HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM VĂN XÂY
V¡N HãA THÈM Mü
TRONG NHµ TR¦êNG QU¢N §éI HIƯN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HĨA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VĂN ĐỨC THANH
PGS.TS. NGUYỄN TỒN THẮNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, cĩ
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo qui định.
Tác giả
Phạm Văn Xây
MỤC
205 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 357 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6
1.2. Đánh giá chung và bàn luận 19
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Ở VIỆT NAM 23
2.1. Những vấn đề chung về văn hóa thẩm mỹ 23
2.2. Đặc trưng của văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội 35
Chương 3: THỰC TRẠNG VĂN HÓA THẨM MỸ VÀ PHÁT HUY
VĂN HOÁ THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN
ĐỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 58
3.1. Khái lược về khách thể và phương thức khảo sát 58
3.2. Thực trạng các yếu tố cấu thành văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội ở Việt Nam hiện nay 63
3.3. Thực trạng tác động tổng thể của văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội ở Việt Nam hiện nay 89
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 104
4.1. Phát triển những yếu tố cấu thành của văn hóa thẩm mỹ trong nhà
trường quân đội 104
4.2. Phát huy văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội 124
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 161
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GDTM : Giáo dục thẩm mỹ
GD-ĐT : Giáo dục, đào tạo
GS.TS : Giáo sư, tiến sỹ
NTQĐ : Nhà trường quân đội
Nxb : Nhà xuất bản
PGS.TS : Phó giáo sư, tiến sĩ
QĐNDVN : Quân đội nhân dân Việt Nam
VHTM : Văn hóa thẩm mỹ
VHNT : Văn hóa nghệ thuật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa thẩm mỹ là lĩnh vực văn hoá đặc thù, biểu hiện trình độ phát triển
cao của văn hoá, phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực
thông qua hoạt động thẩm mỹ. Văn hóa thẩm mỹ (VHTM) luôn hiện diện, thẩm
thấu trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, chắt lọc những giá trị từ chính đời
sống thẩm mỹ để tác động trở lại tâm thức, thói quen của con người, tôn vinh cái
đẹp, làm cho các hoạt động hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo thẩm mỹ của con người
được thực hiện trên nền tảng một chỉnh thể giá trị chân - thiện - mỹ, hướng sự phát
triển nhân cách của con người theo chuẩn mực của cái đẹp. VHTM thực sự trở
thành tiêu chí tham chiếu, qui tụ thành hướng phát triển chung vì sự phát triển tiến
bộ của của con người và cộng đồng, xã hội.
Bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và giao lưu, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng của nước ta hiện nay đang tạo điều kiện thuận lợi cho VHTM của
mỗi cá nhân phát triển gắn với hình thành nhân cách. Song, bối cảnh ấy đồng thời
đặt ra những khó khăn, thách thức cho việc định hướng, tiếp thu, thưởng thức, đánh
giá, sáng tạo những giá trị VHTM của mỗi người. Trong quân đội cũng đang diễn ra
sự đan xen phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của các kênh tác động từ phía môi
trường xã hội và đã xuất hiện những "lệch chuẩn", mở đường cho những hiện tượng
tiêu cực, những phản giá trị thẩm mỹ len lỏi vào làm biến dạng đời sống văn hóa
tinh thần lành mạnh của quân nhân.
Đối với đời sống VHTM của nhà trường quân đội (NTQĐ) cũng vậy, thị
hiếu thẩm mỹ, tình cảm thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ và lý tưởng thẩm mỹ của cán
bộ, giảng viên, đặc biệt là học viên cũng ít nhiều bị ảnh hưởng tương tự. Do tuổi
đời, vốn sống, sự thử thách, rèn luyện chưa nhiều, nhân cách đang trong quá trình
định hình chưa thực sự ổn định nên học viên trong NTQĐ dễ bị tác động, lôi
cuốn bởi những cảm xúc, thị hiếu thẩm mỹ mới lạ. Không ít học viên thiếu am hiểu
về VHTM cũng như vai trò của nó đối với đời sống thẩm mỹ của bộ đội. Việc tổ
chức các hoạt động VHTM ở một số NTQĐ chưa tạo ra được nhiều cái đẹp mang
tính hệ thống, chưa tạo được sức thu hút, lôi cuốn quân nhân vào lĩnh vực VHTM.
Khi ra trường, một bộ phận sĩ quan trẻ lý tưởng thẩm mỹ còn mờ nhạt; chưa thấu
hiểu hết các giá trị VHTM trong đời sống và hoạt động quân sự; chưa phát huy hết
vai trò VHTM trong đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo thẩm mỹ của bộ đội;
2
chưa biết bảo vệ, giữ gìn, phát huy những giá trị VHTM truyền thống của dân tộc và
quân đội. Thực trạng đó đòi hỏi phải coi trọng phát triển VHTM trong NTQĐ tạo ra
đời sống VHTM vui tươi, lành mạnh, xây dựng các NTQĐ thực sự trở thành "pháo
đài" vững chắc về chính trị, tư tưởng, đồng thời là nơi tiếp nhận những tri thức khoa
học thẩm mỹ mới hoà nhập với mặt bằng chung của giáo dục - đào tạo (GD-ĐT) trong
nước và quốc tế, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới.
Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của VHTM trong xây dựng quân nhân và
tập thể quân nhân văn hóa, những năm qua các NTQĐ luôn quan tâm xây dựng và
phát triển VHTM, tạo ra đời sống thẩm mỹ lành mạnh, phong phú và làm cho hệ giá
trị VHTM luôn lan tỏa, thẩm thấu đến đời sống sinh hoạt, giảng dạy, học tập và rèn
luyện của cán bộ, giảng viên, học viên, hình thành ở họ tinh thần lạc quan, biết cảm
thụ cái hay, cái đẹp trong đời sống và hoạt động quân sự, không ngừng thúc đẩy các
quan hệ hài hoà trong môi trường sư phạm quân sự. Tuy nhiên, so với yêu cầu của
thực tiễn, quá trình phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ vẫn còn nhiều mặt
hạn chế, chưa cập nhật được tình hình phát triển đời sống thẩm mỹ chung của xã
hội, chưa phát huy hết mọi tiềm năng sáng tạo, cũng như chưa tạo ra môi trường
thuận lợi để phát triển năng lực sáng tạo tiềm ẩn của các chủ thể. Một số nhà trường
chưa thực sự chú trọng, quan tâm đến phát triển VHTM và xây dựng đời sống
VHTM vui tươi, lành mạnh, chưa coi đó là một khâu quan trọng làm chuyển biến
toàn diện và nâng cao chất lượng GD-ĐT. Điều đó đã dẫn đến đời sống VHTM ở
một số nhà trường còn tẻ nhạt, đơn điệu, dễ nảy sinh suy nghĩ và hành động tiêu cực
của học viên, cũng như không phát huy hết tiềm năng sáng tạo và xây dựng những
tập thể quân nhân trong nhà trường trở thành "điểm sáng văn hoá". Tình hình đó đòi
hỏi cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu nhằm luận giải, tìm ra thực chất và cách
thức giải quyết một cách khoa học.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu cơ bản, hệ thống về
"Văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường quân đội hiện nay" dưới góc độ Văn hoá học
là vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về VHTM, trên cơ sở
đó đề xuất những vấn đề cần giải quyết nhằm phát triển các yếu tố cấu thành
VHTM và phát huy VHTM trong NTQĐ đáp ứng mục tiêu phát triển toàn diện
3
nhân cách học viên hướng tới phát triển đội ngũ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ
thuật của quân đội trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về VHTM và đặc trưng của VHTM trong NTQĐ.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM trong tổ chức và hoạt động ở một số
NTQĐ tiêu biểu ở Việt Nam hiện nay.
- Xác định những vấn đề đặt ra về phát triển VHTM trong NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là VHTM gắn với hoạt động GD-ĐT trong
các NTQĐ ở Việt Nam hiện nay, được xem xét dưới góc độ Văn hoá học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án nghiên cứu một cách sâu sắc từ điểm đến diện về
VHTM ở các NTQĐ. Hiện nay, do hệ thống các NTQĐ có hơn một trăm học viện,
nhà trường đóng quân trên phạm vi toàn quốc, do đó luận án gọi chung là nhà
trường quân đội và chỉ chọn đại diện 3 nhà trường tiêu biểu cho ba lĩnh vực: chính
trị, quân sự và văn hóa nghệ thuật (VHNT), bao gồm: Học viện Chính trị; Trường
Sĩ quan Lục quân 1; Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
- Về thời gian: Luận án lấy mốc thời gian nghiên cứu VHTM trong NTQĐ từ
năm 2010 đến nay thông qua hoạt động của các chủ thể thẩm mỹ, gắn với các hoạt
động giảng dạy và học tập trong NTQĐ.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hoá, con người, các quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân
đội, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị để khảo sát, tìm hiểu bản chất của VHTM, cũng như phân tích
đặc trưng của VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay.
Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt
Nam hiện nay, thông qua hệ thống tài liệu, tư liệu, các văn bản, chỉ thị, nghị quyết,
của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục chính trị và kết quả
điều tra, khảo sát trong quá trình thâm nhập thực tế của tác giả tại một số nhà trường
4
tiêu biểu trong hệ thống NTQĐ. Luận án cũng dựa trên thực trạng công tác đảng,
công tác chính trị và cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa trong quân đội
những năm qua, coi đây là nguồn cung cấp luận cứ định hướng tư tưởng và tổ chức
để thực hiện luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích
các tài liệu, các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo tổng kết, các kết quả điều tra, nghiên
cứu về các hoạt động VHTM, giáo dục thẩm mỹ (GDTM) được thể hiện trong quá
trình GD-ĐT ở các NTQĐ từ năm 2010 đến nay, tiếp thu những kinh nghiệm thành
công, khắc phục những bất cập, từ đó tổng hợp, khái quát hóa, đưa ra những nhận
định có tính khoa học về phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp này giúp tác giả luận án đi sâu tìm
hiểu quá trình vận động và phát triển của VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện nay
gắn với nâng cao chất lượng GD-ĐT, xây dựng quân nhân và tập thể quân nhân có
văn hóa. Đồng thời, giúp cho tác giả luận án khái quát sự vận động của VHTM theo
đặc điểm của môi trường sư phạm quân sự và những vấn đề cần nghiên cứu phục vụ
cho triển khai thực hiện luận án.
Phương pháp hệ thống - cấu trúc: VHTM được cấu trúc bởi nhiều bộ phận,
nhiều thành tố, các bộ phận này có vị trí độc lập, chức năng riêng và vận động theo
qui luật của cái đẹp. Luận án sử dụng phương pháp này nhằm nghiêm cứu VHTM
trong NTQĐ VHTM một cách toàn diện, nhiều mặt, trong mối tương quan với hoạt
động GD-ĐT và hình thành nhân cách học viên, từ đó đưa ra những nhận định
nhằm phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này giúp tác giả luận án tham khảo ý
kiến của các chuyên gia có trình độ cao để xem xét, nhận định, đánh giá về VHTM nói
chung, VHTM trong NTQĐ nói riêng; qua đó làm rõ hơn về vấn đề nghiên cứu và
kiểm chứng tính cần thiết phải phát triển và phát huy VHTM trong NTQĐ hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp này thực chất là sự phân
tích một hay một số trường hợp điển hình cụ thể theo mục đích nghiên cứu của
mình. Nghiên cứu VHTM trong NTQĐ sẽ rất khó khăn khi nghiên cứu toàn bộ hệ
thống hơn một trăm nhà trường, do đó tác giả luận án chỉ chọn ba nhà trường tiêu
biểu để khảo sát, đánh giá thực trạng VHTM.
5
Phương pháp điều tra xã hội học (phiếu hỏi anket): Luận án sử dụng phương
pháp này nhằm khảo sát thực trạng VHTM trong NTQĐ thông qua việc thu thập
thông tin khách quan từ những người được điều tra, khảo sát.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Tác giả luận án tiến hành phỏng vấn một số
cán bộ, giảng viên và học viên trong NTQĐ, tìm ra nguyên nhân ưu, nhược điểm,
đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động của các thiết chế VHTM tại các
nhà trường.
