MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi thời đại lịch sử, vấn đề con người luôn là vấn đề trung tâm của triết học. Học thuyết Mác là sự tiếp nối và là bước ngoặt trong nhận thức về phát triển con người, nó tạo ra tiền đề lý luận để nhân loại bước sang một kỷ nguyên mới, “con người từ vương quốc của tất yếu chuyển sang vương quốc của tự do” và ngược lại “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đây là bản chất nhân văn sâu xa của học
165 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 391 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuyết Mác và qua đó, nó định hướng cho sự phát triển tiến bộ tiếp theo của loài người.
Là người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn ai hết là người ý thức rõ, nhận thức sâu sắc học thuyết Mác về con người và phát triển con người toàn diện. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo học thuyết đó của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: “con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”, rằng “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Từ lập trường tư tưởng đó, mọi hoạt động của Hồ Chí Minh luôn luôn “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Và việc xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện đã trở thành tư tưởng quán xuyến, nhất quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Và với Người, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo “những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa”, có sự phát triển toàn diện, “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài, bao giờ cũng là “một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, là mối quan tâm hàng đầu.
Lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và phát triển con người toàn diện làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho đường lối và chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành và thực hiện trên thực tế đường lối và nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển con người Việt Nam mới - con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về trí lực lẫn thể lực, cả về khả năng lao động lẫn tính tích cực chính trị - xã hội, cả về lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, trong những năm qua, chúng ta đã gặt hái được nhiều thành tựu to lớn về phát triển con người toàn diện. Con người Việt Nam không ngừng phát triển cả về thể lực, trí lực và tâm lực, có ý thức và khả năng làm chủ ngày càng cao. Song, trong bối cảnh hiện nay, khi nhân loại đã và đang có những bước tiến rất dài trong chiến lược và thực tiễn phát triển con người. Cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, của xu thế hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức, đòi hỏi chúng ta phải có sự phát triển nhanh về chất lượng con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
Đáp ứng sự đòi hỏi đó, trong gần 30 năm đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có không ít công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn cao học lấy quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, bản chất con người, giải phóng con người và phát triển con người toàn diện. Lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam mới, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo “những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội” và lấy quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người Việt Nam hiện đại - con người Việt Nam của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức làm đối tượng nghiên cứu. Không ít những đề tài và chương trình khoa học đã được ứng dụng trong thực tế và kết quả đạt được trong sự nghiệp phát triển con người Việt Nam cũng không nhỏ. Tuy nhiên, bản thân sự phát triển con người ở nước ta đã và đang tồn đọng nhiều yếu kém, nhiều hạn chế và nhiều bất cập, như: thể lực con người Việt Nam còn chưa tốt, mặt bằng dân trí còn chưa cao, trình độ chuyên môn và trình độ khoa học, kỹ thuật của người lao động còn thấp, tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chưa cao, tính sáng tạo và khả năng thích ứng với những biến đổi mới trong lao động và cuộc sống còn chưa tốt, sự tự mãn dẫn đến tinh thần học hỏi và trí tiến thủ còn yếu. Nhiều vấn đề khác, như: sự chênh lệch về mức sống và điều kiện sống của người dân giữa các vùng, miền, các dân tộc, các bộ phận dân cư; tình trạng thất nghiệp còn nhiều; tình trạng mất dân chủ trong xã hội làm cho quyền của một bộ phận không nhỏ nhân dân bị vi phạm; sự yếu kém về y tế và trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự yếu kém, bất cập trong giáo dục - đào tạo; nạn ô nhiễm môi trường, bệnh dịch; sự xuống cấp về văn hóa cũng như sự suy thoái về đạo đức, lối sống và thẩm mỹ,..v.v và v.v.. cũng đã và đang trở thành lực cản và là thách thức rất lớn cho sự phát triển con người Việt Nam. Tất cả những vấn đề đó đặt ra: phải có một công trình có khả năng cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận và cơ sở thực chứng khoa học, sát thực, khả thi nhằm đẩy mạng sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện, đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn.
Với những lý do trên đây, chúng tôi chọn Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài nghiến cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ quan niệm về phát triển con người toàn diện trong học thuyết Mác, trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, luận án phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay; từ đó, xác định định hướng, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Thứ nhất, luận giải quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
Thứ hai, phân tích thực trạng và luận giải những vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua.
Thứ ba, xác định định hướng, đề xuất và luận giải một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện; thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu quan niệm của C.Mác về phát triển con người toàn diện được ông đưa ra trong một số tác phẩm tiêu biểu; đồng thời tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện trong các tác phẩm mà Người viết và nói về mục tiêu xây dựng con người Việt Nam hiện đại. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam được luận án nghiên cứu qua đường lối, chủ trương của Đảng trong thời kì đổi mới đất nước.
