Luận án Vạn kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ DUY MẠNH VẠN KIẾP TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIII LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC ƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Đức Nhuệ (HDC) 2. PGS. TS. Hà Mạnh Khoa (HDP) HÀ NỘI, 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ DUY MẠNH VẠN KIẾP TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIII Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam Mã số :

pdf208 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Vạn kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: 62.22.03.13 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Đức Nhuệ (HDC) 2. PGS. TS. Hà Mạnh Khoa (HDP) HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tƣ liệu sử dụng trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết quả nghiên cứu của luận án chƣa đƣợc công bố trong bất cứ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Lê Duy Mạnh LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Đức Nhuệ và PGS. TS. Hà Mạnh Khoa, hai ngƣời thầy đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ về mặt khoa học để tôi hoàn thành bản luận án này. Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Khắc Minh - Trƣởng ban Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận án. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban lãnh đạo, cùng toàn thể cán bộ, nhân viên Ban Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn gia đình, bạn bè và những ngƣời thân đã luôn sát cánh động viên, chia sẻ và chăm lo, giúp tôi yên tâm tập trung toàn bộ thời gian và công sức để hoàn thành chƣơng trình học tập và bảo vệ luận án đúng thời hạn. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN ÁN BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bd: Bản dịch BTLSVN: Bảo tàng Lịch sử Việt Nam BTHD: Bảo tàng Hải Dƣơng CNXH: Chủ nghĩa xã hội GS: Giáo sƣ H: Hà Nội ha: Héc ta HTKH: Hội thảo khoa học Km: Ki-lô-mét LA: Luận án m: Mét NCLS: Nghiên cứu Lịch sử NCHN: Nghiên cứu Hán Nôm Nxb: Nhà xuất bản Nxb KHXH: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Nxb QĐND: Nhà xuất bản Quân đội nhân dân QLDT: Quản lý di tích TGLA: Tác giả luận án Tr: Trang TS: Tiến sĩ TT: Thứ tự Tp: Thành phố. UBND: Ủy ban nhân dân MỤC LỤC MỞ ĐẦU 7 1. Tính cấp thiết của đề tài 7 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 8 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 8 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 9 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 10 7. Cơ cấu của luận án 10 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu về các cuộc kháng chiến chống ngoại 11 xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII có liên quan đến Vạn Kiếp 1.2. Những công trình nghiên cứu trực tiếp Vạn Kiếp 20 1.3. Những vấn đề còn tồn tại và hướng nghiên cứu tiếp theo của luận án 28 Chƣơng 2: VẠN KIẾP TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƢỢC THẾ KỶ X VÀ XI 2.1. Vị trí địa lý khu vực Vạn Kiếp trong lịch sử 31 2.2. Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 981 40 2.2.1. Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 981 40 2.2.2. Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược 43 2.2.2.1. Vạn Kiếp trong chiến lược phòng thủ đất nước 43 2.2.2.2. Dược Đậu Trang - đại bản doanh trong kháng chiến chống 48 quân Tống xâm lược 2.2.2.3. Những trận đánh quân Tống tại Vạn Kiếp - Lục Đầu Giang 56 2.3. Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 63 1075 - 1077 2.3.1. Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 1075 - 1077 63 2.3.2. Vạn Kiếp trong chiến lược phòng thủ đất nước 66 2.3.2.1. Căn cứ thủy quân Vạn Xuân 66 2.3.2.2. Chiến thắng quân Tống trên chiến trường Như Nguyệt 71 Tiểu kết chƣơng 2 75 Chƣơng 3: VẠN KIẾP TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG - NGUYÊN XÂM LƢỢC CUỐI THẾ KỶ XIII 3.1. Cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược cuối thế kỷ XIII 77 3.1.1. Cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược lần hai (1285) 77 3.1.2. Cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược lần 79 ba (1287 - 1288) 3.2. Trần Hưng Đạo xây dựng thái ấp, đại bản doanh Vạn Kiếp trong 81 cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên 3.2.1. Thái ấp Vạn Kiếp 81 3.2.1.1. Chế độ ban cấp thái ấp thời Trần 81 3.2.1.2. Thái ấp Vạn Kiếp 84 3.2.2. Đại bản doanh Vạn Kiếp 105 3.2.2.1. Xây dựng hệ thống thành lũy 105 3.2.2.2. Khu vực luyện quân 108 3.3. Vạn Kiếp nơi diễn ra những trận quyết chiến trong cuộc kháng chiến 113 chống quân Mông - Nguyên xâm lược 3.3.1. Trận Vạn Kiếp - Lục Đầu tháng 2 năm 1285 114 3.3.2. Trận Vạn Kiếp tháng 6 năm 1285 116 3.3.3. Các trận đánh tại Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân 123 Mông - Nguyên năm 1288 Tiểu kết chƣơng 3 127 Chƣơng 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÕ CỦA VẠN KIẾP TRONG LỊCH SỬ CHỐNG NGOẠI XÂM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIII VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 4.1. Đặc điểm 129 4.1.1. Là nơi có vị trí địa lý hiểm yếu về quân sự; có đồi núi, rừng rậm, 129 sông sâu, vừa có thế công, vừa có thế thủ 4.1.2. Là địa bàn chiến lược để tổ chức chặn đánh quân giặc tấn công 131 kinh đô Hoa Lư, Thăng Long 4.1.3. Có nguồn hậu cần tại chỗ dồi dào, đảm bảo khả năng tự cung tự cấp 134 4.2. Vai trò 135 4.2.1. Căn cứ chiến lược bảo vệ kinh đô Hoa Lư, Thăng Long 135 4.2.2. Chiến trường cản phá, kìm chân giặc; hỗ trợ cho hoạt động chiến 139 đấu của quân dân các địa phương 4.2.3. Chia cắt quân thủy, bộ của giặc tập trung hội quân 141 4.3. Bài học kinh nghiệm 142 4.3.1. Xây dựng căn cứ chiến lược, tuyến phòng thủ vững mạnh 142 4.3.2. Kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế và quân sự 144 4.3.3. Sử dụng khéo léo các binh chủng, việc phối hợp, hợp đồng giữa 145 quân bộ và quân thủy, giữa chủ lực và các lực lượng tại chỗ Tiểu kết chƣơng 4 146 KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÁC BÀI VIẾT CÓ LIÊN QUAN 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 169 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, dân tộc ta phải đƣơng đầu với những cuộc xâm lƣợc rất lớn của quân Tống, quân Mông - Nguyên. Các cuộc tiến quân xuống Đại Việt, quân xâm lƣợc thƣờng đi đƣờng thuỷ vào sông Bạch Đằng rồi ngƣợc vào sông Kinh Thầy, tập kết ở Vạn Kiếp, cùng với cánh quân bộ từ Lạng Sơn xuống tạo thành hai gọng kìm tấn công vào Thăng Long. Khi bị thua, chúng cũng thƣờng tập kết tại Vạn Kiếp rồi rút về nƣớc. Vạn Kiếp (nay thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng) có vị trí trọng yếu về quân sự. Từ Vạn Kiếp hệ thống giao thông thuỷ, bộ rất thuận tiện, có thể về Thăng Long, lên ngƣợc, về xuôi, ra biển đều dễ dàng. Hệ thống núi đồi ở Vạn Kiếp rất thuận lợi cho việc dụng binh, giấu quân và lập căn cứ quân sự an toàn. Giữa các dãy núi là những thung lũng rộng lớn có thể tập kết hàng chục vạn quân, hàng nghìn thuyền chiến, cũng là nơi phát triển hậu phƣơng vững chắc. Tổ tiên ta từ xƣa đã thấu hiểu vị trí quan trọng của Vạn Kiếp, đã chọn và xây dựng nơi đây thành chiến trƣờng lợi hại. Thời Thục Phán An Dƣơng Vƣơng, tƣớng Cao Lỗ đã xây dựng phòng tuyến quân sự tại sông Bình Giang (sông Lục Đầu) để chống giặc phƣơng Bắc. Những năm đầu Công Nguyên, khu vực Vạn Kiếp là bãi chiến trƣờng lớn - nơi diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt giữa nghĩa quân của Hai Bà Trƣng với Mã Viện. Trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 981, tại Vạn Kiếp đã diễn ra trận đánh lớn giữa quân đội Đại Cồ Việt và quân Tống xâm lƣợc. Năm 1077, danh tƣớng Lý Thƣờng Kiệt đã xây dựng căn cứ thuỷ quân ở Vạn Xuân (Lục Đầu). Thế kỷ XIII, Hƣng Đạo Đại vƣơng Trần Quốc Tuấn đã chọn Vạn Kiếp để đặt đại bản doanh; xây dựng tuyến phòng thủ quân sự vùng Đông Bắc để chống quân Mông - Nguyên xâm lƣợc . Đánh giá vị trí, vai trò của Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, trên cơ sở đó rút ra những bài học về phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng; kết hợp giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong việc xây dựng hệ thống phòng thủ quân sự chiến lƣợc, xây dựng lực lƣợng vũ trang, chuẩn bị hệ thống hậu cần là việc làm cần thiết mà ngày nay cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới của đất nƣớc, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc. 1 Nghiên cứu, tìm hiểu về Vạn Kiếp, đã đƣợc tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau (nhƣ sử học, khảo cổ học, văn hóa), nhƣng chƣa có một công trình nào nghiên cứu vai trò của Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm, đặc biệt là ở thế kỷ X đến XIII. Đây là một “khoảng trống” cần đƣợc bổ khuyết, trong quá trình nhận thức toàn diện về một căn cứ quân sự quan trọng nhất bảo vệ phía Đông kinh đô Thăng Long. Với những ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tác giả quyết định chọn đề tài “Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích: Luận án làm sáng tỏ quá trình tổ chức, xây dựng, vị trí và những diễn biến chiến sự tại Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII; rút ra đƣợc đặc điểm, vai trò của Vạn Kiếp và những bài học kinh nghiệm trong kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cơ sở đó bổ sung, chỉnh lý một số tƣ liệu liên quan tới Vạn Kiếp và cuộc kháng chiến chống quân Tống, quân Mông - Nguyên xâm lƣợc. 2.2. Nhiệm vụ: Nghiên cứu các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. Xác định hệ thống dấu tích, địa danh liên quan đến căn cứ Vạn Kiếp. Tập trung làm rõ những trận đánh diễn ra tại Vạn Kiếp, những đóng góp của nhân dân Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là khu vực Vạn Kiếp, trong đó nghiên cứu làm rõ quá trình tổ chức, xây dựng, đặc điểm và vai trò của Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. 3.2. Phạm vi - Về thời gian: Phạm vi nghiên cứu của luận án giới hạn trong khoảng thời gian từ cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lƣợc năm 981, đến kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lƣợc năm 1288. - Về không gian: Giới hạn đề tài luận án nghiên cứu là khu vực Vạn Kiếp bao gồm thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng, và vùng phụ cận thuộc huyện Nam Sách, Kinh Môn, Kim Thành (Hải Dƣơng), huyện Gia Bình, Quế Võ (Bắc Ninh), huyện Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Dũng (Bắc Giang). 2 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận - Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chiến tranh giải phóng dân tộc, cũng nhƣ dựa trên đƣờng lối quân sự của Đảng để đi sâu nghiên cứu các nội dung liên quan tới đề tài. 4.2. Phương pháp chuyên ngành - Luận án sử dụng phƣơng pháp lịch sử và logic là chủ yếu. Ngoài ra, ở một chừng mực nhất định, tác giả còn sử dụng một số phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp khảo cổ học truyền thống để khảo sát hệ thống di tích một cách chi tiết, căn cứ những di vật, hiện trạng kiến trúc ở khu di tích, căn cứ các sự kiện lịch sử liên quan đến từng khu di tích để xem xét, phân tích, so sánh đánh giá các vấn đề của luận án; phƣơng pháp so sánh để thấy đƣợc những đặc trƣng cơ bản của vùng đất Vạn Kiếp, đồng thời để phát hiện những cứ liệu chính xác hơn; phƣơng pháp nghiên cứu điền dã để thu thập tƣ liệu; phƣơng pháp văn bản học để có thể khai thác tối đa thông tin có độ chân xác cao từ các nguồn tài liệu chính sử, thông sử, sách chuyên khảo, luận án, luận văn và bài viết trên các tạp chí. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án trình bày tƣơng đối đầy đủ, có hệ thống về Vạn Kiếp và đóng góp của vùng đất này trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. - Làm rõ đặc điểm và vai trò của Vạn Kiếp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII. - Góp phần bổ sung một số tƣ liệu lịch sử liên quan tới Vạn Kiếp và cuộc kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên của dân tộc. - Góp phần làm sáng tỏ hơn những tri thức quân sự của cha ông trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm phƣơng Bắc, đã đƣợc vận dụng ở Vạn Kiếp, để kế thừa phát huy trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. - Góp phần giáo dục tinh thần yêu nƣớc, truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của quân và dân Hải Dƣơng. - Luận án sẽ góp phần vào việc tổng kết, nghiên cứu, biên soạn về lịch sử cổ trung đại Việt Nam tỉnh Hải Dƣơng. 3 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận: Trên phƣơng diện khoa học, đối với ngƣời Việt Nam, đặc biệt là với giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam cổ trung đại, địa danh Vạn Kiếp không xa lạ gì, vị trí của Vạn Kiếp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ X - XIII cũng không phải là vấn đề gì mới mẻ. Tuy nhiên, biết là vậy, nhƣng một sự hiểu biết sâu sắc, hệ thống, toàn diện, cập nhật những kết quả nghiên cứu mới của giới nghiên cứu khảo cổ học, sử học, văn hóa học nhằm làm nổi bật lên đƣợc vị trí, vai trò quan trọng chiến lƣợc của Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm thì còn hạn chế. Để góp phần tích cực vào quá trình nhận thức, lấp dần những khoảng trống lịch sử đó, luận án này là một cái nhìn tổng thể, trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu cho đến hiện nay, kết hợp với những tìm tòi, khám phá của riêng nghiên cứu sinh, sẽ có những đóng góp có ý nghĩa trong nhận thức khoa học về vấn đề này 6.2. Về mặt thực tiễn: Hệ thống kiến thức toàn diện, cập nhật về vùng đất Vạn Kiếp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở thế kỷ X - XIII, làm dày dặn hơn cho “tài nguyên” di sản, cũng là “tài nguyên” du lịch, phục vụ tốt việc bảo tồn và phát huy các di sản liên quan. Đề tài hoàn thành cũng bổ sung những tƣ liệu quý cho việc nghiên cứu và giảng dạy phần lịch sử Việt Nam cổ trung đại, bổ sung những nhận thức mới khoa học về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỷ X - XIII. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận án gồm 4 chƣơng: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chƣơng 2: Vạn Kiếp trong kháng chiến chống quân Tống xâm lƣợc thế kỷ X và XI Chƣơng 3: Vạn Kiếp trong kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lƣợc cuối thế kỷ XIII Chƣơng 4: Đặc điểm, vai trò của Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm thế kỷ X đến thế kỷ XIII và một số bài học kinh nghiệm 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Địa danh Vạn Kiếp rất nổi tiếng trong lịch sử quân sự Việt Nam, bởi vì Vạn Kiếp nói riêng và cả vùng Đông Bắc nói chung là địa bàn chiến lƣợc trọng yếu, luôn diễn ra những cuộc quyết chiến giữa quân dân ta với các thế lực ngoại xâm lớn mạnh từ phƣơng Bắc. Vì vậy, vùng đất này đã đƣợc nghiên cứu và ghi chép trong nhiều công trình khoa học. 1.1. Những công trình nghiên cứu về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII có liên quan đến Vạn Kiếp * Nghiên cứu các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII Năm 1963, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn sách “Tìm hiểu chiến lược chiến thuật thời Trần - Lê” do Phạm Ngọc Phụng biên soạn. Cuốn sách đã nêu lên đặc điểm riêng của cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thế kỷ XIII, đồng thời khát quát lại thành những bài học chung, những nét chung về chiến lƣợc, chiến thuật mà quân đội ta thời đó đã vận dụng. Năm 1976, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn sách “Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc” do các tác giả Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí biên soạn. Cuốn sách nghiên cứu, phân tích 6 trận đánh tiêu biểu trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, trong đó có trận Nhƣ Nguyệt (1076) và trận Bạch Đằng (1288). Năm 1983, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn sách “Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm” do Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng biên soạn. Công trình nghiên cứu lịch sử phát triển, cách thức tổ chức, hoạt động và vai trò của quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong công trình, các tác giả cho rằng thời Trần, nổi bật nhất là hệ thống căn cứ thủy quân ở Lục Đầu với nhiều quân cảng nhƣ Vạn Kiếp, Trần Xá, với những cửa quan nhƣ Đại Than... cũng nhƣ căn cứ Vạn Xuân thời Lý, đây là điểm nút của hai đƣờng thủy bộ chính từ Trung Quốc vào nƣớc ta thời bấy giờ. Mặc dù chỉ mang tính khát quát, nhƣng công trình đã cung cấp những tƣ liệu quan trọng cho luận án, khi nghiên cứu về các hoạt động thủy quân, các trận thủy chiến ở căn cứ Vạn Kiếp. 5 Năm 1984, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn sách “Những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam chống phong kiến phương Bắc” của Hồng Nam, Hồng Lĩnh. Công trình nghiên cứu các cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc phƣơng Bắc từ trƣớc Công Nguyên đến thế kỷ XIII. Trong sách, các tác giả đã dựng lại những trận chiến huy hoàng trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ X, XI, ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thế kỷ XIII. Từ đó, làm nổi bật lên vị trí, vai trò của Vạn Kiếp trong chiến lƣợc bảo vệ đất nƣớc thế kỷ XIII. Năm 2003, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam biên soạn bộ sách “Lịch sử quân sự Việt Nam” gồm 14 tập. Đây là bộ sách rất công phu và có giá trị, đƣợc xem nhƣ bộ sử lớn đƣơng đại, dựng lại toàn bộ hoạt động quân sự của dân tộc trong các cuộc chiến tranh chống xâm lƣợc, bảo vệ Tổ quốc. Tập 3 có tiêu đề: “Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý (939 - 1225)” và tập 4: “Hoạt động quân sự thời Trần (thế kỷ XIII - XIV)” đã đánh giá những ƣu, nhƣợc điểm chính, phân tích làm rõ nguồn gốc chiến tranh, nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm, những thành công, cũng nhƣ chƣa thành công trong hai cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ X, XI và cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên cuối thế kỷ XIII. Năm 2003, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản cuốn sách “20 trận đánh trong lịch sử dân tộc” do Lê Đình Sỹ chủ biên. Trong 20 trận đánh đƣợc trình bày trong sách, đáng chú ý là các trận Nhƣ Nguyệt (1077), Vạn Kiếp (1285). Dựa vào những ghi chép trong thƣ tịch, kết hợp với tƣ liệu thực địa, các tác giả vừa dựng lại diễn biến các trận đánh, vừa đi sâu phân tích về mặt nghệ thuật quân sự của các trận đánh đó. Tuy nhiên, do tƣ liệu về thời kỳ lịch sử này quá ít ỏi và tản mát, những trận đánh giới thiệu trong sách còn mang tính chất sơ lƣợc. Mặc dù vậy, đây vẫn là nguồn tƣ liệu đáng tin cậy, cung cấp cho chúng tôi nhiều thông tin quan trọng khi tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Năm 2012, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản bộ sách “Lịch sử Việt Nam” gồm 4 tập. Công trình trình bày tƣơng đối đầy đủ và hệ thống quá trình hình thành, và phát triển của lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc cho đến nay. Tập 1 có tiêu đề: “Từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIV” do Phan Huy Lê chủ biên, trên cơ sở những tƣ liệu mới phát hiện, đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng về các cuộc kháng chiến chống quân Tống, quân Mông - Nguyên xâm lƣợc. Theo các tác giả, hoàn toàn có đủ 6 cơ sở để khảng định rằng đoàn quân bộ của nhà Tống vào nƣớc ta, xuất phát từ Quảng Đông (Trung Quốc) men theo đƣờng bờ biển tiến vào địa đầu Quảng Ninh, qua vùng Đông Triều, Phả Lại rồi tiến xuống trung tâm châu thổ sông Hồng. Trên đƣờng tiến quân, Hầu Nhân Bảo dừng quân ở núi Lãng Sơn. Vị trí cụ thể của núi Lãng Sơn có lẽ còn phải đƣợc khảo cứu kỹ thêm, tuy nhiên theo các tác giả đó có thể là vùng Lục Đầu Giang: “Nhiều nguồn tư liệu di tích và truyền thuyết cho phép dự đoán khu vực Lãng Châu (Kiếp Bạc - Lục Đầu Giang) cũng có thể là Lãng Sơn và Lãng Sơn (hay Lạng Sơn trong một số bộ sử cũ của ta) - nơi Hầu Nhân Bảo đóng quân là vùng Lục Đầu Giang” [66, tr. 501]. Năm 2013, Nhà xuất bản Khoa học xã hội cho công bố cuốn sách “Lịch sử Việt Nam” gồm 15 tập, tái hiện lại tiến trình lịch sử dân tộc suốt từ khởi thủy đến năm 2000. Trong đó, đáng chú ý là cuốn tập 2 “Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV” do Trần Thị Vinh chủ biên. Với tập sách này, lịch sử đất nƣớc đƣợc nghiên cứu, biên soạn trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội trong năm thế kỷ (X - XIV) các thời họ Khúc, họ Dƣơng đến các vƣơng triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần. Nhiều tƣ liệu mới về cuộc kháng chiến chống quân Tống năm 981 đƣợc trình bày trong sách, nhƣ con đƣờng hành binh của bộ binh Tống, đại bản doanh của vua Lê Đại Hành ở Dƣợc Đậu Trang, các trận đánh diễn ra ở khu vực Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lƣợc. Năm 2014, Viện Sử học xuất bản cuốn sách “Lịch sử Việt Nam thường thức” gồm 2 tập. Tập 1 có tiêu đề: “Từ khởi thủy đến năm 1858”, nội dung tập sách phản ánh đầy đủ, khách quan về những vấn đề cơ bản nhất của lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến năm 1858. Thể hiện toàn diện về quá trình đấu tranh chống xâm lƣợc và xây dựng đất nƣớc của dân tộc Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa - xã hội với độ chính xác cao. Những vấn đề đƣợc biên soạn đảm bảo cập nhật các thành tựu và kết quả nghiên cứu của giới sử học trong nƣớc và nƣớc ngoài trong những năm gần đây; đồng thời đƣợc bổ sung bởi những tƣ liệu mới phát hiện và công bố, giúp cho ngƣời đọc không chỉ nắm bắt đƣợc những vấn đề cơ bản nhất của lịch sử dân tộc, mà qua đó có đƣợc nhận thức và những đánh giá mới đảm bảo tính khách quan khoa học, tính chân xác của sự thật lịch sử. 7 * Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 Năm 1985, Trần Bá Chí trong bài viết “Lãng Sơn một vị trí quan trọng trong kháng chiến chống Tống” trên Tạp chí Khoa học, trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội đã nghiên cứu một địa danh quan trọng trên đƣờng hành quân xâm lƣợc nƣớc ta của quân Tống, đó là địa điểm Lãng Sơn. Với lập luận sắc bén và cứ liệu thuyết phục, tác giả đã bác bỏ quan điểm trong một số bộ sử cho rằng địa điểm Lãng Sơn là Lạng Sơn hiện nay. Dựa theo những ghi chép trong sách “Đại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục”, “Thiền uyển tập anh”, “Việt sử lược”, đối chiếu với tình hình chiến sự, tác giả chỉ ra rằng Lãng Sơn là cù lao Hai Núi (thuộc tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Đây là địa điểm nằm trên tuyến đƣờng lộng của thuyền bè từ phía Bắc qua trấn Vân Đồn, để vào sâu nội địa nƣớc ta. Năm 1989, trong bài viết “Trận Đồ Lỗ thắng Tống”, trên Tạp chí Lịch sử quân sự, Trần Bá Chí phân tích những ghi chép trong sách “Lĩnh Nam chích quái”, “Thiên Nam ngữ lục”, “An Nam chí lược” kết hợp với các thần tích địa phƣơng, đã chứng minh sông Đồ Lỗ là sông Lục Đầu, cửa sông Đồ Lỗ là cửa sông Kinh Thầy nối vào sông Lục Đầu. Tác giả cũng xác định thời gian diễn ra trận Đồ Lỗ là ngày 30 tháng Chạp năm Canh Thìn (981). Đây là những phát hiện quan trọng của tác giả về cuộc kháng chiến chống Tống năm 981. Năm 1992, Trần Bá Chí bảo vệ luận án tiến sĩ Sử