Phương pháp điền dã thực địa (bao gồm cả điền dã tham dự và điền dã quan
sát): Phương pháp này giúp cho nghiên cứu sinh có được những dữ liệu trung thực
thông qua quan sát thực tế, ghi âm, ghi hình thực tiễn đời sống VHTM trong
NTQĐ; qua đó nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về thực trạng VHTM và đưa ra những
nhận xét, đánh giá mang tính khách quan, khoa học, có sức thuyết phục.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về VHTM và những đặc trưng tiêu
biểu của nó trong NTQĐ ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng VHTM trong NTQĐ ở Việt Nam hiện
nay thông qua những yếu tố cấu thành của nó, từ đó xác định những vấn đề đặt ra
đối với phát triển VHTM trong NTQĐ hiện nay
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần xây dựng luận cứ khoa học nhằm
xây dựng, phát triển và phát huy VHTM trong quân đội và ở các NTQĐ.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy trong các NTQĐ; đồng thời làm tài liệu tham khảo cho đội
ngũ cán bộ chính trị, cán bộ văn hóa vận dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
công tác đảng, công tác chính trị ở các đơn vị cơ sở.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án kết cấu thành 4 chương, 7 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, giới nghiên cứu trong
nước và quốc tế đã có những công trình nghiên cứu về VHTM, VHTM trong nhà
trường nói chung và VHTM trong NTQĐ nói riêng. Có thể nhận thấy một số hướng
nghiên cứu như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến văn hoá thẩm mỹ
Từ nhiều góc độ tiếp cận và luận giải khác nhau về văn hóa và VHTM, một
số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: "Giáo dục thẩm mỹ cho
con em trong gia đình" của P.M. Iakôpxôn [59]; "Cơ sở lý luận văn hoá Mác -
Lênin" do A.I. Acnônđôp [1]; "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của tập thể tác giả
[97]; "Mỹ học - khoa học diệu kỳ" của B.A. E-Ren-Grôxx [36] đều coi văn hoá
như một phương thức đánh dấu trình độ phát triển của con người và khẳng định:
"VHTM là một thành tố nằm trong hệ thống văn hóa tinh thần" [1, tr.217]. Tác giả
B.A. E-Ren-Grôxx cho rằng trong đời sống "cái đẹp luôn gắn liền với sự khẳng
định cuộc sống" [36, tr.58], nên khi mỗi con người cảm nhận, lĩnh hội và đánh giá
cái đẹp phụ thuộc rất nhiều vào "trình độ văn hóa và mức độ phát triển của họ" [36,
tr.73]. Vì vậy, GD-ĐT trong nhà trường cần coi trọng VHTM để giúp người học
phát triển nhu cầu thẩm mỹ, bộc lộ khuynh hướng nghệ thuật và biết xây dựng cái
đẹp cho mình. Do đó, "việc khêu gợi sự thụ cảm thẩm mỹ ở các em là công tác đặc
biệt của gia đình và nhà trường" [90, tr.12], giúp cho các em phát triển khả năng
cảm thụ, hiểu về cái đẹp trong thiên nhiên, trong nghệ thuật và xã hội.
Các công trình "Nguyên lý Mỹ học Mác - Lênin" của hai tác giả IU.A. Lukin,
V.C. Xcacherơsiccôp [71]; "Mỹ học cơ bản và nâng cao" của M.F. Ôpxiannhicôp chủ
biên [87]... là sản phẩm nghiên cứu mang tính lý luận sâu sắc, khái quát khá đầy đủ
những vấn đề cơ bản về VHTM và các loại hình nghệ thuật cũng như nêu rõ vị trí,
vai trò của của nghệ thuật trong đời sống xã hội. Các học giả nêu rõ: "Hoạt động
thẩm mỹ (là sáng tạo "theo qui luật của cái đẹp" cũng như cảm thụ cái đẹp) đưa lại
cho con người niềm vui tinh thần cao quí với ý nghĩa xã hội của nó, hoạt động
thẩm mỹ là phương tiện để đạt được mục đích nhất định" [71, tr.31]. Cái đẹp được
7
ẩn chứa trong mọi hoạt động của con người, trong mối quan hệ, giao tiếp xã hội, trong
lao động, sinh hoạt và trong nghệ thuật. Tuy nhiên, "cái đẹp luôn đòi hỏi sự hiểu biết,
đòi hỏi phải có tri thức" [71, tr.340], khi con người muốn cảm thụ được cái đẹp nhất
thiết phải hiểu được bản chất của các sự vật hiện tượng trong hiện thực. Do đó, việc
"phát triển văn hóa thẩm mỹ phải gắn liền với các nhiệm vụ giáo dục con người mới"
[71, tr.17] và phải làm cho "văn hóa thẩm mỹ thâm nhập dần dần vào tất cả mọi lĩnh
vực sống và hoạt động của con người đồng thời, vạch mặt tất cả những thế lực phản
thẩm mỹ" [87, tr.687], trở thành sức mạnh để cổ vũ cho lao động, tô điểm sinh hoạt và
làm cao đẹp con người. Nhà nghiên cứu M.F. Ôpxiannhicôp cho rằng: "Nếu giải quyết
được những nhiệm vụ đó, nghĩa là đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển VHTM,
nghệ thuật, cho sự hình thành con người hài hòa và toàn diện của xã hội" [87, tr.35].
Con người luôn có nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp, khi cái đẹp tác động vào con
người sẽ làm hài hòa những tình cảm, nguyện vọng, khao khát từ tư tưởng của họ và
hình thành lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp.
Khi nghiên cứu về "Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng", tác giả La Quốc Kiệt [65]
một nhà nghiên cứu Trung Quốc, đã đưa ra quan điểm về giá trị, luận chứng bản
chất và sự thống nhất giữa giá trị bản thân và giá trị xã hội trong nhân cách; đưa ra
nội dung, yêu cầu và con đường bồi dưỡng, xây dựng giá trị nhân cách. Đặc biệt,
ông đã đưa ra khái niệm "Tố chất văn hoá" và coi tố chất văn hoá là nền tảng, cốt
lõi có ảnh hưởng rất lớn và thẩm thấu mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển các
tố chất khác của con người. Do đó, việc tu dưỡng tố chất văn hoá sẽ là điều kiện
tiên quyết nhằm hoàn thiện nhân cách và năng lực thẩm mỹ ở mỗi cá nhân. Tuy
nhiên, trong tác phẩm này VHTM được tác giả hiểu theo nghĩa hẹp là "trình độ học
vấn". Do đó, nó chỉ được đặt bên cạnh các tố chất khác như: chính trị tư tưởng,
phẩm chất đạo đức, năng lực thẩm mỹ của mỗi cá nhân [65, tr.280-591].
Một số công trình bàn về vấn đề tầm quan trọng của VHTM như: "Xây dựng
và phát triển nền văn hóa thẩm mỹ ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong
điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế" của XiLửa BunKhăm [127]; "Vai trò của
văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào hiện nay" của Son Tha Nu Thăm Ma Vông [93] Trong công cuộc
đổi mới hiện nay ở Lào, vai trò của văn hóa nói chung, VHNT nói riêng đang từng
bước được khẳng định như là một nhân tố bên trong quá trình phát triển. Tác giả
Son Tha Nu Thăm Ma Vông đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về văn hóa, VHTM
8
và coi "văn hóa nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của VHTM, nằm trong văn
hóa tinh thần. Trung tâm của văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo, lưu giữ và phát huy
các giá trị nghệ thuật trong đời sống xã hội" [93, tr.16]. Do đó, cần xây dựng một
"nền văn hóa thẩm mỹ là cội nguồn của sức mạnh vật chất và tinh thần, là chỗ dựa,
là điểm xuất phát cho nhân dân các dân tộc" [127, tr.56]. Trên cơ sở nhận thức đầy
đủ vai trò và tác động của VHTM đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước, tác
giả XiLưa BunKhăm đã đề xuất các giải pháp về phương diện lãnh đạo và quản lý
để phát huy sức mạnh của VHTM và VHNT, làm cho các giá trị VHTM "thẩm thấu
vào toàn bộ các hoạt động xã hội, vừa đóng vai trò định hướng vừa là động lực và
hệ điều tiết quá trình phát triển kinh tế - xã hội [127, tr.63].
Các công trình nghiên cứu ở trong nước như: "C.Mác - Ph.Ăngghen -
V.I.Lênin và một số vấn đề lý luận văn nghệ" của Hà Minh Đức [34]; "Vai trò của
nghệ thuật trong đời sống tinh thần của con người" của Đào Duy Thanh [98]; "Vai
trò của văn hóa đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện
nay" của Đào Đình Thưởng [108]; "Nghệ thuật với sự phát triển nhân cách người
cán bộ lãnh đạo trong công cuộc đổi mới" của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn
Quốc Tuấn - 2000 [54] đã bàn sâu về vai trò của văn hóa nói chung, VHNT nói
riêng như là một nhân tố bên trong của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và phát
triển nhân cách của mỗi người. Do đó, cần nhận thức đầy đủ về vai trò và tác động
của văn hóa và VHNT tới con người, xã hội trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của
VHNT trong đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần và nâng cao năng lực thẩm mỹ của
nhân dân. Muốn vậy, trước tiên "nghệ thuật phải có sức mạnh trong việc phát triển
các thuộc tính trong tính cách và khí chất của người lãnh đạo theo yêu cầu của công
cuộc đổi mới" [54, tr.139], mặt khác, nghệ thuật phải góp phần làm cho "công nhân
và nông dân xứng đáng được hưởng những giá trị tốt đẹp nhất của nền văn hóa mới"
[34, tr.284]. Điều đó cho thấy, "nghệ thuật chân chính khi tác động đến thế giới tinh
thần của con người, nó không chỉ phát triển thị hiếu, năng lực cảm thụ, cảm xúc
thẩm mỹ mà còn có ý nghĩa đánh giá cái đẹp" [98, tr.77]. Tuy nhiên, trong nền kinh
tế thị trường hiện nay, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, hưởng lạc, khát vọng
tiền tài, quyền lực đang len lỏi vào đời sống. Do đó, cần phải định hướng thị hiếu
thẩm mỹ cho các hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật, cũng như
cần nâng cao tính chiến đấu trong sáng tác, lý luận phê bình, để phục vụ sự nghiệp
đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
9
Một số công trình: "Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc
sống và trong nghệ thuật" của tác giả Nguyễn Văn Phúc [90]; "Đưa cái đẹp vào
cuộc sống" của Như Thiết [103]; "Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống thẩm mỹ" của
Nguyễn Chương Nhiếp [84], "Triết học thẩm mỹ và nhân cách" của Nguyễn Thế
Kiệt - 2014 [66] đã tiếp cận VHTM như là cái được sinh ra để thỏa mãn nhu cầu
hưởng thụ cái đẹp, đem lại cho con người những khoái cảm tinh thần, sự phong phú
nội tâm, thức tỉnh khả năng cảm thụ và sáng tạo thẩm mỹ. Theo đó, việc đưa cái đẹp
vào các lĩnh vực của cuộc sống (lao động, chiến đấu, học tập, quan hệ giao tiếp, nếp
sống, lối sống, trang phục, nghệ thuật) là một đòi hỏi tất yếu: "Bởi cái tốt và cái
đẹp cùng ra đời từ lao động. Từ lao động cho mình và cho xã hội, lương tâm, vinh
dự, trách nhiệm sẽ xuất hiện" [66, tr.71]. Một mặt, nó đáp ứng những nhu cầu về
văn hóa tinh thần của con người, mặt khác nó vạch trần cái xấu, cái lạc hậu. Để thực
hiện được nhiệm vụ "đưa cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày đòi hỏi chủ thể thẩm mỹ
phải có ý thức, năng lực thẩm mỹ và phát huy tính chủ động, tích cực của mình"
[103, tr.38-110]. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà "các phản giá trị đang
làm méo mó thị hiếu của một bộ phận không nhỏ công chúng" [90, tr.117], cho nên
cần phải sử dụng VHTM như là phương tiện trong việc giáo dục đạo đức và xây
dựng nhân cách con người.
Một loạt công trình nghiên cứu về: "Văn hóa thẩm mỹ và nhân cách" của
Lương Quỳnh Khuê [63] "Văn hoá thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam
trong thế kỷ mới" của Nguyễn Văn Huyên [55]; "Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển
năng lực sáng tạo của con người" của Nguyễn Ngọc Thu [105]; "Văn hoá với sự
phát triển của xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa" của Lê Quang
Thiêm - 1998 [102] đã khẳng định VHTM gắn liền với sự phát triển, hoàn thiện
những giá trị cao cả, tốt đẹp của con người, xã hội theo tiêu chí chân, thiện, mỹ "tạo
nên những nhân cách năng động, sôi nổi, đầy khát vọng đưa xã hội đến bình đẳng,
tự do, văn minh, hạnh phúc" [55, tr.20]. Văn hóa thẩm mỹ còn tạo môi trường cho
các hoạt động sáng tạo; đặc biệt trong điều kiện xã hội hiện nay khi khoa học, công
nghệ đang phát triển như vũ bão thì năng lực sáng tạo của con người càng có ý
nghĩa quan trọng, bởi "sáng tạo như là một hoạt động cải tiến, nâng cấp những cái
đã có lên một trình độ cao hơn" [105, tr.37]. Hơn nữa, "văn hóa thẩm mỹ không
phải là cái có sẵn, mà do con người tạo ra thông qua hoạt động thực tiễn" [105,
tr.53], nó làm cho mỗi người trở thành một chủ thể thẩm mỹ có khả năng cảm thụ,
10
nhận thức, đánh giá và sáng tạo theo "quy luật của cái đẹp". Tuy nhiên, sự suy thoái về
phẩm chất đạo đức, lối sống hiện nay tiếp tục diễn biến phức tạp, những tiêu cực, thói
hư tật xấu đang có biểu hiện gia tăng. Do đó, "văn hóa thẩm mỹ phải trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội, đóng vai trò điều tiết và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
bằng chính tác động của nó đối với việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, hình
thành và phát triển ở họ một nhân cách hài hòa, toàn vẹn" [63, tr.110].
Trong các công trình về: "Vai trò của truyền thông đại chúng trong giáo dục
thẩm mỹ ở nước ta hiện nay" của Trần Ngọc Tăng [95]; "Về giáo dục thẩm mỹ ở
nước ta hiện nay" của Vĩnh Quang Lê [68]; "Giáo dục lý tưởng thẩm mỹ cho thanh
niên thông qua hệ thống thiết chế nhà văn hoá" của Trần Quốc Bảng [4]; "Giáo dục
thẩm mỹ trong việc hình thành lối sống văn hoá cho thanh niên vùng đồng bằng
sông Cửu Long hiện nay" của Lương Thanh Tân [96] các tác giả đã tiếp cận
VHTM thông qua các hình thức GDTM nhằm "tác động vào tư tưởng, tình cảm của
con người bằng các giá trị thẩm mỹ" [68, tr.52]. Đó là cái đẹp trong lao động, sản
xuất, cái đẹp trong thiên nhiên, lịch sử, gương các anh hùng xưa và nay, cái đẹp của
những tư tưởng lớn, sự nghiệp lớn, cái đẹp của VHNT... Các hoạt động thẩm mỹ đã
dùng toàn bộ các giá trị VHTM làm phương tiện để giáo dục, nâng cao năng lực,
xây dựng tình cảm thẩm mỹ trong sáng để con người có thể phân biệt rạch ròi cái
đẹp, cái xấu. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, cùng với sự xuất hiện nhiều điển hình
về lối sống đẹp thì cũng có sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống ở một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Do đó, GDTM là một giải pháp hữu hiệu để định hướng giá
trị, "cổ vũ và làm lành mạnh hóa các nhu cầu của nhân dân và xã hội" [96, tr.25].
