Mác về vấn đề sở hữu.
Theo tác giả, từ trước đến nay, khi nói về sở hữu chúng ta thường hiểu đó là
một hình thức chiếm hữu nhất định về của cải vật chất của xã hội trong từng
thời kỳ lịch sử. Cách hiểu này là đúng đắn nhưng chưa thấu đáo. Theo quan
niệm của chủ nghĩa C.Mác; sở hữu thực chất là mối quan hệ giữa người với
người trong việc chiếm hữu của cải xã hội. Sở hữu là biểu hiện về mặt xã hội
của sự chiếm hữu trong một hình thái kinh tế - xã hội, gắn liền với một tổ
chức nhất định. Do vậy, khi bàn về sở hữu chúng ta phải đề cập đến đối tượng
của sở hữu, đối tượng của sở hữu luôn luôn biến đổi, vì vậy cần phải xác định
rõ đối tượng sở hữu trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể. Khi nghiên
cứu phạm trù sở hữu, chúng ta cần phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng.
Quyền sử dụng có nghĩa là dùng đối tượng sở hữu theo công dụng của nó và
theo chủ trương mong muốn của người sử dụng. Quyền sở hữu và quyền sử
dụng có thể được tập trung trong tay một chủ thể sở hữu, hoặc phân chia giữa
các chủ thể khác nhau ví dụ như: Giám đốc và công nhân là người sử dụng tư
liệu sản xuất trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) nhưng không sở hữu chúng. Do
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của xã hội hóa mà dẫn đến quyền sử
dụng tách khỏi quyền sở hữu. Việc tách quyền sở hữu và quyền sử dụng là cơ
6
sở lý luận để đổi mới quan hệ sản xuất trong các doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước. Điều này có nghĩa là: cần tách rời quyền sở hữu của nhà nước và
quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Tách rời quyền sở hữu và quyền
sử dụng là thực sự cần thiết để hình thành nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là một bài báo khoa học có giá trị khi nghiên
cứu về sở hữu theo quan niệm của C.Mác và vận dụng vào quá trình đổi mới
ở Việt Nam. Quan hệ sở hữu là quan hệ cốt lõi của quan hệ sản xuất, nhưng
ngoài quan hệ sở hữu thì quan hệ sản xuất còn có các mối quan hệ khác chưa
được đề cập đến như: quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ trong phân phối kết
quả lao động. Mặc dù vậy, đây là tài liệu có giá trị với chúng tôi và gợi mở
cho chúng tôi nhiều điều trong quá trình viết luận án.
Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [99] của Phùng Hữu Phú và
các cộng sự, các tác giả đã khái quát về lý luận nhận thức của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa trong 30 năm đổi
mới. Trong đó, có mảng các tác giả có nói về quá trình đổi mới quan niệm về
kinh tế thị trường trong việc đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo các tác giả, từ khi
đổi mới năm 1986 Đại hội VI đến năm 2000 chúng ta sử dụng khái niệm:
Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta đã
thừa nhận kinh tế thị trường nhưng chưa coi đó là nền kinh tế mà chỉ là một
cơ chế. Đến đại hội IX năm 2001 chúng ta đã chính thức sử dụng khái niệm:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và coi đây là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Nội hàm của định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ngày càng được làm rõ. Điều đó
được thể hiện:
Một là, về mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mục tiêu ở đây là vì con
người chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Kinh tế thị trường không phải là
mục tiêu, mà chỉ là công cụ để đi đến chủ nghĩa xã hội (CNXH).
7
Hai là, về phương hướng phát triển. Phát triển nền kinh tế nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền
kinh tế quốc dân
Ba là, về phân phối. Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Thực hiện
phân phối theo lao động là chủ yếu, ngoài ra có phân phối theo mức đóng góp
vốn các nguồn lực khác và theo phúc lợi xã hội
Bốn là, về quản lý. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng pháp luật, kế hoạch bảo đảm mục
đích định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
Có thể nói, đây là cuốn sách phân tích chuyên sâu lý luận về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các tác giả, đã phân tích tư duy đổi mới lý
luận kinh tế thị trường trong 30 năm đổi mới đất nước, vai trò của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế. Tuy nhiên, các vấn đề mà tác giả nêu ra còn chung
chung, khái quát ở tầm vĩ mô, chưa đi sâu phân tích cụ thể, chi tiết về quan hệ
sản xuất XHCN, về vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong quá trình đổi mới. Mặc dù vậy, đây là tài liệu tham khảo cần thiết, có
giá trị đối với chúng tôi.
Trong tác phẩm: “Về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở việt Nam” [78] của Nguyễn Đức Luận. Đây là một bài báo khoa học,
tác giả đã chỉ ra; kinh tế thị trường có nhiều mô hình khác nhau, như mô hình
kinh tế thị trường Mỹ, mô hình kinh tế thị trường Đức, như mô hình kinh tế
thị trường Nhật, Đặc điểm chung của các mô hình kinh tế thị trường là nền
kinh tế đa sở hữu, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự can thiệp của nhà
nước ở mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, là mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta, từ Đại hội VI đến Đại
hội IX mới xác định được mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình của nước ta. Đại hội XII tiếp tục khẳng định, thống nhất
8
nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội XII
có những điểm mới;
- Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường.
- Nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Theo tác giả, khi khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là
nét đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, cho phép chúng ta phân biệt với nền kinh tế thị trường ở phương Tây.
- Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Theo tác giả, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
vừa có sự tương đồng, vừa có sự khác biệt với nền kinh tế thị trường phương
Tây. Tương đồng ở chỗ, “vận hành đầy đủ đồng bộ, theo quy luật của kinh tế
thị trường”, là “nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế”, là nền
kinh tế đa thành phần, đa sở hữu. khác biệt ở chỗ dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản, quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo còn ở các nước tư bản là kinh tế tư bản tư nhân, mục tiêu là
CNXH còn mục tiêu của các nước tư bản là phát triển chế độ TBCN.
Có thể nói, tác giả đã bàn về những điểm mới của mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chứ không chỉ bàn riêng về
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, khi bàn về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước chỉ nói về mặt lý luận và sự khác biệt của nó với các nước tư
bản, hoàn toàn không đề cập tới sự vận động, biến đổi của thành phần kinh tế
nhà nước. Mặc dùy vậy, đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi khi
viết luận án.
Với đề tài: “Nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận
về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” [97] của Trần Văn Phòng.
Công trình này đã tổng kết làm sáng tỏ những vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ chưa
được giải đáp một cách thỏa đáng trong quá trình phát triển xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chẳng hạn như: vấn đề xây
9
dựng lực lượng sản xuất hiện đại ở nước ta, cùng với đó là xây dựng quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Theo các tác giả thì lực
lượng sản xuất hiện đại phải được thể hiện trên 2 tiêu chí; trình độ phát triển
cao của người lao động: người lao động phải có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
nhiều kinh nghiệm, có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần hợp tác thứ hai là
tính hiện đại của tư liệu sản xuất nó được thể hiện ở tính hiện đại của công cụ
lao động phải là công nghệ, dây chuyền máy móc hiện đại để có năng suất lao
động cao; tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính hiện
đại của đối tượng lao động và phương tiện lao động. Hiện nay, do ứng dụng
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nên đối tượng lao động
trở nên “nhân tạo” phổ biến hơn đối tượng lao động tự nhiên. Các phương
tiện lao động cũng ngày càng trở nên hiện đại thuận tiện cho sản xuất và lưu
thông. Do vậy, tính hiện đại của lực lượng sản xuất còn được thể hiện ở tính
ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, vì khoa học ngày càng
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Khi xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, thì quan hệ sản xuất tương
ứng với nó cũng phải hiện đại. Ở đây đề tài đã phân tích, làm rõ tính hiện đại
của quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta mà trong các văn bản trước đây chưa
được làm rõ đó là: Tính hiện đại của quan hệ sản xuất phải được thể hiện trên
cả 3 mặt; quan hệ trong sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quan
lý sản xuất, và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.Tiêu chí đánh giá
tính hiện đại thể hiện ở chỗ phù hợp với xu thế phát triển của lực lượng sản
xuất (LLSX) của nhân loại, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và thúc
đẩy LLSX phát triển, tạo ra môi trường lao động lành mạnh thúc đẩy cổ vũ
người lao động sáng tạo cống hiến để đem lại năng suất lao động cao. Biểu
hiện của tính hiện đại của QHSX là năng suất lao động xã hội tăng, đời sống
người lao động không ngừng được nâng cao, điều kiện làm việc được bảo
đảm và thường xuyên cải thiện, phương tiện lao động thường xuyên đổi mới
hiện đại hóa Đồng thời đề tài cũng làm rõ khái niệm tiến bộ, phù hợp của
quá trình xây dựng QHSX XHCN ở nước ta. Sự tiến bộ của quan hệ sản xuất
10
ở nước ta là tiêu chí căn bản để đánh giá sự khác biệt của QHSX ở ta và
QHSX TBCN, theo các tác giả thì QHSX TBCN có sự phù hợp nhất định với
trình độ của LLSX. Nếu không có sự phù hợp với LLSX thì QHSX TBCN
không phát triển được. Tuy nhiên, QHSX TBCN không có sự tiến bộ vì nó
dựa trên cơ sở bóc lột người lao động và theo nguyên tắc lợi nhuận tối đa cho
giới chủ, không vì con người nói chung, vì người lao động nói riêng. Còn
QHSX XHCN ở nước ta xây dựng tính tiến bộ của nó phải được thể hiện ở
mục đích của nền sản xuất xã hội, phải vì người lao động, phục vụ người lao
động chứ không phải lợi nhuận tối đa.