học “Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (năm 980 - 981)”, tại Khoa Lịch sử trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau này, luận án đƣợc tác giả chỉnh sửa và in thành sách “Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân xuất bản năm 2003. Khắc phục những hạn chế về sử liệu, bởi chính sự kiện lịch sử diễn ra trong thời kỳ nƣớc ta bị khuyết sử, tác giả đã phục dựng đƣợc cơ bản toàn cảnh cuộc kháng chiến của triều đình Tiền Lê cùng quân dân Đại Cồ Việt chống quân Tống xâm lƣợc. Qua tác phẩm này, ngƣời đọc có đƣợc những tƣ liệu quý, những kết luận xác đáng để nhận biết đầy đủ thêm về những chiến công rất đáng tự hào, về nghệ thuật quân sự tài giỏi của tổ tiên ta hơn một nghìn năm trƣớc. Năm 1996, Tạp chí Lịch sử quân sự đăng bài “Tìm lại tuyến đƣờng hành quân trƣớc thế kỷ X” của Bá Sĩ Tâm. Trong bài viết, tác giả đã nghiên cứu địa điểm Lãng Sơn, một vị trí chiến lƣợc trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 981. Tác giả 8 khảo cứu các sách “Việt sử lược”, “An Nam chí lược”, “Thiền uyển tập anh”, cùng các phƣơng pháp liên ngành kết luận: Lãng Sơn là cù lao Hai Núi thuộc tỉnh Quảng Ninh hiện nay, tọa độ địa lý trung bình của Lãng Sơn là 21011’ vĩ Bắc, 107036’ kinh Đông. Thủy quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy đã hành quân theo đƣờng ven biển Lãng Sơn, Bạch Đằng để vào nƣớc ta, chứ không liên quan gì đến vùng ải Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn nhƣ sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đã chép, cũng không hề qua Ngân Sơn nhƣ đã bị dịch nhầm trong sách “Việt Sử lược”. Năm 2001, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp. với Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng tổ chức hội thảo khoa học “An Lạc (Chí Linh) - Đại bản doanh của vua Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc năm 981”. Hội thảo kết luận, địa điểm Đồng Dinh (An Lạc, Chí Linh, Hải Dƣơng) chính là nơi đóng đại bản doanh của vua Lê Hoàn vào mùa xuân năm Tân Tỵ (981). Ngoài ra, các tham luận hội thảo còn cung cấp nhiều thông tin về diễn biến chiến sự tại khu vực Lục Đầu Giang, những vấn đề chƣa thống nhất nhƣ vị trí Lãng Sơn, Hoa Bộ, Đồ Lỗ...trong cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê. Năm 2001, Nguyễn Minh Đức trong bài viết “An Lạc trong cuộc chống Tống thời Tiền Lê” trên Tạp chí Lịch sử quân sự, đã nêu những đóng góp của nhân dân và vùng đất An Lạc (Chí Linh) trong sự nghiệp chống Tống do Lê Hoàn lãnh đạo. Tác giả đã bƣớc đầu xác định các dấu tích liên quan đến hệ thống đồn trại, nơi cất giấu vũ khí, các kho hậu cần trong đại bản doanh An Lạc. Năm 2005, nhân kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội và 1000 năm ngày mất của Lê Hoàn, Hội Sử học Hà Nội phối hợp với Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội tổ chức hội thảo khoa học “Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”, kỷ yếu hội thảo đƣợc Nhà xuất bản Hà Nội in thành sách. Trong hội thảo, có nhiều bài viết nghiên cứu về sự nghiệp chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc của Lê Hoàn, có thể điểm qua một vài công trình tiêu biểu: Nguyễn Quang Ngọc trong bài viết “Lê Hoàn và chiến thắng Bạch Đằng năm 981”, đã nhắc đến tuyến phòng thủ chống Tống kéo dài từ sông Bạch Đằng đến Lục Đầu Giang. Tác giả dựa trên các nguồn tƣ liệu thƣ tịch cổ Trung Quốc, Việt Nam, tƣ liệu điều tra khảo sát thực địa để hình dung diễn biến của cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 theo một lô gích mới, trong đó nhấn mạnh thắng lợi của trận phản công 9 đánh tan quân Tống ở Lục Đầu Giang, đã dẫn đến trận tổng công kích trên toàn tuyến sông Bạch Đằng, quyết định thắng lợi của toàn bộ cuộc kháng chiến. Nguyễn Minh Tƣờng trong tham luận “Đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981”, đã nghiên cứu các dấu tích, địa danh hiện còn tại vùng An Lạc và kết luận: Xã An Lạc (Chí Linh, Hải Dƣơng) là nơi đóng đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong cuộc quyết chiến chiến lƣợc trên sông Bạch Đằng. Tác giả đánh giá vùng đất An Lạc là vị trí chiến lƣợc về quân sự: “Nơi mà vua Lê Đại Hành chọn để đóng đại bản doanh nói trên, rõ ràng đáp ứng những điều kiện tối cần thiết của một nơi đóng quân mà các bộ binh thư cổ của phương Đông đã chỉ dẫn” [61, tr. 205]. Đây là một phát hiện có giá trị của Nguyễn Minh Tƣờng, đã đƣợc trình bày và tìm đƣợc sự nhất trí tại hội thảo khoa học tổ chức ở Hải Dƣơng đầu năm 2002. * Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075 - 1077 Năm 1949, Hoàng Xuân Hãn viết cuốn “Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo thời Lý”, đến nay bộ sách đã đƣợc tái bản nhiều lần, gần đây nhất đƣợc Nhà xuất bản Khoa học xã hội tái bản vào năm 2014. Hơn 60 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, cuốn sách vẫn là một công trình mẫu mực trong việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung và về Lý Thƣờng Kiệt cũng nhƣ giai đoạn kháng chiến chống quân xâm lƣợc Tống nói riêng. Cuốn sách mang đến cho ngƣời đọc nguồn sử liệu phong phú và quý giá; là tài liệu quan trọng để nghiên cứu căn cứ quân thủy Vạn Xuân (Phả Lại), do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy. Tuy nhiên, tác giả chỉ đánh giá sơ lƣợc về vai trò của căn cứ Vạn Xuân, những diễn biến chiến sự cũng nhƣ những đóng góp của nhân dân vùng Vạn Xuân - Phả Lại chƣa đƣợc tác giả đề cập đến. Đây là nội dung luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu. Năm 1965, Nguyễn Văn Dị và Văn Lang đã công bố bài viết “Nghiên cứu về chiến tuyến phòng ngự sông Cầu năm 1076 - 1077” trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Các tác giả đã so sánh, phân tích diễn biến cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075 - 1077, để phê phán các nhận định mang tính suy đoán về phòng tuyến sông Cầu trong một số cuốn sách đã xuất bản. Đồng thời, đƣa ra những nhận định về cách thức tổ chức phòng ngự, diễn biến chiến sự trên chiến tuyến sông Cầu một cách thận trọng. Năm 1977, Phan Huy Thiệp và Trịnh Vƣơng Hồng trong bài nghiên cứu “Bàn thêm một số vấn đề xung quanh trận Nhƣ Nguyệt mùa xuân 1077” trên Tạp chí 10 Nghiên cứu Lịch sử, đã đƣa ra những quan điểm mới về cuộc kháng chiến chống Tống nhƣ: thế chiến lƣợc của quân Tống sau lần tấn công thứ hai về bờ Nam sông Nhƣ Nguyệt, mối quan hệ của trận Kháo Túc và trận Nhƣ Nguyệt lần hai... Nhận định của các tác giả, giúp chúng tôi giải quyết một số vấn đề còn tranh luận trong cuộc kháng chiến chống Tống nhƣ lực lƣợng tham gia, diễn biến trận Kháo Túc, vấn đề chiến thuật... Đồng thời, cũng khiến chúng tôi thận trọng hơn, khi nghiên cứu vai trò của Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1075 - 1077. * Nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên cuối thế kỷ XIII Trong bộ lịch sử đầu tiên đƣợc viết bằng chữ quốc ngữ tại Việt Nam là “Việt Nam sử lược”, xuất bản lần thứ nhất vào năm 1921, Trần Trọng Kim đã nghiên cứu lịch sử dân tộc suốt từ thời thƣợng cổ đến khi thực dân Pháp xâm lƣợc và cai trị (tính đến năm 1902). Trong sách, có các chƣơng nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thời Trần. Tác giả đã cung cấp những tƣ liệu quan trọng, liên quan đến trận Vạn Kiếp (6-1285). Năm 1964, Đào Duy Anh công bố bài viết “Tìm các đèo Khâu Cấp và Nội Bàng trên đƣờng dùng binh của Trần Hƣng Đạo”, trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Đèo Khâu Cấp và Nội Bàng, là hai địa điểm dụng binh quan trọng của Trần Hƣng Đạo, trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thế kỷ XIII. Tác giả đã khảo sát thực địa các địa điểm diễn ra những trận chặn đánh quân Mông - Nguyên ở vùng Lạng Sơn, Bắc Giang. Kết... việc nghiên cứu về vị trí, vai trò của căn cứ Vạn Xuân chƣa đƣợc chú ý. Để lấp vào những khoảng trống đó, luận án sẽ tập trung đi sâu tìm hiểu những trận đánh, những sự kiện lịch sử diễn ra tại Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI. Từ đó, làm sáng tỏ vai trò và đóng góp của nhân dân Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI. Thứ ba, nếu nhƣ nghiên cứu về Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ X, XI còn ít ỏi và tản mạn, chủ yếu tập trung ở góc độ quân sự, thì nghiên cứu Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thế kỷ XIII đã thu hút đƣợc nhiều nhà nghiên cứu với các công trình nghiên cứu về kinh tế và quân sự. Điển hình là Nguyễn Thị Phƣơng Chi trong công trình “Thái ấp điền trang thời Trần (thế kỷ XIII - XIV)”, căn cứ vào tƣ liệu khảo cổ học, tƣ liệu điền dã đã dựng lên diện mạo thái ấp Vạn Kiếp với các hoạt động đa dạng về kinh tế nhƣ trồng trọt, đánh bắt cá, 23 đóng thuyền, sản xuất thuốc nam.... Một vấn đề nổi bật trong hoạt động kinh tế của thái ấp Vạn Kiếp là nghề làm gốm, về nội dung này Hà Văn Cẩn cũng góp thêm tiếng nói của mình trong luận án tiến sĩ chuyên ngành Khảo cổ học “Các trung tâm sản xuất gốm sứ cổ ở Hải Dương”. Qua kết quả khai quật khảo cổ học ở Xóm Hống, tác giả cho rằng đây là một trong những trung sản xuất gốm sứ niên đại thời Trần sớm nhất ở Hải Dƣơng, có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế của thái ấp Vạn Kiếp. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu về chiến trƣờng Vạn Kiếp, các trận đánh diễn ra trên phòng tuyến Vạn Kiếp - Bình Than... Tuy nhiên, khi nghiên cứu về thái ấp Vạn Kiếp, các tác giả mới chỉ đề cập đến các hoạt động làm gốm, đóng thuyền, sản xuất thuốc nam ở khu vực trung tâm của hƣơng Vạn Kiếp thời Trần (thuộc hai làng Vạn Yên và Dƣợc Sơn, xã Hƣng Đạo ngày nay), mà chƣa xác định đầy đủ quy mô của thái ấp Vạn Kiếp với những khu vực liên quan đến sản xuất, chăn nuôi nằm ở chân dãy núi Huyền Đinh thuộc xã Lê Lợi, Bắc An (Chí Linh, Hải Dƣơng), Cẩm Lý, Đan Hội (Lục Nam, Bắc Giang). Nghiên cứu Vạn Kiếp với tƣ cách là đại bản doanh của Quốc công tiết chế trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên cuối thế kỷ XIII cũng chƣa đƣợc đề cập trong các công trình nghiên cứu. Mặc dù ở Vạn Kiếp vẫn còn dấu tích của hệ thống căn cứ hậu cần, khu vực luyện quân, hệ thống thành lũy, kho tàng phục vụ kháng chiến... Đây là những nội dung luận án sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu với hy vọng sẽ giải đáp thấu đáo hơn vấn đề quan trọng này. Thứ tư, Vạn Kiếp là một vị trí quân sự chiến lƣợc quan trọng bậc nhất trong việc bảo vệ kinh đô Thăng Long, nơi diễn ra những trận quyết chiến giữa quân ta và quân giặc, nhƣng việc nghiên cứu đặc điểm, vai trò của Vạn Kiếp trong lịch sử chống ngoại xâm từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, so sánh Vạn Kiếp với các căn cứ quân sự khác nhƣ Hoa Lƣ, Trƣờng Yên (Ninh Bình), Thiên Trƣờng (Nam Định)... Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, là những nội dung mà các công trình đi trƣớc chƣa đặt vấn đề nghiên cứu. Luận án sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu những nội dung này, với hy vọng sẽ giải đáp thấu đáo hơn những vấn đề quan trọng nêu trên. 24 Chƣơng 2 VẠN KIẾP TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƢỢC THẾ KỶ X VÀ XI 2.1. Vị trí địa lý khu vực Vạn Kiếp trong lịch sử Vạn Kiếp (萬 刧)là tên gọi vùng đất nằm ở phía Tây Bắc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng hiện nay. Tiếng Việt “Vạn” là chỉ một cộng đồng tụ cƣ của các thuyền chài, dân chài; “Kiếp” là tên của bến sông đó. Điều này phù hợp với từ nguyên của chữ Kiếp Bạc. Bạc (泊) theo sách “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh là ghé vào, (nơi) thuyền ghé bến. Hiện nay, ở vùng này còn có làng Vạn Yên bên tả ngạn, đối diện bên hữu ngạn sông Thƣơng là làng Bến (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang)1. Tên gọi Vạn Kiếp xuất hiện đầu tiên trong bài thơ “An Nam tức sự” viết năm 1293 của Trần Phu (sứ thần nhà Nguyên). Trong tác phẩm này, Trần Phu cho biết, Vạn Kiếp thời thuộc Hán (111 T.CN - 541) mang tên Lãng Bạc. Dƣời thời đô hộ của nhà Đƣờng (622 - 905) Lãng Bạc đổi tên là Lãng Châu của đất quận Giao Chỉ. Theo nhƣ các sách “Thủy kinh chú” và “Hậu Hán thư” mô tả, Lãng Bạc là vùng gò đất cao nổi lên giữa vùng đồng trũng ngập lụt [64, tr. 368]. Thời Lý (1010 - 1225), Trần (1225 - 1400) gọi là hƣơng Vạn Kiếp thuộc huyện Phƣợng Sơn, châu Lạng Giang, lộ Bắc 1 Cũng có ngƣời cho rằng Vạn Kiếp là một khái niệm Phật giáo (kiếp trƣớc, kiếp sau). Trong sách “Phật thuyết A Di Đà thiển dịch” bài Khai kinh kệ có nhắc đến Vạn Kiếp: “Vô thƣợng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên Vạn Kiếp nan tao ngộ” [223, tr. 2] Cũng theo sách “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh thì Vạn Kiếp: dịch là “muôn đời” [2, tr.533], Kiếp là theo thời vận, bến đỗ thuyền theo thời vận [2, tr. 542] 25 Giang thƣợng. Đã có nhiều nghiên cứu về cấp hành chính “Hƣơng” trong lịch sử. Căn cứ vào ghi chép trong chính sử cùng tƣ liệu minh chuông và bi ký, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cấp chính quyền hƣơng sau cấp lộ (hay phủ) mà lộ hay phủ là cấp chính quyền địa phƣơng cao nhất. Cấp hƣơng thời Trần có thể gần tƣơng đƣơng với cấp huyện thời sau1. Kết hợp các nguồn tài liệu, thƣ tịch với các di tích, địa danh hiện còn, chúng tôi cho rằng hƣơng Vạn Kiếp thời Lý, Trần là vùng đất rộng lớn, tƣơng ứng với phần lớn đất đai thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng và các xã Cẩm Lý, Đan Hội, Vũ Xá, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang hiện nay. Trong đó trung tâm của Vạn Kiếp thời Trần là các xã, phƣờng: Phả Lại, Cổ Thành, Nhân Huệ, Hƣng Đạo, Lê Lợi, Cộng Hòa, Bắc An, Hoàng Tân, Bến Tắm, Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng. Thời Lê, Vạn Kiếp thuộc huyện Phƣợng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc. Thời Nguyễn, Vạn Kiếp đổi thành Vạn Yên. Từ năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) trở đi, Vạn Yên thuộc tổng Kham Điền (sau đổi là Trạm Điền), huyện Phƣợng Nhỡn, trấn Bắc Ninh. Đến những năm cuối thập kỷ 80, sang đầu thập kỷ 90 thế kỷ XIX, xã Vạn Yên thuộc huyện Lục Ngạn, phủ Lạng Giang. Sang đầu thế kỷ XX, Vạn Kiếp đƣợc gọi là Kiếp Bạc do ghép tên Nôm hai làng: Vạn Yên (làng Kiếp), tổng Trạm Điền và Dƣợc Sơn (làng Bạc), tổng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng. Hiện nay, Vạn Kiếp thuộc xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng. Nhƣ vậy, trong lịch sử Vạn Kiếp đã nhiều lần thay đổi địa giới hành chính. Qua các nguồn tƣ liệu địa lý lịch sử, dấu tích các địa danh hiện còn, giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII, Vạn Kiếp là vùng đất rộng lớn, không nhỏ hẹp nhƣ địa danh hành chính hiện nay. Về địa lý, Vạn Kiếp là vùng đất khá hiểm trở với đầy đủ các dạng địa hình, nhƣ có núi, có sông và nhiều giải đồng ruộng nhỏ hẹp ở các thung lũng ven đồi. Núi ở Vạn Kiếp là dãy núi cuối cùng về phía Tây Bắc của hệ thống cánh cung Đông Triều từ Quảng Ninh đổ về. Núi Yên Tử chạy gần tới Kiếp Bạc thì toả thành hai dãy song song là dãy Côn Sơn ở phía Bắc và dãy Phƣợng Hoàng ở phía Nam. Dãy Côn Sơn càng gần tới Vạn Kiếp thì càng thấp dần tạo thành nhiều quả đồi nhỏ nằm rải rác ở thung lũng phía Đông Bắc Vạn Kiếp. Trái lại, dãy núi Phƣợng Hoàng chạy gần 1 Về vấn đề này xem thêm Nguyễn Thị Phƣơng Chi (2007), Tìm hiểu quy mô thái ấp thời Trần, NCLS, số 5, tr. 51 - 54. 26 tới phía Nam Vạn Kiếp thì càng cao dần lên, các ngọn núi lại liên kết với nhau làm thành một bức tƣờng tự nhiên đồ sộ ngăn cách vùng đồng bằng của thị xã Chí Linh (nơi có quốc lộ 18 chạy ngang qua) với vùng núi Côn Sơn và phần Đông Bắc của khu vực Kiếp Bạc. Núi ở Vạn Kiếp độ cao trung bình 80 - 100m, nhƣng liền dải thành nhiều hình vòng cung chạy nhô ra tận bờ sông Lục Đầu tạo ra một địa thế hiểm trở. Thế kỷ XIII, trong sách “An Nam chí lược” do Lê Tắc biên soạn, phần ghi chép về các ngọn núi có ghi: “Núi Vạn Kiếp: trở mặt ra một con sông lớn, sau lưng có núi muôn trùng, rừng rậm tre cao, dưới nước trên cầu, phong cảnh rất đẹp. Hưng Đạo vương đã từng ở nơi này” [118, tr. 61]. Vạn Kiếp có núi Rồng hình tay ngai, bao bọc những thung lũng của sông Thƣơng ăn sâu vào hẻm núi, có thể tập kết hàng nghìn chiến thuyền trƣớc khi xông trận. Trên các đỉnh núi có thể quan sát một vùng sông nƣớc, làng mạc bao la, tạo thế chủ động cho quân sĩ khi tiến cũng nhƣ lui. Phía Bắc có hệ thống núi rừng trùng điệp, nơi có thể giấu hàng vạn quân, lập căn cứ an toàn; phía Nam có làng mạc trù phú, lắm của nhiều ngƣời là nguồn cung cấp nhân tài vật lực to lớn cho chiến tranh. Vạn Kiếp hiểm yếu không phải chỉ có núi đồi trùng điệp, mà còn có sông nƣớc mênh mông toả đi nhiều nơi. Sông Lục Đầu là đoạn sông từ Ngã ba Nhãn tới Ngã ba Lâu Khê dài khoảng 10km, gồm 6 nhánh sông hợp thành: Sông Lục Nam, sông Thƣơng, sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình, sông Kinh Thầy. Đây là nơi giáp ranh của 3 tỉnh Hải Dƣơng, Bắc Giang và Bắc Ninh, là vị trí quân sự chiến lƣợc quan trọng bảo vệ đại bản doanh Vạn Kiếp, nơi đây không những đã diễn ra hội nghị vƣơng hầu bách quan bàn kế sách đánh phòng của nhà Trần, mà còn diễn ra nhiều trận thuỷ chiến dữ dội giữa quân ta và quân giặc. Nguyễn Trãi trong sách “Dư địa chí” viết năm 1435, cho biết: “Lục Đầu là tên sông, do sáu con sông hợp nguồn lại, nên gọi là Lục Đầu” [175, tr. 128]. Vũ Phƣơng Đề trong tác phẩm “Công dư tiệp ký” viết năm 1755, mục Núi sông chép rằng: “Sông Lục Đầu ở huyện Chí Linh, giáp các huyện Phượng Nhãn, Yên Dũng, Quế Dương và Gia Định. Một chi từ sông Phượng Nhãn đi xuống, một chi từ sông Xương Giang đi tới, hội lại thành ngã ba sông, một chi từ sông Như Nguyệt đi xuống. Một chi từ sông Tam Giang đi lại gặp nhau ở sông Bình Than. Sông này trong sạch, nước thơm ngon người ta gọi là nước Bình Than. Các ngọn sông hội lại ở sông Triều Dương làm ra một khúc sông rất rộng lớn. Ở đấy lại chia thành hai chi: Một chi 27 chảy đến bến đò Bàn Khê rồi đi về phía Nam, một chi chảy đến vũng Trần Xá rồi đi về phía Đông. Tất cả 6 chi ấy làm thành sông Lục Đầu” [42, tr. 319]. Sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn chép rõ hơn: “Sông Lục Đầu cách huyện Chí Linh 14 dặm về phía Nam, bên tả thuộc địa phận xã Phao Sơn trong huyện, bên hữu thuộc xã Phả Lại huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, ở chỗ giáp giới tỉnh Đông và tỉnh Bắc. Sông này một chi từ Phượng Nhỡn tỉnh Bắc Ninh chảy đến, một chi từ sông Thiên Đức chảy đến, một chi từ sông Nguyệt Đức chảy đến, một chi từ sông Nhật Đức chảy đến, họp nhau ở Bình Than. Đến xã Lý Dương, xưa gọi là vụng Lão Nhạn, thế nước mênh mông lại chia làm 2 chi, một chi từ bến đò Lâu Khê mà chảy về Nam, một chi từ sông Linh Hội mà chảy về Đông, ấy là sông Lục Đầu; bãi giữa sông gọi là bãi Đại Than, hai chi phân tán ra nhiều ngả dọc ngang chằng chịt ở địa phận hai phủ Kinh Môn và Nam Sách rồi đổ ra biển [100, tr. 380]. Ngày nay sông Lục Đầu từ thƣợng lƣu xuống thứ tự các nhánh nhƣ sau: - Nhánh thứ nhất là sông Lục Nam (còn gọi là sông Minh Đức), là một phụ lƣu của hệ thống sông Thái Bình, chảy qua hai tỉnh Lạng Sơn và Bắc Giang. Sông bắt nguồn từ độ cao khoảng 700 m trên vùng núi Kham thuộc địa phận huyện Đình Lập (Lạng Sơn) theo hƣớng Tây Nam chảy qua các huyện Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam (thuộc tỉnh Bắc Giang) và kết thúc tại địa phận xã Đan Hội (huyện Lục Nam) và xã Trí Yên (huyện Yên Dũng) sau khi giao nhau với sông Thƣơng từ hƣớng Tây Bắc chảy tới tại Ngã ba Nhãn (cách Phả Lại 10 km). Tổng chiều dài của sông gần 200 km. Tổng diện tích lƣu vực của sông Lục Nam vào khoảng 3.070 km², độ cao bình quân lƣu vực là 207 m, độ dốc bình quân lƣu vực là 16,5%, lƣu lƣợng trung bình 42,3m3/s. Khoảng 45 km cuối hạ lƣu (từ thị trấn Chũ đến Ngã ba Nhãn), sông rộng thuận tiện cho giao thông đƣờng thủy. - Nhánh thứ hai là sông Thƣơng hay sông Nhật Đức (xƣa còn gọi là sông Nam Bình, sông Lạng Giang, sông Long Nhỡn), trong sách “Sử học bị khảo” của Đặng Xuân Bảng chép: “Sông này có hai nguồn: một nguồn từ khe núi Châu Ôn tỉnh Lạng Sơn, chảy vào huyện Hữu Lũng, tỉnh Bắc Ninh gọi là sông Hóa, đến xã Chiêu Tuấn. Một dòng từ khe núi huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên chảy theo hướng Nam cũng vào huyện Hữu Lũng, tỉnh Bắc Ninh, gọi là sông Hòa, đến ngã ba Châu Tuấn [đến phá Nà Hoa] hợp với sông Hóa làm một, chảy qua các huyện Bảo Lộc, Yên Thế, gọi là sông 28 Thọ Xương, chảy đến huyện Phượng Nhãn, gọi là sông Phượng Nhãn. Lại có một dòng từ khe núi huyện An Bác chảy theo hướng Đông Bắc, đến huyện Lục Ngạn, gọi là sông Thủ Dương, đến huyện Bảo Lộc gọi là sông Trụ Hựu, rồi chảy ngoặt theo hướng Đông Nam lại vào huyện Lục Ngạn, gọi là sông Tứ Bình Sơn vào địa giới huyện Phượng Nhãn, thì hợp với sông Phượng Nhãn rồi chảy vào sông Phao Giang tỉnh Hải Dương” [9, tr. 178]. Sông Thƣơng là một sông lớn ở địa phận các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dƣơng và là một chi lƣu của sông Thái Bình. Sông Thƣơng bắt nguồn từ dãy núi Na Pa Phƣớc, làng Man, xã Vân Thuỷ, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong máng trũng Mai Sao - Chi Lăng và chảy vào địa phận tỉnh Bắc Giang. Sông chảy qua các huyện Lạng Giang, Yên Thế, Tân Yên, thành phố Bắc Giang và huyện Yên Dũng hợp lƣu với sông Lục Nam tại Ngã ba Nhạn. Đây là nơi giáp ranh của thôn Cầu, xã Đức Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (ở hữu ngạn - phía Tây); thôn Trạm Điền, xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng (ở tả ngạn - phía Đông) và xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (ở phía Bắc), điểm cuối là khu dân cƣ Phao Sơn, phƣờng Phả Lại, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng, hợp lƣu với sông Cầu (Ngã ba Lác), rồi tạo thành sông Thái Bình tại chính Ngã ba Lác. Sông Thƣơng có chiều dài 157 km, diện tích lƣu vực: 6.640 km², lƣu lƣợng trung bình 46,5m3/s. - Nhánh thứ ba là sông Cầu, còn gọi là sông Nhƣ Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức (xƣa kia còn có tên là sông Vũ Bình):“Sông này có hai nguồn: Một nguồn từ phía Bắc núi Án Đĩnh, châu Bạch Thông, tỉnh Thái Nguyên, gọi là sông Đồng Mỗ, chảy theo huyện Cảm Hóa, Châu Định xuống huyện Phú Lương. Đến huyện Đồng Hỷ thì có sông Công bắt đầu từ núi Án Đĩnh chảy từ phía Đông Nam đến nhập vào. Lại chảy theo hướng Đông Nam, qua huyện Tư Nông, vào huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Ninh, đến ngã ba Hương Ninh thì có sông Phù Lỗ từ Nhị Hà chia ra, qua các huyện An Lạc, An Lăng tỉnh Sơn Tây, xuống huyện Kim Anh tỉnh Bắc Ninh nhập vào, lại chảy xuôi xuống Ngã ba Sà huyện Thiên Phúc. Một nguồn từ núi Lục Dã, Châu Định tỉnh Thái Nguyên chảy theo hướng Đông Nam gọi là sông Mão, qua các huyện Văn Lãng, Đại Từ, Phổ Yên vào huyện Thiên Phúc tỉnh Bắc Ninh, đến Ngã ba Sà hợp với sông Đồng Mỗ, thế là sông Nguyệt Đức. Lại chảy qua các huyện Hiệp Hòa, Yên 29 Phòng, Việt Yên, Võ Giàng đến huyện Quế Dương gọi là sông Phả Lại, hợp với sông Nhật Đức chảy vào Phao Giang tỉnh Hải Dương” [9, tr. 177, 178]. Sông Cầu với chiều dài 290 km là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Lƣu vực sông Cầu là một trong những lƣu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng nhƣ về lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh nằm trong lƣu vực của