Để tạo hiệu quả GDTM, cần dùng nhiều hình thức giáo dục một cách sâu rộng, hấp
dẫn, đặc biệt là "các phương tiện truyền thông đại chúng có thể góp phần GDTM
cho mọi đối tượng đông đảo nhất (trên quy mô toàn xã hội)" [96, tr.113-114].
GDTM là cơ chế trực tiếp để chuyển VHTM của xã hội thành VHTM cá nhân, tạo
cơ chế phòng ngừa ảnh hưởng của những phản giá trị nảy sinh từ mặt trái cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế; đồng thời kích thích năng lực thẩm mỹ tiềm ẩn trong
mỗi con người, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển chủ thể thẩm mỹ
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Một số nghiên cứu tiêu biểu về: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học và mỹ
học" của Cù Huy Chử [36]; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thẩm mỹ cho thế
hệ trẻ" của tác giả Nguyễn Chương Nhiếp và các cộng sự [83]; "Tư tưởng Hồ Chí
11
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng con người mới, văn hóa mới" của
Nguyễn Trung Thu [106] đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự kết
tinh các giá trị văn hóa mang tầm vóc dân tộc và nhân loại, đại diện cho trí tuệ, tư
tưởng và tình cảm của dân tộc Việt Nam. Các giá trị tư tưởng của Người không chỉ
đúng với quá khứ, hiện tại mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với tương lai, là ngọn đèn
pha soi sáng, chỉ hướng cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Các tác
giả tiếp cận VHTM trong tư tưởng của Người từ cái đẹp được nảy sinh trong cuộc
sống, trong nghệ thuật và xác định "văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng con
người và trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống" [106, tr.162]. Do đó, sáng tạo
nghệ thuật phải vì nhân dân, phải biết ca ngợi cái hay, cái tốt, phê phán cái xấu,
"không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu, nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái
hay cái tốt phải có chừng mực, chớ phóng đại" [36, tr.69]. Đây chính là điều kiện
để mở đường cho cái đẹp phát triển, đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, làm cho
nhân dân, đặc biệt là thanh niên biết biến nhận thức thành niềm tin, biến niềm tin
thành lẽ sống và biến lẽ sống tốt đẹp thành lối sống, thành tập quán, thành "bản chất
người", vượt qua thói hư tật xấu để đến với cái đẹp, cũng như bồi dưỡng cho quân
và dân "một tình yêu say mê cái thiện và cái mỹ" [83, tr.46].
Những công trình nghiên cứu về: "Đạo đức học - Mỹ học và đời sống văn
hóa nghệ thuật" của Đỗ Huy [52]; "Sự biến đổi của chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ
trong thời kỳ đổi mới ở Việt nam" của Vũ Thị Kim Dung [13];"Thực tiễn thẩm mỹ -
cội nguồn của văn hoá thẩm mỹ" của Nguyễn Ngọc Thu [104]; "Vai trò của văn
hóa thẩm mỹ đối với sự phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay" của Lê
Thị Thuỳ Dung [14] đã tiếp cận VHTM thông qua hoạt động của chủ thể trong
đời sống thẩm mỹ. Hoạt động sáng tạo luôn đòi hỏi "chủ thể đó phải có con mắt, đôi
tai thẩm mỹ mới và có khả năng sáng tạo mới" [52, tr.284], phải lấy lịch sử dân tộc
làm điểm nhìn và lấy "đạo đức làm cơ sở cho cái thẩm mỹ" [52, tr.280] và phải biết
gắn mình trong "quan hệ thẩm mỹ, trong hoàn cảnh và điều kiện xã hội nhất định..."
[104, tr.34]. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay: "Đảng ta đã vạch rõ và nhấn mạnh
những biểu hiện xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Đó là tệ sùng bái nước
ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng cá nhân vị
kỷ, gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc" [13, tr.171]. Để khắc phục tình
trạng trên thì mỗi cá nhân phải tự "xây dựng cho mình một lý tưởng thẩm mỹ sáng
ngời góp phần xây dựng nền kinh tế mới, chế độ xã hội mới và con người mới xã
12
hội chủ nghĩa" [52, tr.459]. Các chủ thể cần phải được sống và học tập trong một
môi trường VHTM lành mạnh, thấm đậm tinh thần nhân văn để hình thành thị hiếu
thẩm mỹ tiến bộ, lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn, coi lý tưởng cách mạng là mục tiêu
phấn đấu, thắp sáng lên ở họ tình yêu cuộc sống, từng bước hoàn thiện bản thân và
giúp ích cho cộng đồng.
Trên cơ sở khảo sát thực tiễn trong nước và trên thế giới, các công trình: "Thỏa
mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật" của Trần Độ [31]; "Cái đẹp -
một giá trị" của Đỗ Huy [49]; "Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội" do Huỳnh Khái Vinh [126]; "Các giá trị văn hóa Việt Nam chuyển từ truyền thống
đến hiện đại" của Đỗ Huy [53] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội và cho rằng quá trình hội nhập, giao lưu quốc tế và sự phát
triển của đời sống kinh tế - xã hội... tất yếu dẫn đến sự chuyển hoá lối sống, đạo đức
với những cấp độ khác nhau. Do đó, "Chìa khóa giải quyết mối quan hệ giữa phát triển
văn hóa với xây dựng con người là phải xây dựng và hình thành được các giá trị (hệ giá
trị) nhằm xác định trình độ và điều chỉnh được năng lực sống và phát triển hợp lý giữa
cá nhân và xã hội, giữa con người và văn hóa" [126, tr.102]. Việc phát triển các giá trị
VHTM phải hướng tới thỏa mãn nhu cầu văn hóa, nhu cầu thẩm m...sáng tạo, quá trình bảo quản và truyền đạt, quá trình tiếp
nhận và đánh giá các giá trị thẩm mỹ. Văn hóa thẩm mỹ phản ánh trình
độ và chất lượng của sự phát triển năng lực thực tiễn, tinh thần của con
người trong toàn bộ hoạt động sống của họ [127, tr.12].
25
Theo quan niệm của tác giả thì VHTM luôn lan tỏa và tác động vào trong
toàn bộ hoạt động thực tiễn của cá nhân, cộng đồng. Với góc nhìn hoạt động học,
VHTM giúp cho con người có khả năng sáng tạo, thưởng thức, đánh giá và "nhào
nặn" hiện thực theo "qui luật của cái đẹp".
Ở Việt Nam, khái niệm VHTM cũng đã được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ
nhiều góc độ khác nhau. Tác giả Lương Quỳnh Khuê trong công trình nghiên cứu
"Văn hóa thẩm mỹ và nhân cách" đã đưa ra khái niệm: "VHTM là một hệ thống
chỉnh thể bao hàm bên trong nó những năng lực tinh thần - thực tiễn đặc biệt giúp
con người có khả năng hoạt động theo các qui luật của cái đẹp nhằm cảm thụ, nhận
thức, đánh giá và sáng tạo nên các giá trị thẩm mỹ" [63, tr.11]. Tác giả cho rằng
VHTM là một bộ phận hữu cơ của văn hóa nhân loại và có liên quan chặt chẽ tới
trình độ giải phóng con người, cổ vũ những năng lực sáng tạo, cũng như góp phần
tạo dựng và phát triển nhân cách toàn diện, hài hòa cho mỗi cá nhân.
Nhóm tác giả của cuốn sách "Văn thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam
trong thế kỷ mới" do tác giả Nguyễn Văn Huyên chủ biên [55] cũng coi VHTM như là
sự thể hiện và thực hiện các năng lực thẩm mỹ của con người trong toàn bộ các hoạt
động xã hội của họ và là phương thức thẩm mỹ của các hoạt động đó. Theo đó, VHTM
Là một thể thống nhất hữu cơ các giá trị thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo
thẩm mỹ của con người đang hiện thực hóa những năng lực thẩm mỹ của
họ, đồng thời văn hóa thẩm mỹ còn là hệ thống độc đáo, xuyên suốt tất cả
các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, khoa
học đến các quan hệ, các giao tiếp của con người [55, tr.52].
Khái niệm trên cho thấy, các tác giả đã đặt VHTM trong mối tương quan với
văn hóa. Thông qua hoạt động thẩm mỹ, các giá trị VHTM đã thẩm thấu vào tất cả
các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Tác giả Vũ Thị Kim Dung trong công trình nghiên cứu "Về sự biến đổi của
chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam" [13] đã xác định
VHTM không thể hiện riêng ở một hoạt động xã hội cụ thể nào, mà luôn là một bộ
phận của đời sống văn hóa xã hội và có mặt trong mọi hoạt động của con người từ
lao động sản xuất, quan hệ giao tiếp, trong sản xuất và thưởng thức các giá trị văn
hóa tinh thần, đến xây dựng môi trường sống, môi trường làm việc và trong các hoạt
động giáo dục hoàn thiện nhân cách. Tác giả quan niệm:
26
Văn hóa thẩm mỹ là sự biểu hiện đặc trưng nhất của "phương thức tồn tại
người", thể hiện trình độ tổng hợp cao của văn hóa xã hội, được hợp
thành bởi hệ thống các giá trị thẩm mỹ kết tinh những năng lực sáng tạo
của con người. Văn hóa thẩm mỹ liên quan chặt chẽ với trình độ phát
triển, hoàn thiện con người [13, tr.13].
Dưới góc độ kinh tế học, cuốn: "Giáo trình văn hóa kinh doanh" do Dương
Thị Liễu chủ biên khẳng định: "Thẩm mỹ là sự hiểu biết và thưởng thức cái đẹp"
[69, tr.32]. Thẩm mỹ liên quan đến sự cảm thụ nghệ thuật, đến thị hiếu của nền văn
hóa, từ đó ảnh hưởng đến giá trị và thái độ của con người. Do tính thẩm mỹ của mỗi
nền văn hóa khác nhau, theo đó giá trị thẩm mỹ của các nền văn hóa cũng có sự
khác nhau. Ví dụ như: "Giá trị thẩm mỹ của người Mỹ khác xa với thẩm mỹ của
người Trung Quốc, điều đó được phản ánh rõ nét qua hội họa, văn chương, âm nhạc
và thị hiếu nghệ thuật" [69, tr.33]. Và cuốn sách cho rằng: "Văn hóa thẩm mỹ quyết
định cách nhìn nhận về cái đẹp hướng tới chân, thiện, mỹ" [69, tr.32].
Như vậy, các nhà nghiên cứu mặc dù có những cách tiếp cận và mục đích
nghiên cứu khác nhau, nhưng nhìn nhận khái quát từ các quan niệm trên đều thấy
nổi lên một số phương diện chủ yếu sau:
Thứ nhất, VHTM được biểu hiện trong tất cả các hoạt động và những sản
phẩm do con người sáng tạo ra. Tất nhiên, không phải bất cứ cái gì con người tạo ra
cũng là giá trị VHTM, mà chỉ trong những sản phẩm phản ánh, chứa đựng những
giá trị chân, thiện, mỹ. Hơn nữa, VHTM không phải là bản thân sản phẩm, mà chỉ là
"dấu ấn" biểu hiện trình độ thẩm mỹ - trình độ "người" trên sản phẩm đó mà thôi.
Do vậy, VHTM có mặt trong mọi hoạt động thực tiễn của con người, song bản chất
sâu kín của nó chính là những "dấu ấn nhân tính" trong đó.
Thứ hai, VHTM là phương diện thẩm mỹ của mọi quan hệ văn hóa, (quan hệ
giữa con người với tự nhiên, với xã hội và với chính mình). Tuy nhiên, chỉ có các
quan hệ nhân văn của con người mới giữ vai trò chi phối, chế ước, quyết định quan
hệ bản năng. Hạt nhân của VHTM chính là tổng hoà các quan hệ nhân văn chứa
đựng "bản chất người" trong quá trình phát triển, hoàn thiện không ngừng, song đó
là cái “nhân văn thẩm mỹ”. Dưới góc độ này, VHTM sẽ bao gồm cả VHTM cá
nhân và VHTM cộng đồng ở các cấp độ rộng hẹp khác nhau, theo đó VHTM luôn
tồn tại trực tiếp với tính cách cái đẹp trong các quan hệ người.
27
Thứ ba, VHTM được biểu hiện trong hệ giá trị của VHTM bao gồm hệ tư
tưởng và quan điểm, tri thức thẩm mỹ; chuẩn mực thẩm mỹ, cách ứng xử, giao tiếp
đẹp; thuần phong mỹ tục, lối sống đẹp... có tính khuôn mẫu. Hệ giá trị VHTM đó được
con người sáng tạo và phát triển trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình, đánh dấu
trình độ, năng lực sáng tạo VHTM và chi phối trở lại đời sống cộng đồng.