Tuy nhiên, đề tài chỉ đi sâu vào tổng kết nhiều về mặt lý luận, không đi
sâu nghiên cứu thực trạng về QHSX XHCN ở nước ta, hơn nữa trong đề tài
thì thành phần kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã còn ít được đề cập nghiên
cứu. Mặc dù vậy, đây là đề tài có giá trị tham khảo rất lớn đối với chúng tôi
trong quá trình nghiên cứu.
Trong cuốn “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay -
một số vấn đề nhận thức về lý luận và thực tiễn” [16] của Lương Minh Cừ,
Vũ Văn Thức. Trong công trình này, các tác giả đặc biệt quan tâm đến đặc
điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển lịch sử thế
giới và Việt Nam; sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, công trình này có
giá trị tham khảo rất lớn. Bởi lẽ, các tác giả đã làm rõ được một số vấn đề lý
luận về sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN; quá trình đổi mới tư duy của Đảng ta về sở hữu tư nhân, kinh
tế tư nhân; đặc điểm của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và vai trò của nó đối
với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới; các tác giả
cũng đưa ra những cơ sở và lập luận lôgic khi nhận định xu hướng xã hội hóa
sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do
phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân, cho nên
công trình này không thể đem đến cái nhìn toàn diện, đầy đủ của mối quan hệ
11
giữa quá trình đổi mới, điều chỉnh sở hữu với sự phát triển của LLSX, ít quan
tâm đến vấn đề QHSX XHCN.
Với bài: “Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu
trong giai đoạn hiện nay” [76] của Nguyễn Đức Luận. Trong bài báo này,
bên cạnh việc khái quát các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sở hữu,
tác giả cũng khẳng định sự cần thiết phải có những bổ sung, phát triển hợp lý
các quan điểm này trong điều kiện của thời đại ngày nay.
Trong cuốn "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam" [155] của Nguyễn Kế Tuấn. Công trình này tập
trung vào 3 vấn đề cơ bản sau: những vấn đề lý luận cơ bản về sở hữu trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực trạng vấn đề sở hữu, các thành
phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp trong quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam; quan điểm, xu hướng và giải pháp đối với vấn đề sở hữu, các thành
phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đây là một công trình rất công
phu, và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Các tác giả đã hệ thống hóa,
khái quát hóa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của nhiều
nhà nghiên cứu khác về sở hữu, qua đó đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận về
sở hữu, chẳng hạn như về các chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu trong
nền kinh tế thị trường; sự phát triển các chế độ sở hữu trong các phương thức
sản xuất xã hội; mối quan hệ giữa sở hữu với các hình thức tổ chức kinh tế
trong nền kinh tế thị trường.
Trong quá trình tìm hiểu công trình này, chúng tôi nhận thấy có một số
vấn đề cần phải trao đổi thêm, chẳng hạn như khi bàn về chế độ sở hữu, các
tác giả cho rằng “chế độ sở hữu là khái niệm mang tính tổng quát chỉ sở hữu ở
khía cạnh bản chất nhất” cách hiểu chế độ sở hữu như vậy rất khác so với các
giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin hiện nay. Bên cạnh đó, mối quan hệ
giữa sở hữu đối với LLSX được thể hiện rất mờ nhạt, chưa thực sự làm rõ
được tính đa dạng của các hình thức sở hữu là do sự đa dạng về trình độ của
LLSX điều quy định.
12
Bàn về vấn đề sở hữu có cuốn “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở
Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI” [45] của Lương
Việt Hải. Công trình này là một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác
nhau.Các bài viết đều tập trung vào việc khái quát và chỉ ra cơ sở khoa học
của những quan điểm, chủ trương mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
Cộng sản Trung Quốc về sở hữu, nhất là chủ trương đa dạng hóa các hình
thức sở hữu trong những năm thực hiện đường lối đổi mới, cải cách ở 2 nước.
Tuy nhiên, các vấn đề được trình bày trong các tham luận phần nhiều còn
dừng lại ở mức độ chung chung, khái quát, chưa thực sự phân tích một cách
chi tiết về sở hữu ở Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.
Viết về kinh tế tập thể có cuốn “Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [61] của Chử
Văn Lâm. Công trình này gồm có 3 nội dung cơ bản sau: 1) Sở hữu tập thể và
kinh tế hợp tác trong nền kinh tế thị trường - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn trên thế giới; 2) Một số vấn đề lý luận và thực trạng phát triển sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam; 3) Định hướng và các khuyến nghị chính sách phát triển
sở hữu tập thể và kinh tế hợp tác trong thời gian tới. Với việc tập trung nghiên
cứu những nội dung cơ bản trên, các tác giả đã góp phần làm rõ sở hữu tập
thể và kinh tế tập thể theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và theo
quan điểm của nhiều học giả khác, trên phương diện lý luận cũng như thực
tiễn (thực tiễn trong nước và thực tiễn một số nước trên thế giới, thực tiễn
ở các nước XHCN, hoặc các nước trước đây là XHCN và thực tiễn ở các
nước TBCN). Chính vì vậy, công trình của tác giả Chử Văn Lâm và các
cộng sự, đã cung cấp những cách nhìn đa chiều với nguồn tư liệu rất phong
phú, đa dạng về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể. Xuyên suốt công trình
này, các tác giả đã tập trung làm rõ bản chất và các hình thức sở hữu tập
thể; sự khác nhau giữa sở hữu tập thể và và sở hữu hỗn hợp; sự cần thiết
của sở hữu tập thể và kinh tế tập thể cũng như vai trò, vị trí của nó trong
điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; Có thể khẳng định
13
rằng, công trình này đã góp phần làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sở hữu tập thể và kinh tế tập thể; một số quan điểm đột phá về
đường lối phát triển sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; thực trạng phát triển sở hữu
tập thể và kinh tế tập thể ở nước ta sau khi Luật Hợp tác xã (năm 1996) ra
đời; Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng chưa thực sự được các tác
giả làm rõ, chẳng hạn như mối quan hệ giữa những chủ trương, chính sách
mới về sở hữu tập thể đối với sự phát triển LLSX.
Cũng bàn về vấn đề sở hữu, Nguyễn Văn Thức có cuốn: “Sở hữu: lý
luận và vận dụng ở Việt Nam” [137]. Công trình gồm những nội dung cơ bản
sau: lý luận về sở hữu; các loại hình sở hữu và vai trò của chúng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay; vấn đề cải tạo và xây dựng
các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Dưới góc độ lý luận, với việc phân tích quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin và nhiều nguồn tư liệu khác nhau, tác giả Nguyễn Văn
Thức đã nêu lên được quan niệm có tính thuyết phục về sở hữu. Cũng trong
công trình này, tác giả Nguyễn Văn Thức đã đề cập đến nhiều vấn đề khác
nhau liên quan đến sở hữu, chẳng hạn như các vấn đề: sự chiếm hữu, chủ thể
sở hữu và đối tượng sở hữu, sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân, quyền sở hữu
và chế độ sở hữu, loại hình sở hữu và hình thức sở hữu,trong quá trình
phân tích các vấn đề này, tác giả cũng đã có những khái quát, nhận xét có
giá trị, chẳng hạn như những nội dung nói về quyền sở hữu, chế độ sở
hữu, (từ trang 53-58). Dưới góc độ thực tiễn, về cơ bản, tác giả của “Sở
hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam” đã làm rõ được tính tất yếu của sự tồn
tại nhiều hình thức sở hữu và vai trò của chúng đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội ở nước ta hiện nay; tác giả cũng chỉ ra được một số nội dung cải tạo
và xây dựng các hình thức sở hữu trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, do sự chi phối của mục đích
nghiên cứu nên tác giả chỉ nói về vai trò của các hình thức sở hữu đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội một cách chung chung, không bàn nhiều đến tác
14
động của quá trình đổi mới quan hệ sở hữu đối với việc giải phóng, phát
triển của LLSX.