- Luận án tập trung khảo sát thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
Luận án dựa trên những tác phẩm lý luận chủ yếu của C.Mác và Ph.Ăngghen, Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam; dựa vào các nguyên tắc và tiêu chí đánh giá phát triển con người của Chương trình phát triển liên hợp quốc - UNDP, đồng thời kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các học giả đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu, trong luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, tổng hợp và khái quát hoá, đối chiếu và so sánh, thống kê...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã đưa ra và khẳng định: Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa con người cá nhân và con người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa đức và tài; giữa “hồng” và “chuyên” trong mỗi con người; phát triển cá tính và sự phong phú của bản chất con người, làm cho con người trở thành một nguồn lực chủ yếu, một chủ thể vẹn toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
- Từ thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, luận án đã đưa ra và luận giải một số vấn đề đặt ra: 1) Mâu thuẫn giữa yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh về con người toàn diện với thực tế phát triển con người toàn diện ở nước ta còn chậm; 2) Mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phát triển con người toàn diện với thực tế yếu kém, bất cập của những điều kiện này là trở lực đối với phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
- Luận án xác định định hướng cơ bản và đề xuất, luận giải tính khả thi của một số giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển con người toàn diện, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ở một mức độ nhất định, luận án góp phần làm sáng tỏ lý luận chung về phát triển con người toàn diện.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin về vấn đề con người và phát triển con người.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Vấn đề con người, phát triển con người đã được nghiên cứu từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, đến những năm 80 của thế kỉ XX, vấn đề con người và phát triển con người mới thực sự được nghiên cứu một cách sâu rộng, thành quả lớn đầu tiên là báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển liên hợp quốc – UNDP, năm 1990. Ở Việt Nam, vấn đề con người và phát triển con người, mặc dù mới được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nhưng cho đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí triết học, nghiên cứu con người, xã hội học, tâm lý học, , nhiều sách tham khảo, chuyên khảo, giáo trình được đăng tải khắp cả nước, một số công trình khoa học cấp bộ, cấp nhà nước, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công. Chúng ta cũng đã có báo cáo quốc gia về phát triển con người, lần đầu tiên vào năm 2001 và những năm tiếp theo. Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận vấn đề này ở rất nhiều góc độ khác nhau, nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Đồng thời họ cũng luận giải vấn đề này một cách hết sức đa dạng và sâu sắc trên cả bình diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án là hết sức cần thiết, trước tiên giúp chúng tôi có một cái nhìn tổng thể về các công trình khoa học có nội dung liên quan đến đề tài. Quan trọng hơn, nó sẽ cho chúng tôi những cơ sở lý luận, phương pháp luận, những luận cứ, luận chứng cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời, cũng giúp chúng tôi tham chiếu nội dung đề tài của mình với những công trình khoa học đó, để tránh sự trùng lặp, phát huy những thành quả đã đạt được, tránh những hạn chế mà các đề tài đó mắc phải. Hơn nữa, cho phép chúng tôi tập trung vào những điểm mới cần được nghiên cứu trong đề tài.
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Cuốn sách Về vấn đề xây dựng con người mới [16], là công trình tập hợp nhiều bài viết của một tập thể tác giả, ngoài phần mở đầu và kết luận, công trình được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, bao gồm các bài viết về những tư tưởng về con người trong lịch sử triết học phương Đông, phương Tây. Phần thứ hai, chia làm hai mục I và II, tập hợp bảy bài viết của các nhà khoa học. Các bài viết trong cuốn sách đã khẳng định vấn đề con người là vấn đề trọng tâm được nghiên cứu trong suốt quá trình lịch sử phát triển của tư tưởng của nhân loại. Xã hội càng phát triển, sự nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò và cuộc sống của chính bản thân con người càng được quan tâm hàng đầu. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời là bước ngoặt cách mạng trong nghiên cứu con người và sự phát triển con người. Dưới ánh sáng của Đại hội Đảng IV về nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới và xây dựng con người Việt Nam mới, các tác giả đã luận giải một cách sâu sắc các nội dung, tiêu chuẩn, phương thức và biện pháp để xây dựng con người Việt Nam mới, trong bài: “Triết học và nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề xây dựng con người mới dưới ánh sáng của Đại hội Đảng lần thứ IV”, tác giả Phạm Như Cương đã cho rằng: “Phương hướng chung của việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện, cân đối, là chăm lo đến mọi mặt của đời sống con người. Nhưng vấn đề cấp bách nhất hiện nay là xây dựng một phong cách lao động mới: Lao động vì tập thể, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng xuất lao động cao, có hiệu quả lao động thiết thực. Biết lao động vì tập thể thành nghĩa vụ của mỗi người, thành niềm vinh dự và tự hào cao nhất của mỗi người, là cả một cuộc cách mạng sâu sắc về thái độ và kỷ luật lao động. Một cuộc cách mạng như vậy trong ý thức, tâm lý của mỗi cá nhân và của cả xã hội chỉ có thể là kết quả của sự kết hợp các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính, pháp luật” [16, tr.55-56].
