HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN CÔNG LẬP
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN CÔNG LẬP
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG
2. TS. TRẦN VĂN
167 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HẢI
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
TÁC GIẢ
Nguyễn Công Lập
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đến luận án 6
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu 25
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 29
2.1. Khái niệm chính sách xã hội 29
2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội 33
Chương 3: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 75
3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội
thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 75
3.2. Những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội ở
Việt Nam trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016) theo tư tưởng
Hồ Chí Minh 86
3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính
sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 104
Chương 4: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 116
4.1. Những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với việc
thực hiện chính sách xã hội hiện nay 116
4.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội ở
Việt Nam hiện nay 122
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động
tổ chức, điều hành và quản lý xã hội. Hiệu quả việc thực hiện chính sách xã
hội góp phần phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế
mang tính bền vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng,
công bằng và tiến bộ. Ngoài ra, chính sách xã hội còn góp phần trợ giúp
những con người, những nhóm xã hội, đảm bảo mức sống cho một số nhóm
đối tượng yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc
sống. Do vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị nào, chính sách xã hội
cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách xã hội là giải quyết
các vấn đề liên quan trực tiếp đến con người, qua đó nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy, ngay từ khi thành lập nước, Người rất
chú trọng đến việc xây dựng các chính sách xã hội nhằm quản lý đất nước và
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là
một hệ thống các quan điểm về mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực
lượng thực hiện chính sách xã hội. Tư tưởng của Người về chính sách xã hội
là tài sản tinh thần quý giá, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính sách xã hội cho phù hợp với tình hình mới, góp phần
giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất đây là
quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, là thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
mong muốn đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,
nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, chính sách xã hội đã phát huy được
năng lực của cá nhân, cộng đồng trong xây dựng và phát triển đất nước,
hạn chế ở mức độ nhất định những tiêu cực phát sinh từ môi trường kinh tế
thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh những
thành tựu đạt được, vẫn còn một số hạn chế cần phải tiếp tục điều chỉnh, bổ
sung, hoàn thiện, như: Vấn đề việc làm cho người lao động, xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chính sách đối với người có công
với cách mạng.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đổi mới
và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội để giải quyết tốt vấn đề con người.
Trong đó, chính sách xã hội là công cụ quan trọng, góp phần vào thực hiện
mục tiêu cơ bản của quản lý xã hội nhằm cân bằng nhu cầu và lợi ích của
con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để
hoạch định được chính sách xã hội tiến bộ, phù hợp với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần có nhận thức và giải quyết đúng đắn
những vấn đề lý luận về chính sách xã hội, những đòi hỏi từ thực tiễn của
đất nước hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, việc nghiên cứu và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội còn nhiều vấn đề đặt ra,
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ để vận dụng sáng tạo, phù hợp với
thực tiễn hiện nay. Chỉ trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước mới có được tầm
nhìn, năng lực của chủ thể hoạch định đường lối, chính sách và thực hiện tốt
công tác lãnh đạo, quản lý việc thực hiện chính sách xã hội đạt hiệu quả cao
trên thực tế.
Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội để vận
dụng vào việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay là một trong những vấn đề cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận
và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này,
3
nghiên cứu sinh chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ khoa học chính trị,
chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội,
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi
mới, từ đó, đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải những khái niệm cơ bản liên quan đến luận án.
- Phân tích một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã
hội (Mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực lượng thực hiện chính sách
xã hội).
- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội thời kỳ đổi mới với những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
thành tựu, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận dụng tư tưởng đó
vào thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản chính sách
xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm chính sách lao động và việc làm, chính
sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân,
chính sách đối với người có công với nước và sự vận dụng của Đảng, Nhà
nước trong thời kỳ đổi mới.
4
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội cả trong tư duy lý luận lẫn hoạt động thực tiễn và sự vận dụng tư tưởng
của Người về chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước từ năm 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về chính sách xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp nghiên
cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra,
tác giả còn kết hợp một số phương pháp cụ thể như: lịch sử và lôgíc, phân tích
và tổng hợp, thống kê và so sánh, quy nạp và diễn dịch,
5. Đóng góp khoa học của luận án
- Phân tích, luận giải một cách có hệ thống, góp phần làm sáng tỏ hơn các
quan điểm của Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
- Khảo sát khá toàn diện tình hình thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam, trên cơ sở đó, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của ưu điểm, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí
Minh về chính sách xã hội dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học như là
cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách xã hội thời
kỳ đổi mới đất nước hiện nay.
5
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm
ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Ngoài ra, luận án còn
làm tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
trong các Học viện, trường Đại học, Cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách
xã hội
Tập thể tác giả trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về
chính sách xã hội do Lê Sỹ Thắng chủ biên [129] đề cập quan điểm con người
từ trong truyền thống của dân tộc Việt Nam đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên
cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và tư tưởng về chính sách
xã hội đối với con người thâm nhập vào nhau trong chỉnh thể tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, cuốn sách làm rõ nhiệm vụ và chức năng của chính sách xã
hội; mối quan hệ giữa chính sách xã hội với cơ cấu xã hội, quản lý xã hội; mối
quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, văn hóa; mối quan
hệ giữa chính sách xã hội với công bằng xã hội; về chủ thể hoạch định và thực
hiện chính sách xã hội; về chiến lược “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Cuốn sách khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn là cơ sở
cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay. Tuy vậy, công trình không đi sâu tìm hiểu các chính sách xã
hội cụ thể mà dừng lại ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho
việc hoạch định các chính sách ấy.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội
học [130] do Nguyễn Thế Thắng chủ biên đã làm rõ khái niệm chính sách xã
hội và một số cách tiếp cận về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội học. Qua
đó, tác giả cuốn sách trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính sách
xã hội tác động vào cơ cấu giai cấp, tác động của chính sách xã hội, vào các
nhóm xã hội đặc thù; vào các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất; trên lĩnh
vực phân phối, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội; về một số cơ sở khoa học của
việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong thực tiễn. Ngoài ra, cuốn sách
khẳng định dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
7
Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội bằng một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn. Bên cạnh đó, cuốn
sách còn trình bày thực tiễn và thành tựu thực hiện các chính sách xã hội giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội
trong sự nghiệp đổi mới.
Liên quan đến chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong
cuốn Bác Hồ với ngành y tế Việt Nam [20] có các bài viết: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về một nền y tế Việt Nam của Nguyễn Văn Hồng; Chủ tịch Hồ Chí Minh
với việc xây dựng ngành y tế của Vũ Ngọc Khánh; Quan điểm về y tế và đạo
đức người thầy thuốc của Hồ Chí Minh của Đỗ Nguyên Phương; Một số quan
điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nền y học Việt Nam của Nguyễn
Dương Quang; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe của Võ
Nguyên Giáp; Các tác giả cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân; quan điểm về y tế, về công tác chăm sóc
sức khỏe nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân văn cao
cả, tấm lòng nhân hậu hết mực vì nhân dân, vì con người.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội [109], tác giả
Nguyễn Năng Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
phải lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm và đích hướng tới của mọi
chính sách; phải xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp; phải phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế, gắn với chính sách kinh tế; “có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ
mà phải có biện pháp cụ thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để
thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp
phải hai phần, cố gắng phải ba phần”; giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi
và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ; phải cắn cứ vào bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Tác giả A.X.Varônhin trong bài viết Chính sách xã hội và tinh thần thời
đại của Hồ Chí Minh [147] đã khẳng định con đường giải phóng đất nước và
xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là một trong những chiến lược xã
8
hội đặc sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Đi theo con đường của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc
giải quyết những vấn nạn xã hội nghiêm trọng do quá khứ thời phong kiến đô
hộ và chiến tranh tàn phá kéo dài để lại. Kinh tế như nền tảng vật chất của
chính sách xã hội phát triển bền vững và sôi động. Hệ thống bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế và hệ thống thượng lưu ngày càng được củng cố và cải thiện.