Trong cuốn “Một số vấn đề về sở hữu ở nước ta hiện nay” [129] của
Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt. Trong công trình này, các tác giả tập
trung nghiên cứu các vấn đề: nhận thức vấn đề sở hữu ở Việt Nam - Lý luận
và thực tiễn”; thực trạng sở hữu doanh nghiệp nhà nước và sở hữu đất đai ở
Việt Nam”; quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng cho việc giải
quyết vấn đề...nh các
doanh nghiệp có quy mô lớn trên thế giới. Việc hình thành các tập đoàn đã
nâng cao về chất so với trước đây, trình độ công nghệ, quản trị, nhân lực
phần lớn đều tăng so với trước khi thành lập. Tuy nhiên còn có hạn chế:
việc kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực của các tập đoàn là chưa phù hợp
với điều kiện nước ta, do quá coi trọng về quy mô lớn, đa lĩnh vực dẫn đến
không tập trung vào ngành lĩnh vực then chốt, hiệu quả hoạt động thấp, còn
có hạn chế, bất cập về công tác quản trị, điều hành các tập đoàn hiện nay ở
nước ta. Từ sự phân tích tác giả Phùng Hữu Phú đã đưa ra các giải pháp
cho các tập đoàn:
Một là, cần tổ chức lại các tập đoàn. Cần xác định mục tiêu cụ thể của
các tập đoàn, tổ chức lại cho phù hợp với từng giai đoạn của các tập đoàn.
Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong tập đoàn, hình thành các
chuỗi sản xuất kinh doanh.
29
Hai là, đổi mới về quản trị, tổ chức quản lý, điều hành các tập đoàn.
Cải thiện quản trị tập đoàn theo chuẩn mực quốc tế.
Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách cho các tập đoàn. Tạo điều kiện,
môi trường thuận lợi cho các tập đoàn, khuyến khích phát triển các tập đoàn
thông qua năng lực cạnh tranh, phát triển tự thân
Bốn là, cơ cấu lại các tập đoàn theo hướng cổ phần hóa, thoái vốn đầu
tư ngoài ngành.
Nhìn chung, các giải pháp do tác giả Phùng Hữu Phú và các cộng sự
đưa ra nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
phát triển các tập đoàn nhà nước, là đúng đắn. Tuy nhiên, có nhiều giải pháp
chưa được bàn đến như vấn đề phân phối hiện nay trong kinh tế nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước.
Trong cuốn “Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong
bối cảnh mới” [120] của Lương Xuân Quỳ. Trong cuốn sách này, tác giả đã
đưa ra các giải pháp để phát triển nền kinh tế nước ta.
Thứ nhất, phải xác định đúng mô hình kinh tế tổng quát. Theo tác giả,
việc xác định đúng mô hình kinh tế tổng quát giữ vai trò vô cùng quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bởi mô hình đúng sẽ tạo ra
động lực to lớn thúc đẩy mọi thành phần kinh tế trong xã hội tích cực đầu tư
phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, mô hình không phù
hợp sẽ làm cho các thành phần kinh tế đắn đo, làm ăn theo kiểu chụp giật,
lách luật, và hậu quả sẽ làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ sự phân tích đó, tác giả đề nghị xây dựng mô hình mới đó là: “Nền
kinh tế thị trường hiện đại Việt Nam”. Theo chúng tôi, mô hình mà tác giả đề
nghị đã được khẳng định trong các văn kiện Đại hội của Đảng mô hình kinh
tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ là: “nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo văn kiện XII của Đảng thì đó phải là nền kinh
tế thị trường hiện đại với đầy đủ các loại thị trường và hoạt động theo quy luật
30
thị trường, hội nhập quốc tế. Đồng thời phải có định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Bởi vì trên thế giới
không có bất cứ nước nào chỉ có kinh tế thị trường thuần túy, thị trường luôn
có những hạn chế, thất bại của nó, đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước ở
các mức độ khác nhau. Do vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là đúng đắn.
Thứ hai, phải đổi mới thể chế chính trị phù hợp với thể chế kinh tế.
Thứ ba, phải thay đổi tư duy về sở hữu và thành phần kinh tế. Tác giả
cho rằng: Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 và Hiến pháp sửa
đổi năm 2013 thì ở Việt Nam có ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân. Tuy nhiên, thực tiễn 30 năm qua cho thấy việc quy
định như vậy là chưa tạo động lực cho sự phát triển. Tác giả cho rằng: cần
xem xét điều chỉnh lại chỉ có hai loại sở hữu là: chế độ công hữu và tư hữu.
Sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể đều là công hữu; còn sở hữu cá thể, tiểu
chủ, hay tư nhân đều là tư hữu vì đa phần các nước chỉ có hai chế độ công
hữu và tư hữu.
Thứ tư, tăng cường vai trò của nhà nước về phát triển xã hội để cải
thiện công bằng xã hội. Theo tác giả cần phải đổi mới mối quan hệ giữa quan
hệ phân phối theo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của nhà nước vừa tạo
động lực cho tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Việc phân bổ các nguồn lực phải theo nguyên tắc của thị trường đồng thời
phải phân phối lại theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn giảm nghèo, hài hóa lợi
ích của nhà nước - người lao động và người sử dụng lao động. Theo chúng tôi
các giải pháp về phân phối chính là các nguyên tắc mà chúng ta đang sử dụng,
xây dựng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Các giải pháp mà tác giả đưa ra là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị
với chúng tôi.
Trong cuốn “Tập đoàn kinh tế trong việc thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh
tế” [36] của Nguyễn Hữu Đạt. Tác giả đã đưa ra các phương hướng và giải
31
pháp nhằm tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế nhà nước và thúc đẩy nó phát
triển như:
- Tập đoàn kinh tế cần tập trung phát triển ở các ngành đột phá trong
nền kinh tế như: tài chính tiền tệ, thông tin, hạ tầng giao thông
- Hình thành các tập đoàn kinh tế mà sở hữu nhà nước chi phối, tập
đoàn kinh tế mà sở hữu tư nhân chi phối và tập đoàn sở hữu hỗn hợp.
- Các giải pháp phát triển các tập đoàn: đẩy mạnh tái cấu trúc các tập
đoàn kinh tế nhà nước, áp dụng hệ thống quản trị hiện đại cho các tập đoàn,
khuyến khích tăng cường liên kết giữa các thành phần kinh tế, xây dựng
nguồn nhân lực chất lượng cao cho các tập đoàn. Tuy nhiên, các phương
hướng và giải pháp của tác giả còn chung chung và bao quát cho các tập đoàn
trong nền kinh tế chứ không chỉ riêng cho kinh tế nhà nước.
Với cuốn “Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” [49] của Hội đồng khoa học các cơ quan Trung
ương Đảng. Đây là cuốn sách tập hợp của nhiều tác giả khác nhau có tính
chất chuyên sâu bàn về doanh nghiệp nhà nước, các tác giả đã đưa ra nhiều
giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp nhà nước như: Tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng trong tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước, vai trò của
Nhà nước trong việc hoàn thiên thể chế, tạo khung pháp lý cho phát triển
doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục, đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước Tuy nhiên, các giải pháp mà các tác giả đưa ra chỉ thuần túy mang
tính kinh tế chưa có sự khái quát, bao quát, tổng quát mang tính triết học.
Với công trình: “Đổi mới nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” [126] của Tạ Ngọc Tấn. Đây là cuốn sách tập
hợp các bài viết của nhiều các tác giả có uy tín bàn về doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là tài liệu tham
khảo có giá trị nhiều mặt với chúng tôi. Các tác giả đã đưa ra nhiều giải pháp
32
phát triển các doanh nghiệp nhà nước thuộc từng lĩnh vực khác nhau: Phải cơ
cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý trong doanh nghiệp ở nước ta, xây dựng doanh nghiệp hoạt
động công ích ở Việt Nam cuốn sách này đã bàn về các vấn đề bức xúc của
doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam. Tác giả mặc dù đã đưa ra nhiều giải pháp
nhằm phát triển doanh nghiệp nhà nước, nhưng các giải pháp đó chỉ mang
tính riêng lẻ, thuộc từng lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước chứ chưa bao
quát toàn bộ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Bàn về thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước còn có các công
trình sau: Phạm Việt Dũng với bài “Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” [21]; Tô Thị Ánh
Dương với cuốn “Tái đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái
cơ cấu ngân hàng thương mại” [25]; Nguyễn Thị Hà với bài viết “Bàn về căn
cứ giám sát tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước” [43]
Về thành phần kinh tế tập thể và kinh tế hợp tác xã đã có một số công
trình đề cập tới và đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tập thể:
Trong cuốn: “Phát triển kinh tế tập thể trong 30 năm đổi mới ở Việt
Nam” [69] của Liên minh hợp tác xã Việt Nam. Các tác giả cho rằng: trong
30 năm đổi mới, kinh tế tập thể chỉ một lần đổi mới đáng kể sau năm 1986,
chuyển từ mô hình hợp tác xã kiểu cũ sản xuất kinh doanh theo kế hoạch hóa
tập trung, sang mô hình hợp tác xã dịch vụ, hỗ trợ kinh tế hộ phát triển. Kể từ
đó, hợp tác xã ít đổi mới dẫn đến trì trệ kéo dài. Luật hợp tác xã năm 2012 đã
phản ánh đúng đắn hơn bản chất của hợp tác xã là tự nguyện, dân chủ, bình
đẳng. Tác giả đã đề xuất các giải pháp cho sự phát triển kinh tế như sau:
Một là, tăng cường công tác lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và chính
quyền các cấp. Các cấp ủy Đảng từ trung ương đến địa phương phải quán triệt
các chủ trương nghị quyết về kinh tế hợp tác xã tránh tình trạng chính sách
33
của Đảng, Nhà nước chỉ được quán triệt ở các Bộ, Nghành sau đó chính
quyền các cấp huyện, xã buông lỏng dần.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bản
chất, chính sách pháp luật về kinh tế tập thể.