Nguyễn Thế Kiệt trong Luận án phó tiến sỹ của mình với đề tài: Vai trò của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con người mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [71], trên cơ sở quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan với tính cách là nguyên tắc phương pháp luận nền tảng, luận án này đã luận giải vấn đề xây dựng con người Việt Nam mới. Trong đó, tác giả luận án đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng, nhất là đội ngũ đảng viên – với tư cách là nhân tố chủ quan có vị trí hàng đầu trong việc xây dựng con người Việt Nam mới. Theo tác giả luận án, “xây dựng con người trong hàng ngũ Đảng với tư cách là bộ phận tiên phong của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”, là “mắt xích chủ yếu của việc xây dựng con người mới trong quảng đại quần chúng” [71, tr.5]. Có thể nói, đây là luận án có giá trị về lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu con người, cũng như việc xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Cuốn sách Vấn đề con người và chủ nghĩa “Lý luận không có con người” [133]. Ngoài phần nhập đề và phụ lục, cuốn sách gồm sáu chương. Đồng thời với việc phê phán chủ nghĩa lý luận không có con người của phái Althusser ở Pháp trong việc phái này cho rằng chủ nghĩa Mác là thứ lý luận không có con người (con người nói chung), tác giả cuốn sách đã luận giải sâu sắc về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin luôn xem con người là vấn đề cơ bản và mục đích tối hậu của học thuyết này là nhằm giải phóng và phát triển con người. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu quan trọng trong nghiên cứu về con người và phát triển con người toàn diện.
Tư tưởng triết học về con người [126], cuốn sách bao gồm 9 chương. Đây là cuốn sách thể hiện công tình nghiên cứu công phu, có hệ thống về vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Trên cơ sở luận giải các quan điểm về con người của những nhà triết học tiêu biểu của các trường phái, các nền triết học trong lịch sử, các tác giả khẳng định triết học Mác - Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung có mục đích cao nhất là khắc phục sự tha hóa con người, giải phóng và phát triển con người. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người thể hiện tính nhân văn, nhân đạo, khoa học và cách mạng triệt để.
Cuốn sách: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội [135] được kết cấu theo hai chương: Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người; Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Các tác giả của công trình này đã trình bày tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người và về chính sách xã hội trong mối quan hệ biện chứng tạo thành một chỉnh thể. Các tác giả đã luận giải những tác phẩm và những luận điểm của Hồ Chí Minh về con người; về sự yêu thương, kính trọng con người; về vai trò và vị trí của các bộ phận quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Trên cơ sở đó, các tác giả đã luận giải nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về các chính sách xã hội nhằm đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội với mục tiêu cao quý là làm cho mọi người dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện - cả đức và tài, có lý tưởng cách mạng.
Đặng Hữu Toàn - một trong những nhà khoa học có nhiều tâm huyết trong nghiên cứu về con người và phát triển con người Việt Nam. Trong bài “Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay” [141], trên cơ sở luận giải mục tiêu tối hậu trong quan điểm của C.Mác là vì sự nghiệp giải phóng con người, tác giả đã luận giải một cách sâu sắc những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chỉ đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu phát triển con người Việt Nam. Cũng trong năm đó, trên Tạp chí Khoa học xã hội, với tiêu đề "Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [142], tác giả tiếp tục khẳng định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhằm mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện, có đủ đức và tài, có chuyên môn giỏi, có trình độ khoa, học kỹ thuật, có đạo đức và bản lĩnh chính trị...Và chính những con người Việt Nam phát triển toàn diện đó trở thành động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tác giả cũng thấy rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội kinh tế quốc tế cũng có nhiều mặt trái tác động đến đời sống xã hội, đặt ra nhiều thánh thức trong chiến lược phát triển con người Việt Nam. Từ nhận thức đó, tác giả đã đi tới quan điểm rằng, phát triển con người Việt Nam cần phải gắn với phát triển văn hóa, và trong bài“Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc” [143], tác giả đã khẳng định văn hóa là động lực quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy “phát triết văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng cần phải được coi là quốc sách hàng đầu” [143, tr.9]. Và trong mối quan hệ với con người thì con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời văn hóa sẽ hướng con người đến với giá trị chân - thiện - mỹ. Do đó, “văn hóa, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không thể đứng ngoài chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện đại” [143, tr.9]. Hơn nữa, sự phát triển con người là thước đo quan trọng hàng đầu về tính nhân văn của sự tiến bộ xã hội – điều này được tác giả luận giải trong bài “Phát triển con người - thước đo nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam” [147]. Có thể nói, những công trình khoa học này là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu con người và phát triển con người toàn diện Việt Nam.
Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động [161] -Công trình tập hợp một số bài viết của các nhà khoa học trên thế giới, trong đó có Amartya Sen - Người được nhận giải Noben về kinh tế năm 1999 nhờ đóng góp to lớn của ông trong việc nghiên cứu vấn đề đói nghèo và phát triển con người. Các tác giả đã trình bày quan điểm của mình về khái niệm con người, chiến lược phát triển con người, đồng thời đưa ra các công cụ phân tích, đánh giá trình độ phát triển con người; nguồn lực và những nhân tố tác động đến phát triển con người, và về thực trạng phát triển con người ở các nước trên thế giới. Các tác giả đã khẳng định, việc phát triển con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhân loại trong kỷ nguyên mới. Công trình cũng là cơ sở tham chiếu quan trọng cho vấn đề phát triển con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá [48], Cuốn sách do GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên, đây là một công trình khoa học thể hiện sự nghiên cứu công phu của các tác giả về vấn đề phát triển con người Việt Nam theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cuốn sách được chia làm hai phần với mười hai chương nội dung. Ở phần thứ nhất của cuốn sách, các tác giả đã trình bày những cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, kinh nghiệm của nước ngoài về phát triển con người cũng là cơ sở quan trọng trong việc phát triển con người Việt Nam. Đông thời, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước đã trở thành cơ sở thực tiễn của chiến lược phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Các tác giả cũng đã đưa ra mô hình nhân cách con người Việt Nam, con người Việt Nam là “Con người có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; có ý chí kiên cường, có hoài bão lớn lao phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, có tư duy sáng tạo và có óc thực nghiệm, có kỹ năng thực hành giỏi, tay nghề cao, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, tinh thần trách nhiệm cao, có lòng nhân ái, tôn trọng và hợp tác được với người khác, có sức khỏe, có khả năng tự hoàn thiện không ngừng, năng động và thích ứng, có tinh thần pháp luật và có ý thức công dân, ý thức bảo vệ môi sinh, biết yêu cái đẹp” [48, tr.106-107]. Đó là mô hình gắn bó chặt chẽ giữa đức và tài trong con người. Trong phần thứ hai, các tác giả đã đưa ra định hướng chiến lược và luận giải những giải pháp cụ thể cho việc phát triển con người Việt Nam trên bốn phương diện cơ bản là đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất.
Nguyễn Hữu Công trong Luận án tiến sỹ triết học, với đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện [14], tác giả luận án đã trình bày trong ba chương nội dung. Chương thứ nhất, trình bày hai cơ sở lý luận cơ bản để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn diện. Bên cạnh việc nhấn mạnh tư tưởng của Dân tộc Việt Nam, tác giả đã khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền đề lý luận cơ bản cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Chương thứ hai, trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, đồng thời luận giải vai trò của các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa trong quá trình hình thành và phát triển con người toàn diện. Theo tác giả: “Để có những con người phát triển toàn diện cho chế độ mới, xã hội cần phải tạo ra được những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phù hợp, phải tổ chức giáo dục, đào tạo, phát triển con người mọi mặt. Có như vậy, sự nghiệp đào tạo, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam mới có thể đi tới thành công” [14, tr.128].
Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [170], Cuốn sách gồm 3 chương. Trong chương 1. Những quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con người, trên cơ sở phê phán những hạn chế và sai lầm của một số quan niệm trước Mác về con người, tác giả đã khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa Mác là bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người. Các quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về bản chất con người, về con người - chủ thể sáng tạo của lịch sử và giải phóng con người được tác giả phân tích sâu sắc và đi đến khẳng định, học thuyết Mác - Lênin đã “coi con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới” [170, tr.31]; “giải phóng con người là đưa con người ra khỏi sự khép kín về đẳng cấp, địa vị, về vị trí của con người trong xã hội, là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa nhận bản tính loài của con người xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người; làm cho lao động và hòa bình, nhân bản, nhân đạo và bình đẳngnhững thuộc tính nội tại của con người được thực hiện vững chắc ở từng con người và cả cộng đồng xã hội” [170, tr.81]. Và “con đường duy nhất để thực hiện sự giải phóng ấy là tiến hành cuộc cách mạng vô sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [170, tr.98].
Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người [62], Cuốn sách được kết cấu thành hai phần chính. Phần thứ nhất với nhan đề chủ nghĩa xã hội và sự phát triển xã hội Việt Nam, được tác giả Nguyễn Văn Huyên trình bày trong mười một chương nội dung. Trong phần này, trên cơ sở cho rằng chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người, tác giả đã khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là môi trường, điều kiện để tiến tới phát triển con người Việt Nam. Phần thứ hai của cuốn sách với nhan đề lý tưởng xã hội chủ nghĩa và vấn đề phát triển con người ở Việt Nam và được trình bày trong mười chương nội dung. Tác giả cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận quan trọng cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam (chương 2), đồng thời tác giả đã đưa ra hướng tiếp cận mới về con người và phát triển con người, theo tác giả “quá trình tiến bộ của lịch sử vươn tới tự do - hạnh phúc, chính là quá trình giảm dần mẫu số hy sinh, chịu đựng, tăng dần tử số thưởng ngoạn, hưởng thụ cho con người. Sáng tạo, cống hiến - tạo ra văn hóa, làm phong phú thế giới xã hội bên ngoài và thưởng ngoạn, hưởng thụ - sự văn hóa bản thân, làm giàu thế giới tinh thần bên trong - đó là một trong những nội dung quan trọng nhất, cao cả nhất, tập trung nhất của đời sống con người; đó cũng chính là nội dung quan trọng nhất của mục tiêu và chiến lược phát triển con người hiện đại” [62, tr.153-154]. Từ đó tác giả cho rằng, con người hiện đại là con người phải có trí tuệ, có kỹ năng nghề nghiệp, có trình độ khoa học, kỹ thuật. Đặc biệt là phải biết sáng tạo, biết thưởng ngoạn - hưởng thụ văn hóa. Rằng văn hóa, các giá trị nhân văn và kinh tế thị trường, môi trường đô thi, văn hóa thẩm mỹ, nghệ thuật và giáo dục là những nhân tố cho sự hình thành và phát triển các phẩm chất đó của con người hiện đại.