Tuy nhiên, cùng với thế giới ngày càng quan tâm hơn tới kinh nghiệm của Việt
Nam cũng sẽ có một số thế lực muốn bôi nhọ lý tưởng và tư tưởng mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đấu tranh suốt cuộc đời mình để biến thành hiện thực. Những
thế lực này tìm cách làm giảm uy tín chính sách xã hội của Người khi gọi nó là
chủ nghĩa không tưởng, không phù hợp với thực tiễn chính trị và chuẩn mực xã
hội đương thời. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ quan trọng là phải luôn tìm tòi
sáng tạo để phát triển hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, khéo léo chứng minh
được rằng chiến lược đấu tranh giành độc lập dân tộc và xã hội mà Người đã đề
ra, kinh nghiệm thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã có được trong quá trình
thực hiện chiến lược này là vô giá. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến ngày hôm
nay vẫn soi sáng con đường của nhân dân Việt Nam đi đến tương lai, cho
người dân thêm vững tin vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, một xã hội
công bằng và tiến bộ cả về vật vất và tinh thần.
Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong trong cuốn sách Văn hóa và triết lý phát
triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [80], đã khẳng định những thành tựu của sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam, như về hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển bền
vững, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo - quản lý, đều khởi nguồn từ tầm
nhìn và bản lĩnh Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cuốn sách có một bài viết đề cập đến
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, trong đó tập trung làm rõ
chính sách xã hội gắn với quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng
dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; chính sách xã hội gắn với
chính sách phát triển kinh tế và văn hóa; chính sách xã hội phải hướng đến
công bằng xã hội; trồng người là chiến lược hàng đầu.
9
Nguyễn Đình Nhạ trong bài viết Từ lời căn dặn trong Di chúc, tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người [7], đã làm
rõ quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người được thể hiện
trong Di chúc. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh
về con người và chính sách xã hội đối với con người được thể hiện đa dạng và
phong phú, thấm đậm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của
Người. Do vậy, chỉ có thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về con người mới có thể đề ra chính sách xã hội đúng đắn theo hướng
“lấy con người làm trung tâm”.
Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận
dụng sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới [69], tác giả Nguyễn Thị
Minh Thùy đã trình bày những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội. Bài viết cho rằng, để thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội
phải lấy con người làm gốc và mục tiêu; phải phù hợp và gắn với chính sách
kinh tế; phải bắt nguồn từ cơ cấu xã hội - giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy, việc
thực hiện nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là nhân tố
quan trọng đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của công cuộc đổi
mới, là biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục mặt trái của cơ chế thị
trường, là cơ sở vững chắc để tạo nên sự ổn định và đồng thuận xã hội đưa Việt
Nam tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bàn về công bằng xã hội trong xây dựng xã hội mới, trong bài viết Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội [140] tác giả Vũ Văn Thuấn trình bày
những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội phải được
thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đồng thời, tác giả
bài viết còn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có sự gắn
bó chặt chẽ với bình đẳng xã hội.
Phạm Xuân Nam trong bài viết Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội [108] đã luận
10
giải quan điểm của Hồ Chí Minh về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.
Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đề xướng và đặt nền móng cho việc
thực hiện các chính sách xã hội nói chung và chính sách an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội nói riêng ở Việt Nam. Đồng thời, bài viết còn phân tích quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới về hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ở Việt Nam.
Khẳng định Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã hội trong
tư tưởng Hồ Chí Minh [87], tác giả Lê Quốc Lý khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh về xóa đói, giảm nghèo là một triết lý phát triển bền vững, bảo đảm tăng
trưởng kinh tế cao gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, môi trường, môi sinh
trong lành, tươi đẹp. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh đòi hỏi phải coi
xóa đói, giảm nghèo là một trong những thước đo quan trọng thể hiện sự đúng
đắn về đường lối, chính sách và giải pháp trong xây dựng và phát triển đất nước.
Tinh thần chiến đấu chống đói nghèo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải biến
thành lẽ sống, khát vọng làm giàu, vươn lên của toàn thể nhân dân, dân tộc, để
Việt Nam thật sự dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Các công trình nghiên cứu trên là tài liệu để tác giả luận án tham khảo một
số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Theo đó, chính
sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế và văn hóa; phải hướng đến công
bằng và tiến bộ xã hội; Ngoài ra, luận án còn tham khảo vấn đề hoạch định
và vai trò của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có
công với nước, là những tài liệu tham khảo cho luận án.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trong các cuốn sách Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội của Phạm
Như Cương [16]; Chính sách xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Bùi
11
Đình Thanh (Chủ biên) [133]; Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta
hiện nay của Hoàng Chí Bảo [4]. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận và
phương pháp luận về chính sách xã hội, khái niệm và nội dung của chính sách
xã hội cũng như mối quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách khác.
Đề tài Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ năm 1986 - 1995) [48], tác giả Trần
Đồng đã trình bày khái niệm, nhiệm vụ, vai trò của chính sách xã hội; cơ sở đề
ra chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay; một số vấn đề xã hội
cấp bách cần giải quyết trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, lao động và việc
làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân,; thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả chính sách xã hội trong giai đoạn cách mạng mới.
Nguyễn Văn Nhớn với đề tài Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với
việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [114], đã làm rõ vai trò của nhân tố
con người trong chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc
nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Bàn về Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện [63],
Trần Đình Hoan (chủ biên), đã trình bày những nội dung cơ bản về chính sách
xã hội ở nước ta và sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý trong việc thực
hiện chính sách xã hội nhằm nâng cao tính hiệu quả của nó trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội cấp bách của con người.
Phân tích những luận cứ khoa học và giải pháp cho việc đổi mới chính
sách xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta, trong cuốn
sách Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp [106], tác giả Phạm
Xuân Nam (Chủ biên) đã đưa ra một số vấn đề lý luận và phương pháp luận về
chính sách xã hội. Đánh giá thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội
và việc thực hiện các chính sách xã hội trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế
12
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, các tác giả còn dự báo xu hướng vận
động của các quá trình trên, đề xuất những kiến nghị về quan điểm và giải pháp
cho việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 1996 - 2000. Đặc biệt, các tác giả
cũng phân tích một số chính sách xã hội phổ biến: chính sách dân số, chính
sách lao động và việc làm, chính sách bảo đảm xã hội, chính sách xã hội nhằm
bảo đảm an ninh xã hội, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; chính sách đối
với các giai tầng xã hội: chính sách đối với giai cấp công nhân, chính sách đối
với giai cấp nông dân, chính sách phát huy năng lực lao động sáng tạo của trí
thức và sinh viên, chính sách đối với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân; chính
sách xã hội đối với các giới đồng bào: chính sách đối với thanh niên, chính
sách đối với phụ nữ và gia đình, chính sách đối với các dân tộc thiểu số, chính
sách tôn giáo.