Ba là, có chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển các hợp tác xã.
Bốn là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho các hợp tác xã
Năm là, cần có giải pháp về liên kết tiêu thụ sản phẩm. Các doanh
nghiệp và các hợp tác xã phải tăng cường liên kết với các hợp tác xã sản xuất
để làm rõ xuất xứ hàng hóa, thương hiệu, tiếp thị hàng hóa.
Sáu là, các hợp tác xã phải đẩy mạnh ứng dụng về khoa học công nghệ.
Các hợp tác xã phải đẩy mạnh ứng dụng về khoa học công nghệ để tăng năng
suất lao động. Hợp tác xã phải huấn luyện, cầm tay chỉ việc cho các thành
viên và bà con nông dân về kiến thức, phương pháp áp dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Theo chúng tôi các giải pháp mà đồng chí Võ kim Cự chủ tịch liên
minh các hợp tác xã đưa ra là đúng đắn tuy nhiên còn có những vấn đề cần
phải trao đổi thêm chẳng hạn mô hình hợp tác xã cho phù hợp với nước ta và
nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế hiện nay. Trước mắt khi chưa có mô
hình thật sự hiệu quả chúng ta phải đẩy mạnh mô hình hợp tác xã kiểu mới
theo luật hợp tác xã năm 2012 để từ đó tổng kết rút kinh nghiệm, nhân rộng
các mô hình điển hình Phải làm cho họ thấy được là khi tham gia hợp tác
xã có lợi hơn so với làm ăn cá thể có vậy thì mới thu hút được các hộ làm ăn
cá thể, riêng lẻ vào hợp tác xã, tránh tình trạng gò ép như trước kia. Đây là tài
liệu tham khảo nhiều mặt cho chúng tôi, khi nghiên cứu về kinh tế tập thể,
kinh tế hợp tác xã ở nước ta hiện nay.
Với cuốn “Tư tưởng hợp tác xã kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn
Việt Nam” [5] của Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ Hợp tác. Cuốn sách bao
gồm những bài viết của các chuyên gia, nghiên cứu về tư tưởng hợp tác xã
34
của một số quốc gia, nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của các hợp tác xã
trên thế giới và thực tiễn hoạt động hợp tác xã ở Việt Nam. Các tác giả đã
đưa ra một số các giải pháp nhằm phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể
ở nước ta, sau khi tổng kết mô hình các hợp tác xã: Hợp tác xã chăn nuôi
Toàn Thắng ở Thanh Ba, Phú Thọ, Hợp tác xã liên doanh nấm ở Yên
Khánh Ninh Bình, Hợp tác xã đánh bắt hải sản xa bờ Các tác giả có đưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã: Hợp
tác xã phải được tổ chức trên cơ sở phục vụ xã viên, đáp ứng nhu cầu của
xã viên, phải tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng của các xã viên
Tuy nhiên, đây mới chỉ tổng kết một số mô hình Hợp tác xã ở nước ta,
chưa phản ánh hết thực trạng các hợp tác xã ở Việt Nam. Do vậy, các giải
pháp đưa ra còn hạn chế, chưa phản ánh hết thành phần kinh tế tập thể ở
nước ta. Tuy vậy, đây là tài liệu kham khảo có giá trị cho chúng tôi khi bàn
về kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, một thành phần kinh tế quan trọng của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Đưa ra các giải pháp cho kinh tế tập thể còn có một số công trình như:
Nguyễn Văn Giàu với bài "Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả luật hợp
tác xã năm 2012, góp phần phát triền bền vững mô hình hợp tác xã kiểu mới"
[41]; Lê Mạnh Hùng với luận án "Phát triền hợp tác xã thương mại dịch vụ
trong hội nhập quốc tế" [51]; Bùi Văn Huyền với bài viết "Hợp tác xã ở
Đồng Nai: hiện trạng vấn đề và giải pháp" [53]; Nhìn chung, các công
trình nghiên cứu này đã đưa ra một số giải pháp để phát triển kinh tế tập thể,
phát triển các hợp tác xã ở nước ta và là nguồn tham khảo có giá trị với chúng
tôi trong quá trình viết luận án.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đưa ra các giải pháp một cách toàn
diện trên ba mặt là: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối kết quả lao động cho
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
35
1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH
KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC GIẢI QUYẾT
1.4.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố liên quan đến đề tài
Trên đây, là các công trình nghiên cứu được chia thành ba nhóm liên
quan đến những nội dung chính của luận án. Quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 cho đến nay là một đề tài
rộng lớn với hệ thống các công trình nghiên cứu đồ sộ của nhiều học giả khác
nhau. Do vậy, luận án chưa có điều kiện tổng quan hết tất cả các công trình
nghiên cứu mà chỉ mới dừng lại ở mức độ khảo sát các công trình có liên
quan trực tiếp, tiêu biểu đến những nội dung mà luận án nghiên cứu.
Sau khi khảo sát những nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến
những nội dung mà luận án triển khai, tác giả nhận thấy rằng, các công trình
đã đề cập đến:
Thứ nhất, các công trình đã nghiên cứu lý luận về QHSX XHCN trên
các phương diện như:
Một là, các công trình đã nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
về sở hữu và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp đổi
mới. Những công trình nghiên cứu đều khẳng định sự cần thiết phải phát triển
đa dạng các hình thức sở hữu, ngoài sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể cần có
các hình thức sở hữu khác như: sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp để hình thành
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, các công trình nghiên cứu về mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Về mảng này có các tác giả như:
Phùng Hữu Phú, Trần Văn Phòng, Trương Giang Long Các tác giả đều
khẳng định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập, có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các
36
công trình cũng đã tổng kết các quan điểm của Đảng về kinh tế nhiều thành
phần và chỉ ra định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo là đặc thù của nền kinh tế nước ta nhằm dẫn dắt định hướng đi
lên CNXH, QHSX XHCN không chỉ phù hợp mà còn phải tiến bộ như Đảng
khẳng định trong văn kiện Đại hội XII “có quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
với trình độ của LLSX” [34, tr.103].
Các công trình nghiên cứu về lý luận quan hệ sản xuất và quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa đã cung cấp cho tác giả một cái nhìn phong phú, sâu
sắc về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Ở chương 2
trong nội dung của luận án, khi nghiên cứu về lý luận quan hệ sản xuất và
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và các nhân tố tác động đến sự biến đổi
của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tác giả luận án không có
tham vọng đem đến một sự hiểu biết hoàn toàn mới nào về vấn đề này. Kế
thừa thành tựu của những người đi trước luận án đã tập hợp, khái quát lại
một cách hệ thống về quan hệ sản xuất và lý luận về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, các công trình đã nghiên cứu thực trạng của QHSX XHCN ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này, được thể hiện trong các
công trình nghiên cứu về các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế,
các hợp tác xã ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Đặc biệt là những năm gần
đây, khi khung hoảng kinh tế tác động vào nước ta là bộc lộ rõ những hạn chế
của QHSX XHCN. Các công trình đã chỉ ra những bức xúc, những mặt trái,
tiêu cực của QHSX XHCN như sự thua lỗ, thất thoát lớn của các tập đoàn,
các doanh nghiệp nhà nước, sự yếu kém của các hợp tác xã ở Việt Nam. Đây
là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi tiến hành viết chương 3
của luận án với nội dung là nói về thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, các công trình
37
chỉ nghiên cứu thực trạng quan hệ sản xuất trong những năm gần đây, hoặc
nghiên cứu từng mặt, bộ phận của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, cũng như chưa có công trình nào đề cập đến sự biến đổi
về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Ở
chương 3 của luận án tác giả đã nghiên cứu thực trạng sự biến đổi của quan
hệ sản xuất xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới trên phương diện quan
điểm của Đảng và thực tiễn của sự biến đổi cả những biến đổi tích cực và biến
đổi tiêu cực.