Cuốn sách Con người và phát triển con người: trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen [117], do Hồ Sĩ Quý chủ biên. Cuốn sách gồm 2 phần. Phần thứ nhất: Di sản kinh điển - những tư tưởng cơ bản về con người và phát triển con người. Phần này trình bày những luận điểm về con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, tương ứng với các quan điểm đó là các trích dẫn tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ đề con người, về bản chất con người, về vấn đề giải phóng con người. Phần thứ hai: Di sản kinh điển nhìn từ thời đại ngày nay - ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với nhận thức và phát triển con người. Phần này gồm những bài viết của các tác giả, trong đó phân tích, làm sáng tỏ quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề con người và phát triển con người. Trong bài: Học thuyết Mác về con người và giải phóng con người, PGS,TS Đặng Hữu Toàn đã khẳng định vấn đề cơ bản trong học thuyết Mác là coi “con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là mục tiêu cao cả nhất mà nhân loại cần đạt tới” [117, tr.479]. Cuốn sách là tư liệu quan trọng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và phương pháp luận phục vụ nghiên cứu vấn đề con người và phát triển con người.
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phương pháp luận nghiên cứu con người: Niên giám nghiên cứu [49], do GS,VS Phạm Minh Hạc chủ biên. Cuốn sách được chia làm 3 phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh - Những vấn đề phương pháp luận; Hồ Chí Minh và sự nghiệp phát triển con người; Hồ Chí Minh với các thế hệ người Việt Nam. Đây là một công trình trình tập hợp nhiều bài viết của các tác giả và được trình bày một cách có hệ thống, phản ánh sâu rộng những tư tưởng, quan điểm và triết lý của Hồ Chí Minh về con người, bản chất con người, phương pháp luận nghiên cứu con người, sự nghiệp trồng người, và về con người phát triển toàn diện; tư tư tưởng của Hồ Chí Minh về lao đồng và người lao động, trí thức, người nghệ sỹ, người cán bộ, người cao tuổi, phụ nữ, thanh niên, trẻ em. Trong đó, có nhiều bài viết của những người đã nhiều lần tiếp xúc và làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp (bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người), Tố Hữu (bài Chủ tịch Hồ Chí Minh và con người Việt Nam), Vũ kỳ (bài chuyện Bác Hồ viết di chúc), Hoàng Tùng (bài Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh)và báo cáo của một số chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh như GS,VS,TSKH Nguyễn Duy Quý; GS Đặng Xuân Kỳ, đồng chí Việt Phương, GS Hồ Tôn Trinh,..; nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và phát triển con người, như GS,VS Phạm Minh Hạc; GS,TS Phan Ngọc Liên,... Chính vì vậy, cuốn sách cung cấp cho những người nghiên cứu về Hồ Chí Minh, nhất là nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và con người Việt Nam phát triển toàn diện những cơ sở lý luận, phương pháp luận và luận cứ hết sức quan trọng.
Giáo trình Con người và phát triển con người [119]. Cuốn giáo trình này được chia làm 3 phần, Phần 1. Một số vấn đề lý luận về con người và phát triển con người, luận giải quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về việc nghiên cứu con người là một khoa học. Tiếp đến làm rõ vấn đề khái niệm con người, bản chất con người, con người trong quan hệ với giới tự nhiên và vấn đề phát triển con người. Đồng thời khẳng định: “Nghiên cứu con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng, hiện đa...66); Phan Văn Nhân (2011), Đổi mới tư duy trong giáo dục, (70); Phạm Văn Kha (2012), Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 với sự nghiệp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam, (87);...
Những công trình khoa học trên đây đã đi sâu khai thác mối quan hệ của các lĩnh vực cụ thể như: Dân chủ, đạo đức, định hướng giá trị của con người, kỹ năng mềm của con người, các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, văn hóa..., quyền con người, quyền chăm sóc sức khỏe...đối với việc phát triển con người Việt Nam hiện nay. Những lý giải của các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau là cơ sở quan trọng để chúng tôi thực hiện đề tài của mình.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về vấn đề con người, phát triển con người và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm gần đây được đăng tải với số lượng ngày càng nhiều, chất lượng cũng ngày càng được nâng cao; với nhiều cách tiếp cận khác nhau; nội dung các công trình cũng đã đề cập một cách khá toàn diện nhiều vấn đề về con người như: Nguồn gốc, bản chất con người; vai trò, vị trí của con người; cấu trúc nhân cách con người Việt Nam; sự phát triển con người và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
Thứ hai, các công trình nghiên cứu cung cấp những cơ sở lý luận và phương pháp luận quan trọng trong nghiên cứu vấn đề con người và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin (điển hình như các công trình do Hồ Sỹ Quý chủ biên), tư tưởng Hồ Chí Minh (điển hình như luận án tiến sĩ của Nguyễn Hữu Công) đến các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể. Có những nhà khoa học tâm huyết và đã có nhiều thành quả trong nghiên cứu con người và phát triển con người, điển hình như Phạm Minh Hạc, Hồ Sỹ Quý, Đặng Hữu Toàn, Vũ Thiện Vương.