Trong đề tài Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông thôn ngoại
vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình cải cách kinh tế
[144], bằng một hệ thống những số liệu cụ thể và sinh động, tác giả Nguyễn Từ
đã khái quát được nhiều vấn đề bức xúc trong bức tranh xã hội ở khu vực miền
núi phía Bắc, đó là: Tệ nạn xã hội và tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, trình
độ dân trí của người dân, những hủ tục lạc hậu trong văn hóa, Qua đó, tác giả
cũng đã nêu lên những giải pháp toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội bức
xúc ở nông thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá
trình cải cách kinh tế.
Nguyễn Thị Thanh với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực
hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1991) [134] và đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991
đến năm 2001 [135] đã trình bày nội dung và vai trò của chính sách xã hội
trong xây dựng đất nước; quá trình thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ
13
đổi mới về lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với người có
công với cách mạng. Tác giả phân tích làm rõ một số kinh nghiệm trong thực
hiện chính sách xã hội như: Đổi mới nhận thức về vai trò của chính sách xã hội,
chú trọng phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội, kết hợp
chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết
đúng đắn về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Đề tài Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn đồng bằng
Bắc bộ [104], tác giả Ngô Quang Minh đã khái quát tình trạng đói nghèo của cư
dân nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ, nêu lên những thành tựu và hạn chế
trong công tác xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những giải pháp
cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong tham gia xóa
đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
Đề tài Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề
xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay [40]. Dưới góc độ triết học, tác giả Đinh Thế Định đã phân
tích sâu sắc những vấn đề lý luận về phát triển hài hòa, phát triển bền vững ở
vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ. Từ cách tiếp cận này, tác giả cũng đã
phân tích một cách toàn diện những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này và nêu lên những giải pháp cơ
bản nhằm hướng đến sự phát triển bền vững ở nông thôn Bắc Trung bộ.
Tác giả Lê Thị Liên trong bài viết Suy nghĩ từ những lời dặn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ trong Di chúc [7] đã phân tích quan
điểm của Người thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng đối với những người đã
hy sinh cho nền độc lập tự do của Tổ quốc. Qua đó, bài viết khẳng định giá trị
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đối với người có công với cách
mạng trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối với họ của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bài viết là tài liệu tham khảo cho luận án
14
về quan điểm Hồ Chí Minh đối với gia đình có công với cách mạng và sự vận
dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Ngoài ra, trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng - Bốn mươi năm nhìn
lại [71], tác giả Nguyễn Hữu Chí tiếp tục khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người khởi xướng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Suốt cả cuộc đời Người đã
dành tình cảm đặc biệt cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Bên cạnh đó,
tác giả bài viết cũng khẳng định sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt sâu sắc lời căn dặn của Người
thông qua những chủ trương, chính sách đối với thương bệnh binh và gia đình
có công với cách mạng.
Bài viết Đảng và Nhà nước thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo [7] của tác giả Lê Văn Tích đã khẳng định Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là điểm tựa vững chắc và giữ vai trò định hướng
cho Đảng, Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách xóa đói giảm nghèo.
Ngoài ra, bài viết còn trình bày những kết quả đáng ghi nhận sau 40 năm thực
hiện Di chúc của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo.
Trong cuốn sách Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới [6], Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), đã cung
cấp những nội dung quan trọng về vấn đề phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội như là một trong những trục định hướng cơ bản của sự nghiệp đổi mới.
Cuốn sách là sự tập hợp các bài viết về những vấn đề phương pháp luận và cơ
sở lý luận của phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội; lý thuyết và mô hình
phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội của một số nước trên thế giới -
Những tham khảo cho Việt Nam; biến đổi xã hội và quản lý phát triển xã hội
trên một số lĩnh vực chủ yếu ở nước ta hiện nay; những nhân tố tác động,
quan điểm định hướng và hệ giải pháp phát triển xã hội ở nước ta đến năm
2020. Đặc biệt, trong cuốn sách có một số bài viết đề cập đến một số nội dung
liên quan đến chính sách xã hội và một số kinh nghiệm của Đảng ta về lãnh
15
đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm đổi mới (1986-2010), như bài
viết của tác giả Đoàn Minh Huấn và Nguyễn Thị Ngọc Mai. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá chính sách xã hội thời kỳ trước đổi mới và nhu cầu đổi mới tư
duy lý luận về giải quyết các vấn đề xã hội, quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng về chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới, bài viết trình bày một
số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm
đổi mới như: Nhận thức đầy đủ vai trò của chính sách xã hội đối với nhu cầu
định hình giá trị xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới; xử lý đúng đắn mối
quan hệ giữa phát huy vai trò nòng cốt của Nhà nước và mở ra khả năng xã
hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Vấn đề giải quyết việc làm đã được tác giả Phạm Đức Kiên đề cập trong
bài viết Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải quyết việc làm trong 25
năm thực hiện đường lối đổi mới” [77]. Tác giả khẳng định giải quyết việc làm
là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế nên cần được đặt trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã
hội. Ngoài ra, tác giả còn nêu lên một số kết quả đạt được trong việc gắn phát
triển kinh tế với giải quyết việc làm. Từ thực trạng ...à cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã hội mà xã hội và nhà
nước phải giải quyết bằng chính sách. Đó là hệ thống chính sách xã hội và hệ
thống chính sách an sinh xã hội [6, tr.29-30].
Bên cạnh việc làm rõ khái niệm xã hội cũng cần hiểu về khái niệm chính
sách. Chính sách là những quy định, quyết định được thể chế hóa bởi các cơ
30
quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của con người, giải quyết những vấn đề xã hội nhằm thực hiện
những mục tiêu đã được xác định.
Vận dụng quan niệm về chính sách vào lĩnh vực xã hội, chính sách xã hội
là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội của con người,
giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra và thực hiện bình đẳng, công bằng,
tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người. Với cách tiếp cận này, chính sách
xã hội được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng nhằm điều chỉnh những quan
hệ xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội để tạo ra động lực phát triển xã hội,
phát triển con người. Chính sách xã hội là biện pháp, là công cụ của các nhà
lãnh đạo, quản lý góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng xã hội, thực
hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo an sinh xã hội [65, tr.177].
Nhà xã hội học V.Z.Rôgôvin cho rằng: Với tính cách là một môn khoa
học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thống
về các quá trình xã hội quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội,
xét về khả năng tác động quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để xem
xét chính sách xã hội như là sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự
phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận dụng
thực hiện những tri thức thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và
các quan hệ ấy [124, tr.10-11].
Theo Nguyễn Thiện Nhân: Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của
Đảng và Nhà nước để thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được
đặt ra đối với con người (con người ở đây xét theo góc độ con người xã hội, chứ
không phải con người kinh tế hay con người kỹ thuật) để thỏa mãn hoặc phần
nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các
đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời
kỳ nhất định, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội [133, tr.65-66].
Nhà nghiên cứu Bùi Đình Thanh cho rằng: Chính sách xã hội là cụ thể
hóa và thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những biện
31
pháp để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của
chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị, phản ánh lợi
ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội
nói riêng nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng
về đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân [133, tr.23].
Theo Mai Ngọc Cường: Chính sách xã hội là tổng thể các hệ thống quan
điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp được thể chế hóa bằng pháp luật
của Nhà nước để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong một thời gian và
không gian nhất định, nhằm tăng cường phúc lợi, bảo đảm công bằng xã hội và
tạo cơ hội cho người dân hòa nhập vào sự phát triển của xã hội [17, tr.18].
Từ điển Bách khoa Việt Nam nêu quan điểm về chính sách xã hội: Chính
sách xã hội - Một bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính Đảng hay
chính quyền nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội, chính
sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và
sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ
xã hội. Một trong những đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội là sự thống
nhất biện chứng của nó với chính sách kinh tế Chính sách xã hội phải đạt
mục đích đem lại đời sống tốt đẹp cho con người, mang lại sự công bằng, dân
chủ cho mỗi con người [143, tr.478].