Thứ ba, các công trình đã đưa ra các phương hướng và những giải pháp
nhằm phát huy những tác động tích cực hạn chế những tác động tiêu cực của
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Đây là những tài liệu tham khảo cần thiết
đối với chương 4 của luận án. Tuy nhiên, ở mỗi công trình nghiên cứu này,
các tác giả chủ yếu đưa ra các phương hướng và giải pháp với nội dung mà họ
nghiên cứu là từng mặt, từng bộ phận cụ thể của quan hệ sản xuất. Do vậy,
bên cạnh việc kế thừa những người đi trước, tác giải cũng đưa ra phương
hướng và một số giải pháp chủ yếu của mình nhằm phát huy những biến đổi
tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra, tác giả cần tiếp tục nghiên cứu
Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những kết quả
đã được khái quát ở trên, tác giả đưa ra một số vấn đề mà luận án cần tập
trung, giải quyết.
Một là, hệ thống hóa lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và một số các
Đảng cộng sản trên thế giới và Đảng công sản Việt Nam về quan hệ sản xuất
và QHSX XHCN
Hai là, nghiên cứu những nhân tố tác động đến sự biến đổi QHSX
XHCN ở nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác hóa đang diễn ra
mạnh mẽ.
38
Ba là, nghiên cứu vai trò của QHSX XHCN trong thời kỳ đổi mới, định
hướng đi lên CNXH ở Việt Nam
Bốn là, nghiên cứu thực trạng sự biến đổi của QHSX XHCN trong
thời kỳ đổi mới.
Năm là, đề ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
những biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của QHSX XHCN
ở Việt Nam hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án, cho ta thấy rằng; cho đến nay, đã có nhiều các công trình nghiên
cứu về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta. Các công trình nghiên cứu trên nhiều phương diện và
cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa dưới góc độ triết học cũng không nhiều. Do đó, đề tài tiếp tục kế
thừa các kết quả của những người đi trước để vận dụng vào nghiên cứu về
sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, để luận giải những vấn đề đang đặt ra dưới góc độ triết
học. Với việc làm này, tác giả tin tưởng rằng, công trình nghiên cứu của
mình sẽ góp phần nhất định trong hệ thống các công trình nghiên cứu về
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta và góp phần làm tài liệu tham
khảo cho những người làm chính sách liên quan đến quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam.
39
Chương 2
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA QUAN
HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
2.1.1. Quan niệm về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa
2.1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ sản xuất
* Khái niệm quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là một mặt của phương thức sản xuất, nếu lực lượng
sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “quan hệ song trùng” của sản xuất vật
chất, thì quan hệ sản xuất biểu hiện mặt thứ hai của quan hệ đó, tức là quan hệ
giữa người với người trong quá trình sản xuất.
C.Mác đã chứng minh rằng, sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát
triển của xã hội loài người, rằng”:
Đứa trẻ nào cũng biết là một nước sẽ chết đói nếu ngừng lao động,
tôi không nói trong một năm mà ngay trong một vài tuần lễ bởi
một chân lý đơn giản là “Người ta phải có khả năng sống đã rồi
mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được phải có thức
ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa [81, tr.40].
Và để có thức ăn, nước uống, quần áo, nhà ở thì con người cần
phải lao động sản xuất. Chính trong quá trình lao động sản xuất con người
đã thực hiện mối quan hệ song trùng, một mặt là mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, mặt khác là mối quan hệ giữa con người với con người.
Lúc đầu, C.Mác, Ph.Ăngghen gọi đây là hình thức giao tiếp. Sau này,
C.Mác và Ph.Ăngghen mới chính thức sử dụng khái niệm QHSX, quan hệ
sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội của nó. Chính
vì thế mà C.Mác đã khẳng định:
40
Tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta
gọi là những quan hệ sản xuất, là xã hội, và hơn nữa hợp thành một
xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội
có tính chất độc đáo riêng biệt. Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã
hội tư bản đều là tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể
đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong
lịch sử nhân loại [83, tr.553].
Với quan niệm đó, C.Mác đã lấy QHSX với tư cách một tổng thể làm
tiêu chuẩn để trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch
sử nhân loại, phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Quan hệ sản
xuất là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của hoạt động
sản xuất tinh thần của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và những
thiết chế tương ứng trong xã hội. Trong Lời tựa viết cho tác phẩm Góp phần
phê phán khoa kinh tế chính trị, C.Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản
xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [84, tr.15]. Như vậy,
theo C.Mác toàn bộ những QHSX xã hội tồn tại hiện thực trong mỗi phương
thức sản xuất “hợp thành” cơ cấu kinh tế của xã hội. Từ trong toàn bộ những
quan hệ xã hội hiện tồn, C.Mác đã chỉ ra QHSX là cái cơ bản, quyết định mọi
quan hệ khác của xã hội. Vậy là, muốn nghiên cứu một xã hội nào đó, chúng
ta phải xuất phát từ QHSX trong xã hội.
Nói cách khác QHSX là “bộ xương” trong mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Nếu LLSX là cái cấu thành nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân
loại, thì QHSX là cái tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, là cơ sở hiện thực của
hoạt động sản xuất tinh thần của toàn bộ những quan hệ tư tưởng, tinh thần và
những thiết chế tương ứng trong xã hội. QHSX xét trong nội bộ phương thức
sản xuất, là hình thức phát triển của LLSX; mặt khác, xét trong tổng thể các
quan hệ xã hội thì QHSX “hợp thành” cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cái cơ
41
sở hiện thực, trên đó người ta dựng lên kiến trúc thượng tầng tương ứng với
cơ sở thực tại đó.
Như vậy, quan hệ sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
có thể được trình bày một cách khái quát như sau:
Quan hệ sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để
chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây
là quan hệ kinh tế cơ bản, nó đặc trưng cho một chế độ xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm
lao động.
* Kết cấu của quan hệ sản xuất
Khái niệm trên cho thấy, quan hệ sản xuất gồm có ba mặt cơ bản như
sau: quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ
chức, quản lý sản xuất, trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Trong ba
mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất
phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ trong tổ chức, quản lý sản
xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
Về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác đã chỉ ra vai trò quyết định
của quan hệ sở hữu trong quá trình sản xuất. Bởi C.Mác cho rằng, trong tất cả
các giai đoạn phát triển sản xuất trong lịch sử dù có khác nhau thế nào đi nữa,
muốn sản xuất được thì hai nhân tố cơ bản của sản xuất là người lao động và
tư liệu sản xuất phải kết hợp được với nhau. Chừng nào hai nhân tố đó còn bị
tách rời nhau, thì cả hai chỉ là những nhân tố trong trạng thái khả năng của
sản xuất mà thôi. Từ đó C.Mác khẳng định phương pháp đặc thù để thực hành
sự kết hợp ấy, chính là cái dùng để phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau mà
kết cấu xã hội đã trải qua. Do vậy, sự phát triển của mối quan hệ giữa lao
động và sở hữu bao giờ cũng cần được nghiên cứu dưới góc độ là mối quan
42
hệ giữa các nhân tố khách quan (các tư liệu sản xuất) với các nhân tố chủ
quan (các cá nhân) trong quá trình sản xuất. Điều này được thể hiện cụ thể
trong Hệ tư tưởng Đức, khi ông phân tích các giai đoạn phát triển khác nhau
về sản xuất trong lịch sử.
V.I.Lênin đã có nhiều đóng góp, phát triển về vấn đề QHSX trong thời
kỳ quá độ lên CNXH. Từ thực tiễn của nước Nga, Lênin đã cụ thể hóa lý luận
về “phát triển rút ngắn” để đi lên CNXH thông qua con đường quá độ gián
tiếp. Theo Lênin, nước Nga - một nước kinh tế còn lạc hậu, tất yếu phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài, trong đó QHSX và LLSX có “sự đan xen”
“những mảnh của chủ nghĩa xã hội” với “những mảnh của chủ nghĩa tư bản”.
Trạng thái ấy làm cho các yếu tố của CNXH và các yếu tố của CNTB vừa đấu
tranh, cạnh tranh với nhau, vừa nương tựa, thâm nhập vào nhau. Mối quan hệ
chủ đạo giữa “các mảnh” hay các thành phần kinh tế đó, là QHSX, trao đổi,
lưu thông trên cơ sở của trao đổi hàng hóa theo nguyên tắc thị trường.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (thường biểu hiện thành chế độ sở
hữu) là đặc trưng cơ bản của mỗi hình thái kinh tế - xã hội nhất định, từ quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ hình thành nên các quan hệ khác trong hệ
thống quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định. Khi lực lượng sản xuất thay
đổi thì quan hệ sở hữu cũng thay đổi theo, lực lượng sản xuất ở một trình độ
nhất định sẽ xác lập nên một quan hệ sở hữu tương ứng với nó. Theo C. Mác
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của mỗi dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở
trình độ phát triển của phân công lao động xã hội:
Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động xã
hội cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa
là mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan
hệ cá nhân với nhau tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động,
công cụ lao động và sản phẩm lao động [81, tr.31].