Thứ ba, những khảo sát thực tiễn và các kết quả nghiên cứu thực chứng về vấn đề con người đã đưa ra, cho chúng ta thấy được một bức tranh toàn cảnh về phát triển con người ở Việt Nam hiện nay, nhất là các công trình nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội Việt Nam nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và của UNDP (điển hình là các báo cáo quốc gia về phát triển con người Việt Nam), cùng các tài liệu của Tổng cục Thống kê.Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu quý báu, vừa có tính khái quát cao lại vừa hết sức đa dạng, nhưng cũng rất cụ thể và chi tiết.
Thứ tư, những đánh giá, nhận xét và những kết luận được các nhà nghiên cứu đưa ra hết sức đúng đắn, xác thực. Các nhà khoa học đều khẳng định con người vừa mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, trong khi các nguồn lực khác, khi được khai thác thì ngày càng khan hiếm, cạn kiện thì con người, đặc biệt là trí tuệ con người, khi được khai thác nó lại càng trở nên vô tận. Vì thế, các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng, việc nghiên cứu vấn đề con người, phát triển con người ở Việt Nam hiện nay là hết sức khẩn thiết. Quan điểm này có giá trị to lớn về mặt phương pháp luận cho việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
Những kết quả to lớn về mặt khoa học mà các công trình nghiên cứu trên đã đạt được là những tài liệu tham khảo bổ ích, song đối với đề tài của luận án - Vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay - là một vấn đề không đơn giản và đối với chúng tôi là một vấn đề lớn. Vì vậy, có một số vấn đề đặt ra cho chúng tôi trong việc nghiên cứu đề tài luận án, đó là những vấn đề sau:
Một là, việc nghiên cứu vấn đề phát triển con người ở Việt Nam đã được manh nha từ những thập niên 80 của thế kỉ trước, nhưng chỉ đến những năm gần đây, khi mà công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành quả bước đầu, vấn đề phát triển con người ở nước ta mới được thực sự quan tâm nghiên cứu. Mặc dù mới được nghiên cứu, song kết quả nghiên cứu đã đạt được những thành tựu quan trọng. Điều này đặt ra cho chúng tôi là phải đi sâu tìm tòi, kế thừa, đối chiếu, chắt lọc và tích hợp để những thành quả có giá trị đã nghiên cứu ấy được phát triển trong đề tài của chúng tôi.
Hai là, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam là một vấn đề không còn quá mới mẻ. Các công trình nghiên cứu về vấn đề này được các nhà khoa học tiếp cận ở nhiều góc độ khoa học khác nhau, như xã hội học, tâm lý học, chính trị học, nghệ thuật học, kể cả triết học Vì vậy, ở góc độ triết học, một mặt, chúng tôi phải có sự luận giải mới mẻ hơn, nhưng mặt khác, chúng tôi phải đưa ra được những kết quả nghiên cứu phù hợp với xu hướng nghiên cứu và xu hướng phát triển trên thực tiễn của vấn đề này ở nước ta cũng như trên thế giới trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, các công trình nghiên cứu xung quanh đề tài của chúng tôi, có thể nói là nhiều. Song, có công trình chỉ tập trung nghiên cứu thuần túy về mặt lý luận hay phương pháp luận. Có công trình chỉ thuần túy nghiên cứu thực chứng. Có những công trình tích hợp các bài báo hay chuyên khảo của một số tác giả thì lại thể hiện khiếm khuyết là thiếu tính hệ thống, chưa lôgíc hoặc còn sơ sài. Từ thực tế này, đặt ra cho chúng tôi phải có được một kết quả nghiên cứu vừa có tính tích hợp cao, vừa phản ánh toàn diện hơn nhưng lại phải sâu sắc, cụ thể.