Thứ tư, sự "thăng hoa" của VHTM là trí tuệ thẩm mỹ, được kết tinh trong
quá trình tư duy sáng tạo của con người về phương diện cái đẹp. Trí tuệ được hình
thành từ cuộc sống, do đó xã hội càng phát triển thì trí tuệ con người càng trở thành
động lực của sự phát triển, và cũng chính những sáng tạo thẩm mỹ của con người đã
góp phần làm cho các nền văn hóa có thể mở thông với nhau. Với ý nghĩa này,
VHTM thể hiện bản chất của nó cả ở tầng hệ tư tưởng - khoa học, cả ở tầng tâm lý
xã hội và ở cả các biểu tượng nghệ thuật như sự kết tinh của trí tuệ.
Thứ năm, thông qua hoạt động VHTM của mỗi cộng đồng người những giá
trị VHTM được sáng tạo theo tiêu chí chân - thiện - mỹ. Đó là mặt định tính để nhìn
nhận một hiện tượng, một quá trình, một mối quan hệ, một dạng thức hoạt động...
nào đó có mang ý nghĩa VHTM hay không. Nói đến VHTM là nói đến sáng tạo,
những quá trình tái tạo chỉ là minh chứng tiếp theo để khẳng định sự sáng tạo
VHTM. Song, chỉ có những dấu ấn sáng tạo thẩm mỹ mang tính nhân văn, tức là
xuất phát từ con người, phục vụ lợi ích chính đáng của con người và góp phần nuôi
dưỡng nhân cách con người mới được bao hàm trong VHTM.
2.1.1.2. Bản chất của văn hóa thẩm mỹ
Với góc độ nghiên cứu của Văn hoá học, cần phải tiếp cận VHTM ở tất cả
các phương diện trên và chỉ ra bản chất của VHTM là sự thống nhất hữu cơ giữa hai
bình diện, bao gồm: tiếp cận VHTM với tính cách bộ là phận của văn hoá; và tiếp
cận VHTM dưới góc độ một thực thể của đời sống thẩm mỹ.
Văn hoá thẩm mỹ với tính cách là bộ phận của văn hoá
Văn hoá là hiện tượng gắn liền với đời sống con người. Ngay từ thuở bình
minh lịch sử, khi con người xuất hiện với bước tiến hoá nhảy vọt từ đời sống bầy
đàn sang cộng đồng xã hội có nhân tính thì văn hoá cũng đồng thời nảy sinh. Trong
quá trình phát triển, con người luôn cố gắng ghi lại những dấu ấn văn minh của
cộng đồng mình, thời đại mình bằng biểu trưng văn hoá, từ những nét vẽ sơ giản
trên các hang động - nơi cư trú đầu tiên - đến hệ thống bảng chữ cái - sự ra đời của
lịch sử thành văn. Văn hoá dần dần bao quát hầu như toàn bộ đời sống tinh thần của
28
con người, đồng thời cũng đánh dấu sự nỗ lực của con người trong lịch sử nhân tính
hoá mọi mặt đời sống vật chất cũng như cách thức tổ chức cộng đồng. Với tư cách
là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hoá, mỗi cộng đồng, dân tộc khác nhau tạo ra
và tôn thờ một hệ giá trị, chuẩn mực văn hoá mang đặc tính riêng, nhưng thống nhất
với nhau ở ở hệ giá trị chung chân, thiện, mỹ. Thuộc tính sáng tạo và thuộc tính
nhân văn là bản chất cốt lõi của văn hóa, đến lượt nó, lại được thẩm thấu vào đời
sống, vào trong các hoạt động của con người và cộng đồng người. Trong đó, văn
hóa nói chung được hiểu như là trình độ phát triển nhân tính, phát triển các sức
mạnh bản chất người của con người và cộng đồng, cho nên "văn hóa thẩm mỹ
chính là sự thể hiện và thực hiện các năng lực thẩm mỹ của con người trong toàn bộ
các hoạt động xã hội của họ" [55, tr.51]. Cùng với sự phát triển của xã hội, thì năng
lực sáng tạo của con người cũng ngày càng phát triển và mức độ đưa cái hay, cái
đẹp vào đời sống sẽ đánh giá trình độ VHTM của một xã hội hay của một cá nhân.
Đây "thực chất là quá trình sáng tạo và tiêu thụ cái đẹp" [55, tr.62], do đó khi phân
biệt VHTM với các dạng văn hóa khác (văn hoá sản xuất, văn hoá chính trị, văn hoá
giao thông) người ta thường coi cái đẹp là tiêu chí mang tính đặc trưng. Dưới góc
nhìn của văn hoá học thì các giá trị VHTM hàm chứa trong tất các phương diện đời
sống xã hội nói chung, cũng như toàn bộ phương diện văn hoá của đời sống xã hội
nói riêng, xét đến cùng đều thể hiện bản chất của nó với tính cách là một bộ phận
của văn hóa và hiện thực hoá thông qua hoạt động sống của con người trong tiến
trình lịch sử. Với tư cách một bộ phận của văn hóa, VHTM là một chỉnh thể bao
gồm bên trong nó những năng lực tinh thần - thực tiễn đặc biệt giúp con người có
khả năng hoạt động theo quy luật của cái đẹp nhằm cảm thụ, nhận thức, đánh giá và
sáng tạo giá trị thẩm mỹ mới. Vì vậy, việc nghiên cứu VHTM như một thành tố đặc
biệt, hữu cơ của văn hóa sẽ giúp chúng ta xác định đầy đủ và toàn diện hơn về khái
niệm cũng như các thành tố của nó; đồng thời giúp chúng ta có cơ sở để bàn sâu
hơn vấn đề phát triển và phát huy VHTM trong đời sống cộng đồng.
Trước kia, nhiều nhà nghiên cứu coi VHTM chỉ là hoạt động nghệ thuật, thậm
chí đồng nhất giữa VHTM với VHNT. Tuy nhiên, những năm gần đây các nhà khoa
học trên thế giới và ở Việt Nam đã nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, coi
"VHTM là bộ phận hữu cơ của văn hoá nhân loại" [63, tr.5], nó biểu hiện trình độ phát
triển cao của các quan hệ văn hoá - xã hội, trong đó VHNT chỉ là một thành tố quan
trọng của VHTM. Xã hội càng văn minh, thì VHTM càng trở thành chìa khóa để sáng
29
tạo ra các giá trị VHTM mới. Bởi, "trình độ phát triển của văn hóa thẩm mỹ cá nhân
càng cao thì nhu cầu VHTM, tức là yêu cầu các loại hình nghệ thuật càng rộng, và từ
đó kết quả tham gia hoạt động xã hội, hay có thể nói, kết quả sáng tạo càng lớn" [55,
tr.389]. Nhờ có VHTM mà con người trở nên "người" hơn nhờ rung cảm với cái đẹp và
sáng tạo cái đẹp không chỉ trong lĩnh vực nghệ thuật mà còn trong toàn bộ hoạt động
sản xuất và đời sống. Điều đó cho thấy, do yêu cầu thực tiễn đặt ra các nhân tố thẩm
mỹ đang gia tăng trong mọi hoạt động của con người và cộng đồng, việc đưa cái đẹp
vào cuộc sống đã trở thành đòi hỏi cấp thiết. Việc làm cho VHTM hiện diện và lan toả
trong tổng thể các quan hệ người (quan hệ với tự nhiên, xã hội và với chính bản thân
mình) và trong các hình thức truyền bá, phổ biến tri thức VHTM nhằm xây dựng và
phát triển những năng lực phẩm chất người về phương diện thẩm mỹ.
Cũng như văn hoá nói chung, VHTM chỉ chứa đựng cái giá trị, đối lập với
tất cả những cái phản giá trị. Tính giá trị của VHTM là tiêu chuẩn để phân định với cái
xấu, ngăn chặn, loại trừ cái phản chân, phản thiện, phản mỹ, giúp mỗi cá nhân, cộng
đồng lựa chọn, tiếp nhận và sáng tạo giá trị thẩm mỹ một cách tự giác và có chủ đích,
bởi xu hướng vươn tới cái đẹp là một trong những quy luật hoạt động của con người.
Điều đó cũng đồng nghĩa với việc con người luôn phải tạo dựng cho mình những năng
lực, cảm xúc thẩm mỹ. Nếu con người không có cảm xúc thẩm mỹ, thì không những tự
đánh mất sự tồn tại của mình với tư cách chủ thể thẩm mỹ, mà còn làm suy kiệt chính
mình với tư cách chủ thể văn hoá. Đúng như Biêlinxki đã viết: "Cảm xúc về cái đẹp là
một điều kiện làm nên phẩm giá con người. Phải có nó con người mới có trí tuệ, phải
có nó nhà bác học mới cất mình lên những tầm cỡ thế giới phải có nó người ta mới
không quỵ ngã dưới sức đè nặng trĩu của cuộc đời và làm nên những chiến công" [71,
tr.8]. Như vậy, có thể nói "Văn hóa thẩm mỹ là một bộ phận tinh tế, sâu sắc của văn
hóa, nó thấm vào toàn bộ các hoạt động của xã hội" [127, tr.63] làm cho nền văn hóa
dân tộc phát triển và vận hành theo "quy luật của cái đẹp". Mặt khác, cũng cần thấy
VHTM không phải là cái có sẵn mà là cái do con người tạo ra thông qua các hoạt động
thẩm mỹ trong thực tiễn. Cùng với văn hoá, VHTM làm phong phú và phát triển thế
giới tinh thần của con người, bồi dưỡng tình cảm, làm gia tăng sự tinh tế, nhạy cảm với
cái mới, tăng cường ý chí và nghị lực, hình thành nhân cách và lý tưởng thẩm mỹ.
Văn hóa thẩm mỹ với tính cách là một thực thể của đời sống thẩm mỹ
Nếu như bản chất của VHTM tiếp cận với tính cách là bộ phận quan trọng
của văn hoá chủ yếu được thể hiện như những yếu tố cụ thể, đơn nhất thì cách
30
tiếp cận VHTM dưới góc độ một thực thể của đời sống thẩm mỹ tập trung luận
giải về bản chất và sự phát triển VHTM trong tính chỉnh thể, nhằm nhận thức và
xử lý hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống của con người. Bản chất của VHTM,
theo cách tiếp cận này, là kết quả quá trình khái quát và trừu tượng hoá, tạm thời
"tước bỏ" những sắc thái riêng biệt của từng hiện tượng thẩm mỹ hoặc sự đan
xen, gắn kết, chuyển hoá giữa các yếu tố thẩm mỹ với các phương diện khác
trong đời sống xã hội để có cách nhìn tổng thể về VHTM như một thực thể xuất
hiện tất yếu trong đời sống thẩm mỹ của con người, gắn chặt với toàn bộ các
động thái thuộc lĩnh vực thẩm mỹ.
Văn hóa thẩm mỹ với tính cách một thực thể của đời sống thẩm mỹ thường
hiện diện như một "không gian văn hoá", trong đó bao quát cái tinh tuý của mọi
động thái thẩm mỹ trong cộng đồng, của từng cá nhân nhằm hướng tới mục đích
hoàn thiện con người, tức là làm cho các giá trị VHTM "thâm nhập vào mọi "đường
gân thớ thịt" của xã hội; nó vừa là cái "quả" phát triển của thẩm mỹ, vừa là phương
tiện để không ngừng nâng cao sự phát triển văn hóa của mỗi con người và cộng
đồng [46, tr.648]. Theo ý nghĩa này, VHTM thường bao quát các hoạt động cảm
thụ, nhận thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của con người... đồng thời có tính độc
lập tương đối so với các phương diện ấy. Tiếp cận VHTM dưới góc độ một thực thể
của đời sống thẩm mỹ có ý nghĩa quan trọng nhằm nhận thức đúng về VHTM. Song về
bản chất, không thể có một không gian VHTM thuần tuý, biệt lập mà đó chính là toàn
bộ đời sống thẩm mỹ của cộng đồng được nhìn dưới bình diện VHTM. Rõ ràng,
VHTM luôn có mặt mọi hoạt động và mọi phương diện của đời sống thẩm mỹ, là dấu
ấn sáng tạo và nhân văn theo tiêu chí chân - thiện - mỹ của con người trong toàn bộ đời
sống và hoạt động, cho nên không gian văn hoá chỉ là sự lược quy toàn bộ "chất
VHTM" từ đời sống và hoạt động thẩm mỹ của con người cùng cộng đồng. Đời sống
và hoạt động của con người và cộng đồng bao giờ cũng là một chỉnh thể thống nhất, có
quan hệ hữu cơ, khăng khít với nhau, qui định, chế ước, tương tác lẫn nhau theo những
qui luật khách quan và tạo ra hệ thống giá trị VHTM bao gồm "sự thống nhất biện
chứng của các yếu tố trong chỉnh thể. Mỗi yếu tố (tiểu hệ) lại là một thể phức hợp các
yếu tố (vi hệ)" [46, tr.648]. Dưới góc độ một thực thể của đời sống thẩm mỹ, VHTM
tồn tại ở nhiều dạng thức và vì thế có thể cấu trúc bằng nhiều cách như: theo hình thái
tồn tại, theo lĩnh vực, chủ thể sáng tạo, theo loại hình sinh hoạt xã hội, các dạng hoạt
động, lĩnh vực hoạt động, theo đặc điểm địa lý, môi trường, phương thức sống, tín
31
ngưỡng, tôn giáo Tuy nhiên, sự phân định này chỉ là tương đối, bởi trên thực tế các
dạng thức tồn tại của VHTM luôn đan lồng trong nhau, gắn bó hữu cơ với nhau.