Trong lịch sử của xã hội loài người có hai hình thức sở hữu chủ yếu về
tư liệu sản xuất là công hữu và tư hữu. Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất
43
xuất hiện trong xã hội cộng sản nguyên thủy và sở hữu tư nhân xuất hiện ở
các chế độ xã hôi như: chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển của LLSX, chế độ tư hữu tất yếu sẽ bị phủ định bởi
chế độ công hữu mới tiến bộ hơn.
C.Mác viết:
Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định của bản thân
nó, với một tính tất yếu của quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định
cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu,
mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu
của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm
hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất chính
lao động làm ra [85, tr.159-160].
Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất
Quan hệ này thể hiện quyền lực của một cá nhân, tổ chức hay cộng
đồng đối với quá trình sản xuất. Mỗi chế độ kinh tế - xã hội đều có một chế
độ tổ chức, quản lý sản xuất riêng. Về thực chất, tổ chức quản lý là việc điều
khiển và tổ chức cách thức vận động của một nền sản xuất nhất định. Người
có quyền tổ chức sản xuất là người quyết định các vấn đề: sản xuất như thế
nào, sản xuất sản phẩm gì và sản xuất cho ai, số lượng bao nhiêu
Quan hệ tổ chức quản lý phụ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất
và phụ thuộc vào quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Điều này được minh chứng
trong lịch sử: nếu như trong xã hội cộng sản nguyên thủy có hình thức tự
quản, thì trong chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa, chế
độ tổ chức, quản lý lại mang hình thức khác thích hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất và chế độ tư hữu. Trong chế độ sở hữu này thì người chiếm
hữu tư liệu sản xuất trở thành kẻ tổ chức, quản lý sản xuất, người không có tư
liệu sản xuất trở thành người bị quản lý, lao động sản xuất theo sự tổ chức,
lãnh đạo của kẻ sở hữu tư liệu sản xuất. Trong chế độ XHCN thì chế độ tổ
chức, quản lý hoàn toàn khác. Người lao động ở địa vị làm chủ, quan hệ giữa
44
người với người trong sản xuất là hợp tác, bình đẳng. Do đó, việc t... đoàn
kinh tế nhà nước, mà lãnh đạo bằng pháp luật, bằng tổ chức; bằng chỉ đạo,
kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế của các tổ chức kinh tế thuộc thành
phần kinh tế nhà nước cũng như mọi thành phần kinh tế khác.
Tiểu kết chương 4
Qua 30 năm, đổi mới QHSX XHCN ở nước ta đã có những biến đổi
tích cực ngày càng phù hợp với trình độ của LLSX và góp phần thúc đẩy sản
xuất ở nước ta phát triển.Tuy nhiên, bên cạnh những biến đổi tích cực QHSX
148
XHCN ở nước ta còn có những biến đổi tiêu cực làm ảnh hưởng tới sự phát
triển của LLSX, ảnh hưởng tới vai trò định hướng XHCN ở nước ta. Để hạn
chế những biến đổi tiêu cực, phát huy những biến đổi tích cực của QHSX
XHCN ở nước ta, chúng tôi đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp cơ
bản như: Xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm xã hội hóa sở hữu nhà nước, cần xóa
bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chuyển
hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
nhà nước cần xây dựng đội ngũ quản trị giỏi trong các doanh nghiệp nhà
nước. Phân phối trong doanh nghiệp nhà nước phải triệt để tuân theo nguyên
tắc theo lao động phải căn cứ vào; năng xuất chất lượng và hiệu quả để trả
lương cho cán bộ quản lý, phải bảo đảm thu nhập cho người lao động
Đối với kinh tế tập thể cần đẩy mạnh việc chuyển đổi mô hình hợp tác
xã trên cơ sở Luật Hợp tác xã kiểu mới năm 2012 đã ban hành để HTX hỗ trợ
đắc lực cho các hộ kinh doanh cá thể phát triển. Phát triển đang dạng các hình
thức liên kết hợp tác trong kinh tế tập thể tôn trọng nguyên tắc; tự nguyện,
bình đẳng, dân chủ...
Việc thực hiện các giải pháp trên đây sẽ góp phần làm cho QHSX
XHCN sẽ phát huy được những biến đổi tích cực, khắc phục những biến đổi
tiêu cực, tạo điều kiện cho LLSX phát triển và làm tốt công tác dẫn dắt, hỗ trợ
các thành phần kinh tế khác phát triển.
149
KẾT LUẬN
Quá trình vận động, biến đổi của QHSX XHCN trong thời kỳ đổi mới
được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng, cho đến nay, đã trải qua 8 kỳ Đại
hội. Sự vận động, biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta được chia làm hai
giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu đổi mới, trải qua 3 kỳ Đại hội từ năm 1986 đến năm
2001 là quá trình tìm tòi, thử nghiệm chuyển đổi mô hình nền kinh tế nước ta
từ kế hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, QHSX XHCN có sự biến đổi tích cực để
thích nghi với cơ chế mới như: về quan hệ sở hữu được đổi mới tập trung hơn
vào các ngành lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế, thí điểm cổ phần hóa, giải
thể các xí nghiệp thua lỗ Quan hệ tổ chức, quản lý được chuyển sang hạch
toán xã hội chủ nghĩa và sau đó là cơ chế thị trường, quá trình tổ chức, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện dưới các hình thức: giao,
bán, khoán, cho thuê, hình thành các tổng công ty. Quan hệ phân phối chuyển
sang trả bằng tiền thay cho hiện vật, từ bình quân sang trả theo, lao động và
hiệu quả kinh tế. Đối với kinh tế tập thể, chúng ta đã áp dụng rộng rãi chính
sách khoán và ra đời luật hợp tác xã năm 1996.
Giai đoạn từ năm 2001 đến nay, Đây là giai đoạn chúng ta đã xác định
được mô hình kinh tế tổng quát là: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Qua các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII mô hình kinh tế lại được làm rõ,
củng cố thêm cùng với đó là sự biến đổi của QHSX XHCN cho phù hợp với
thực tiễn đất nước và làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sự biến đổi
được thể hiện: quan hệ sở hữu được tập trung hơn vào các ngành, lĩnh vực
then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế để đóng vai trò là cộng cụ ổn định điều
tiết vĩ mô, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đẩy mạnh cổ phần hóa, tách
chức năng sở hữu với chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quan
hệ tổ chức được biến đổi theo hướng xóa bỏ bao cấp hình thành cơ chế thị
150
trường, các thành phần kinh tế ngày càng được bình đẳng vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh theo thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng được tổ chức sắp xếp
lại sao cho giảm về số lượng, tăng về chất lượng, hình thành các Tổng công ty
và Tập đoàn kinh tế nhà nước đóng vai trò là nòng cốt trong doanh nghiệp
nhà nước. Quan hệ phân phối chuyển sang kinh tế thị trường trả lương theo
năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội. Trong kinh tế tập thể, chúng ta đã chuyển đổi mô hình từ hợp tác
xã kiểu cũ sang hợp tác xã kiểu mới.
Tuy nhiên, QHSX XHCN ở nước ta hiện nay, còn có những biến đổi tiêu
cực tạo thành lực cản đối với sự phát triển của LLSX, chưa thực sự nêu gương
về năng suất, chất lượng cho các loại quan hệ sản xuất khác. Điều này, được
thể hiện; nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài
làm thất thoát vốn của nhà nước và nhân dân hàng nghìn tỷ đồng gây bức xúc
trong dư luận. Trong quản lý, doanh nghiệp nhà nước còn ảnh hưởng cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp cơ chế xin- cho, chưa thực sự chuyển hoàn toàn
theo cơ chế thị trường. Trong phân phối còn chưa tuân thủ nguyên tắc phân
phối theo lao động, người lao động là chủ thể nhưng không có quyền thực sự
trong doanh nghiệp, lương thấp, trong khi đó cán bộ quản lý trả lương theo chế
độ công chức nhà nước không gắn trực tiếp với hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, do vậy họ thường lợi dụng chức vụ để tham ô, tham nhũng làm
giàu phi pháp. Kinh tế tập thể ngày càng thu hẹp, không thể hiện được mục
tiêu, bản chất của mình, quá trình chuyển đổi mô hình hợp tác xã còn chậm.