Bốn là, trong bối cảnh hiện nay, khi mà vấn đề con người ngày càng trở nên quan trọng, toàn thể nhân loại coi đây là vấn đề trung tâm. Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc ta cũng khẳng định rằng phát triển con người Việt Nam là mục đích tối hậu của chế độ ta. Chính vì thế, nó đặt ra cho chúng tôi một nhiệm vụ quan trọng là phải nghiên cứu để bổ sung và phát triển hơn về mặt lý luận, phương pháp luận trong nghiên cứu vấn đề này. Đồng thời làm sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về thực trạng phát triển con người ở nước ta trong những năm vừa qua. Hơn nữa, lại phải biết kế thừa kinh nghiệm của các quốc gia có nhiều thành tựu trong phát triển con người. Trên cơ sở đó, mới có thể đưa ra được những định hướng đúng đắn cũng như những giải pháp thiết thực, hiệu quả, có giá trị góp phần cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thực tiễn phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, nhằm mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại hơn 20 thế kỷ qua, đã có biết bao học thuyết triết học ra đời và phát triển, song sự ra đời của chủ nghĩa Mác giữa thế kỷ XIX vẫn là một bước ngoặt vĩ đại trong tiến trình phát triển đó của lịch sử tư tưởng nhân loại. Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, học thuyết Mác luôn xoay quanh những vấn đề của con người: Bản chất con người, sự giải phóng và phát triển con người toàn diện. Chính vì vậy, học thuyết Mác thực sự mang tính nhân văn chân chính; và cũng vì vậy, học thuyết Mác nói chung, học thuyết Mác về phát triển con người toàn diện không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có ý nghĩa thời vượt đại.
Nhận thức sâu sắc tính khoa học và cách mạng của học thuyết Mác về con người và phát triển con người toàn diện, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và vận dụng sáng tạo những quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng nước ta. Có thể khẳng định rằng, một trong những yếu tố cơ bản, hàng đầu dẫn đến những thành quả to lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong những năm qua là việc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã vận dụng một cách đúng đắn học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự giải phóng và phát triển con người toàn diện vào sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Vì vậy, việc nghiên cứu để tiếp tục làm rõ những quan niệm của C.Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thành một cách hệ thống về mặt lý luận và phương pháp luận khoa học cho tác giả luận án đi nghiên cứu và luận giải thực trạng, định hướng, cũng như việc đề ra những giải pháp phát triển con người toàn diện ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.1. QUAN NIỆM CỦA C.MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, chúng ta thấy C.Mác không dành riêng một tác phẩm nào để chuyên bàn về phát triển con người toàn diện. Song, từ toàn bộ di sản lý luận của Mác, chúng ta có thể nói, với ông, phát triển con người toàn diện là “phát triển sự phong phú của bản chất con người”, phát triển năng lực và phẩm giá con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi sự “tha hóa” để con người được sống với cuộc sống đích thực của mình, được tự do phát triển và phát triển toàn diện.
2.1.1. Phát triển con người toàn diện – “Phát triển sự phong phú của bản chất con người”
Theo C.Mác, con người là sản phẩm của sự phát triển cao nhất của tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với tự nhiên – thân thể vô cơ của nó. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, nhất là hoạt động sản xuất vật chất, con người đã biến thuộc tính tự nhiên của mình thành bản chất xã hội. Đó là con người hiện thực “bằng xương, bằng thịt” và chính việc thông qua sự “giao tiếp” với giới tự nhiên, con người đã nhận biết sâu sắc về tự nhiên. Trong quá trình chinh phục và cải biến giới tự nhiên, con người đã hoàn thiện chính bản thân mình. Sự phát triển và hoàn thiện con người làm cho con người có khả năng làm chủ tự nhiên. Từ và cùng với quá trình “giao tiếp” với giới tự nhiên, con người cũng thực hiện sự “giao tiếp” giữa người với người thông qua hoạt động thực tiễn hết sức phong phú của mình. Cũng nhờ vậy, con người hình thành nên những phẩm chất đặc thù của con người – phẩm chất xã hội. Theo Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [84, tr.11].
Trong quan niệm của Mác, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử - xã hội, mà còn là chủ thể lịch sử, là “kẻ” sáng tạo ra lịch sử, do đó “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống” [84, tr.29]. Từ quan niệm đó C.Mác khẳng định: Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trước hết phải có nghĩa là “sự phát triển phong phú của bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân” [89, tr.168]. Theo đó, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển và tiến bộ xã hội là phát triển và nâng cao năng lực con người, để con người được sống với cuộc sống đích thực của mình, chứ không còn bị “tha hóa”.
Với C.Mác, nội hàm của khái niệm phát triển con người toàn diện là tương đối phong phú và đa dạng. Trước hết là giải phóng con người khỏi sự phiến diện, què quặt, tha hóa do tình trạng bóc lột và sự phân công lao động mà chủ nghĩa tư bản mang lại. Có thể nói, toàn bộ học thuyết Mác, xét đến cùng, hướng tới mục tiêu cao cả nhất là giải phóng con người. Cơ sở của quan điểm này là ở chỗ, bản chất con người là vươn tới “tự do” và “làm chủ”. Coi xã hội tư bản là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại, song ở xã hội tư bản, khi một bộ phận người được tự do và làm chủ, còn đại bộ phận người lại bị “tha hóa”. Và khi coi việc “quy con người, một mặt, thành thành viên của xã hội công dân, thành cá nhân vị kỷ, độc lập, và mặt khác, thành công dân của nhà nước, thành pháp nhân là sự giải phóng chính trị” [82, tr.557], C.Mác xem đó là sự giải phóng con người khỏi sự khép kín về đẳng cấp, về địa vị, về vị trí của con người trong xã hội; là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa nhận bản tính loài của con người; là làm cho mỗi con người và cả cộng đồng nhân loại được sống trong hòa bình, nhân văn, nhân đạo và bình đẳng ... C.Mác còn cho rằng, mọi sự giải phóng con người đều phải “bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người” [82, tr.557], chứ không phải ở tính cá nhân vị kỷ, là công dân của xã hội, chứ không phải công dân chính trị phụ thuộc vào nhà nước và là pháp nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi con người nhận thức được và tổ chức được “những lực lượng của bản thân thành những lực lượng xã hội và vì vậy sẽ không còn tách lực lượng xã hội dưới dạng lực lượng chính trị ra khỏi bản thân mình – chỉ khi ấy giải phóng con người mới được hoàn thiện” [82, tr.558]. Như vậy, theo C.Mác chỉ có đưa con người trở về với bản chất đích thực của con người mới thực sự là giải phóng con người. Và sự nghiệp giải phóng con người chỉ có thể thực hiện được bằng hoạt động thực tiễn, bằng cuộc đấu tranh để xóa bỏ sự tha hóa của con người, để con người được tự do và phát triển.