nó. - Nhánh thứ tƣ là sông Đuống, tên chữ gọi là sông Thiên Đức hay Thiên Đức Giang: “Sông Thiên Đức từ Nhị Hà chia ra, chảy theo hướng Đông qua huyện Đông Ngàn, Gia Lâm đến Siêu Loại còn gọi là sông Đông Hồ, lại chảy theo hướng Nam xuống huyện Quế Dương, đến huyện Gia Bình gọi là sông Đại Than, hợp với hai dòng sông Nhật Đức, Nguyệt Đức chảy vào Phao Giang tỉnh Hải Dương” [9, tr. 177]. Sông Đuống dài 68 km, nối sông Hồng với sông Thái Bình. Điểm đầu từ Ngã ba Dâu (xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội). Điểm cuối là Ngã ba Mỹ Lộc (xã Trung Kênh, huyện Lƣơng Tài, tỉnh Bắc Ninh). Về tổng thể sông Đuống chảy theo hƣớng Tây - Đông. Sông Đuống là một phân lƣu của sông Hồng, trƣớc đây chỉ là một dòng sông nhỏ, do cửa nối với sông Hồng bị cát bồi cao nên chỉ khi sông Hồng có lũ lớn mới tràn qua đƣợc. Sông Đuống là đƣờng giao thông thuỷ nối cảng Hải Phòng với Hà Nội và các tỉnh ở phía Bắc Việt Nam. - Nhánh thứ năm là sông Thái Bình: là một con sông lớn trong hệ thống sông ở miền Bắc Việt Nam, cùng với hệ thống sông Hồng là 2 hệ thống sông chính của Đồng bằng sông Hồng. Sông Thái Bình là tên gọi của hai đoạn sông chính trong hệ thống sông Thái Bình. Sông Thái Bình hiện chia thành 2 đoạn: thƣợng lƣu và hạ lƣu, 2 đoạn này nối với nhau bằng một dòng chảy hẹp, nhỏ hơn rất nhiều so với các đoạn khác và các phƣơng tiện giao thông thƣờng phải “đi nhờ” một đoạn sông theo 2 lộ trình sau đây: Sông Thái Bình - sông Mía - sông Văn Úc - sông Mới - sông Thái Bình. Sông Thái Bình - sông Cầu Xe - sông Luộc - sông Thái Bình. Đoạn sông ở phía thƣợng lƣu có chiều dài khoảng 64 km đƣợc bắt đầu từ nơi hợp lƣu của hai con sông Cầu và sông Thƣơng (còn có tên gọi là Ngã ba Lác, gần cầu Phả Lại tại địa phận 3 xã, phƣờng Đồng Phúc, Yên Dũng, Bắc Giang; xã Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh và phƣờng Phả Lại, Chí Linh, Hải Dƣơng). Qua cầu Phả 30 Lại, sông Thái Bình chảy ngoằn ngoèo theo hƣớng Bắc - Nam, đi qua và làm ranh giới tự nhiên giữa tỉnh Bắc Ninh và thị xã Chí Linh, huyện Nam Sách của tỉnh Hải Dƣơng. Từ địa phận xã Minh Tân (huyện Nam Sách) đổi hƣớng chảy theo hƣớng Tây - Đông. Tới xã Nam Đồng thuộc thành phố Hải Dƣơng sông đổi hƣớng chảy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam. Tại địa phận thành phố Hải Dƣơng, nó nhận thêm nƣớc của sông Sặt và sau đó tại Ngã ba Mũi Gƣơm, nó nhận nƣớc từ sông Gùa (dài khoảng 4 km, nối sông Thái Bình với sông Văn Úc). Đoạn này của sông Thái Bình kết thúc tại Ngã ba Mía (ranh giới giữa bốn xã Vĩnh Lập (huyện Thanh Hà), An Thanh, Quang Trung (huyện Tứ Kỳ), Đại Thắng (huyện Tiên Lãng, Hải Phòng). Tại đây nó gặp sông Mía (tên gọi của đoạn sông dài khoảng 3 km nối sông Thái Bình với sông Văn Úc) và sông Cầu Xe. Đoạn sông ở phía hạ lƣu cũng có tên gọi là Thái Bình, dài 36 km, đƣợc bắt đầu từ Quý Cao, điểm tiếp giáp của xã Giang Biên (huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) với các xã Quang Trung, Nguyên Giáp (huyện Tứ Kỳ, Hải Dƣơng), nơi đƣợc tính là điểm cuối của sông Luộc. Sông chảy theo hƣớng Tây - Đông khoảng 3 km để nhận thêm nƣớc của sông Kênh Khê (đoạn sông dài khoảng 3 km nối sông Thái Bình với sông Văn Úc), đổi hƣớng thành Bắc - Nam, đến địa phận xã Kiến Thiết (Tiên Lãng) uốn vòng cung đổi hƣớng chảy sang hƣớng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra Biển Đông tại cửa Thái Bình. Cách cửa sông khoảng 7 km nó tiếp nhận nƣớc từ sông Hóa. Đoạn sông Thái Bình thứ hai này có chiều dài khoảng 36 km và làm ranh giới tự nhiên giữa các huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo, giữa huyện Tiên Lãng và một phần Đông Bắc của huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. - Nhánh thứ sáu là sông Kinh Thầy, nối thông sông Thái Bình với các nhánh (chi lƣu) vùng Đông Bắc, có chiều dài 44,5 km. Dòng sông có chiều rộng từ 100m - 200m. Sông Kinh Thầy bắt đầu từ Ngã ba Lâu Khê. Sông Kinh Thầy mới có tên trên bản đồ từ thế kỷ XX, trƣớc đó là tên 3 con sông cổ. Đoạn thƣợng lƣu có tên là sông Lâu Khê, cách ngã ba Lâu Khê 1 - 2 km về phía Đông, thời Trần gọi là Trần Xá Loan, tức vụng Trần Xá. Chữ Hán 灣 (Loan) là vụng, Trần Xá là tên làng ở hữu ngạn, nay thuộc xã Nam Hƣng, huyện Nam Sách. Sông Lâu Khê chảy đến Mặc Ngạn (Tân Dân, Chí Linh), rồi đến Ngã ba Kèo chia làm hai nhánh, một nhánh chảy về phía Nam tức sông Rạng. Sông Rạng chảy qua chi lƣu chừng 3km, lại chia đôi, gọi là Ngã ba Tuần 31 Mây. Nhánh phía Đông gọi là sông Kinh Môn, là ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Kim Thành và Kinh Môn. Một nhánh đổ về Đông, gọi là sông Thủ Chân, qua Kinh Môn, đến Bến Triều chia làm hai, nhánh phía Đông gọi là sông Đá Vách, nhánh phía Nam có tên là Sài Giang chảy sang Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tên sông Kinh Thầy chính là tên 3 con sông nối tiếp nhau: Lâu Khê, Thủ Chân và Sài Giang. Từ nửa cuối thế kỷ XIX mới có tên là sông Kinh Thầy. Tại Ngã ba Bến Triều, sông Kinh Thầy chia nƣớc với sông Mạo Khê. Tại Ngã ba Trại Sơn, sông Kinh Thầy chia thành hai sông nhỏ chiều dài khoảng 9 km mỗi sông, có tên gọi là sông Phi Liệt (lại đổ vào sông Mạo Khê một lần nữa, tại Ngã ba Bến Đụn, để tạo thành sông Đá Bạch) và sông Hàn để chảy vào sông Kinh Môn tại Ngã ba Nống, tạo thành sông Cấm. Ngoài sáu nhánh sông trên, căn cứ vào bản đồ cổ và sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, sông Lục Đầu còn có ba nhánh sông nhỏ nữa là: - Sông An Mô, thƣợng nguồn từ núi Thanh Mai (núi Phật Tích) thuộc xã Hoàng Hoa Thám, thị xã Chí Linh chảy qua Bãi Thảo, Đá Bạc (xã Bắc An); Trung Quê, Thanh Tảo (xã Lê Lợi); Vạn Yên, Trạm Điền (xã Hƣng Đạo) hợp lƣu với sông Vang (cánh đồng Vạn Yên) đổ ra sông Lục Đầu ở Phố Vạn, cách đền Kiếp Bạc, xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh 1,5km. Sông An Mô đóng vai trò quan trọng về giao thông trong đại bản doanh Vạn Kiếp thời Trần. - Sông Ngụ thuộc đất Bắc Ninh từ phía Tây đổ ra sông Lục Đầu phía ở dƣới thôn Phù Than (Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh). Cửa sông này đã bị lấp do đắp đê. - Một nhánh sông cổ thuộc đất Bắc Ninh chảy từ phía Tây về hợp lƣu với sông Lục Đầu ở phía hạ lƣu, xã An Trú, huyện Lƣơng Tài, tỉnh Bắc Ninh (đây là vùng đất của huyện Thanh Lâm cũ thuộc tỉnh Hải Dƣơng gồm 15 xã, đến cuối thế kỷ XIX mới cắt về Bắc Ninh), đối ngạn với Ngã ba Lâu Khê. Con sông cổ này phải chăng là sông Dâu? Đến nay cũng không còn do đắp đê sông Lục Đầu. Nhƣ vậy, từ sông Lục Đầu theo đƣờng thuỷ có thể lên Bắc xuống Nam, ra Biển Đông, về kinh đô Thăng Long và các vùng miền khác ở Đồng bằng Bắc Bộ, vùng rừng núi biên giới phía Bắc đều rất thuận lợi; ngƣời các vùng Thái Nguyên, Bắc Cạn, Phú Thọ, Vĩnh Phúc xuôi theo dòng sông Cầu về Vạn Kiếp. Ngƣời ở 32 vùng Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang theo sông Thƣơng, sông Lục Nam mà xuống nơi đây. Cùng với nhân dân miền ngƣợc, ngƣời ở các tỉnh Hà Tây (cũ), Hà Nội, Bắc Ninh theo sông Đuống mà về Vạn Kiếp rất thuận lợi. Dòng sông Đuống nối liền sông Hồng và sông Lục Đầu, hẳn là đƣờng giao thông quan trọng từ kinh đô Thăng Long đến Vạn Kiếp, cũng tức là miền Đông Bắc nƣớc ta thời xƣa. Ngƣời ở Hải Phòng, Quảng Ninh ngƣợc nƣớc Kinh Thầy; ngƣời Thái Bình, Hƣng Yên thì lênh đênh sông nƣớc theo sông Thái Bình để về Vạn Kiếp. Về đƣờng bộ, Vạn Kiếp cũng là đầu mối giao thông cổ của hai trục “Thiên Lý” Bắc Nam và Đông Tây của các triều đại phong kiến. - Trục đƣờng bộ Bắc Nam: Từ Lạng Sơn qua Chi Lăng, qua cửa ải Xa Lý (Lục Ngạn, Bắc Giang), qua ải Nội Bàng (Lục Nam, Bắc Giang), qua Vạn Kiếp đến Phả Lại, rồi về Thăng Long theo đƣờng thuỷ hay đƣờng bộ đều thuận lợi. - Trục đƣờng bộ Đông Tây: Trƣớc thế kỷ X, con đƣờng này tƣơng đƣơng với con đƣờng ven biển từ khu vực Quảng Đông tiến vào vùng địa đầu tỉnh Quảng Ninh rồi bám sát con đƣờng bộ ven biển, ven sông tiến vào Đông Triều, Phả Lại, Luy Lâu, Cổ Loa. Đây là con đƣờng giao thông bộ cổ nhất và gần nhƣ duy nhất nối liền nƣớc ta với miền Đông Nam Trung Quốc suốt thời Bắc thuộc. Các đạo quân xâm lƣợc nƣớc ta đều đi lại bằng con đƣờng này. Đến thế kỷ XVIII, trong sách “Niên Phả lục” Phó Đô Ngự sử Trần Tiến có ghi lại đƣờng kinh lý từ kinh đô Thăng Long qua Phú Thị (Gia Lâm) về thành Luy Lâu (Dâu) qua các làng cổ: Ngo, Nghe, Ngụ, Triện, Lái, qua bến đò Đại Than (nay là đƣờng tỉnh 282), sang bến Nhạn Loan (Chí Linh) đến làng Triền Dƣơng về thành Phao Sơn. Từ thành Phao Sơn lại theo đƣờng “Thiên Lý” qua Chi Ngại, Vàng Gián (Chí Linh) đến chợ Cột (Đông Triều) ra đất Yên Hƣng và Biển Đông... Trục đƣờng “Thiên Lý” này tồn tại mãi đến nửa cuối thế kỷ XIX. Sau khi thực dân Pháp mở đƣờng bộ từ Hà Nội đi Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn (đƣờng số 1) và đƣờng 18 từ thành phố Bắc Ninh đi Quảng Ninh thì đƣờng cổ trên trở thành đƣờng nội tỉnh. Về phƣơng diện giao thông, có thể nói đây là những con đƣờng huyết mạch góp phần quan trọng về giao thƣơng kinh tế, quân sự kiến tạo nên những thành tựu văn hoá, quân sự dƣới thời đại phong kiến. 33 Vạn Kiếp còn nhƣ một cửa rừng, nơi giao thƣơng lâm, thổ sản từ phía Bắc xuống; nông, hải sản từ phía Nam lên. Vị trí này góp phần thúc đẩy hoạt động buôn bán giữa các vùng miền. Nhƣ vậy, hệ thống núi đồi, sông ngòi cùng với hệ thống giao thông thủy bộ đã tạo cho Vạn Kiếp trở thành một vị trí quân sự hiểm yếu: “Dựa núi bọc biển, hình thế vững vàng; núi cao có Yên Tử, Đông Triều, sông lớn có Hàm Giang, Lục Đầu. Mặt Tây - Nam nội rộng, đất bằng, đường sông như mắc cửi, mặt Đông - Bắc núi cao, biển rộng, thế rất hiểm trở, việc phòng bị quan hệ rất nhiều” [100, tr. 367], một vùng đất có vị trí chiến lƣợc quân sự “tiền công, hậu thủ vững chắc”, việc giấu quân, mai phục và đánh úp đều tiện lợi. Nơi đây, có thể vừa kết hợp xây dựng quân doanh kháng chiến với xây dựng binh xƣởng, cơ sở sản xuất phục vụ chiến đấu, xây dựng hậu cứ quân sự tại chỗ mà địch không thể lƣờng. Với vị trí địa - quân sự quan trọng nhƣ vậy, nên trong các cuộc hành binh xâm lƣợc của phƣơng Bắc, chúng thƣờng phải đi đƣờng thuỷ vào sông Bạch Đằng, ngƣợc vào sông Kinh Thầy, tập kết ở Vạn Kiếp, sau đó kết hợp cùng với cánh quân bộ theo vùng ven biển Đông Bắc, qua Đông Triều (thế kỷ X) hoặc từ Lạng Sơn xuống tạo thành hai gọng kìm tấn công vào Thăng Long. Khi rút lui, giặc cũng thƣờng tập kết tại đây trƣớc khi về nƣớc. Vì thế, suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, Vạn Kiếp luôn có vị trí quân sự cực kỳ quan trọng, là một phòng tuyến chiến lƣợc bảo vệ cho kinh đô Thăng Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Bởi thế, tại đây đã từng diễn ra nhiều trận quyết chiến trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: Thời Thục Phán An Dƣơng Vƣơng, tƣớng Cao Lỗ đã xây dựng căn cứ quân sự tại sông Bình Giang (sông Lục Đầu) để chống giặc phƣơng Bắc1, Những năm đầu Công nguyên, khu vực Vạn Kiếp là bãi chiến trƣờng lớn - nơi diễn ra cuộc chiến giữa nghĩa quân Hai Bà Trƣng với Mã Viện. Đó là mùa hè năm 42, quân xâm lƣợc nhà Hán do Mã Viện, Đoàn Chí chỉ huy kéo sang xâm lƣợc nƣớc ta. Chúng chia thành hai đạo quân thuỷ, bộ ngƣợc sông Bạch Đằng, qua sông Kinh Thầy tới Lãng Bạc (khu vực Lục Đầu Giang) tiến sâu vào Giao Chỉ. Hai Bà Trƣng đã kéo quân 1 Hiện nay ở vùng ven sông Lục Đầu còn đình thờ Cao Lỗ ở Phao Sơn (Phả Lại, Chí Linh), đình Lý Dƣơng (Cổ Thành, Chí Linh), đình Tiểu Than, đình Phù Than, đình Kênh Than, đình Bình Than, đình Kênh Phố, đình Mỹ Lộc (Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh). 34 từ Mê Linh qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đánh quân xâm lƣợc. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra ở vùng Lãng Bạc1. 2.2. Vạn Kiếp trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 981 2.2.1. Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược năm 981 Năm 980, lợi dụng tình hình ở Đại Cồ Việt, Hoàng đế Đinh Tiên Hoàng và con bị ám hại, nhà Tống chuẩn bị chiến tranh xâm lƣợc Đại Cồ Việt. Trƣớc tình hình đó, triều đình đã tôn Lê Hoàn lên làm vua. Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tiếp tục củng cố triều chính, hình thành bộ chỉ huy kháng chiến, kén tƣớng luyện quân, triển khai công tác bố phòng. Cuối năm 980, ba vạn quân Tống theo hai đƣờng thủy, bộ do các tƣớng Hầu Nhân Bảo và Lƣu Trừng chỉ huy ồ ạt tiến sang xâm lƣợc Đại Cồ Việt: “Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo sang Lạng Sơn (Lãng Sơn); Trần Khâm Tộ tiến đến Tây Kết, Lưu Trừng kéo đến sông Bạch Đằng” [100, tr. 238]. Nhƣ vậy, đạo quân do Hầu Nhân Bảo và Lƣu Trừng chỉ huy theo đƣờng ven biển quen thuộc từ Khâm Châu men theo đƣờng thủy ven biển Đông Bắc Đại Cồ Việt tiến về cửa sông Bạch Đằng. Đạo quân do Tôn Toàn Hƣng, Trần Khâm Tộ chỉ huy từ Ung Châu theo đƣờng bộ ven biển qua châu Tô Mậu vào Đông Triều đóng ở Hoa Bộ thuộc vùng Đông Bắc huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng ngày nay. Đó là con đƣờng duy nhất mà trƣớc đây trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, quân xâm lƣợc phƣơng Bắc thƣờng sử dụng để tiến vào nƣớc ta. Để chặn đứng và đánh bại quân Tống ngay ở vùng địa đầu phía Đông của đất nƣớc, Lê Hoàn đã bố trí lực lƣợng dọc theo tuyến sông Bạch Đằng, Kinh Thầy kéo dài cho đến vùng Lục Đầu Giang. Trong đó, nơi tập trung lực lƣợng đông nhất và có vị trí quan trọng nhất là cửa sông Bạch Đằng, là cửa ngõ yết hầu từ phƣơng Bắc vào nƣớc ta: “Nước ta khống chế người Bắc, sông này là chỗ cổ họng” [100, tr. 25]. Khu vực Phả Lại - Lục Đầu Giang là nơi đoàn thuyền chiến của quân Tống từ biển tiến vào và là nơi tập kết của hai đoàn quân thủy bộ. 1 Tại khu vực ven sông Lục Đầu còn nhiều di tích thờ các vị tƣớng của Hai Bà Trƣng đã minh chứng điều đó, nhƣ: Đình Đại Lai, (Gia Bình, Bắc Ninh) thờ Lữ Gia, Ngô Lan Đại vƣơng, Tam San Đại vƣơng - những thuộc tƣớng của Hai Bà Trƣng có công lớn trong việc chặn thuỷ quân Nam Hán ở cửa sông Đuống. Hay tại đình làng Kỳ Đặc (Văn An, Chí Linh, Hải Dƣơng) thờ ba vị tƣớng của Hai Bà Trƣng là Chinh, Dƣơng, Uông, có công lớn trong việc chỉ huy trận phục kích đánh tan đạo quân thuỷ của Mã Viện tại sông Lục Đầu (đoạn chảy qua làng Kỳ Đặc). 35 Trên vùng cửa biển sông Bạch Đằng, học tập kinh nghiệm đánh giặc hơn 40 năm trƣớc của Ngô Quyền, Lê Hoàn đã cho bố trí trận địa cọc ở cửa sông: “Nhà vua tự làm tướng ra kháng chiến, sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch” [102, tr. 252]. Để trực tiếp chỉ huy quân sĩ đánh giặc, Lê Hoàn đóng bản doanh ở khu vực Thủy Đƣờng, Núi Đèo (Thủy Nguyên, Hải Phòng), sau đó lại chuyển đến trang Xạ Sơn (Kinh Môn, Hải Dƣơng) dựng đồn bố trí lực lƣợng chống giặc. Khi đóng quân ở đây, Lê Hoàn đã nhận thấy khu vực trang Dƣợc Đậu (An Lạc, Chí Linh, Hải Dƣơng) có nhiều ƣu thế hơn về mặt quân sự và đã lập đại bản doanh ở khu vực Đồng Dinh. Cuộc chiến đấu đầu tiên diễn ra vào đầu hạ tuần tháng Chạp năm Canh Thìn (980), thuộc các xã Yên Giang, Hải Yên (Yên Hƣng, Quảng Ninh) và Phục Lễ, Lập Lễ (Thủy Nguyên, Hải Phòng) ngày nay. Tại đây, quân Đại Cồ Việt đã cắm cọc trên sông Bạch Đằng, bố trí trận địa đón đánh, kìm chân thủy quân giặc do Hầu Nhân Bảo cầm đầu. Nhƣng trong trận chiến đấu này, quân ta không ngăn đƣợc bƣớc ti...(1995), Về dòng sông Thiên Đức, trong sách “Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1994”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [212]. Trần Quốc Vƣợng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb Văn hoá Dân tộc & Tạp chí VHNT, Hà Nội. [213]. Trần Quốc Vƣợng (2000), Đôi điều cảm nhận về khu di tích Kiếp Bạc, Xƣa & Nay, số 79. [214]. Lý Tế Xuyên (2012), Việt điện u linh, Nxb Hồng Bàng, Gia Lai. [215]. Trƣơng Thị Yến (2012), Hội nghị Bình Than và cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông của người dân Bắc Ninh, trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá Bình Than - Nguyệt Bàn, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh”, tài liệu lƣu tại Viện Sử học. Chữ Hán [216]. 至 靈 風 景 (Chí Linh phong cảnh), Ký hiệu Vhv.176, tài liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [217]. 藥 山 紀 績 全 編 (Dƣợc Sơn kỷ tích toàn biên), Ký hiệu R.1953, tài liệu Thƣ viện Quốc gia. [218]. 興 道 王 事 績 略 編 (Hƣng Đạo Vƣơng sự tích lƣợc biên), Ký hiệu A. 2839, tài liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [219]. 刼 泊 靈 祠 典 昔 (Kiếp Bạc linh từ điển tích), Ký hiệu A.321, tài liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [220]. 六 南 地 誌 (Lục Nam địa chí), Ký hiệu A.2037, tài liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [221]. 玉 譜 天 臣 神 位 (Ngọc Phả thiên thần vị), thác bản văn bia kí hiệu 18740 - 18741 tại Thƣ viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [222]. 陳 大 王 平 元 實 錄 (Trần Đại vƣơng bình Nguyên thực lục), Ký hiệu A.336, tài liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm. [223]. 佛 說 阿 彌 陀 經 譯 淺 (Phật thuyết A Di Đà thiển dịch), Hòa Dụ xuất bản xã. 163 PHỤ LỤC 164 PHỤ LỤC 1: THẦN TÍCH, NGỌC PHẢ VÀ HỆ THỐNG DI TÍCH LIÊN QUAN ĐẾN VẠN KIẾP TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƢỢC THẾ KỶ X 1. Thần tích, Ngọc phả: Stt Thần tích/Ngọc phả Nội dung Nơi lƣu giữ Thần tích - Thần sắc làng Thiện Sự tích hai vị thần là Đông Công Suối Thƣ viện Viện Thông Đáp, tổng Cam Lâm, huyện Kim Khê Đại vƣơng, húy là Hồng Công, tin khoa học xã hội, 1 Thành, tỉnh Hải Dƣơng. Đoan Trang Thái trƣởng công chúa, húy kí hiệu TT-TS, là Quế Nƣơng có công âm phù vua Lê FQ4018/IX,8. Đại Hành đánh quân Tống. Thần tích - Thần sắc làng Khuê Sự tích bốn vị tƣớng là Sỹ, Nghiêm, Thƣ viện Viện Thông 2 Phƣợng, tổng Phí Gia, huyện Quang, Nam Bang nghĩa tƣớng có công tin khoa học xã hội, Kim Thành, tỉnh Hải Dƣơng. giúp vua Lê Đại Hành đánh giặc Tống kí hiệu TT-TS, FQ4018/IX, 34. Ngọc phả đình Kiên Lao, xã Đại Ghi chép về sự tích đánh giặc Tống thời Đình Kiên Lao, xã Đại 3 Đức, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Tiền Lê của hai vị tƣớng Đào Công Đức, huyện Kim Dƣơng Hiển, Đào Công Chiêu Thành, tỉnh Hải Dƣơng Thần tích - Thần sắc làng Nghĩa Ghi chép sự tích vị thần tên là Đôi, âm Thƣ viện Viện Thông 4 Dƣơng, tổng An Lƣơng, phủ Nam phù vua Lê Hoàn đánh Tôn Toàn Hƣng, tin khoa học xã hội, Sách, tỉnh Hải Dƣơng. Hầu Nhân Bảo đêm 23 tháng 12 kí hiệu TT - TS, FQ4018/IX, 66. Thần tích - Thần sắc làng Linh Sự tích hai vị tƣớng Đào Viết Minh, Thƣ viện Viện Thông 5 Khê, tổng An Ninh, phủ Nam Đào Viết Châu, Đô Hồ sơn thần đóng tin khoa học xã hội, Sách, tỉnh Hải Dƣơng. đồn binh ở trại Khê Khẩu cùng làng kí hiệu TT - TS, đánh giặc Tống là Quách Tiến FQ4018/IX, 48 Thần tích - Thần sắc làng Vũ Xá, Sự tích tƣớng Vũ Quảng Hộ Tuyên Huệ, Thƣ viện Viện Thông 6 tổng Vũ La, phủ Nam Sách, tỉnh có công đánh giặc Tống thời Tiền Lê tin khoa học xã hội, Hải Dƣơng. kí hiệu TT-TS, FQ4018/IX, 6. Thần tích - Thần sắc làng Nghĩa Ghi chép sự tích hai vị thành hoàng là Thƣ viện Viện Thông 7 Khê, tổng An Lƣơng, phủ Nam Tràng Đôi, Lý Quang có công âm phù tin khoa học xã hội, Sách, tỉnh Hải Dƣơng. vua Lê Đại Hành đánh Tống. kí hiệu TT- 165 TS,FQ4018/IX, 67. 8 Thần tích - Thần sắc làng Thạch Sự tích đánh giặc của vị thần là Thủ Thƣ viện Viện Thông Đê, tổng Mạn Đê, phủ Nam Chân Đại vƣơng có công đánh giặc tin khoa học xã hội, Sách, tỉnh Hải Dƣơng Tống thời Tiền Lê kí hiệu TT- TS,FQ4018/XV, 34. Thần tích - Thần sắc làng Tạ Xá, Sự tích 7 vị thành hoàng làng, trong đó Thƣ viện Viện Thông 9 tổng Cao Đôi, phủ Nam sách, có vị Thạch Thành đại vƣơng, Đô tin khoa học xã hội, tỉnh Hải Dƣơng Thống uy linh đại vƣơng âm phù Lê Đại kí hiệu TT-TS, Hành đánh giặc Tống. FQ4018/IX, 92. Thần tích - Thần sắc xã Cập Nội dung nói về sự tích Hoằng Liệt Đại Thƣ viện Viện Thông 10 Nhất, tổng Cập Nhất, huyện vƣơng, Tƣớng Lại Đại vƣơng là các tin khoa học xã hội, Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng tƣớng đánh giặc Tống thời Tiền Lê kí hiệu TT - TS, FQ4018/IX,63. Thần tích - Thần sắc làng An Nội dung nói về sự tích Đức Thánh Cả Thƣ viện Viện Thông Lão, tổng Bình Hà, huyện Thanh Trần Trùng Quang, Ngũ Lang Lỗi Hứa tin khoa học xã hội, 11 Hà, tỉnh Hải Dƣơng Cƣ Sĩ đại thần, Già Cả Chƣng Nha đại kí hiệu TT-TS, thần, Đông Hải Đại vƣơng, Nam Hải đại FQ4018/IX,1. thần, Già Nuôi Nghĩa Nam Đại vƣơng có công đánh giặc Tống thời Tiền Lê Thần tích - Thần sắc thôn Can, Nội dung nói về sự tích Đức thành Thƣ viện Viện Thông làng Lan Can, tổng Du La, huyện hoàng Khang Phụ Đại vƣơng, An Lâm tin khoa học xã hội, 12 Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng Đại vƣơng, Hùng Xa Đại vƣơng có công kí hiệu TT-TS, đáng giặc Tống ở sông Bạch Đằng FQ4018/IX,30. Thần tích - Thần sắc làng Thống Nội dung nói về sự tích các ngài Đệ Thƣ viện Viện Thông 13 Lĩnh, tổng Lại Xá, huyện Thanh Nhất Xuân, Đệ Nhị Duyên, Đệ Tam tin khoa học xã hội, Hà, tỉnh Hải Dƣơng Nghiêm, Đệ Tứ Tiến có công bắt đƣợc kí hiệu TT – TS, 36 tƣớng Tống thời Tiền Lê. FQ4018/IX,50. Thần tích - Thần sắc làng Lạc Nội dung ghi sự tích năm anh em họ Tài liệu Viện Thông 14 Đạo, tổng Đông Đôi, huyện Chí Vƣơng ở Dƣợc Đậu Trang: Thiên Bồng tin khoa học xã hội, Linh, tỉnh Hải Dƣơng đại tƣớng quân húy Minh, Dƣợc Thánh kí hiệu TT-TS, linh ứng Đại vƣơng húy Xuân, Anh Vũ FQ4018/IX, 16b. 166 dũng lƣợc Đại vƣơng húy Hồng, Đào Hoa Trinh Thuận công chúa húy Đào, Liễu Hoa linh ứng công chúa húy Liễu giúp Lê Đại Hành đánh Tống 2. Hệ thống di tích: Stt Tên di tích Địa điểm Nhân vật đƣợc thờ 1 Đền Cao Xã An Lạc, Thờ tƣớng Vƣơng Đức Minh có Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng công đánh giặc Tống thời Tiền Lê 2 Đền Bến Cả Xã An Lạc, Thờ tƣớng Vƣơng Đức Hồng có Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng công đánh giặc Tống thời Tiền Lê 3 Đền Bến Tràng Xã An Lạc, Thờ tƣớng Vƣơng Đức Xuân có Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng công đánh giặc Tống thời Tiền Lê 4 Đền Cả Xã An Lạc, Thờ nữ tƣớng Vƣơng Thị Hồng, Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Vƣơng Thị Liễu có công đánh giặc Tống thời Tiền Lê 5 Đền thờ Xã An Lạc, Thờ vua Lê Đại Hành vua Lê Đại Hành Thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng 6 Đình Vũ Xá Xã Ái Quốc, Thờ Vũ Hoằng, Vũ Huệ, Vũ Động Tp. Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng có công đánh giặc Tống thời Tiền Lê 7 Đình Mạc Động Xã Liên Mạc, Thờ vua Lê Đại Hành Huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng 8 Đình An Lão Xã Thanh Khê, Thờ Đức Thánh Cả Trần Trùng Huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng Quang và 6 vị thiên thần có công đánh giặc Tống thời Tiền Lê 9 Đình Mạn Đê Xã Nam Trung, Thờ Thủ Chân Đại vƣơng có công Huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dƣơng đánh giặc Tống thời Tiền Lê 10 Đình Linh Khê Xã Thanh Quang, Thờ hai vị tƣớng Đào Viết Minh, Huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dƣơng Đào Viết Châu, có công đánh giặc Tống là Quách Tiến 11 Đền Lạc Xá Xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Thờ Vua Bà húy Tiểu Đồng Tiên có công giúp vua Lê Hoàn đánh 167 quân Tống 12 Đình Đông Du Xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Thờ thành hoàng là Nguyễn Gia Uy - vị tƣớng có công đánh Tống thời Tiền Lê, đƣợc vua phong Công Minh, Phúc Minh, Cƣ Sĩ Linh Ứng đại vƣơng 13 Đình Đốc Hậu Xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng, Thờ năm anh em họ Đặng là thành phố Hải Phòng XUÂN, TRUNG, THỌ, TUẤN, NGHIÊM ở trang Đốc Kính, lập nhiều chiến công đánh quân Tống trên sông Bạch Đằng và trận đánh trại Bàng Châu. 168 PHỤ LỤC 2 : THẦN TÍCH, VĂN BIA VÀ HỆ THỐNG DI TÍCH LIÊN QUAN ĐẾN VẠN KIẾP TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG XÂM LƢỢC THẾ KỶ XI 1. Thần tích, văn bia Stt Thần tích/Văn bia Nội dung Nơi lƣu giữ 1 Thần tích - Thần sắc làng Kỳ Côi, Ghi sự tích các vị tƣớng là Thƣ viện Viện Thông tin tổng Nại Xuyên, huyện Kim Thành, Nguyễn Công Hoằng, Nguyễn khoa học xã hội, kí hiệu tỉnh Hải Dƣơng. Công Quảng, Nguyễn Bà Da, TT-TS, FQ4018/IX,27. Thổ Kỳ Đức có công giúp Lý Thƣờng Kiệt đánh giặc Tống 2 Thần tích - Thần sắc làng Tạ Xá, Sự tích 7 vị thành hoàng, trong Thƣ viện Viện Thông tin tổng Cao Đôi, phủ Nam Sách, tỉnh đó có Phật Minh công chúa âm khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng phù Lý Thƣờng Kiệt đánh giặc TT-TS, FQ4018/IX, 92. Tống 3 Thần tích - Thần sắc làng Cao Đôi, Nói về sự tích thành hoàng làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Cao Đôi, phủ Nam sách, tỉnh Tạ Cao Cách đóng quân ở trại khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng Cao Đôi đánh giặc Quách Qùy TT-TS, FQ4018/IX, 92. 4 Văn bia “Thần tích bia ký” Nói về sự tích đánh giặc Tống Văn bia dựng năm 1867, của các tƣớng Cao Hiển cùng hai tại đình thôn Chí Linh, xã anh em Phạm Cƣờng, Phạm Uy Nhân Huệ, thị xã Chí ngƣời ở Ba Gia trang đánh giặc Linh, tỉnh Hải Dƣơng Tống trên sông Bình Than 2. Hệ thống di tích: Stt Tên di tích Địa điểm Nhân vật đƣợc thờ 1 Đình Lũ Phú Xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang Thờ tƣớng quân Vũ Thành đánh Tống năm 1077 2 Đình Xạ Sơn Xã Quang Trung, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dƣơng Thờ Đào Thành, Phạm Minh, Nguyễn Thiết, Vũ Oai có công giúp vua Lý đánh giặc Tống 3 Đình Dƣỡng Thái Xã Phúc Thành A, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dƣơng Thờ Nguyễn Thụy Hƣờng có công giúp vua Lý đánh giặc 169 Tống ở thế kỷ XI. 4 Miếu Ngọc Tân Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Thờ tƣớng Vũ Thành Vƣơng có công đánh giặc Tống năm 1077 5 Đình Phƣợng Sơn Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Thờ tƣớng Vũ Thành Vƣơng có công đánh giặc Tống năm 1077 6 Miếu xóm Hống Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Thờ tƣớng Cao Sơn có công đánh giặc Tống năm 1077 6 Đình Chí Linh Xã Nhân Huệ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Thờ tƣớng Cao Sơn có công đánh giặc Tống năm 1077 7 Đình Phao Tân Xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Thờ tƣớng Cao Sơn có công đánh giặc Tống năm 1077 8 Nghè Bồ Đề Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dƣơng Thờ tƣớng Vũ Thành Vƣơng có công đánh giặc Tống năm 1077 9 Đình Hữu Lộc Phƣờng Văn An, thị xã Chí Linh, Hải Dƣơng Thờ Đức Vua Bà có công giúp nhà Lý đánh giặc Tống 10 Đình Cách Bi Xã Cách Bi, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh Thờ Đức Thánh Linh Lang (Hoằng Chân), danh tƣớng danh tƣớng triều Lý đã lãnh đạo đội quân thủy chiến chống quân Tống xâm lƣợc trên chiến tuyến Nhƣ Nguyệt thế kỷ XI. 170 PHỤ LỤC 3: THẦN TÍCH, NGỌC PHẢ, VĂN BIA VÀ HỆ THỐNG DI TÍCH LIÊN QUAN ĐẾN VẠN KIẾP TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG - NGUYÊN XÂM LƢỢC THẾ KỶ XIII 1. Thần tích, ngọc phả và văn bia: Stt Thần tích/Văn bia Nội dung Nơi lƣu giữ 1 Thần tích - Thần sắc làng Viên Chử, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Phù Tải, huyện Kim Thành, tỉnh thờ thành hoàng làng là khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng. Nguyễn Bạch ngƣời bản trang, TT-TS, FQ4018/IX, 25. có công giúp vua Trần Nhân Tông đánh trận Bạch Đằng năm 1288 2 Thần tích - Thần sắc làng Quảng Đạt, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Cam Lâm, huyện Kim Thành, thờ vị thần là Châu Nƣơng có khoa học xã hội, kí hiệu tỉnh Hải Dƣơng. công âm phù vua Trần đánh TT-TS, FQ4018/IX, 11. giặc Mông - Nguyên 3 Thần tích - Thần sắc làng Cổ Dũng, Ghi chép sự tích tƣớng Nguyễn Thƣ viện Viện Thông tin tổng Lai Vu, huyện Kim Thành, tỉnh Gia Lộc mộ quân đi đánh giặc khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng. cùng Trần Hƣng Đạo TT-TS, FQ4018/IX,47. 4 Thần tích - Thần sắc làng Lạc Thiện, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Phí Gia, huyện Kim Thành, tỉnh thờ ba vị thần là Đào Nhã, Đại khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng. La húy Riễm, Xích Thố - Xích TT-TS, FQ4018/IX, 38. Đế có công đánh giặc Mông - Nguyên 5 Thần tích - Thần sắc làng Xuân Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Quang, xã Xuân Quang, huyện Kim thờ Trung Hoa Tể Đại tƣớng khoa học xã hội, kí hiệu Thành, tỉnh Hải Dƣơng. quân húy là Chiêu và vị thần TT-TS, FQ4018/IX,31. húy Hiển, có công đánh trận Bạch Đằng năm 1288 6 Thần tích - Thần sắc làng Trung Hang, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Nại Xuyên, huyện Kim Thành, thờ vị thứ nhất là Đào Nhã, vị khoa học xã hội, kí hiệu 171 tỉnh Hải Dƣơng. thứ hai là Đại La chi thần húy TT-TS, FQ4018/IX, 28. Riễm, vị thứ ba là Xích Thố, Xích Đế chi thần đánh giặc Mông - Nguyên 7 Thần tích - Thần sắc làng An Bình, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Cam Lâm, huyện Kim Thành, thờ hai vị tƣớng là Hiển Hựu khoa học xã hội, kí hiệu tỉnh Hải Dƣơng và Hoằng Độ có công đánh TT-TS, FQ4018/IX, 15. giặc Mông - Nguyên 8 Thần tích - Thần sắc làng Nhị Châu, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Trác Châu, phủ Nam Sách, tỉnh thờ Mại Ngô và Mại Độ là các khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng. tƣớng tham gia đánh trận TT-TS, FQ4018/IX, 22. Bạch Đằng 9 Thần tích - Thần sắc làng An Đông, An Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Đoài, tổng An Ninh, phủ Nam Sách, thờ tƣớng quân Nguyễn Tĩnh khoa học xã hội, kí hiệu tỉnh Hải Dƣơng. tham gia đánh giặc trên sông TT-TS, FQ4018/IX,51. Kinh Thầy 10 Thần tích - Thần sắc làng Thƣợng Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Triệt, tổng Thƣợng Triệt, phủ Nam thờ thành hoàng là Phả Hộ Đại khoa học xã hội, kí hiệu Sách, tỉnh Hải Dƣơng. vƣơng có công đánh giặc TT-TS, FQ4018/IX, 10. Mông - Nguyên 11 Thần tích - Thần sắc làng Nam Giàng, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Thƣợng Triệt, phủ Nam Sách, thờ thành hoàng làng là Phả khoa học xã hội, kí hiệu tỉnh Hải Dƣơng. Hộ Đại vƣơng có công đánh TT-TS, FQ4018/IX, 15. giặc Mông - Nguyên 12 Thần tích - Thần sắc làng Đông Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Giàng, tổng Thƣợng Triệt, phủ Nam thờ vị thần là Hộ, ngài đánh Ô khoa học xã hội, kí hiệu Sách, tỉnh Hải Dƣơng. Mã Nhi trận Lục Đầu Giang và TT-TS, FQ4018/IX, 12. hóa ngày 9 tháng 1 13 Thần tích - Thần sắc làng Mỹ Xá, tổng Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Thƣợng Triệt, phủ Nam Sách, tỉnh Hải thờ Đƣơng cảnh thành hoàng khoa học xã hội, kí hiệu 172 Dƣơng. Phổ Hộ Cƣ Sĩ Anh Linh Dung TT-TS, FQ4018/IX, 11. Quang Uy Đoán Đại vƣơng 14 Thần tích - Thần sắc làng Hoàng Xá Nội dung cho biết đình làng thờ Thƣ viện Viện Thông tin Nam, tổng Mạn Đê, phủ Nam Sách, Sùng Ân cƣ sĩ cùng Trần Hƣng khoa học xã hội, kí hiệu tỉnh Hải Dƣơng. Đạo đánh trận Bạch Đằng TT-TS, FQ4018/IX, 33. 15 Thần tích - Thần sắc làng Tháp Phan, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Lạc Nghiệp, phủ Nam Sách, tỉnh thờ Nguyễn Công Vàng, khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng. Nguyễn Cự, Nguyễn Hoằng, TT-TS, FQ4018/IX, 89. Nghiêm Công có công đánh giặc Mông - Nguyên 16 Thần tích - Thần sắc làng Lâm Xá, Nội dung cho biết đình làng thờ Thƣ viện Viện Thông tin tổng An Điền, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Trƣơng Công Độ có công giúp khoa học xã hội, kí hiệu Dƣơng. vua Trần đánh trận Bạch Đằng TT-TS, FQ4018/IX, 60. 17 Thần tích - Thần sắc làng Tống Xá, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng An Ninh, phủ Nam Sách, tỉnh thờ Cao Sơn, Đông Cực Quất khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng. Lâm Hiển Đức, Cửu Thiên TT-TS, FQ4018/IX, 49. Khai hóa Linh ứng Thiên tiên Công chúa có công âm phù Trần Hƣng Đạo đi đánh giặc ở sông Bạch Đằng 18 Thần tích - Thần sắc làng Phù Liễn, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Vạn Tải, phủ Nam Sách, tỉnh Hải thờ 3 vị tƣớng là Hùng, Dũng, khoa học xã hội, kí hiệu Dƣơng. Thuận Hoa công chúa có công TT-TS, FQ4018/IX, 53. giúp vua Trần đánh trận Bạch Đằng 19 Thần tích - Thần sắc làng Trần Xá, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng Cao Đôi, phủ Nam Sách, tỉnh Hải thờ vị Thiên Chân là Thƣợng khoa học xã hội, kí hiệu Dƣơng. tƣớng thời nhà Trần, bình giặc TT-TS, FQ4018/IX, 90. Mông - Nguyên đóng quân ở Trần Xá trang 173 20 Thần tích - Thần sắc làng Tạ Xá, tổng Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Cao Đôi, phủ Nam Sách, tỉnh Hải thờ 7 vị thành hoàng trong đó khoa học xã hội, kí hiệu Dƣơng có Trinh Thục Đoan Trang linh TT - TS, FQ4018/IX, 92. phù Thƣợng đẳng thần, Đô Thống dũng đức đại vƣơng, Đô Thống dƣơng vũ Đại vƣơng âm phù Trần Hƣng Đạo đánh giặc. Thần tích còn cho biết Trần Hƣng Đạo đóng quân ở làng Tạ Xá. 21 Thần tích - Thần sắc làng Lê Xá, tổng Thần tích 5 vị thành hoàng là Thƣ viện Viện Thông tin An Ninh, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Đô Thiên hiển ứng Đại vƣơng, khoa học xã hội, kí hiệu Dƣơng Đông đại thần, Mộc Kiều đại TT-TS, FQ4018/IX, 44. thần, Sóc Đạo đại thần, Đào Tuấn Lang đại thần âm phù Trần Hƣng Đạo đánh giặc 22 Thần tích - Thần sắc làng Đông Khê, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin tổng An Lƣơng, phủ Nam Sách, tỉnh thờ Đào Công Tuấn là thành khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng hoàng làng có công âm phù TT - TS, FQ4018/IX, 63. Trần Hƣng Đạo đánh giặc trên sông Bạch Đằng 23 Thần tích - Thần sắc thôn Đông, Đoài, Nội dung cho biết đình làng Thƣ viện Viện Thông tin Canh, làng Trác Trâu, tổng Trác Trâu, thờ các tƣớng Trần Quốc khoa học xã hội, kí hiệu phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dƣơng Nghiễn và Trần Quốc Tảng là TT-TS, FQ4018/IX, 24. con trai của Trần Hƣng Đạo 24 Thần tích - Thần sắc làng Linh Xá, Thần tích cho biết làng Linh Thƣ viện Viện Thông tin tổng Cao Đôi, phủ Nam Sách, tỉnh hải Xá thờ tƣớng quân Trần Khánh khoa học xã hội, kí hiệu Dƣơng Dƣ có công đánh giặc Mông - TT-TS, FQ4018/IX, 96. Nguyên làm thành hoàng. 25 Thần tích - Thần sắc làng Hào Xá, Sự tích Phả Hộ cƣ sĩ, Phả Tế cƣ Thƣ viện Viện Thông tin tổng Bình Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh sĩ, Phả Lại cƣ sĩ có công đánh khoa học xã hội, kí hiệu 174 Hải Dƣơng giặc Mông - Nguyên TT-TS, FQ4018/IX,7. 26 Thần tích - Thần sắc làng Vạn Tuế, Sự tích Du Dƣợc Thiên Tiên Thƣ viện Viện Thông tin tổng Hoàng Xá, huyện Thanh Hà, tỉnh linh phù tôn thần, Hoàng Hóa khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng Trung hƣng linh phù tôn thần, TT - TS, FQ4018/IX,72. Phả Tế Trung hƣng linh phù tôn thần, Phả Hộ trung hƣng linh phù tôn thần có công đánh giặc Mông - Nguyên ở làng Vạn Tuế 27 Thần tích - Thần sắc làng An Lão, Nội dung nói về sự tích Đức Thƣ viện Viện Thông tin tổng Bình Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Thánh cả Trần Trung Quang, khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng Ngũ Lang lỗi hứa cƣ sĩ đại TT-TS, FQ4018/IX,1. thần, Già Cả Chƣng Nha đại thần, Đông Hải đại vƣơng, Nam Cải đại thần, Già Nuôi Nghĩa Nam Đại vƣơng có công âm phù Trần Hƣng Đạo đánh giặc Mông - Nguyên 28 Thần tích - Thần sắc thôn Đông Ba, Nội dung nói về sự tích thờ hai Thƣ viện Viện Thông tin làng Nhan Biều, huyện Thanh Hà, tỉnh vị tƣớng là Hùng và Dũng có khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng công đánh giặc Mông - TT-TS, FQ4018/IX,75. Nguyên ở Chi Lăng ải, Vạn Kiếp đồn, Chƣơng Dƣơng xứ. 29 Thần tích - Thần sắc làng Khê Khẩu, Nói về sự tích tƣớng quân Trần Thƣ viện Viện Thông tin tổng Vĩnh Đại, huyện Chí Linh, tỉnh Hiển Đức giúp vua Trần đánh khoa học xã hội, kí hiệu Hải Dƣơng giặc Mông - Nguyên TT - TS, FQ4018/IX,8. 