Do đó, đổi mới quan hệ sản xuất XHCN phải được thực hiện đồng bộ
trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Để thực hiện điều này, chúng tôi đã đề ra
các giải pháp như: 1) Giải pháp về sở hữu. 2) Giải pháp về tổ chức quản lý.
3) giải pháp về phân phối và giải pháp về 4) Hoàn thiện hệ thống pháp luật
tạo môi trường pháp lý phù hợp để phát huy tính năng động của các chủ thể
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những giải pháp mà chúng tôi đề ra trên đây, là những ý kiến để những
người làm chính sách tham khảo.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Sơn (2016), “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của Doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
(251), tr.45-47.
2. Nguyễn Văn Sơn (2016), “Hợp tác xã kiểu mới trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Giáo dục lý luận,
(242), tr.107-111.
3. Nguyễn Văn Sơn (2016), “Bàn thêm về vai trò của kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp
chí Kinh tế và Quản lý, (19), tr.83-86.
4. Nguyễn Văn Sơn (2013), “Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, (15), tr.97-99.
5. Nguyễn Văn Sơn (2013), “Vai trò của kinh tế nhà nước theo tinh thần
Đại hội Đảng lần thứ XI”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, (14),
tr.72-74.
6. Nguyễn Văn Sơn (2012), “Tư duy của Đảng ta về các thành phần kinh tế
trong các văn kiện đại hội Đảng”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ,
(9), tr.69-72.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thế Anh (2016), “Nợ của các doanh nghiệp nhà nước: mối đe dọa
nợ công của Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (453), tr.29-35.
2. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu
lại nền kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Kinh tế Trung ương (2015), Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Lương Bằng (2016), "Nâng khống giá tàu lên 1300 lần nguyên tổng giám
đốc bị khởi tố", tại trang [truy cập ngày
15/7/2016].
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Vụ Hợp tác xã (2012), Tư tưởng hợp tác xã kinh
nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2016), Báo cáo số 428/BC-CP về hoạt động đầu tư, quản lý,
sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong phạm vi
toàn quốc, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2010), Quy định pháp luật về tổng công ty, tập đoàn kinh tế
nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Lý Bân (1999), Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Vũ Đình Bách (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Trịnh Đức Chính (2016), "Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà
nước tại doanh nghiệp", Tạp chí Tài chính, (10), tr.24-27
11. Phạm Minh Chính (2011), "Về vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế - suy ngẫm và
hành động", Tạp chí Cộng sản, (830), tr.27-37.
12. Kim Văn Chính (Chủ nhiệm) (2008), Vấn đề chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ 2007-2008, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
153
13. Nguyễn Cúc (2012), "Tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước phù hợp với sự
vận động các quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, (842), tr.43-47.
14. Nguyến Đình Cung (2015), Doanh nghiệp nhà nước và méo mó thị
trường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Đình Cung (2016), "Công tác quản trị doanh nghiệp nhà nước tại
Việt Nam", Tạp chí Kinh tế, (11), tr.18-23.
16. Lương Minh Cừ, Vũ Văn Thực (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề nhận thức về lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Lương Minh Cừ (1995), Những quan niệm của Mác-Ăngghen và Lêin về
sở hữu trong chủ nghĩa xã hội, Luận phó tiến sĩ Triết hoc, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
18. Trần Tiến Cường (2011), "Nâng cao sức cạnh tranh của tập đoàn kinh tế
nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (827) tr.67-70.
19. Trần Tiến Cường (2012), “Ngành, lĩnh vực cần duy trì sở hữu nhà nước
trong tầm nhìn chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020”,
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (413), tr.14-26.
20. Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Quốc Phẩm (Đồng chủ biên) (2015), Những
vấn đề cấp bách trong vận dụng, phát triển lý luận về hình thái kinh
tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Phạm Việt Dũng (2011), "Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước bảo
đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước", Tạp chí Cộng sản, (824),
tr.57-61.
22. Phạm Việt Dũng (2014), "Về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí
Cộng sản, (875), tr.70-75.
23. Phạm Việt Dũng (2016), "Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
tạo động lực cho phát triển kinh tế," Tạp chí Cộng sản, (109), tr.71-75.
154
24. Phạm Bảo Dương (2012), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pát triển
các hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp", Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, (6) tr.39-46.
25. Tô Thị Ánh Dương (2015), Tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước và tái cơ cấu ngân hàng thương mại, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1957), Cương lĩnh của chúng ta, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 48, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Lao động Việt Nam (1960), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ III,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Nguyễn Hữu Đạt (2015), Tập đoàn kinh tế trong việc thúc đẩy tái cơ cấu
nền kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
155
37. Lưu Đoàn (2016), "Tiếp tục hỗ trợ hợp tác xã chuyển đổi theo luật", tại
trang thoibaokinhdoanh.vn, [truy cập ngày 20/12/2016].
38. Nguyễn Đức Độ (2016), "Một số thách thức trong quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam", Tạp chí Tài chính (10),
tr.10-12.
39. Nguyễn Thị Hà Đông (2011), Quản lý nhà nước đối với tập đoàn kinh tế
nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, Viện Khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
40. Phú Giang (2011), "Đổi mới quản lý, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
nhằm nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động", Tạp chí
Cộng sản, (50), tr.17-20.
41. Nguyễn Văn Giàu (2015), "Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả luật hợp
tác xã năm 2012, góp phần phát triển bền vững mô hình hợp tác xã
kiểu mới", Tạp chí Cộng sản, (871), tr.26-32.
42. Võ Thanh Hà (2016), "Tháo gỡ điểm nghẽn, đẩy mạnh tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước", Tạp chí Tài chính, (633), tr.27-28.
43. Nguyễn Thị Hà (2016), "Bàn về căn cứ giám sát tài chính đối với doanh
nghiệp nhà nước", Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, (632), tr.46-48.
44. Phạm Thu Hà (2014), "Thực trạng và tư duy phát triển hợp tác xã trong
thời gian tới", Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội, (99),
tr.11-15.
45. Lương Việt Hải (Chủ biên) (2008), Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững
ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Nguyễn Lê Quý Hiển (2011), "Sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, (403), tr.34-44.
47. Nguyễn Lê Quý Hiển (2012), Sự chuyển biến quan hệ sở hữu trong cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
156
48. Phan Văn Hiếu (2016), "Hợp tác xã kiểu mới: Giải pháp đột phá phát triển
nông nghiệp Việt Nam hiện nay", Tạp chí Tài chính, (634), tr.103-104.
49. Hội đồng khoa học các Cơ quan Đảng trung ương (2013), Doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Thu Hoài (2016), "Sếp công ty con Vinalies nhận lương cực khủng do thua
lỗ", tại trang http//www. datviet, [truy cập 16/9/2016].
51. Lê Mạnh Hùng (2012), Phát triển Hợp tác xã thương mại dịch vụ trong
hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học viện
chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
52. Phùng Thế Hùng (2015), Đổi mới quản lý của chủ sở hữu nhà nước đối
với tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
53. Bùi Văn Huyền (2010), "Hợp tác xã ở Đồng Nai: hiện trạng, vấn đề và giải
pháp", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (390), tr.60-70.
54. Sỹ Hưng (2016), "Bắt tạm giam nguyên Phó tổng giám đốc ngân hàng
Đông Á", tại trang [truy cập ngày 23/4/2017].
55. Thu Hường (2016), "Luồng gió mới cho kinh tế hợp tác", Tạp chí Thời
báo kinh doanh, (245), tr.27-30.
56. Nguyễn Minh Khải (2012), "Tái cơ cấu các quan hệ sở hữu để định hướng
xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường", Tạp chí Cộng sản, (835),
tr.62-65.
57. Nguyễn Ngọc Khánh (2016), "Hoàn thiện phương pháp phân phối lợi
nhuận sau thuế trong các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam", Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, (11), tr.19-25.
58. Nguyễn Linh Khiếu (2013), "Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng-ghen về thời
kỳ quá độ và một số vấn đề đặt ra với nước ta hiện nay", Tạp chí
Cộng sản, (847), tr.29-32.
59. Gia Kiên (2016), "Hội nghị toàn quốc công tác triển khai sắp sếp doanh nghiệp
nhà nước giai đoạn 2016-2020", tại trang http//www.chinhphu.vn, [truy
cập ngày 7/12/2016].
157
60. Trần Xuân Kiên (2010), Triển vọng kinh tế Việt Nam trong thế kỷ thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Chử Văn Lâm (2006), Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
62. Đàm Kiến Lập (2010), "Sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (391),
tr.3-11.
63. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
65. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
66. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2016), Phát triển kinh tế tập thể trong 30
năm đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam (2016), Phát triển kinh tế tập thể trong
điều kiện Việt Nam đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
71. Bùi Đức Long (2016), "Thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Thực tiễn
tại tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước", Tạp chí Tài
chính, (642), tr.17-18.