Hơn nữa, VHTM không chỉ thuần tuý bao hàm các yếu tố phản ánh hoạt
động và quan hệ thẩm mỹ, mà còn bao hàm cả những yếu tố tự nhiên khi được xem
xét trong quan hệ giữa tự nhiên với con người về mặt thẩm mỹ. Con người chinh
phục thiên nhiên, cải tạo và bồi bổ thiên nhiên, cảm thụ cái hay, cái đẹp từ thiên
nhiên, đồng thời đưa các giá trị VHTM vào thiên nhiên... không chỉ để thoả mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, mà còn để lớn lên về mặt văn hoá. Đó chính
là dấu ấn sáng tạo VHTM của con người trong hoạt động cải tạo thế giới. Nhờ hoạt
động đó, con người không chỉ sáng tạo ra các giá trị VHTM ngày càng nhiều và tinh
tế hơn, mà còn tự hoàn thiện, tự phát triển những "năng lực bản chất người", trong
đó có năng lực thẩm mỹ. Nói khác đi, năng lực sáng tạo VHTM "vừa tồn tại trong con
người, vừa tồn tại như một thực thể do con người sáng tạo ra và quay trở lại nuôi
dưỡng đời sống cộng đồng" [46, tr.648]. Bởi vậy, từ chiều sâu bản chất của mình, con
người luôn yêu cái đẹp, khát khao cảm thụ, sáng tạo cái đẹp và mong muốn đưa cái đẹp
vào cuộc sống. Cũng nhờ hoạt động thẩm mỹ thực tiễn, những quan hệ nhân tính của
con người được nảy nở, phát triển và văn hoá hoá. Con người sáng tạo ra những quan
hệ người và tạo cho mình trình độ, năng lực thẩm mỹ để nhận biết được đẹp hay xấu,
thuận cảm hay phản cảm giá trị hay phản giá trị. Đó chính là cách mà "VHTM tham
gia vào quá trình định hướng giá trị xây dựng những yếu tố tích cực của xu hướng cá
nhân trong sự phát triển nhân cách" [63, tr.84].
Như vậy, con người với toàn bộ hoạt động thẩm mỹ của mình luôn hướng
tới phát triển các giá trị VHTM. Hay cũng có thể nói, con người là nguồn gốc sáng
tạo ra các giá trị VHTM, mọi giá trị VHTM đều gắn với con người, cho nên "văn
hóa thẩm mỹ là trình độ thẩm mỹ trong các quan hệ xã hội của con người" [105,
tr.57]. Chỉ có các quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực mang tính sáng tạo
và nhân văn mới đúc kết nên giá trị VHTM. Do đó, "văn hóa thẩm mỹ trong tư cách
thực thể lấy sự thể hiện, sự thực hiện cũng như sự đối tượng hóa các sức mạnh bản
chất người làm mục đích tự thân" [55, tr.47] và trở thành nét đặc thù độc đáo, dễ
nhận diện nhất của VHTM, xuyên thấm đến con người bằng cái đẹp, thông qua cái
đẹp, từ đó đánh thức năng lực thẩm mỹ, làm nảy sinh khát vọng, cảm hứng sáng tạo
và phát triển năng lực tiềm ẩn của con người. Xem xét VHTM dưới góc độ thực thể
của đời sống thẩm mỹ còn cho thấy, VHTM "luôn thấm sâu vào nhân cách con
32
người và đời sống cộng đồng một cách bền vững [46, tr.649] và là phương diện văn
hóa hoá mọi hoạt động thẩm mỹ.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận Mácxít, PGS.TS Tạ Văn Thành khẳng
định: "Văn hóa thẩm mỹ là sự phát triển năng lực thẩm mỹ của con người (thụ cảm,
nhận thức, sáng tạo thẩm mỹ) thể hiện ra trong hoạt động thẩm mỹ (có trong mọi
hoạt động của con người) và kết tinh lại ở các giá trị thẩm mỹ" [30].
Từ kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học với những cách tiếp cận VHTM
nêu trên, luận án thống nhất sử dụng khái niệm: Văn hoá thẩm mỹ là một chỉnh thể
các giá trị thẩm mỹ được kết tinh từ tất cả các hoạt động thụ cảm, sáng tạo, nhận
thức thẩm mỹ của con người trong một cộng đồng văn hoá nhất định, đồng thời
có tác động trở lại không thể thiếu đối với đời sống thẩm mỹ của con người và cộng
đồng theo những thiết chế văn hoá nhất định.
Quan niệm này được thể hiện rõ hơn qua các yếu tố cấu thành VHTM.
2.1.2. Các yếu tố cấu thành văn hóa thẩm mỹ
2.1.2.1. Những cách tiếp cận đa dạng về cấu trúc văn hóa thẩm mỹ
Có thể thấy VHTM là một thể cấu trúc hết sức phức tạp theo cả chiều sâu lẫn
diện rộng. VHTM là một hiện tượng xã hội mang cấu trúc đa tầng, đa cấp độ, đã
được các tác giả tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau để phục vụ cho những mục
đính nghiên cứu riêng của mình.
Một số học giả Liên Xô và Việt Nam dưới góc nhìn Mỹ học đã cho rằng
VHTM được thể hiện ở ba lĩnh vực chủ yếu: khách thể thẩm mỹ, chủ thể thẩm mỹ
và nghệ thuật. Ở góc độ hoạt động học, các tác giả: Lương Quỳnh khuê, Vũ Thị
Kim Dung, Nguyễn Trần Bạt, Lê Thị Thùy Dung đều thống nhất rằng, VHTM
gồm có ba thành tố: năng lực thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ.
Trong khi đó, nhóm tác giả của cuốn sách "Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con
người Việt Nam trong thế kỷ mới" quan niệm VHTM bao gồm: ý thức thẩm mỹ;
hoạt động thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ [55, tr.119].
Ở góc độ Xã hội học văn hoá, tác giả Nguyễn Ngọc Thu trong cuốn "VHTM
và sự phát triển năng lực sáng tạo của con người" lại chia cấu trúc VHTM thành hai
phần cơ bản: VHTM xã hội và VHTM cá nhân. VHTM xã hội luôn đóng vai trò nền
tảng, bao gồm: Hoạt động cải biến vật chất; hoạt động cải biến tinh thần; hoạt động
cải biến xã hội và hoạt động cải biến thể chất, và VHTM của các hoạt động này
chính là phương diện hoặc yếu tố thẩm mỹ của chúng. Còn VHTM cá nhân bao
33
gồm các cấp độ: cấp độ hoạt động - thực tiễn; cấp độ tâm lý - tình cảm; cấp độ lý
tính. Sự thống nhất và tác động qua lại của các thành tố, các cấp độ của VHTM cá
nhân sẽ đảm bảo sự phát triển hài hòa VHTM cá nhân. VHTM xã hội được cấu
thành từ VHTM cá nhân và ngược lại, VHTM xã hội có vai trò to lớn trong sự hình
thành VHTM cá nhân.
Luận điểm đáng chú ý nhất là của PGS.TS Tạ Văn Thành trong bài tham
luận về "Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn hóa học"
(1/2006) [30], cho rằng các thành tố của VHTM bao gồm: chủ thể thẩm mỹ; giá trị
thẩm mỹ; hoạt động thẩm mỹ; các thiết chế quản lý, định hướng, phổ biến các giá
trị thẩm mỹ và GDTM
2.1.2.2. Quan niệm của luận án về các yếu tố cấu thành văn hóa thẩm mỹ
Trực tiếp kế thừa, phát triển các luận điểm trên, luận án cho rằng VHTM bao
gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau: giá trị thẩm mỹ (cái giá trị); hoạt động thẩm
mỹ (cái mang giá trị); thiết chế VHTM (cái định hướng giá trị); tác động tổng thể
của tất cả các yếu tố ấy trong đời sống cộng đồng (cái thực hiện giá trị). Riêng chủ
thể thẩm mỹ được luận án quan niệm là trung tâm cốt lõi, xuyên suốt trong tất cả
các thành tố trên.
Giá trị văn hóa thẩm mỹ là kết quả của quá trình thưởng thức, đánh giá và
sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ được khẳng định về mặt ý nghĩa xã hội của
nó. Thực chất, giá trị VHTM là tổng thể các giá trị từ đời sống xã hội xét theo hệ
tiêu chí chân - thiện - mỹ. Hay có thể nói, giá trị VHTM là những giá trị tinh thần
được thừa nhận không chỉ bởi chủ thể thẩm mỹ mà còn là sự chấp nhận chung của
cộng đồng và là sự xã hội hóa ý nghĩa của sự vật, hiện tượng theo "quy luật cái đẹp".
Nói đến giá trị thẩm mỹ là nói đến quan hệ giữa chủ thể và đối tượng thẩm mỹ, gắn với
nhu cầu nhất định của chủ thể. Theo đó, các giá trị VHTM luôn được thử thách, đánh
giá trong thực tiễn, đồng thời là hạt nhân trong đời sống thẩm mỹ của mỗi cá nhân và
cộng đồng người. Một hiện tượng thẩm mỹ chỉ khi được xã hội thừa nhận mới mang ý
nghĩa như hệ chuẩn mực VHTM, có tác dụng định hướng, điều tiết, đánh giá, thẩm
định trở lại đối với cá nhân và cộng đồng. Giá trị VHTM luôn được kết tinh, biểu hiện
trong các hoạt động VHTM; các quan hệ thẩm mỹ và các nhân cách văn hóa, các thiết
chế VHTM trở thành một hệ thống mang tính chỉnh thể và là tế bào của VHTM.
Hoạt động văn hóa thẩm mỹ bao hàm mọi động thái sáng tạo của con người
đưa cái đẹp vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhằm thỏa mãn các nhu
34
cầu về cảm thụ, thưởng thức cái đẹp và thông qua các hoạt động VHTM con người
tạo ra các giá trị VHTM. Cũng thông qua hoạt động VHTM, các mặt khác như quan
hệ thẩm mỹ, thiết chế VHTM cũng được phát triển về mặt thẩm mỹ để hợp thành
diện mạo của VHTM. Có thể thấy, hoạt động VHTM là hoạt động đặc biệt, biểu
hiện sâu sắc những phẩm chất văn hóa chỉ có ở con người, nhằm khám phá, nhận
thức, thấu hiểu, chiếm lĩnh, đánh giá và sáng tạo thế giới một cách thẩm mỹ. Hoạt
động VHTM của con người không những đi sâu vào chiều sâu các khách thể do con
người tác động vào, mà còn bồi bổ thái độ, tình cảm thẩm mỹ rất riêng của mình, từ
đó đánh thức năng lực sáng tạo tiềm ẩn, hoàn thiện năng lực, trình độ VHTM, tthực
sự là nền tảng cho sự trau dồi vốn sống và nhân cách, nâng con người trần thế thành
người đạo đức - thẩm mỹ.
Thiết chế văn hóa thẩm mỹ được coi là "trung khu thần kinh" của nền văn
hoá, nhằm bảo đảm đời sống văn hoá, tạo thuận lợi cho quá trình "sản xuất", "trao
đổi", "phân phối" và "tiêu dùng" văn hoá của xã hội. Hệ thống này bao gồm: các
thiết chế VHTM lãnh đạo - chỉ huy như đảng uỷ, người chỉ huy, kế hoạch, quy chế,
phương thức hoạt động VHNT...; các thiết chế VHTM tổ chức thực hiện như cơ
quan chức năng (cơ quan chính trị, ban tuyên huấn - thanh niên - phụ nữ), nhà văn
hóa, cán bộ chuyên trách...; các thiết chế VHTM cơ sở vật chất - VHTM như thư
viện, bảo tàng, câu lạc bộ, kinh phí công tác VHNT... Hệ thống thiết chế VHTM
cùng gắn bó, hỗ trợ nhau, thực sự phát huy vai trò là phương tiện chuyển tải những
giá trị văn hóa đến công chúng và đảm bảo điều kiện cho xây dựng mặt bằng văn
hóa và phát huy dân chủ về văn hóa ở cơ sở" [113, tr.69]. Đặc biệt, thiết chế VHTM
đóng vai trò hệ vận hành và điều tiết bên trong mang tính chỉnh thể để lựa chọn các
giá trị VHTM tham gia vào việc thiết kế, chuẩn hoá và đưa vào nền nếp các quan hệ
thẩm mỹ, việc lựa chọn, phát động, phát huy tác dụng của các hoạt động, cảnh quan
VHTM, để không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống VHTM.
Tác động tổng thể của các yếu tố trong đời sống cộng đồng được coi là mắt
khâu quan trọng nhất, bởi nó vạch rõ tính hướng đích của VHTM. Có thể nói tất cả
yếu tố giá trị VHTM, hoạt động VHTM, thiết chế VHTM, sẽ không mang một ý
nghĩa nào nếu thiếu đi thành tố này. Cũng như văn hoá nói chung, VHTM không
hình thành như một nhu cầu tự thân, mà xét đến cùng bao giờ cũng từ con người, do
con người và cho con người. Đương nhiên, tác động trở lại của văn hoá đến con
người và cộng đồng về bản chất là hướng con người và cộng đồng phát triển theo
35
đúng quỹ đạo người - ngày càng làm giàu nhân tính. Song riêng đối VHTM, chức
năng ấy còn có những nét rất đặc thù - đó là lấy phạm trù "cái đẹp" làm nhân lõi và
tiêu chí xuyên suốt. Nhìn tổng thể, thì VHTM trước hết đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ
và phát triển đời sống văn hóa tinh thần của con người và cộng đồng theo tiêu chí
nhân văn, trong đó cái đẹp là trung tâm. VHTM còn thông qua đó góp phần hoàn
thiện nhân cách con người và xây dựng, phát triển các hình thức tổ chức cộng đồng
người theo hướng ngày một văn hoá hơn. Đặc biệt, VHTM còn thể hiện vai trò trực
tiếp trong việc thẩm mỹ hoá mọi mặt, mọi lĩnh vực, mọi phương diện của đời sống
con người, từ sản xuất, tiêu dùng vật chất đến đời sống trí tuệ, tinh thần, thậm chí cả
phương diện đời sống văn hoá tâm linh.