30 Ngọc phả Đình Cao, thôn Thanh Nộn, Nói về sự tích chữa bệnh cho Đình Cao, thôn Thanh xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh quân sỹ nhà Trần của bà Lê Nộn, xã Thanh Sơn, Hà Nam Thị Liên, khi mất đƣợc phong huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Hoàng Tràng công chúa Nam. 31 Ngọc phả đình Từ Lâm, xã Đồng Nói về tƣớng quân Hoa Duy Đình Từ Lâm, xã Đồng 175 Minh, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Thành có công tham gia đánh Minh, huyện Vĩnh Bảo, Phòng. quân Mông - Nguyên trong thành phố Hải Phòng. trận Vạn Kiếp 32 Thần phả thôn Cự Lai, xã Dũng Tiến, Sự tích Đô đốc chỉ huy sứ Vũ Đình Cự Lai, xã Dũng huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng Đăng Dũng ngƣời trang Đan Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Điền từng lập công lớn trong thành phố Hải Phòng trận đại phá quân Mông - Nguyên ở Vạn Kiếp. 33 Văn bia “Thần tích bia ký” Nói về sự tích tƣớng quân Trần Đình Khê Khẩu, xã Văn Hiển Đức giúp Trần Hƣng Đạo Đức, thị xã Chí Linh, Hải đánh giặc Mông - Nguyên Dƣơng 34 Văn bia “Ngọc phả thiên thần vị” Nói về tƣớng quân Phi Bồng Thác bản văn bia kí hiệu Hạo Thiên, có công âm phù 18740 - 18741 tại Thƣ Trần Hƣng Đạo đánh giặc viện Viện Nghiên cứu Mông - Nguyên Hán Nôm 2. Hệ thống di tích: Stt Tên di tích Địa điểm Nhân vật đƣợc thờ 1 Đền Kiếp Bạc Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Thờ Trần Hƣng Đạo cùng gia đình và Hải Dƣơng các tƣớng Yết Kiêu, Dã Tƣợng 2 Chùa Cao Đƣờng Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Phối thờ Trần Hƣng Đạo (Chùa Lác) Hải Dƣơng 3 Chùa Thạch Thủy Phƣờng Phả Lại, thị xã Chí Linh, Phối thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Hải Dƣơng 4 Chùa Bà Lan Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Thờ ngƣời phụ nữ có công trông kho Hải Dƣơng lƣơng ở Hố Thóc 5 Nghè Lẫm Xã Hƣng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Thờ quan trông kho lƣơng trong thái Hải Dƣơng ấp Vạn Kiếp 6 Đền Gốm Xã Nhân Huệ, thị xã Chí Linh, tỉnh Thờ Trần Khánh Dƣ Hải Dƣơng 176 7 Đền Trung Quê Xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Thờ Thiên Thành công chúa và con Dƣơng trai là Trần Quốc Nghiễn 8 Đền Dím Xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Thờ Thiên Thành công chúa, phu nhân Dƣơng Trần Hƣng Đạo 9 Đền Hóa Xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Thờ Phi Bồng tƣớng quân âm phù Dƣơng Trần Hƣng Đạo đánh giặc 10 Nghè Hổ Xã Lê Lợi, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Thờ Đông Công phu nhân giúp Thiên Dƣơng Thành công chúa cai quản khu vực hậu cần Trung Quê 11 Đình Chín Hạ Xã Bắc An, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Thờ 3 vị tƣớng thời Trần là Hồng Dƣơng Thiên Đại Vƣơng, Nguyễn Thành Đại Vƣơng, Chính Đình Đại Vƣơng. 12 Đền Khê Khẩu Xã Văn Đức, thị xã Chí Linh, tỉnh Thờ tƣớng quân Trần Hiển Đức có Hải Dƣơng công đánh giặc Mông - Nguyên 13 Đền thờ Yết Kiêu Xã Kênh Giang, thị xã Chí Linh, Thờ tƣớng quân Yết Kiêu tỉnh Hải Dƣơng 14 Đình Đông Xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Thờ Lƣu Công Dũng là tƣớng đánh Hải Dƣơng giặc Mông - Nguyên thời Trần 15 Đình Phƣơng Quất Xã Lạc Long, huyện Kinh Môn, tỉnh Thờ Trần Thúy Hồng - nữ tƣớng có Hải Dƣơng công giúp nhà Trần đánh giặc Mông - Nguyên thế kỷ XIII 16 Đình Châu Bộ Xã Hiệp Hòa, huyện Kinh Môn, tỉnh Thờ 3 vị thành hoàng làng giúp vua Hải Dƣơng Trần đánh giặc Mông - Nguyên 17 Đình Khuê Bích Xã Thƣợng Quận, huyện Kinh Môn, Thờ hai vị tƣớng thời Trần là Nguyễn tỉnh Hải Dƣơng Thiện và Lê Quang có công đánh giặc Mông - Nguyên trên sông Bạch Đằng 18 Đình An Thủy Xã Hiến Thành, huyện Kinh Môn, Thờ tƣớng quân Trần Quốc Tảng, con tỉnh Hải Dƣơng trai của Trần Hƣng Đạo 19 Đình Đồng Xá Xã Đồng Gia, huyện Kim Thành, Thờ tƣớng Đào Công Nhã phù vua tỉnh Hải Dƣơng Trần đánh giặc Mông - Nguyên 177 20 Đình Trần Xá Xã Nam Hƣng, huyện Nam Sách, Thờ Phạm Cẩn, Phạm Định, Huy tỉnh Hải Dƣơng Công có công giúp vua Trần đánh giặc Mông - Nguyên 21 Đình Linh Xá Xã Nam Hƣng, huyện Nam Sách, Thờ Trần Khánh Dƣ tỉnh Hải Dƣơng 22 Nghè Quan Đình Xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Thờ Nguyễn Công Vàng có công giúp Hải Dƣơng vua Trần đánh giặc Mông - Nguyên 23 Đền Ba Xã Xã Thƣợng Đạt, huyện Nam Sách, Thờ Yết Kiêu tỉnh Hải Dƣơng 24 Đình Cả Xã An Châu, TP. Hải Dƣơng, tỉnh Thờ Trần Quốc Tảng Hải Dƣơng 25 Đình Tống Xá Xã Thanh Quang, huyện Nam Sách, Thờ Đông Cực Quất Lâm Hiển Đức tỉnh Hải Dƣơng có công âm phù Trần Hƣng Đạo đánh trận Bạch Đằng 26 Miếu Du Tái Xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà, tỉnh Thờ Đặng Huyền Quang giúp vua Hải Dƣơng Trần đánh giặc Mông - Nguyên 27 Đình Lôi Động Xã Tân An, huyện Thanh Hà, tỉnh Thờ Yết Kiêu Hải Dƣơng 28 Đình Đụn Xã Thanh Xá, huyện Thanh Hà, tỉnh Thờ ba vị thành hoàng Nguyễn Danh Hải Dƣơng Quang, Nguyễn Danh Nguyện, Lý Đình Khuê là các tƣớng giúp vua Trần Nhân Tông đánh giặc Mông - Nguyên 29 Đình Tấy Xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà, Thờ ông Cao Minh Hiệu có công đánh tỉnh Hải Dƣơng giặc Mông - Nguyên 30 Chùa Hào Xá Xã Hào Xá, huyện Thanh Hà, tỉnh Thờ Trần Nhân Tông Hải Dƣơng 31 Chùa Minh Khánh Thị trấn Thanh Hà, huyện Thanh Hà, Thờ Trần Nhân Tông tỉnh Hải Dƣơng 32 Đình Lƣơng Xá Xã Kim Lƣơng, huyện Kim Thành, Thờ Đào Nhã ngƣời có công đánh tỉnh Hải Dƣơng quân Ô Mã Nhi ở trận Bạch Đằng 178 33 Đình chùa Nhị Phƣờng Ngọc Châu, Tp. Hải Dƣơng, Thờ hai vị tƣớng là Mai Ngô và Mai Châu tỉnh Hải Dƣơng Độ, ngƣời có công giúp vua Trần Nhân Tông đánh giặc Mông - Nguyên lần thứ ba năm 1288 34 Đình Châu Bộ Xã Hiệp Hòa, huyện Kinh Môn, tỉnh Thờ bà Phạm Thị Ngọc và hai con là Hải Dƣơng Đặng Tuấn và Đặng Võ là những ngƣời đã có công giúp vua Trần đánh giặc Mông - Nguyên 35 Đình Thịnh Lai Xã Đức Long, huyện Quế Võ, tỉnh Thờ Đặng Chính Sỹ ngƣời có công Bắc Ninh tham gia cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên thời Trần. 36 Đền Lê Độ Xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Thờ Trần Duy Hiển tƣớng thời Trần Bắc Ninh tham gia đánh quân Mông - Nguyên trên sông Lục Đầu 37 Đình Lâm Thao Xã Lâm Thao, huyện Lƣơng Tài, Thờ thành hoàng là Phù Linh có công tỉnh Bắc Ninh giúp nhà Trần đánh quân Ô Mã Nhi ở Lục Đầu Giang 38 Đình Ngọc Khám Xã Lâm Thao, huyện Lƣơng Tài, Thờ ba vị Hoằng Diệu, Phù Linh, tỉnh Bắc Ninh Thiên Minh là những tƣớng giúp nhà Trần đánh giặc Mông - Nguyên 39 Đền Vua Bà Xã Cảnh Thụy, huyện Yên Dũng, Thờ Đức Vua Bà ngƣời có công tiếp tế tỉnh Bắc Giang lƣơng thực trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên 40 Đền Cổ Phao Xã Đồng Việt, huyện Yên Dũng, Thờ Kiếm Tích Nghĩa Xuyên Tiền quân tỉnh Bắc Giang Đại tƣớng là gia tƣớng của Trần Hƣng Đạo, tham gia đánh trận Vạn Kiếp. 41 Đền Đà Hy Xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Thờ Trần Tuấn Sơn vị tƣớng thời Trần Bắc Giang tham gia trận đánh ải Nội Bàng 42 Đình Lãng Sơn Xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Thờ một vị tƣớng thời Trần đánh trận Bắc Giang Nội Bàng 179 43 Đền Khánh Vân Thị trấn Chũ, huyện Lục Ngạn, tỉnh Thờ tƣớng Vi Hùng Thắng có công Bắc Giang đánh giặc Mông - Nguyên 44 Đình Cẩy Xã Hƣơng Sơn, huyện Lạng Giang, Thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Bắc Giang 45 Đình Dâu Khoát Xã Nghĩa Hƣng, huyện Lạng Giang, Thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Bắc Giang 46 Nghè Quỳnh Xã Hƣơng Sơn, huyện Lạng Giang, Thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Bắc Giang 47 Đình Quỳnh Xã Hƣơng Sơn, huyện Lạng Giang, Thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Bắc Giang 48 Đình Trung Sơn Xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, Thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Bắc Giang 49 Đền Trần Xã Nghĩa Phƣơng, huyện Lục Nam, Thờ Trần Hƣng Đạo tỉnh Bắc Giang 50 Đình Từ Lâm Xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, Thờ Hoa Duy Thành có công đánh thành phố Hải Phòng. trận Vạn Kiếp 51 Đình Cao Xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, Thờ Hoàng Tràng công chúa Lê Thị tỉnh Hà Nam. Liên có công chữa bệnh cho quân sĩ nhà Trần 52 Đình Cự Lai Xã Dũng Tiến, huyện Vĩnh Bảo, Thờ Đô đốc chỉ huy sứ Vũ Đăng Dũng thành phố Hải Phòng lập công lớn trong trận đại phá quân Mông - Nguyên ở Vạn Kiếp 180 PHỤ LỤC 4: BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THỊ XÃ CHÍ LINH 181 PHỤ LỤC 5: SƠ ĐỒ KHU VỰC VẠN KIẾP (Nguån: Ban Qu¶n lý Di tÝch C«n S¬n-KiÕp B¹c) 182 PHỤ LỤC 6: SƠ ĐỒ BỐ PHÕNG KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG NĂM 981 Nguồn: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, “Lịch sử quân sự Việt Nam”, tập 3, Nxb. CTQG, H. 2003 183 PHỤ LỤC 7: SƠ ĐỒ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG NĂM 981 Nguồn: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, “Lịch sử quân sự Việt Nam”, tập 3, Nxb. CTQG, H. 2003 184 PHỤ LỤC 8: SƠ ĐỒ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG NĂM 1077 Nguồn: Internet 185 PHỤ LỤC 9: SƠ ĐỒ TRẬN NHƢ NGUYỆT NĂM 1077 Nguồn: Internet 186 PHỤ LỤC 10: SƠ ĐỒ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG - NGUYÊN LẦN 2 (1285) Nguồn: Tác giả tự lập 187 PHỤ LỤC 11: SƠ ĐỒ CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG - NGUYÊN LẦN 3 (1288) Nguồn: Tác giả tự lập 188 PHỤ LỤC 12: SƠ ĐỒ QUÂN MÔNG - NGUYÊN RÖT CHẠY Nguồn: Internet 189 PHỤ LỤC 13: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ DẤU TÍCH ĐẠI BẢN DOANH VẠN KIẾP TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MÔNG-NGUYÊN Đền Kiếp Bạc Nguồn: Tác giả Đền Trung Quê thờ Thiên Thành công chúa Nguồn: Tác giả 190 Đền Dím thờ người phụ nữ trông coi kho lương trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên (Nguồn: Tác giả) Miếu thờ Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn tại Trung Quê (Nguồn: Tác giả) 191 Am Chúa Bà thờ bà chúa trông kho lương tại Hố Thóc Nguồn: Tác giả Nghè Lẫm thờ quan trông coi kho lương trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên (Nguồn: Tác giả) 192 Chùa Gạo nơi tập kết lương thảo từ khu vực Trung Quê chuyển về Hố Thóc Nguồn: Tác giả Sông Lục Đầu (Nguồn: Internet) 193 Sông Vang (Nguồn: Tác giả) Ao Cháo (Nguồn: Tác giả) 194 Núi thuốc Dược Sơn (Nguồn: Tác giả) Thám sát khảo cổ học tại di tích Hố Thóc (năm 2000) Nguồn: Viện Khảo cổ 195 Dấu vết thóc cháy tại hố khai quật (Nguồn: Viện Khảo cổ) Thám sát khảo cổ học tại di tích Sinh Từ (năm 2000) (Nguồn: Viện Khảo cổ) 196 Hiện vật chì lưới bằng đất nung phát hiện tại Vạn Kiếp năm 1989 Nguồn: Bảo tàng Hải Dƣơng Hiện vật Đinh thuyền đào được tại Xưởng Thuyền năm 2000 Nguồn: Bảo tàng Hải Dƣơng 197 Một số vũ khí phát hiện tại khu vực đền Kiếp Bạc Nguồn: Ban QLDT Côn Sơn - Kiếp Bạc Đền Kênh Giang nơi thờ tướng quân Yết Kiêu Nguồn: Tác giả 198 Đền Khê Khẩu thờ tướng quân Trần Hiển Đức Nguồn: Tác giả Đền thờ Trần Hƣng Đại ở Suối Mỡ (Nguồn: Tác giả) 199 Dấu tích Đá mài gƣơm tại Suối Mỡ (Nguồn: Tác giả) Bãi đá mài gƣơm tại Suối Mỡ (Nguồn: Tác giả) 200

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_van_kiep_trong_lich_su_chong_ngoai_xam_tu_the_ky_x_d.pdf
Tài liệu liên quan