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không đưa ra khái niệm về chính
sách xã hội nhưng trong nội hàm tư tưởng của Người đã thể hiện rõ quan điểm
về chính sách xã hội. Theo đó, Người cho rằng, với tư cách là chủ thể lãnh đạo,
quản lý xã hội, Đảng và Nhà nước ta cần thông qua hệ thống chính sách để giải
quyết các vấn đề xã hội liên quan đến con người, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân. Bàn về yêu cầu thực hiện chính sách
xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định về sự cần thiết phải gắn chính sách xã
hội với quản lý xã hội, với chính sách kinh tế, văn hóa và phải hướng đến công
bằng xã hội.
32
Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay, để giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức bách nhằm phát huy nhân tố con
người, cần xác định rõ nội hàm khái niệm tư tưởng của Người về chính sách xã
hội. Theo đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là hệ thống quan
điểm về đối tượng và nội dung của chính sách xã hội, lực lượng và yêu cầu
thực hiện chính sách xã hội, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho con người, cho nhân dân.
Từ những phân tích trên, có thể nêu khái quát về khái niệm chính sách xã
hội như sau: Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của
một chính Đảng hay chính quyền nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và
giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong không gian, thời gian nhất định,
nhằm mục đích cao nhất để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu
cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác nhau,
trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định, nhằm
đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội đảm bảo sự ổn định, phát triển xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội, tạo ra động lực phát triển xã hội, phát triển con
người. Chính sách xã hội có mối quan hệ với các chính sách khác, nhưng đặc
điểm cơ bản là sự thống nhất của nó với chính sách kinh tế nhằm mang lại sự
công bằng, tiến bộ và dân chủ cho con người.
Từ khái niệm chính sách xã hội như trên, có thể khái quát các yếu tố cơ
bản hợp thành chính sách xã hội như sau:
- Chủ thể đề ra chính sách xã hội: Tổ chức chính trị lãnh đạo, quản lý
xã hội.
- Nội dung của chính sách xã hội: Bao gồm hệ thống chính sách khác
nhau về giải quyết các vấn đề xã hội bức bách của con người nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhất định.
- Mục đích của chính sách xã hội: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội, phát triển con người.
33
- Đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội: Thống nhất với chính sách kinh
tế và hướng đến công bằng, tiến bộ và dân chủ xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội cũng cần làm rõ khái niệm hiệu
quả thực hiện chính sách xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội là quá
trình Nhà nước ta hiện thực hóa hệ thống chính sách vào cuộc sống trên cơ sở
phản ánh đúng thực tiễn vận động của đất nước và thời đại, nhằm giải quyết tốt
các vấn đề xã hội bức bách để góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng
xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội nghĩa là đời sống vật chất và tinh
thần của con người phải không ngừng được nâng cao trên thực tế, góp phần
phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế mang tính bền
vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng, công bằng, tiến bộ
và dân chủ xã hội. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước ta phải thường xuyên tổng kết
lý luận và thực tiễn bằng việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, trong đó có tư
tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.
2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
2.2.1. Mục đích, đối tượng của chính sách xã hội
Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc giành độc lập
cho Tổ quốc để đi tới một xã hội dân chủ, tự do, hạnh phúc, giàu mạnh là
hướng đi tất yếu của xã hội Việt Nam. Con đường phát triển đó xuất phát từ
thực tế Việt Nam gắn với xu thế của thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân, thể hiện được triển vọng phát triển xã hội. Bản chất của chủ nghĩa xã hội
là nhân văn, nhân đạo thể hiện lý tưởng cao đẹp về giải phóng triệt để con
người và tạo ra sức mạnh nội sinh, động lực to lớn thúc đẩy xã hội đi lên phù
hợp với lý tưởng chân chính của dân tộc Việt Nam.
* Mục đích của chính sách xã hội
Thực chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và
toàn diện mọi nhu cầu chính đáng có tính chất nhân văn của con người. Tự do,
34
hạnh phúc của mọi người là cốt lõi của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa và
cũng là nội dung mang tính cốt lõi trong quan niệm phát triển xã hội của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Chính vì tự do, hạnh phúc của con người mà Người luôn
đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội chỉ có giá trị thật sự khi mang lại tự do, hạnh phúc cho con người.
Đối với Việt Nam, quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa là
bước tiến mới trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc. Quá trình cải tạo và
xây dựng xã hội mới thực sự là một cuộc cách mạng về mọi mặt của đời sống
xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng, khắc phục khuyết tật do chế độ cũ để lại, giải quyết những vấn đề
mới nảy sinh. Để giải quyết các vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ
bản là đề ra chính sách xã hội.
Chính sách xã hội luôn gắn liền với chế độ chính trị - xã hội nhất định.
Mỗi chế độ chính trị - xã hội sẽ quyết định bản chất của chính sách xã hội.
Chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so với chính sách xã hội
trong xã hội do các giai cấp bóc lột thống trị. Dưới chế độ dân chủ mới - dân
chủ xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con
người. Mục tiêu ấy không những định hướng cho chính sách xã hội mà còn
định hướng cho các chính sách khác. Ngược lại, thông qua việc hoạch định và
thực thi hệ thống các chính sách, trong đó có chính sách xã hội, thể hiện được
bản chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây
dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:
Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng
sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động
được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa
bỏ Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh
thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội [101, tr.438].
35
Quan điểm trên đây đã định hướng cho mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, một chủ nghĩa xã hội như vậy, đầy sức hấp dẫn đối với
nhân dân Việt Nam, ai cũng muốn phấn đấu cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Tựu trung lại, trục xuyên suốt trong quan niệm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội là một xã hội “dân giàu, nước mạnh”, dân và nước là hai mặt thống nhất,
trong đó, dân là gốc nước, dân có giàu thì nước mới mạnh và nước mạnh thì
dân giàu. Mối quan hệ thống nhất giữa dân và nước đặt trong mối quan hệ
thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo nghĩa đó, “nếu nước
được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì” [92, tr.64]. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay việc làm cho dân
có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Sau khi giành được chính quyền, thiết lập nhà nước do nhân dân lao động
làm chủ và là chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách từng bước xóa bỏ tình trạng người áp
bức bóc lột người, giải phóng sức sản xuất, phát triển sản xuất, từng bước xóa
bỏ nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân lao
động. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội là xã hội vì con người, tất cả vì hạnh phúc con
người thông qua việc điều tiết và làm lành mạnh các quan hệ xã hội để hình
thành một cơ cấu xã hội phù hợp, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế,
hoàn thiện các quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Vì vậy, chính
sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội quan tâm đến con người một cách toàn diện
nhằm phát huy nhân tố con người, để đến lượt nó, con người với tư cách là chủ
thể, là động lực sáng tạo nên mọi tiến bộ và phát triển xã hội.