2.2. ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA THẨM MỸ TRONG NHÀ TRƯỜNG
QUÂN ĐỘI
Do khách thể nghiên cứu của mình, luận án đặc biệt quan tâm khái quát
những đặc trưng mang tính riêng của từng yếu tố cấu thành VHTM trong NTQĐ.
2.2.1. Đặc trưng về hệ thống giá trị văn hóa thẩm mỹ trong nhà trường
quân đội
Khác với giá trị VHTM nói chung, giá trị VHTM trong NTQĐ luôn xoay
quanh trục chính là các giá trị VHTM phản ánh trực tiếp đời sống và hoạt động
quân sự. Có thể khẳng định điều đó trên các mặt dưới đây:
Một là, VHTM trong NTQĐ bao hàm, song hành giá trị kép: giá trị thẩm mỹ
của cộng đồng dân tộc và những giá trị thẩm mỹ quân sự. VHTM trong NTQĐ bên
cạnh những giá trị thẩm mỹ chung của cộng đồng dân tộc còn có những giá trị mang
đặc thù quân đội, phản ánh mối liên hệ nội tại của tổ chức và hoạt động quân sự,
được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng
với sự đa dạng về đời sống VHTM của quân nhân và được kết tinh trong nhân cách
"Bộ đội Cụ Hồ". Những giá trị thẩm mỹ chung của dân tộc và đặc thù của quân đội
và NTQĐ được hòa quện, đan bện vào nhau, thẩm thấu vào mọi quan hệ của đời
sống quân sự, trở thành động lực phát triển của các NTQĐ. Từng giá trị VHTM
trong NTQĐ lúc đầu thường xuất hiện với tư cách cái đơn nhất, song trong quá
trình thực hiện giá trị, nó buộc phải cọ xát với rất nhiều giá trị, tiêu chí thẩm mỹ của
xã hội, quân đội để tự khẳng định, theo đó trở thành giá trị chung được cộng đồng
chấp thuận. Đó là con đường chuyển hoá từ giá trị đơn nhất thành giá trị phổ biến.
Ngược lại, những giá trị thẩm mỹ chung của xã hội và giá trị mang đặc thù quân sự
36
khi thấm vào môi trường sư phạm của từng NTQĐ cũng luôn được chế ước, tương
tác, bổ sung, uốn nắn lẫn nhau cho phù hợp với nhu cầu sống của chủ thể trong
NTQĐ. Nói cách khác, VHTM trong NTQĐ luôn dung hợp những giá trị thẩm mỹ
phổ quát của dân tộc và những giá trị thẩm mỹ đặc thù của quân đội vào trong các
hoạt động GD-ĐT, lấy đó làm phương tiện để GDTM, nhằm phát huy cái đúng, cái
tốt, cái đẹp, cái anh hùng, cao thượng trong đời sống quân sự. Một mặt, đó là sự
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ nói chung, mặt khác đó chính là quá trình cải
biến triệt để các giá trị VHTM chung để tạo nên hệ giá trị VHTM mới mang sắc
thái, đặc thù độc đáo của quân đội, trong đó có NTQĐ. Đương nhiên, NTQĐ không
chỉ là môi trường nghiêm khắc rèn luyện bản lĩnh chiến đấu, mà còn là môi trường
phát triển con người toàn diện. VHTM trong NTQĐ luôn tham gia quá trình phát
triển cái tốt, cái đẹp, tính tự chủ, tự giác và hình thành lý tưởng, ý chí thẩm mỹ,
vươn lên trong học tập, rèn luyện, xây dựng nếp sống chính quy, hình thành cái đẹp
trong nhân cách, trong tâm hồn của học viên. Xét trên bình diện xã hội thì NTQĐ
không phải là một môi trường cá biệt, độc lập, tách rời môi trường xã hội, mà luôn
mang đầy đủ những đặc tính chung của VHTM xã hội. Nhưng đó không phải sự sao
chép một cách cơ học, mà là sự dung hợp, đồng bộ, biện chứng giữa các giá trị thẩm
mỹ xã hội, với những giá trị thẩm mỹ được kết tinh từ chính hoạt động quân sự
cũng như hoạt động dạy và học trong NTQĐ, hình thành nên một ki...của nhà trường có
được duy trì thường xuyên không? (chọn 1 phương án)
Duy trì thường xuyên c
Duy trì không thường xuyên c
Không duy trì c
Khó trả lời c
Câu 54: Theo đồng chí, phẩm chất nào dưới đây bị sa sút nhiều nhất hiện
nay? (tùy chọn phương án trả lời)
Lòng trung thành với Đảng c
Lòng dũng cảm kiên cường c
Tình đoàn kết quân - dân c
Chấp hành pháp luật, kỷ luật c
Đạo đức, lối sống c
Tinh thần lạc quan cách mạng c
Câu 55: Đồng chí cho biết thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học ở nhà trường hiện nay đã đáp ứng yêu
cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo chưa? (chọn 1 phương án)
Đáp ứng rất tốt c
Đáp ứng tốt c
Chưa đáp ứng c
Khó trả lời c
173
Câu 56: Đồng chí cho biết thực yếu tố nào góp phần nâng cao hiệu quả học
tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện và chấp hành kỷ luật của học viên?
Tác động của VHTM (môi trường sư phạm) c
Tính chủ động, sáng tạo của học viên c
Tác động của giảng viên c
Sự quản lý, rèn luyện của quản lý học viên c
Câu 57: Đồng chí cho biết thực tế chất lượng học tập, rèn luyện, nghiên cứu
khoa học của nhà trường hiện nay? (chọn 1 phương án)
Rất tốt c
Bình tường c
Chưa tốt c
Khó trả lời c
Câu 58: Đồng chí đã từng tham gia được bao nhiêu đề tài nghiên cứu khoa
học? (chọn 1 phương án)
Chưa tham gia c
Tham gia 01 đề tài c
Tham gia 02 đề tài trở lên c
Số lượng khác c
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của các đồng chí!
174
Phụ lục 2
KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU ĐỊNH LƯỢNG
1. ĐẶC TRƯNG CỦA MẪU NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG
* Mẫu cán bộ, giảng viên:
Tổng số mẫu: 300 cán bộ, giảng viên.
Giới tính: 85,6% nam và 14,4% nữ.
Cấp bậc: 22,5% từ thiếu úy đến đại úy, 45% từ thiếu tá đến trung tá, và
32,5% từ thượng tá đến đại tá.
Trình độ học vấn: 34,7% giảng viên có trình độ đại học
55% giảng viên có trình độ thạc sĩ
10,3% giảng viên có trình độ tiến sĩ
* Mẫu học viên:
Tổng số mẫu: 300 học viên.
Cấp bậc: 41% binh nhất, binh nhì; 43,7% trung sĩ; 15,3% thượng sĩ
Dân tộc: 82,3% dân tộc kinh, 17,7% là các dân tộc khác.
Năm thứ 1: 22,8%, Năm thứ 2 trở lên: 77,2%.
Thời gian khảo sát: Từ tháng 4 - 12/2015.
2. KẾT QUẢ KHẢO SÁT ĐỊNH LƯỢNG
a.1. Kết quả đánh giá thực trạng các yếu tố cấu thành VHTM
a.1.1. Kết quả đánh giá thực trạng giá trị VHTM
Bảng 1: Mức độ hình thành thói quen, nề nếp sinh hoạt, cách ứng xử của
học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất nhanh 486 81%
Bình thường 78 13%
Chậm 24 4%
Khó trả lời 12 2%
Tổng 600 100,0
175
Bảng 2: Lòng yêu nước, tự hào về truyền thống dân tộc và quân đội của mỗi
cá nhân
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất yêu nước và tự hào về truyền thống
dân tộc
390 65%
Tự hào 150 25%
Bình thường 39 6,5%
Khó trả lời 21 3,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 3: Tình đồng chí, đồng đội, tình thầy trò trong nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Vẫn là một giá trị thiêng liêng 498 83%
Đã suy giảm 72 12%
Không còn là giá trị thiêng liêng 9 1,5%
Khó trả lời 21 3,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 4: Biểu hiện quân phiệt, áp đặt đối với học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Có 101 16,8%
Không có 452 75,3%
Có nhưng ít 17 2,9%
Khó trả lời 30 5%
Tổng 600 100,0
Bảng 5: Tinh thần đoàn kết, dân chủ trong nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 390 65%
Tốt 120 20%
Bình thường 60 10%
Khó trả lời 30 5%
Tổng 600 100,0
176
Bảng 6: Mức độ kính trọng thầy cô (câu hỏi dành riêng cho học viên)
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Kính trọng thầy cô toàn diện 255 85%
Kính trọng về chuyên môn 168 56%
Kính trọng về đạo đức, lối sống 135 45%
Khó trả lời 45 15%
Tổng 300 100,0
Bảng 7: Chất lượng rèn luyện kỷ luật và xây dựng nền nếp chính quy trong
nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 456 76%
Tốt 108 18%
Bình thường 27 4,5%
Khó trả lời 9 1,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 8: Mức độ nêu cao ý chí tự học, tự rèn luyện lĩnh hội, tích luỹ tri thức
quân sự, thẩm mỹ (câu hỏi dành riêng cho học viên)
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 204 68%
Tốt 63 21%
Bình thường 15 5%
Khó trả lời 21 6%
Tổng 300 100,0
Bảng 9: Mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được phân công của học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Mức độ cao 150 25%
Trung bình 279 46,5%
Thấp 132 22%
Khó trả lời 39 6,5%
Tổng 600 100,0
177
Bảng 10: Mức độ yêu thích các hoạt động VHTM
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Hoạt động văn hóa, văn nghệ 450 75%
Hoạt động thể dục, thể thao 408 68%
Đọc sách, báo, tạp chí 390 65%
Xem truyền hình 360 60%
Xem phim nhựa 270 45%
Bảng 11: Vai trò của giảng viên trong truyền thụ tri thức, thẩm mỹ và phát
triển nhân cách của học viên (dành riêng cho học viên)
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất quan trọng 195 65%
Quan trọng 60 20%
Không quan trọng 30 10%
Khó trả lời 15 5%
Tổng 300 100,0
Bảng 12: Mức độ thu hút cán bộ, giảng viên, học viên từ hoạt động của các
thiết chế VHTM trong nhà trường
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Thu hút rất mạnh mẽ 450 75%
Mạnh mẽ 126 21%
Bình thường 18 3%
Khó trả lời 6 1%
Tổng 600 100,0
Bảng 13: Hoạt động VHTM trong nhà trường đã góp phần
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Góp phần vun đắp tình yêu với Tổ quốc,
nhân dân
210 35%
Góp phần thỏa mãn nhu cầu vui chơi,
giải trí
276 46%
Góp phần thêm yêu mến quân đội và nhà
trường
102 17%
Ý kiến khác 12 2%
Tổng 600 100,0
178
Bảng 14: Mức độ hấp dẫn trong nội dung, hình thức hoạt động của các thiết
chế VHTM ở nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Phong phú, hấp dẫn 351 58,5%
Bình thường 150 25%
Nghèo nàn, chưa thực sự hấp dẫn 72 12%
Khó trả lời 27 4,5%
Tổng 600 100,0
a.1.2. Kết quả đánh giá thực trạng hoạt động VHTM
Bảng 15: Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, quân đội đã góp
phần xây dựng cho học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Bản lĩnh chính trị 468 78%
Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo 460 76,7%
Xây dựng nhân cách quân nhân 78 63%
Nâng cao trình độ và năng lực thẩm mỹ 378 65,8%
Bảng 16: Mức độ quan tâm, khuyến khích học viên phát huy những giá trị
truyền nhống như: tôn sư trọng đạo, hiếu học, học tập suốt đời, học theo cái đẹp
của cán bộ, giảng viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất quan tâm 180 30%
Quan tâm 150 25%
Chưa quan tâm 243 40,5%
Khó trả lời 27 4,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 17: Mức độ duy trì các hoạt động VHTM trong nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Duy trì rất thường xuyên 372 62%
Duy trì thường xuyên 174 29%
Duy trì chưa thường xuyên 36 6%
Khó trả lời 18 3%
Tổng 600 100,0
179
Bảng 18: Hoạt động giáo dục - đào tạo nào dưới đây được diễn ra thường
xuyên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Giáo dục chính trị, tư tưởng, 480 80%
Giáo dục kiến thức chuyên ngành 438 73%
Giáo dục thẩm mỹ 330 55%
Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể
dục, thể thao, rèn luyện thể lực
348 58%
Bảng 19: Ý kiến lựa chọn giá trị VHTM của học viên (dành riêng cho học
viên)
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Học tập và rèn luyện nâng cao trình độ
chuyên môn
240 80%
Tinh thần yêu nước, yêu CNXH 234 78%
Phẩm chất đạo đức, lối sống 225 75%
Có việc làm ổn định 105 35%
Khó trả lời 3 1%
Bảng 20: Mức độ coi trọng mối quan hệ văn hóa quân - dân
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất coi trọng 372 62%
Coi trọng 150 25%
Bình thường 60 10%
Khó trả lời 18 3%
Tổng 600 100,0
Bảng 21: Mức độ thể hiện mối quan hệ thẩm mỹ giữa giảng viên và học viên
hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 282 47%
Tốt 268 44,7%
Trung bình 14 2,3%
Khó trả lời 36 6%
Tổng 600 100,0
180
Bảng 22: Mức độ ảnh hưởng tích cực của hoạt động VHTM đến hoạt động
giáo dục - đào tạo và phát triển năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, giảng
viên, học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Ảnh hưởng rất tích cực 408 68%
Ảnh hưởng tích cực 117 19,5%
Bình thường 51 8,5%
Khó trả lời 24 4%
Tổng 600 100,0
Bảng 23: Tính thẩm mỹ của môi trường cảnh quan ở nhà trường
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Mang tính thẩm mỹ rất cao 390 65%
Mang tính thẩm mỹ cao 150 25%
Bình thường 36 6%
Khó trả lời 24 4%
Tổng 600 100,0
Bảng 24: Mức độ hiểu rõ trách nhiệm của cán bộ, giảng viên, học viên đối
với Tổ quốc và nhân dân
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Hiểu rất rõ 486 81%
Hiểu 72 12%
Chưa hiểu 18 3%
Khó trả lời 24 4%
Tổng 600 100,0
Bảng 25: Mức độ tham gia các hoạt động (giúp đỡ và cứu dân khi hoạn nạn,
bão lũ) theo yêu cầu của nhà trường, quân đội
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất sẵn sàng 492 82%
Sẵn sàng 66 11%
Không sẵn sàng 12 2%
Khó trả lời 30 5%
Tổng 600 100,0
181
Bảng 26: Mức độ đổi mới các hoạt động VHTM ở nhà trường thời gian qua
* Về nội dung hoạt động:
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Có nhiều đổi mới 195 32,5%
Đổi mới ít 372 62%
Chưa đổi mới 12 2%
Khó trả lời 21 3,5%
Tổng 600 100,0
* Về Hình thức:
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Có nhiều đổi mới 168 28%
Đổi mới ít 390 65%
Chưa đổi mới 30 5%
Khó trả lời 12 2%
Tổng 600 100,0
a.1.3. Kết quả đánh giá thực trạng thiết chế VHTM
Bảng 27: Mức độ tác động từ các hoạt động của hệ thống thiết chế VHTM
và các giá trị thẩm mỹ đến cảm xúc, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất mạnh 399 66,5%
Mạnh 150 25%
Bình thường 30 5%
Khó trả lời 21 3,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 28: Mức độ tích cực trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống và trình độ chuyên môn của học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tích cực 198 33%
Tích cực 240 40%
Chưa tích cực 132 22%
Khó trả lời 30 5%
Tổng 600 100,0
182
Bảng 29: Lựa chọn, tiếp nhận và thực hiện giá trị của học viên trong quá
trình học tại NTQĐ
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 486 81%
Có nghề nghiệp ổn định 51 8,5%
Có thu nhập cao 39 6,5%
Vươn lên bằng bạn bè 15 2,5%
Vì mục đích khác 9 1,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 30: Mức độ ảnh hưởng từ hoạt động của các thiết chế VHTM đến
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của học viên ở nhà trường?