72. Trương Giang Long (2005), Bản chất của sở hữu trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
73. Hoàng Vĩnh Long (2011), "Vinaship - bài học cho chiến lược phát triển",
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (392), tr.41-45.
74. Ngô Thắng Lợi, Trần Thị Văn Hoa (Đồng chủ biên) (2016), Động lực tăng
trưởng kinh tế Việt Nam triển vọng đến năm 2020, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
158
75. Nguyễn Đức Luận (2011), "Tiến trình đổi mới quan hệ sở hữu ở nước ta từ
năm 1986 đến nay", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (12), tr.24-31.
76. Nguyễn Đức Luận (2011), “Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin về sở hữu trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị
(12), tr.19-24.
77. Nguyễn Đức Luận (2013), “Vấn đề phân phối sản phảm trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận và
truyền thông, (3), tr.32-35.
78. Nguyễn Đức Luận (2016), “Về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, (6), tr.10-16.
79. Võ Đại Lược (2011), Kinh tế Việt Nam lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
80. Lê Quốc Lý (chủ biên) (2014), Thành công và những bài học đắt giá của
doanh nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
82. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
84. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
85. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
86. C.Mác, Ph.Ăngghen(1995), Toàn tập, tập 27, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
87. Ngô Quang Minh, (2004), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
88. Nguyễn Cảnh Nam (2015), "Quản lý doanh nghiệp nhà nước - Bất cập và
đề xuất đổi mới", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (11), tr.76-80.
89. Nguyễn Thành Nam (2016), "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao:
kinh nghiệm từ Viettel", Tạp chí Tài chính, (633), tr.117-118.
90. Nguyễn Công Nghiệp (Chủ biên) (2006), Phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Nguyễn Thiện Nhân (2015), "Phát triển các hợp tác xã nông nghiệp kiểu
mới - khâu đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp và nâng cao thu nhập
bền vững cho nông dân", Tạp chí Cộng sản, (873), tr.16-22.
92. Lê Hữu Nghĩa (2014), "Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam", Tạp chí Cộng sản,
(861), tr.63-69.
93. Vũ Văn Ninh ((2013), "Xây dựng doanh nghiệp nhà nước xứng đáng là
nòng cốt của nền kinh tế quốc dân theo tinh thần nghị quyết hội nghị
trung ương 6 khóa XI", Tạp chí Cộng sản, (849), tr.14-16.
94. Nguyễn Quốc Phẩm (2012), Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Đặng Phong (2008), Tư duy kinh tế Việt Nam chặng đường gian nan và
ngoạn mục, Nxb Trí thức, Hà Nội.
96. Trần Văn Phòng (2015), "Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phát
triển lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam số, (7), tr.49-56.
97. Trần Văn Phòng (Chủ nhiệm đề tài) (2015), Nghiên cứu, tổng kết làm sáng
tỏ một số vấn đề về lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
160
98. Phùng Hữu Phú (2009), (Trưởng ban), "Mô hình kinh tế tổng quát trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Viêt Nam: Cơ sở lý luận và
thực tiễn", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Hà Nội.
99. Phùng Hữu Phú và các cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Vũ Văn Phúc (2012), “Đổi mới nhận thức về doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”, Tạp chí cộng sản, (838), tr.32-38.
101. Đỗ Thanh Phương (2016), “Sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất nền tảng
để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
quan điểm Đại hội lần thứ XII của Đảng”, Tạp chí Khoa học Chính
trị (9), tr.56-62.
102. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1987), Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Pháp Lý, Hà Nội.
103. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
104. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Luật Đất
đai (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Luật Lao
động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
107. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1996), Luật Hợp
tác xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
109. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Doanh
nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
111. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Đất
đai đã được sửa đổi bổ sung năm 1998 (2001), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
112. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Doanh
nghiệp nhà nước (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Đất
đai năm 2003, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
115. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật Hợp
tác xã năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
116. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Doanh
nghiệp năm 2005, đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb Lao
động, Hà Nội.
117. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Đầu tư
năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Hợp
tác xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Lương Xuân Quỳ (2002), Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội
chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
120. Lương Xuân Quỳ (2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam trong bối cảnh mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Phạm Phị Quý (2000), Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Võ Thị Kim Sa (2012), “Sự khác biệt giữa hợp tác xã và công ty: nhìn từ
bản sắc hợp tác xã” Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (405), tr.69-73.
123. Mai Lâm Sơn (2016), "Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước", Tạp chí Con số và sự kiện, (7), tr.15-16.
124. Mai Lâm Sơn (2016), “Bàn về mô hình quản trị doanh nghiệp nhà nước”,
Tạp chí Thông tin và dự báo Kinh tế - xã hội, (127), tr.6-10.
125. Vũ Hồng Sơn (2017), “Quan niệm của C.Mác về sở hữu và một vài suy
nghĩ về sở hữu ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học (2), tr.12-18.
126. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (2012), Đổi mới nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Dương Quang Thành (2015), “Tập đoàn Điện lực Việt Nam tiếp tục
khẳng định vị trí,vai trò trong phát triển kinh tế quốc dân”, Tạp chí
Cộng sản, (103), tr.103-108.
128. Trần Thành (2014), “Cơ sở khoa học của sự phát triển kinh tế nhà nước
và kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (6), tr.3-8.
129. Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Hữu Đạt (2004), Một số vấn đề về sở hữu ở
nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Xuân Thắng (2012), “Một số luận điểm mới về phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí
Lý luận chính trị (8), tr.10-14.
131. Nguyễn Văn Thế (2016), "Hiến pháp sửa đổi", tại trang
[truy cập ngày 28/11/2016].
132. Trần Đình Thiên (2012), “Tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước:
xác định vấn đề và tìm kiếm giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế
số, (405), tr.3-7.
163
133. Phạm Quý Thọ (2015), Kinh tế Việt Nam 30 năm chuyển đổi, Nxb Thông
tin và Truyền thông, Hà Nội.
134. Nguyễn Quang Thuấn (2014) Cải cách doanh nghiệp ở Việt Nam sau 30
năm đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
135. Lương Thu Thủy (2016), “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn
2011-2015 và một số kiến nghị”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (242),
tr.53-57.
136. Nguyễn Văn Thức (2001), Sự tồn tại đồng thời nhiều loại hình sở hữu
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia,
Hà Nội.
137. Nguyễn Văn Thức (2004), Sở hữu: lý luận và vận dụng ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. Đặng Quyết Tiến (2016), “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: chặng
đường 2011 - 2015 và định hướng 2016 - 2020”, Tạp chí Tài chính,
(10), tr.6-9.
139. Tổng cục Thống kê (1987), Niên giám thống kê 1986, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
140. Tổng cục Thống kê (1991), Niên giám thống kê 1989, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
141. Tổng cục Thống kê (1996), Niên giám thống kê 1997, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
142. Tổng cục Thống kê (1999), Niên giám thống kê 1998, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
143. Tổng cục Thống kê (2004), Niên giám thống kê 2003, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
144. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
145. Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
164
146. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê 2012, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
147. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
148. Tổng cục Thống kê (2015), Niên giám thống kê 2014, Nxb Thống kê,
Hà Nội.
149. Song Trà (2011), "Cổ phần hóa thành công từ phương thức mua bán nợ",
Tạp chí Cộng sản, (50), tr.11-13.
150. Nguyễn Thị Lê Trâm (2016), "Đánh giá về phát triển nguồn nhân lực của
một số tập đoàn kinh tế ở Việt Nam", Tạp chí Tài chính (632), tr.95-96
151. Phạm Đức Trung (2015), "Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng: kết quả và những vấn đề đặt ra",
Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), tr.57-60.
152. Phạm Quang Trung (2013), Mô hình tập đoàn nhà nước ở Việt Nam đến
năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153. Nguyễn Minh Tú (chủ biên), (2011), Mô hình hợp tác xã kiểu mới góp
phần xây dựng hợp tác xã, đoàn kết, cùng chia sẻ thịnh vượng và
quản lý dân chủ, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
154. Nguyễn Văn Tuân (2016), "An sinh xã hội Việt Nam sau 30 năm đổi
mới", Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (104), tr.12-19.
155. Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2010), Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
156. Trần Minh Tuấn (2010), "Từ hệ số ICOR bàn về hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (384),
tr.36-44.
157. Đỗ Thế Tùng (2004), “Lý luận của V.J. Lênin về các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông”,
Tạp chí Lý luận chính trị (4), tr.11-19.
165
158. Lê Xuân Tùng (1989), Các thành phần kinh tế và cách mạng quan hệ
sản xuất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159. Lê Xuân Tùng (2008), Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160. Vũ Huy Từ (2006), Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2009), Báo cáo giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại
các tập đoàn tổng công ty nhà nước, Hà Nội.