Mục đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con người
trong quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Con người ở đây
với tư cách là người lao động được giải phóng không chỉ là động lực của chủ
nghĩa xã hội, mà còn là mục tiêu của chính sách xã hội. Cần lưu ý rằng, mỗi
chế độ chính trị - xã hội, mỗi giai cấp có quan điểm giải quyết các vấn đề xã
hội khác nhau, nên chính sách xã hội cũng khác nhau. Tính giai cấp của chính
36
sách xã hội đại diện cho nguyện vọng, ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị xã
hội. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, không ít người đã mô tả một cách thái quá
sự giàu có về vật chất, cường điệu về sự quan tâm đầy đủ của giai cấp tư sản
đối với con người. Tính giai cấp của chính sách xã hội tư bản chủ nghĩa là
nhằm duy trì ách thống trị của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng chính
sách xã hội làm công cụ mị dân, làm “cái van bảo hiểm” làm giảm áp lực của
cuộc đấu tranh giai cấp, phục vụ lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản. Vì thế,
chính sách xã hội dưới chủ nghĩa tư bản phát triển tới mức độ nào đó, hình thức
biểu hiện có đa dạng, phong phú đến đâu thì bản chất vì lợi nhuận tối đa cho
giai cấp tư sản và mức sống tối thiểu cho người lao động vẫn không thay đổi
[114, tr.68-69].
* Đối tượng của chính sách xã hội
Dưới chế độ dân chủ mới ở Việt Nam, đứng trên lập trường giai cấp công
nhân, mục đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ vì
lợi ích của giai cấp công nhân, mà cả lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể
dân tộc Việt Nam. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tốt nhu cầu, lợi ích của
các giai cấp, tầng lớp và đông đảo quần chúng nhân dân. Không có gì khó khăn
khi nêu khẩu hiệu “vì hạnh phúc nhân dân”, “vì hạnh phúc con người” cho bất
kỳ kế hoạch, chủ trương nào. Nhưng, vấn đề là ở chỗ lời nói phải đi đôi với
việc làm. Bằng chính đời sống và mức sống cụ thể của mình, nhân dân cảm
nhận trực tiếp và chính xác lời nói và việc làm của Đảng và Nhà nước có thật
vì lợi ích của họ hay không [129, tr.43].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa giai
cấp và dân tộc để không tách biệt một cách siêu hình các giai cấp, tầng lớp xã
hội cơ bản với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Giai cấp và quan hệ giữa các
giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm và chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Vị thế,
vai trò và mối quan hệ của các giai tầng trong xã hội đã được Người chỉ ra,
phân tích sâu sắc và trở thành nền tảng tư tưởng cho các chủ trương, chính sách
xã hội của Đảng, Nhà nước tác động vào các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã
37
hội đặc thù trong quá trình xây dựng xã hội mới. Trước lúc đi xa, trong Di
chúc, Người xác định rõ: “Đầu tiên là công việc đối với con người” - Đối tượng
của chính sách xã hội. Theo đó, Đảng và Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ, tạo
điều kiện để những người có công với cách mạng có công ăn, việc làm thích
hợp, quyết không để họ đói rét. Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực
lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong, Đảng và Chính phủ cần
chọn một số ưu tú nhất cho đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo họ
thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách
mạng vững chắc. Đối với phụ nữ, Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch
thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Đối với những nạn nhân của chế
độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v, thì Nhà nước
phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên
những người lao động lương thiện. Đối với nông dân, Đảng và Chính phủ miễn
thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ
hả, mát dạ lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất [103, tr.616-617].
Như vậy, giữa mục đích và đối tượng của chính sách xã hội có mối quan
hệ hữu cơ với nhau, theo đó, mục đích của chính sách xã hội phải hướng đến
đối tượng của chính sách xã hội nhằm góp phần trợ giúp những con người,
những nhóm xã hội, đồng thời, đảm bảo mức sống cho một số nhóm đối tượng
yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc sống. Từ
đó cho thấy, chính sách xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước, là
phương thức tổ chức hoạt động của đời sống xã hội. Chính sách xã hội không
chỉ giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến cuộc sống con người, làm cho
mỗi cá nhân trong cộng đồng người được khẳng định. Chính sách xã hội còn
góp phần điều hòa các mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, cống hiến và
hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ của từng cá nhân, tập thể, của các giai cấp,
tầng lớp trong xã hội. Do vậy, chính sách xã hội là công cụ để khai thác mọi
tiềm năng của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng để thúc đẩy sự phát
triển mọi mặt của xã hội. Chính sách xã hội như là đòn bẩy kích thích tính tích
38
cực lợi ích cá nhân, chuyển lợi ích cá nhân riêng lẻ thành động lực trực tiếp của
sự phát triển kinh tế xã hội và tác động, tạo điều kiện để xây dựng các mối
quan hệ xã hội trên cơ sở công bằng, bình đẳng.
Tóm lại, quan điểm về mục đích, đối tượng và vai trò của chính sách xã
hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tư duy phát triển đầy tính sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng xã hội mới ở Việt Nam, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thân cho con người, điều tiết và làm
lành mạnh các mối quan hệ xã hội. Chỉ trên sở hoạch định và thực thi chính
sách xã hội lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi sự phát
triển mới tạo nên sức hấp dẫn của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng và
góp phần tạo nên đường hướng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động để Đảng và Nhà nước vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách xã hội
2.2.2.1. Chính sách lao động và việc làm
Con người trong xã hội thuộc nhiều tầng lớp, thứ hạng khác nhau, nhưng
bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành tình cảm, tâm hồn, lòng yêu thương
cho những người cùng khổ. Vì muốn giải phóng cho những người cùng khổ mà
Người đã hiến cả đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người. Dưới chế độ thực dân, lao động của người
dân, đặc biệt là công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề và rơi vào tình cảnh bần
cùng hóa. Do vậy, khi nước nhà giành được độc lập, Người luôn nhấn mạnh sự
cần thiết phải “làm sao cho nhân dân có công ăn việc làm” [98, tr.65] để nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên. Muốn vậy, “chính quyền
và quân đội nhân dân phải bảo vệ cho nhân dân làm ăn yên ổn” [95, tr.487] và
“phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất” [98,
tr.213]. Ngoài ra, Người còn yêu cầu: “Phải ra sức khôi phục lại kinh tế: nông
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, vận tải” [97, tr.226] nhằm tạo ra công ăn
việc làm cho nhân dân lao động theo nguyên tắc “công và tư đều được chiếu
39
cố, chủ và thợ đều có lợi. Các bạn công nhân hăng hái sản xuất. Bà con công,
thương hăng hái kinh doanh” [97, tr.80].
Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, chính sách lao động và việc làm
giữ vị trí, vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân và khẳng
định trách nhiệm của chủ thể quản lý xã hội đối với quá trình tạo ra công ăn
việc làm cho người dân khi tham gia vào đời sống mới. Ngược lại, với tư cách
là người chủ đất nước, người dân phải luôn nhớ rằng “lao động là một nghĩa vụ
thiêng liêng của mỗi người công dân đối với Tổ quốc. Ai cũng phải tuỳ khả
năng mình mà tự nguyện tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng nước
nhà” [98, tr.545]. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh, lao động là nghĩa
vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi người, mọi nhà khi
nó mang lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội. Do vậy, trong lao động sản xuất
cần gạt bỏ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa vì đây là nguồn gốc đẻ ra căn bệnh lười
biếng, tham ô, thích hưởng thụ. Người từng nói:
Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười
biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng
như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm trọn trách nhiệm thì đều vẻ vang như
nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, người đó mới
là kém vì không phải là người xã hội chủ nghĩa [101, tr.69].