* Về phẩm chất chính trị:
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất lớn 480 80%
Lớn 78 13%
Bình thường 18 3%
Khó đánh giá 24 4%
Tổng 600 100,0
* Về đạo đức, lối sống:
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất lớn 468 78%
Lớn 90 15%
Bình thường 27 4,5%
Khó đánh giá 15 2,5%
Tổng 600 100,0
* Về chấp hành kỉ luật và pháp luật:
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất lớn 450 75%
Lớn 120 20%
Bình thường 12 2%
Khó đánh giá 18 3%
Tổng 600 100,0
183
Bảng 31: Những hoạt động giáo dục nào có thể giúp học viên lựa chọn, tiếp
nhận và thực hiện giá trị VHTM
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Giáo dục thẩm mỹ 450 75%
Giáo dục về chính trị tưởng 438 73%
Giáo dục về phẩm chất, đạo đức cách mạng 420 70%
Giáo dục chuyên môn nghiệp vụ 390 65%
Giáo dục các kiến thức về văn hoá, xã hội 312 52%
Tổng 600 100,0
Bảng 32: Mức độ đấu tranh phê và tự phê trước những biểu hiện tiêu cực,
thiếu tính thẩm mỹ trong các hoat động dạy và học
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tích cực 138 23%
Tích cực 168 28%
Chưa tích cực 252 42%
Khó trả lời 42 7%
Tổng 600 100,0
Bảng 33: Mức độ tham gia các hoạt động sáng tạo thẩm mỹ được tổ chức
trong nhà trường
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Thường xuyên tham gia 396 78%
Ít tham gia 147 12,5%
Không tham gia 39 5,5%
Khó trả lời 18 4%
Tổng 600 100,0
Bảng 34: Mức độ yêu thích và thường xuyên tham gia các hoạt động sáng
VHTM
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Sáng tác ca khúc, âm nhạc 370 61,7%
Viết kịch ngắn 270 45%
Sáng tác thơ, truyện ngắn, hồi ký 360 60%
Vẽ tranh, điêu khắc 162 27%
Tham gia hội thi, hội diễn văn nghệ 495 76,5%
184
Bảng 35: Mức độ biểu hiện những phản thẩm mỹ như: cờ bạc, rượu chè,
cắm quán, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Có nhiều 48 2 %
Có nhưng ít 210 35%
Không có 318 53%
Khó trả lời 24 10%
Tổng 600 100,0
Bảng 36: Những giá trị VHTM truyền thống vẫn được học viên coi trọng và
thực hiện theo
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Tận trung với Đảng, Tổ quốc 468 78%
Tận hiếu với nhân dân 438 73%
Thương yêu đồng chí đồng đội 408 68%
Lòng quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc
lập, tự do của dân tộc
420 70%
Tổng 600 100,0
Bảng 37: Ý thức, trách nhiệm của người lính đối với Tổ quốc và nhân dân
được thể hiện thông qua các nội dung
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Ra sức học tập nâng cao trình độ 480 80%
Niềm tin vào Đảng và chế độ xã hội chủ
nghĩa
474 79%
Truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ 420 70%
Ý thức và trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc 408 68%
Đạo đức và lối sống 378 63%
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh
390 65%
Bảng 38: Ý thức học tập, rèn luyện phấn đấu xứng danh „Bộ đội Cụ Hồ"
của học viên hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 360 60%
Bình thường 96 16%
Chưa tốt 126 21%
Khó trả lời 18 3%
Tổng 600 100,0
185
a.1.4. Kết quả đánh giá thực trạng tác động tổng thể của VHTM đối với tổ
chức và hoạt động trong NTQĐ
Bảng 39: Hiệu quả hoạt động của hệ thống các thiết chế VHTM ở nhà
trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất hiệu quả 177 29,5%
Hiệu quả 132 22%
Chưa hiệu quả 252 42%
Khó trả lời 39 6,5%
Tổng 600 100,0
Bảng 40: Mức độ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo của các hoạt động
VHTM ở các nhà trường thời gian qua
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Đáp ứng rất tốt 168 28%
Đáp ứng tốt 150 25%
Chưa tốt 228 38%
Khó trả lời 42 7%
Tổng 600 100,0
Bảng 41: Tính thẩm mỹ của môi trường cảnh quan trong nhà trường
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất đẹp 138 30%
Đẹp 270 45%
Bình thường 138 23%
Khó trả lời 12 2%
Tổng 600 100,0
Bảng 42: Hoạt động VHTM nào thường xuyên được nhà trường thường
xuyên tổ chức
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Nghe thông báo thời sự, chính trị 270 45%
Tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm trong học tập 180 30%
Đốt lửa trại truyền thống, hái hoa dân chủ 96 16%
Giao lưu với nhân dân địa phương 54 9%
Tổng 600 100,0
186
Bảng 43: Mức độ quan tâm của nhà trường tới xây dựng đời sống VHTM
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất chú trọng, quan tâm 138 23%
Chú trọng, quan tâm 156 26%
Chưa quan tâm nhiều 270 45%
Khó trả lời 36 6%
Tổng 600 100,0
Bảng 44: Mức độ tác động của môi trường VHTM tới hoạt động sáng tạo
của cán bộ, giảng viên, học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất mạnh mẽ, sâu sắc 72 12%
Bình thường 300 50%
Chưa mạnh mẽ, sâu sắc 210 35%
Khó trả lời 18 3%
Tổng 600 100,0
Bảng 45: Mức độ tham gia các hoạt động sáng tạo thẩm mỹ của các chủ thể
trong NTQĐ
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Thường xuyên tham gia 90 15%
Ít khi tham gia 228 38%
Không tham gia 252 42%
Khó trả lời 30 5%
Tổng 600 100,0
Bảng 46: Mức độ coi trọng và phát huy vai trò VHTM trong giáo dục, đào
tạo và hình thành nhân cách học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất chú trọng, quan tâm 159 26,5%
Chú trọng, quan tâm 78 13%
Chưa chú trọng, quan tâm 336 56%
Khó trả lời 27 4,5%
Tổng 600 100,0
187
Bảng 47: Mức độ quan tâm đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
dạy - học của nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Đổi mới rất đồng bộ, hiệu quả 270 45%
Đổi mới chưa hiệu quả 300 50%
Chưa đổi mới 12 2%
Khó trả lời 18 3%
Tổng 600 100,0
Bảng 48: Mức độ quan tâm và thường xuyên đưa yếu tố thẩm mỹ vào trong
các hoạt động giáo dục - đào tạo
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất quan tâm 150 25%
Quan tâm 270 45%
Chưa quan tâm 138 23%
Khó trả lời 42 7%
Tổng 600 100,0
Bảng 49: Giáo dục thẩm mỹ thông qua hình thức nào là hiểu quả nhất
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Nghệ thuật và sáng tạo nghệ thuật 330 78,5%
Những tấm gương sáng, điển hình về
đạo đức và tài năng
150 75%
Hệ thống các quan điểm văn hóa của
Đảng
108 36%
Khó trả lời 12 5%
Tổng 600 100,0
Bảng 50: Mức độ quan tâm của nhà trường trong xây dựng điển hình và các
tập thể quân nhân trở thành những "điểm sáng văn hóa"
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất quan tâm 126 21%
Quan tâm 270 45%
Chưa quan tâm 168 28%
Khó trả lời 36 6%
Tổng 600 100,0
188
Bảng 51: Mức độ gương mẫu của cán bộ, giảng viên trong thực hiện nhiệm
vụ và xây dựng nền nếp chính qui (Câu hỏi dành riêng cho học viên)
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất gương mẫu 87 29%
Gương mẫu 99 33%
Chưa gương mẫu 105 35%
Khó trả lời 9 3%
Tổng 300 100,0
Bảng 52: Tinh thần tương thân, tương ái, hỗ trợ nhau trong học tập, nghiên
cứu khoa học và xây dựng tập thể quân nhân thành "điểm sáng văn hóa" của học
viên hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 186 31%
Tốt 90 15%
Chưa tốt 288 48%
Khó trả lời 36 6%
Tổng 600 100,0
Bảng 53: Mức độ duy trì các hoạt động giáo dục thẩm mỹ của nhà trường
hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Duy trì thường xuyên 132 22%
Duy trì không thường xuyên 360 60%
Không duy trì 60 10%
Khó trả lời 48 8%
Tổng 600 100,0
Bảng 54: Phẩm chất nào dưới đây bị sa sút nhiều nhất hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Lòng trung thành với Đảng 93 15,5%
Lòng dũng cảm kiên cường 150 25%
Tình đoàn kết quân - dân 300 50%
Chấp hành pháp luật, kỷ luật 222 37%
Đạo đức, lối sống 456 56%
Tinh thần lạc quan cách mạng 336 82,5%
Tổng 600 100,0
189
Bảng 55: Thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học
tập và nghiên cứu khoa học ở nhà trường hiện nay trong đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Đáp ứng rất tốt 180 30%
Đáp ứng tốt 138 23%
Chưa đáp ứng 246 41%
Khó trả lời 36 6%
Tổng 600 100,0
Bảng 56: Yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả học tập, nghiên cứu khoa học,
rèn luyện và chấp hành kỷ luật của học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Tác động của VHTM 480 80%
Tính chủ động, sáng tạo của học viên 450 75%
Tác động của giảng viên 432 72%
Sự quản lý, rèn luyện của quản lý học
viên
420 70%
Tổng 600 100,0
Bảng 57: Thực tế chất lượng học tập, rèn luyện, nghiên cứu khoa học của
nhà trường hiện nay
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Rất tốt 317 52,8%
Bình tường 110 18,4%
Chưa tốt 135 22,5%
Khó trả lời 38 6,3%
Tổng 600 100,0
Bảng 58: Số lượng đề tài nghiên cứu khoa học đã từng tham gia của giảng
viên và học viên
Các mức độ Số lượng Tỷ lệ
Chưa tham gia 186 31%
Tham gia 01 đề tài 270 45%
Tham gia 02 đề tài trở lên 120 20%
Số lượng khác 24 4%
Tổng 600 100,0
Nguồn: Tác giả điều tra, khảo sát.
190
Phụ lục 3
CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG PHỎNG VẤN
1. Một số chú ý
- Nội dung cuộc phỏng vấn đã được biên tập cho phù hợp với đề tài nghiên
cứu trên cơ sở được sự giám sát và đồng thuận của các cá nhân tham gia phỏng vấn.
- Những nội dung được trích dẫn đảm bảo tính nguyên gốc của thông tin.
Thứ tự các câu hỏi trong bảng không trùng khớp với số thứ tự câu hỏi trên phỏng
vấn thực địa.
2. Thông tin chung về cuộc phỏng vấn
- Thời gian phỏng vấn: 4 - 12/2015.
- Số lượng cán bộ, giảng viên, học viên tham gia phỏng vấn: 06 cán bộ,
giảng viên và 06 học viên (mỗi trường 02 cán bộ, giảng viên và 02 học viên)
- Phỏng vấn viên: Trung tá Phạm Văn Xây và thiếu tá Đỗ Tiến Dũng (Trợ lý
Chính trị, Hệ Đào tạo Sau đại học Học viên Chính trị - Bộ Quốc phòng).