Trong lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao quan điểm không
phân biệt ngành nghề, lao động chân tay hay lao động trí óc, thậm chí “người
lao động trí óc phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí óc không làm
được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao
động bán thân bất toại” [99, tr.400]. Do đó, cần phải xoá bỏ dần sự tách rời đó,
cần phải làm cho những người lao động trí óc và lao động chân tay đoàn kết
chặt chẽ với nhau, để cùng nhau xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Tuy nhiên,
Người cũng đưa ra quan điểm về sự cần thiết phải dùng hình thức kỷ luật lao
động nhằm nâng cao nhận thức lao động, nhất là cho người lao động chân tay
để khắc phục tình trạng vô kỷ luật trong lao động sản xuất và tạo ra sự công
40
bằng xã hội cho người tham gia lao động. Ngược lại, người tham gia lao động
phải tự giác giữ kỷ luật lao động, phải giữ gìn của công và thực hành tiết kiệm.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người nói chung, người lao động và
công nhân nói riêng là vốn quý nhất. Cho nên, trong sản xuất phải bảo đảm an
toàn lao động, bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho người lao động, vì “nếu để
xảy ra tai nạn là thiệt chung cho bản thân, gia đình, cho Đảng, Chính phủ và
nhân dân. Người bị nạn không đi làm được, gia đình sẽ gặp khó khăn, sức lao
động của nhân dân do vậy cũng kém sút” [100, tr.142]. Xuất phát từ bản chất
tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho nhân dân lao động, trong đó
có công nhân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,
được ấm no và hạnh phúc, theo Người, Nhà nước, Công đoàn phải quan tâm
đến đời sống cá nhân, đến điều kiện sinh hoạt vật chất, “phải làm tốt công tác
bảo hộ lao động. Phải thật sự chăm nom nơi ăn, nhà ở của công nhân, viên
chức” [101, tr.434], “phải cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống
vật chất, văn hóa của giai cấp công nhân nói riêng và của nhân dân nói chung”
[98, tr.479]. Chính sách lao động và việc làm phải đảm bảo tính công bằng, hợp
lý trong phân công và sử dụng lao động. Người lưu ý: “Sức người có nhiều
loại: có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người già. Phải phân công cho
hợp lý, người khỏe thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ” [103, tr.259].
Qua việc phân tích nêu trên cho thấy tư duy biện chứng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động, việc làm với việc
nâng cao đời sống cho nhân dân lao động. Chỉ trên cơ sở giải quyết tốt lao
động và việc làm mới phát huy vai trò to lớn của nhân dân lao động đối với quá
trình xây dựng xã hội mới, khẳng định bản chất tốt đẹp và nhân văn của chế độ
xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phấn đấu vì mục tiêu mang lại hạnh
phúc cho con người, sự phồn thịnh cho đất nước.
2.2.2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo
Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới
làm cho mọi người Việt Nam trở nên giàu có. Điều này nói lên sự khác biệt về
41
chất và tính nhân văn sâu sắc của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân lựa chọn và quyết tâm xây dựng thành công để đạt đến mục tiêu phát triển
xã hội, làm cho các quan hệ xã hội mang tính nhân bản và đạt đến trình độ
người cao nhất. Người nói: “Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội” [103, tr.627]. Từ hoài bão lớn nhất đến quyết định lựa chọn mô hình phát
triển xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa thể hiện tư tưởng mang tính nhất
quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoài bão lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dân tộc Việt Nam hoàn
toàn được độc lập, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc. Người nói:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành” [103, tr.627]. Đó là mục đích cao cả, nhất quán,
xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn
vì một nước Việt Nam độc lập, con người thoát khỏi mọi áp bức, bất công, đói
nghèo, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào.
Sinh thời, Người dành tất cả lòng hiền từ ấm áp cho đồng bào, già, trẻ, gái, trai,
miền Bắc, miền Nam, miền xuôi, miền ngược. Trước lúc đi xa, Người còn “để
lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho
các cháu thanh niên và nhi đồng” [103, tr.628].
Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu cuộc sống đói khổ đến cùng
cực của nhân dân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong
kiến tay sai. Hậu quả để lại ở Việt Nam sau gần một thế kỷ sống dưới chế độ
“cướp của, giết người và hiếp dâm” là “người nghèo khổ thì nhiều, người no
ấm thì ít” [93, tr.113]. Sự nô dịch và bóc lột tàn bạo của bọn thực dân Pháp
không chỉ để lại đói nghèo, dốt nát cho cả một dân tộc mà còn triệt tiêu mọi
khả năng để phát triển con người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đất
nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người cho rằng:
42
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,
của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành [92, tr.175].
Có thể coi đây là những phác thảo đầu tiên về chính sách xóa đói, giảm
nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi dân tộc Việt Nam vừa mới giành độc lập.
Cùng với dốt nát, giặc ngoại xâm, Người coi đói khổ là một trong những loại
giặc cần phải kiên quyết tiêu diệt. Do đó, diệt giặc đói là việc làm cần thiết và
cấp bách nhằm mục tiêu phấn đấu đưa nhân dân thoát khỏi nạn bần cùng, mọi
người có cuộc sống ấm no, có công ăn, việc làm và đời sống hạnh phúc. Để xóa
đói, giảm nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tăng gia
sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người yêu cầu phải thực hiện “Tăng gia sản
xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta
ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”
[92, tr.135]. Còn phong trào thực hành tiết kiệm gạo không chỉ góp phần cứu
đói, cứu dân nghèo, mà còn thể hiện nghĩa cử cao đẹp của Người đối với việc
xóa đói, giảm nghèo. Người nói: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến
kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào
cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng
nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [92, tr.33].
Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân
văn sâu sắc, chứa đựng triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã
hội. Theo đó, một đất nước mà người dân còn nghèo, thiếu ăn, thiếu mặc thì ở
đó xã hội còn chưa phát triển. Đối với chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt
43
Nam, mục tiêu làm cách mạng là vì dân, mang lại lợi ích cho dân, “phải đem
hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân” [93, tr.75]. Do vậy, việc để người
dân phải sống trong cảnh đói nghèo thì trách nhiệm thuộc về Đảng và Chính
phủ. Vì vậy, Đảng và Chính phủ phải chăm lo đời sống của nhân dân, phải lãnh
đạo, tổ chức nhân dân chăm lo sản xuất, ra sức thực hành tiết kiệm. Người nói:
“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống
của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và
Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là
Đảng và Chính phủ có lỗi” [97, tr.518]. Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã định hướng cho chủ thể quản lý, mà trước hết ở vai trò, trách nhiệm
của Đảng và Chính phủ khi hoạch định, thực hiện chính sách xã hội phải luôn
đảm bảo dân sinh, nâng cao dân trí và hiểu rõ dân tình. Trách nhiệm này vô
cùng nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang, vì hễ còn người dân nào bị bóc lột, bị
nghèo nàn, thì Đảng và Chính phủ chưa làm tròn nhiệm vụ. Vì lẽ đó, trong Di
chúc, Người căn dặn Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế,
văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân.
Tóm lại, từ quan điểm coi đói nghèo là giặc đến quyết tâm “đánh đuổi”,
“tiêu diệt” đói nghèo nhằm mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
con người thể hiện triết lý sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói,
giảm nghèo. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm
nghèo trong quản lý phát triển xã hội, đòi hỏi phải coi việc xóa đói, giảm nghèo
là một trong những tiêu chí, thước đo quan trọng đánh giá về tính đúng đắn của
chính sách xã hội, tính nhân văn của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam đang xây dựng.
2.2.2.3. Chính sách chăm sóc và bảo... tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, phát triển kinh tế
tri thức, tăng thêm nguồn lực và học tập kinh nghiệm từ các nước, nhưng cũng
phát sinh nhiều yếu tố tiêu cực, rủi ro cần được khắc phục. Ngoài ra, Đảng và
Nhà nước cũng cần lưu ý, thực hiện chính sách xã hội không chỉ chịu sự tác
động của tình hình thế giới, của quá trình hội nhập quốc tế mà còn liên quan
chặt chẽ đến trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Vì thế, để thực hiện chính
sách xã hội có hiệu quả, phải căn cứ vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước như là nguồn lực bên trong kết hợp với những tác động của nhân tố
bên ngoài mà đề ra các nhóm giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
thực hiện chính sách xã hội trong những năm tiếp theo.
Về những vấn đề đặt ra đối với chính sách xã hội hiện nay, Đảng và Nhà
nước cần xác định rõ ảnh hưởng của cơ chế thị trường đã và đang tạo ra những
vấn đề xã hội bức xúc cần tiếp tục được giải quyết. Ngoài ra, trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cần xác định con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự chống phá của các
thế lực thù địch cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với chính sách xã hội hiện nay.
Trên cơ sở xác định rõ những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối
với chính sách xã hội hiện nay, việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào 3 nhóm giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho
cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách
xã hội; thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên làm công tác chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.
147
Thứ hai, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc
thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác
chính sách xã hội; huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã
hội; mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách xã hội; đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện
chính sách xã hội.
148
KẾT LUẬN
Thực tiễn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh “mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [37, tr.88].
Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đã và đang giữ vai trò
quan trọng, là cơ sở, định hướng để Đảng và Nhà nước xây dựng, thực thi
chính sách trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đối với con
người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế ngày
càng đi vào chiều sâu thì sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước đang
đặt ra những thời cơ và thách thức mới, nhất là đối với vấn đề con người
thông qua việc thực hiện chính sách xã hội mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Do
vậy, việc nghiên cứu, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội
cần được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị quan tâm thực hiện. Chỉ
trên cơ sở thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước mới có thể đề ra các chính sách xã hội
đúng đắn vì con người, do con người, cho con người, “lấy con người làm
trung tâm” cho mọi sự phát triển, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để con người
được sống một cuộc sống có chất lượng, có ý nghĩa.
Nhận thức đúng đắn và thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh, đòi
hỏi Đảng và Nhà nước cần xác định rõ nội dung tư tưởng của Người về
chính sách xã hội hết sức phong phú và đa dạng từ việc xác định mục đích,
đối tượng, phương thức thực hiện, lực lượng tham gia đến nội dung của
chính sách xã hội. Theo đó:
Mục đích của chính sách xã hội phải lấy việc phục vụ con người, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người làm mục đích cao nhất,
nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa.
149
Đối tượng của chính sách xã hội là những người thuộc các nhóm xã
hội yếu thế, nhóm ưu đãi xã hội, cũng như đảm bảo cho sự phát triển của tất
cả mọi người, của xã hội trong xây dựng xã hội mới.
Nội dung cơ bản của chính sách xã hội bao gồm chính sách lao động
và việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có công với cách mạng.
Yêu cầu thực hiện chính sách xã hội phải gắn với quản lý xã hội;
chính sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế, văn hóa; chính sách xã hội
phải hướng đến công bằng xã hội.
Lực lượng thực hiện chính sách xã hội: Đảng và Nhà nước với tư cách
là chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý là người trực tiếp
thực hiện chính sách xã hội; quần chúng nhân dân lao động vừa là đối tượng,
vừa là lực lượng thực hiện của chính sách xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, từ quan niệm chính sách xã hội là
động lực của mọi sự quản lý phát triển xã hội, đến việc xác định những luận
cứ khoa học cho hệ thống chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước không
những xây dựng được một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn, đồng bộ,
mà còn luôn trăn trở với những vấn đề mới phát sinh, luôn nhạy bén và kịp
thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách xã hội phát triển theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, chính sách xã hội đã từng bước đóng vai trò
động lực, gây ảnh hưởng tích cực đối với việc nâng cao vai trò nhân tố con
người, phát triển toàn diện con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành
tựu bước đầu. Những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay như việc làm, xóa đói
giảm nghèo, y tế, công bằng xã hội, đang là những vấn đề mang tính thời
sự, cần quan tâm giải quyết.
Những yếu kém, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội có nhiều
nguyên nhân. Trong đó, về mặt chủ quan là do nhận thức của các cấp, các
150
ngành còn chưa đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của chính sách xã hội. Công tác
quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo; năng lực và trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ quản lý còn thấp; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
còn nhiều hạn chế. Nguồn lực cho thực hiện chính sách xã hội còn hạn hẹp,
chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được nhiều sự tham gia
của xã hội; hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao, còn phân tán, manh mún
và dàn trải.
Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội ở Việt
Nam hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về chính sách xã hội. Trong đó, cần tập trung thực hiện các nhóm
giải pháp:
Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho
cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách
xã hội; thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên làm công tác chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.
Thứ hai, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc
thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác
chính sách xã hội; huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã
hội; mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách xã hội; đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện
chính sách xã hội.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Công Lập (2014), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội vào việc xây dựng chính sách xã hội ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Đồng Tháp, (3), tr.76-81.
2. Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm Hồ Chí
Minh về chính sách xã hội”, tại trang ngày
13/12/2016.
3. Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế và văn hóa”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (11), tr.30-33.
4. Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm Hồ Chí Minh về công bằng xã hội
trong quản lý phát triển xã hội”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (253), tr.13-16.
5. Nguyễn Công Lập (2016), ‘‘Chính sách xã hội trong triết lý phát triển Hồ
Chí Minh”, trong Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng xã hội mới - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
6. Nguyễn Công Lập (2017), ‘‘Sáng ngời quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chính sách đối với người có công với cách mạng”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học, Nxb Đại học Huế, tr.130-133.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và
vận dụng nó ở nước ta trong điều kiện hiện nay", Kỷ yếu đề tài khoa
học cấp bộ năm 2003, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
2. Ba mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2004),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (1993), Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hoàng Chí Bảo (1998), “Đổi mới ở Việt Nam. Một số vấn đề triết học về
con người và xã hội”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.24-29.
6. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội (2009), Giá trị nhân văn của Di chúc Hồ Chí Minh, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
8. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1998), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Chiều (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Chiều (2015), "Một số vấn đề về quyền an sinh xã hội trong
nhà nước pháp quyền", Tạp chí Triết học, số 6 (289), tr.24-29.
153
11. Chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới (1995), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
12. Chủ nghĩa xã hội - đời sống của xã hội và của con người (1989), Nxb Sự thật,
Hà Nội.
13. Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Phạm Như Cương (chủ biên) (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Phạm Như Cương (1988), Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách
xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2013), Chính sách xã hội đối với di dân
nông thôn - thành thị ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
19. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1999), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Kim Dung (Chủ biên) (2014), Bác Hồ với ngành y tế Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
21. Nguyễn Tấn Dũng (2010), “Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm
xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta”,
tại trang [truy cập ngày 22/7/2016].
22. Nguyễn Văn Dương (2010), Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần
xây dựng con người mới Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
23. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Trọng Đàm (2012), ‘‘Thực hiện giảm nghèo bền vững ở Việt Nam”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (9).
154
25. Nguyễn Trọng Đàm (2014), “Một năm thực hiện Nghị quyết số 15-
NQ/TW một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020: Cơ
hội và thách thức”, tại trang [truy cập ngày
2/10/2016].
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế xã hội 1991 - 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21-1960,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng
kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết những vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội.
155
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đinh Thế Định (2000), Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc
giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ
trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
41. Đinh Đăng Định (chủ biên) (2004), Một số vấn đề về lao động, việc làm và
đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.
42. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông
dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Phạm Văn Đồng (1991), Hồ Chí Minh - Quá khứ, hiện tại và tương
lai, Nxb Sự thật, Hà Nội.
45. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
47. Phạm Văn Đồng, Bản Di chúc bất hủ sáng ngời tính thời sự, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
48. Trần Đồng (1995), Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc
giải quyết các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ 1986 - 1995), Luận
văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính tri quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
49. Phạm Văn Đức (1999), “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (6), tr.31-33.
50. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), Tư tưởng triết học về con người trong chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội.
156
51. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trần Văn Giàu (2008), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Lê Thị Hải Hà (2010), Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về phương
pháp xây dựng con người để xây dựng con người ở nước ta hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính tri - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
54. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
55. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Lê Văn Hân (2015), "Chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có
công với cách mạng của Đảng, Nhà nước ta hiện nay", Tạp chí Lịch sử
Đảng, tr.30-33.
59. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước
ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2009), Năng cao năng lực lãnh đạo của
cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người
với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất
nước hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
62. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2010), Nghiên cứu văn hóa và con người
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Trần Đình Hoan (chủ biên) (1996), Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế
quản lý việc thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
64. Lê Quang Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Tập bài
giảng chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính cho các đối
tượng đào tạo ở trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, phần lý luận chính trị, khối thứ nhất: Chủ nghĩa Mác -
Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta (Lưu hành
nội bộ), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
66. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tập bài
giảng chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính dành cho
đối tượng đào tạo tập trung tại Học viện Chính trị - Hành chính, khối
thứ hai, Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một
số lĩnh vực chủ yếu, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.
67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống
xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
69. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Một số vấn đề về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
70. Hội đồng quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ
điển Bách khoa Việt Nam, tập I, Hà Nội.
71. Hội thảo khoa học 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(2009), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia khu vực I.
72. Nguyễn Phương Hồng (1977), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Đông Thị Hồng (2013), “An sinh xã hội cho nông dân trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (202).
158
74. Lương Thị Hồng (2016), "Nhìn lại 30 năm thực hiện công tác xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân (1986 - 2016)", Tạp chí Lịch
sử Đảng, (7), tr.29-34.
75. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
76. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
77. Phạm Đức Kiên (2011), “Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải
quyết việc làm trong 25 năm thực hiện đường lối đổi mới”, Tạp chí Lý
luận chính trị.
78. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh - Văn hóa và đổi
mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
80. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2008), Văn hóa và triết lý phát triển
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2009), Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong nhà trường, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
82. Nguyễn Đình Liêu (2000), Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi
người có công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Đinh Xuân Lý (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận
dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
84. Đinh Xuân Lý (2011), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986-2011), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
85. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2012), Chính sách xóa đói giảm nghèo. Thực
trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2014), Chính sách an sinh xã hội. Thực trạng và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
87. Lê Quốc Lý (2015), "Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển
xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (5),
tr.37-41.
88. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Ngô Quang Minh (1998), Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp
phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, Đề tài khoa học
cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
105. Đỗ Mười (1997), “Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, Tạp chí
Quốc phòng toàn dân, (7), tr.3-4.
106. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội. Luận cứ
và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Phạm Xuân Nam (2014), "Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội", Tạp chí Triết học, số 2 (273), tr.20-25.
160
108. Phạm Xuân Nam (2014), Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội,
Tạp chí Triết học, số 5 (276), tr.20-25.
109. Nguyễn Năng Nam (2014), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội", tại
trang [truy cập ngày 20/8/2016].
110. Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), “Bảo đảm mức sống, từng bước cải thiện
cuộc sống người có công trong điều kiện kinh tế thị trường và lạm
phát”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (350), tr.6-7.
111. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), “Bước ngoặt mới trong nỗ lực xóa đói,
giảm nghèo”, tại trang [truy cập
ngày 20/10/2016].
112. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), “Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ưu
đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững”, tại
trang [truy cập ngày 22/8/2016].
113. "Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI", (1995), Kỷ
yếu Hội nghị khoa học quốc tế, Hà Nội.
114. Nguyễn Văn Nhớn (1996), Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc
nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Luận án phó Tiến sĩ Triết
học, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
115. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh (2015), "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.3-7.
117. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàng (2015), "Quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về con người với tư cách là đối tượng phục vụ
của chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Giáo dục lý
luận, (228), tr.38-42.
161
118. Phùng Hữu Phú và các cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Nguyễn Trọng Phúc (2014), "Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chính sách với người có công", Tạp chí Lý luận chính trị,
(9), tr.37-40.
120. Đỗ Nguyên Phương (1994), “Phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo và
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5).
121. Nguyễn Mai Phương (2015), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an
sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, tr.56-59.
122. Nguyễn Mai Phương (2017), ‘‘Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về an sinh xã hội từ Đại hội XI đến Đại hội XII", Tạp chí Lịch sử Đảng,
(1), tr.45-49.
123. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1991), Luật Bảo vệ
sức khỏe nhân dân, Nxb Y học, Hà Nội.
124. V.Z.Rôgôvin (1980), Chính sách xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa
phát triển, Nxb Nauka, Mockba (Bản dịch của Viện Thông tin Khoa
học xã hội).
125. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
127. Nguyễn Hồng Sơn (2015), "Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng
xã hội trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.56-61.
128. Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty (Chủ biên) (2010), Tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
129. Lê Sĩ Thắng (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
về chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
130. Nguyễn Thế Thắng (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội từ góc nhìn xã hội học, Nxb Lao động, Hà Nội.
131. Ngô Ngọc Thắng (2014), “Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh tái
cấu trúc mô hình tăng trưởng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
132. Ngô Ngọc Thắng, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên) (2014), Một số lý
thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
133. Bùi Đình Thanh (Chủ biên) (1993), Chính sách xã hội - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia,
Hà Nội.
134. Nguyễn Thị Thanh (1998), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học
Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
135. Nguyễn Thị Thanh (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội từ năm 1991 đến năm 2001, Luận án Tiến sĩ khoa
học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
136. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
137. Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch (1971), tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
138. Nguyễn Thị Thơm (2011), “Xóa đói giảm nghèo bằng chính sách hỗ trợ
phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo”, Tạp chí Lý luận chính trị.
139. “Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng”
(2011), tại trang [truy cập ngày 20/10/2016].
140. Vũ Văn Thuấn (2011), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội",
Đặc san Hồ Chí Minh học, (1).
141. Hoàng Thu Thủy (2013), “Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng miền
núi Đông Bắc Việt Nam giai đoạn 2001-2010”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (202).
163
142. Lê Văn Tích (chủ biên) (2008), Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
143. Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Hà Nội.
144. Nguyễn Từ (1998), Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông
thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình
cải cách kinh tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
145. Nguyễn Đình Tuấn, Phạm Thị Tính (2013), "An sinh xã hội cho người
cao tuổi ở nước ta hiện nay: Chính sách và thực tiễn", Tạp chí Nghiên
cứu con người, số 5 (86).
146. Trần Văn Tùng (2000), Tính hai mặt của toàn cầu hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội.
147. A.X.Varônhin (2016), "Chính sách xã hội và tinh thần thời đại của Hồ
Chí Minh", tại trang [truy cập ngày 15/12/2016].
148. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149. “Về chính sách việc làm và bảo hiểm thất nghiệp” (2008), tại trang
[truy cập ngày 15/8/2016].
150. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu con người (2010), Hồ
Chí Minh - Về mối quan hệ giữa con người và văn hóa, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
151. Vũ Thị Vinh (2014), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây
dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.