- Địa điểm phỏng vấn: tại Nhà trường của các cá nhân tham gia phỏng vấn.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính bảo mật thông tin chúng tôi xin được dấu tên
những cá nhân được phỏng vấn và chỉ trích dẫn lý lịch trích ngang cũng như nội
dung trả lời phỏng vấn của một số người mang tính đại diện.
STT Họ và tên Năm sinh Cấp bậc Chức vụ/ Đơn vị công tác
1
Nguyễn Văn Th. 1968 Thượng tá Giảng viên Khoa Triết học,
Học viện chính trị - Bộ Quốc
phòng
2 Phạm Huy Ph. Học viên Học viện Chính
trị
3 Lê Quang Th. 1995 Thượng sĩ Học viên năm thứ 3, đơn vị
b12, c47, d13, Trường Sĩ quan
Lục quân 1
4 Nguyễn Văn S. 1995 Học viên Trường Sĩ quan
Lục quân 1
5 Đặng Hùng Th. 1963 Đại tá Trưởng phòng Tham mưu -
Hành chính, Trường Đại học
Văn hóa Nghệ thuật Quân đội
5 Nguyễn Hữu L.
1984 Học viên năm thứ 3, lớp quản
lý văn hóa K7, Trường Đại học
Văn hóa Nghệ thuật Quân đội
7 ...
191
3. Trích nội dung trả lời phỏng vấn
* Phỏng vấn số 01: Đồng chí thượng tá Nguyễn Văn Th. giảng viên Khoa
Triết học Mác - Lênin, Học viện chính trị - Bộ Quốc Phòng.
- Câu hỏi 1: Đồng chí cho biết sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy Học viện
tới nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế VHTM?
- Trả lời: Nhận thức được vai trò to lớn của VHTM trong đáp ứng nhu cầu
giải trí, hưởng thụ, sáng tạo và nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên
cứu khoa học của giảng viên, học viên... lãnh đạo, chỉ huy Học viện đã quan tâm
xây dựng, đầu tư, nâng cấp hệ thống thiết chế VHTM, xây dựng giảng đường, thao
trường, đơn vị xanh, sạch, đẹp, tao ra môi trường VHTM lành mạnh, góp phần trực
tiếp động viên cán bộ, giảng viên, học viên, tích cực phấn đấu vươn lên trong học
tập rèn luyện. Mặt khác, Học viện luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ,
giảng viên, học viên tìm tòi, sáng tạo thẩm mỹ trong dạy, học và nghiên cứu khoa
học, coi đây là một phương thức để phát triển và tích lũy tri thức, góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ giáo dục, đào tạo.
- Câu hỏi 2: Đồng chí cho biết Nhà trường đã coi trọng việc phối hợp giữa
thiết chế VHTM với thiết chế giáo dục, đào tạo trong nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo?
- Trả lời: Nhà trường đã rất coi trọng việc phối hợp giữa thiết chế VHTM
với thiết chế GD-ĐT và đã tạo ra hiệu ứng rất tốt, vừa đáp ứng nhu cầu học tập, giải
trí, hưởng thụ và sáng tạo của giảng viên, học viên, vừa góp phần tích cực vào nâng
cao chất lượng GD-ĐT và hoàn thiện nhân cách học viên Cụ thể: các cơ quan
chức năng đã chú trọng lồng ghép, gắn kết hoạt động giáo dục, đào tạo với giáo dục
thẩm mỹ thông qua các hoạt động thẩm mỹ khác như: VHNT, thể dục thể thao, giao
lưu với nhân dân địa phương... các hoạt động này có sức lan toả mạnh mẽ, ảnh
hưởng tích cực đến các hoạt động giáo dục, đào tạo, qua đó tạo động lực thúc đẩy
học viên hăng say học tập, rèn luyện hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Câu hỏi 3: Theo đồng chí các hoạt động VHTM như: phong trào thi đua
"Xứng danh bộ đội cụ Hồ", "Tiếp lửa truyền thống thi đua 3 nhất", "Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục", diễn đàn "Thanh niên với
chấp hành kỷ luật"; hay "Hiến máu nhân đạo cứu người"... đã tác động đến học viên
như thế nào?
- Trả lời: Các các hoạt động VHTM này đã góp phần nâng cao nhận thức,
hiểu biết cho học viên về lịch sử, văn hóa truyền thống của dân tộc, Đảng, Bác,
192
Quân đội, đơn vị, đồng thời tạo nền tảng vững chắc để mỗi cá nhân tự hoàn thiện
nhân cách, nâng cao ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ cho học viên. Tuy nhiên, cũng
cần có sự quan tâm, đầu tư về cơ sở vật chất làm cho các hoạt động VHTM thêm đa
dạng, phong phú, sinh động hơn nữa và phải làm cho cái đẹp thâm nhập vào quá
trình dạy - học và đời sống VHTM của cán bộ, giảng viên, học viên trong Học viện.
* Phỏng vấn số 02: Đồng chí Lê Quang Th. học viên năm thứ 3 Trường sĩ
quan Lục quân 1.
- Câu hỏi 1: Đồng chí cho biết việc rèn luyện xây dựng nền nếp chính qui
trong sinh hoạt và học tập đã được học viên Nhà trường chấp hành như thế nào?
- Trả lời: Nói đến NTQĐ không thể không nói tới việc rèn kỷ luật quân đội
đối với học viên, bởi NTQĐ chính là nơi "dạy chữ - rèn người". Việc rèn luyện kỷ
luật và xây dựng nền nếp chính quy trong NTQĐ đã tạo ra sự thống nhất giữa ý chí,
hành động và xây dựng quân nhân, tập thể quân nhân có văn hóa; tạo ra nếp sống
văn hóa, chính quy trong từng môi trường, từng đơn vị cụ thể của nhà trường. Qua
quá trình học tập và rèn luyện trong Nhà trường sự chính qui sẽ thấm dần vào từng
suy nghĩ, từng hành động, vào nhân cách, đạo đức mỗi học viên.
- Câu hỏi 2: Đồng chí cho biết giá trị VHTM được sinh ra từ hoạt động của
các thiết chế VHTM đã có ảnh hưởng gì tới quá trình học tập rèn luyện của học viên
Nhà trường?
- Trả lời: Các hoạt động của các thiết chế VHTM trong Nhà trường không
những đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí sau những giờ học tập, rèn luyện căng
thẳng, mệt nhọc và trong thời gian rỗi của học viên, mà còn định hướng cho học
viên biết chọn lọc, tiếp nhận các giá trị VHTM tích cực, biết tránh xa những tệ nạn tiêu
cực, biết yêu cái đẹp, căm ghét cái xấu, cái ác. Mặt khác, các hoạt động VHTM có ảnh
hưởng tích cực đến cảm xúc, thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ đã giúp học viên phát huy
những tiềm năng sáng tạo, phát triển toàn diện nhân cách và năng lực thẩm mỹ.
- Câu hỏi 3: Đồng chí cho biết quá trình giáo dục, đào tạo ở Nhà trường, các
hoạt động giáo dục thẩm mỹ có được quan tâm và lồng ghép với hoạt động dạy -
học cũng như rèn luyện của học viên không?
- Trả lời: Nhà trường đã kết hợp chặt chẽ việc giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật
của từng người với duy trì, thực hiện nghiêm cuộc vận động, xây dựng chính qui, xây
dựng môi trường văn hóa, gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với tổ chức
Đảng, đoàn trong sạch vững mạnh Các hoạt động này đã tạo nên sự thống nhất cao
193
trong suy nghĩ và hành động, phát huy được tính tự giác, nghiêm minh và tạo thành nền
nếp đối với học viên trong chấp hành kỷ luật và thực hiện nhiệm vụ.
* Phỏng vấn số 03: Đồng chí Đặng Hùng Th. Trưởng phòng Tham mưu -
Hành chính, Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
- Câu hỏi 1: Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội là một nhà
trường đào tạo về VHNT mang tính đặc thù trong quân đội. Đồng chí cho biết
những khó khăn trong quá trình giáo dục, đào tạo và rèn luyện kỷ luật đối với học
viên của Nhà trường?
- Trả lời: Là một nhà trường đào tạo đa ngành, đa đối tượng cho nên quá
trình giáo dục, đào tạo của Nhà trường gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là nâng cao
chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, bởi nhiều đối tượng học viên,
sinh viên của Nhà trường còn rất nhỏ tuổi. Do đó, Nhà trường đã áp dụng hình thức,
phương pháp giáo dục thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi của học viên,
sẽ góp phần định hướng thẩm mỹ và đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện nhân cách
cho học viên, sinh viên. Với phương trâm giáo dục rèn luyện học viên thành chiến
sĩ trước khi trở thành nghệ sĩ, "dạy người đi đôi với dạy nghề", nhà trường đã gắn
quá trình đào tạo với quá trình tự tìm kiếm tri thức quân sự, nghệ thuật của học viên
trong đời sống; quá trình này giúp họ thấu hiểu được bản chất của đẹp và những
biểu hiện đặc thù của nó trong lĩnh vực quân sự, nhằm giáo dục bản lĩnh chính trị,
đạo đức, lối sống, phương pháp, tác phong, ý thức tổ chức kỷ luật, trình độ thẩm mỹ
và phát triển toàn diện nhân cách học viên theo yêu cầu phục vụ quân đội.
- Câu hỏi 2: Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thưởng thức và đánh
giá nghệ thuật của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân, theo đồng chí nhà trường cần có
giải pháp gì để đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo?
- Trả lời: Hiện nay, nhu cầu thẩm mỹ của cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân ngày
càng cao, do đó để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của Nhà trường trước tiên
cần phải tạo môi trường sư phạm, môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, phải xây
dựng tiêu chí về cái đẹp để học viên nhận ra các giá trị văn hóa, thẩm mỹ thông qua các
hình thức giáo dục, từ đó có ý thức vươn lên trong học tập, rèn luyện. Mặt khác, công
tác giáo dục, đào tạo nâng cao phẩm chất trí tuệ, trình độ, năng lực thẩm mỹ của học
viên phải đi kèm với nâng cao phẩm chất, nhân cách toàn diện.
- Câu hỏi 3: Đồng chí cho biết hoạt động giáo dục, đào tạo VHNT của Nhà
trường đã gắn kết chặt chẽ giữa huấn luyện và giáo dục thẩm mỹ, giữa giáo dục văn
hóa, nghệ thuật truyền thống với giáo dục quân sự hiện đại chưa?
194
- Trả lời: Về cơ bản, các hoạt động VHTM của Nhà trường đều được tiến
hành một cách đồng bộ, toàn diện, có chương trình, kế hoạch khoa học, góp phần
hướng đích các giá trị văn hóa, nghệ thuật vào mục tiêu giáo dục, đào tạo và xây
dựng tập thể quân nhân có văn hóa. Cùng với đó, nhà trường luôn chú trong kết hợp
giữa giáo dục, đào tạo với phát động các phong trào thi đua thường xuyên, đột kích,
tạo sức lan toả sâu rộng, không khí vui tươi, phấn khởi, tạo ra khả năng đề kháng và
tinh thần đấu tranh với cái xấu, cái ác, sống có trách nhiệm, vì tập thể, vì nhân dân...
thực sự là những quân nhân, những chiến sĩ - nghệ sĩ có văn hoá.
195
Phụ lục 4
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG
VĂN HÓA THẨM MỸ Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI
4.1. Hội nghị tổng kết năm học 2015 - 2016 của Học viện Chính trị
(Ảnh do tác giả chụp)
4.2. Một buổi học tại thao trường của học viên Học viện Chính trị
(Ảnh do tác giả chụp)
196
4.3. Hoạt động VHTM của học viên Học viện Chính trị
(Ảnh do tác giả chụp)
4.4. Diễu duyệt trong lễ khai giảng năm học 2015 - 2016 tại Học viện Chính trị
(Ảnh do tác giả chụp)
197
4.5. Học viên nữ của Học viện Chính trị hướng dẫn những thao tác cơ bản cho
đồng đội trong giờ giải lao tại
(Ảnh do tác giả chụp)
4.6. Một tiết học tại giảng đường của học viên Trường Sỹ quan lục quân 1
(Ảnh do tác giả chụp)
198
4.7. Hoạt động giúp đỡ nhân dân của học viên Trường Sỹ quan lục quân 1
(Ảnh do tác giả chụp)
4.8. Trường Sỹ quan lục quân 1 trao quà cho những gia đình quân nhân gặp khó
khăn trong trận ngập lụt tại miền trung vừa qua
(Ảnh do tác giả chụp)
199
4.9. Nghi lễ hôn cờ trong lễ tuyên thệ chiến sỹ mới tại Trường Sỹ quan lục quân 1
năm 2016
(Ảnh do tác giả chụp)
4.10. Giờ học của học viên Trường Sỹ quan lục quân 1 trên thao trường
(Ảnh do tác giả chụp)
200
4.11. Một tiết mục biểu diễn của học viên Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân
đội trong lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
(Ảnh do tác giả chụp)
4.12. Hoạt động kiểm tra an toàn thực phẩm ở bếp ăn của học viên tại Trường Đại học
Văn hóa Nghệ thuật Quân đội
(Ảnh do tác giả chụp)
201
4.13. Lau chùi, bảo quản nhạc cụ của học viên Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật
Quân đội sau giờ lên lớp
(Ảnh do tác giả chụp)
4.14. Kiểm tra tác phong khi ra ngoài doanh trại ở Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật
Quân đội
(Ảnh do tác giả chụp)