Trong xã hội tư bản, cơ sở của sự tha hóa con người, theo C.Mác, chính là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Bởi thế, C.Mác cho rằng, việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – thứ “sở hữu vận động trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động” là tiền đề cơ bản cho việc xóa bỏ mọi sự tha hóa của con người, cho sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng xã hội. Và đó cũng chính là tiền đề cho sự phát triển con người toàn diện. C.Mác viết:
Xuất phát từ quan hệ của lao động bị tha hóa khỏi sở hữu tư nhân, còn có thể kết luận thêm rằng sự giải phóng xã hội khỏi sự sở hữu tư nhân,..v.v.., khỏi sự nô dịch, trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng công nhân, vả lại vấn đề ở đây không chỉ là sự giải phóng họ, vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người [91, tr.143].
Với quan niệm đó, C.Mác cho rằng, lực lượng xã hội có sứ mệnh thực hiện thành công sự nghiệp giải phóng con người là giai cấp vô sản. Luận điểm đó cũng cho thấy, C.Mác luôn đặt sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản trong mối quan hệ với giải phóng con người, giải phóng giai cấp và toàn thể loài người để con người, loài người nói chung, giai cấp vô sản nói riêng có điều kiện phát triển toàn diện.
Phát triển con người toàn diện trong tư tưởng C.Mác còn là phát triển tự do và làm chủ. Bản tính hoạt động để vươn tới “vương quốc của tự do” được C.Mác xem như là điểm xuất phát cho phương hướng lý tưởng của con người, cho việc cải tạo xã hội để sao cho mỗi thành viên của xã hội có thể phát triển hoàn toàn tự do và vận dụng tất cả mọi khả năng và sức lực của mình. Tự do ở đây, theo C.Mác trước hết được hiểu là con người phải nhận thức được quy luật, và “tự do” gắn liền với sự phát triển toàn diện của con người, như C.Mác đã nói trong “Lược thảo khoa kinh tế chính trị” rằng “cá nhân tự do xuất hiện trên cơ sở phát triển toàn diện con người”. Đồng thời, “tự do” gắn với “làm chủ”, bởi vì việc nhận thức được quy luật chỉ là tiền đề của tự do. Trên cơ sở nhận thức được tính tất yếu của tự nhiên, của xã hội và chính bản thân mình, con người có thể làm cho bản thân mình tồn tại, phát triển phù hợp với tính tất yếu đó, hơn nữa, con người tự do khi con người có thể chi phối được thế giới bên ngoài và chính bản thân mình.
Phát triển con người toàn diện trong tư tưởng của C.Mác còn là phát triển cá tính, năng khiếu, sở thích, phát triển cá nhân con người với ý nghĩa đúng đắn và chân chính. C.Mác cho rằng:
Trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi [84, tr.47].
Thông qua tự do hoạt động theo sở thích như vậy, con người có thể tìm thấy sự hứng thú và phát huy tốt yếu tố nội lực, hiệu quả trong hoạt động sẽ được nâng cao và tính tích cực của hoạt động đó sẽ đóng góp chung vào sự phát triển của xã hội. Với quan niệm này, C.Mác còn nhấn mạnh việc phải làm cho cá nhân phát triển toàn diện những năng khiếu của mình. Và theo ông, chỉ khi các cá nhân riêng biệt liên kết thành cộng đồng thực sự, họ mới có được sự phát triển toàn diện mọi năng lực, phẩm chất của mình. Ông viết: “Chỉ có trong cộng đồng cá nhân con người mới có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, và do đó, chỉ có trong cộng đồng, con người mới có thể có được tự do cá nhân” [84, tr.108]. Như vậy, theo C.Mác, sự phát triển của cá tính là một mặt của sự phát triển tự do. Và do đó, phát triển năng khiếu, cá tính chính là sự phát triển độc đáo của con người.
Bên cạnh phát triển quyền tự do theo sở thích, phát triển văn hóa cũng là một nội dung quan trọng để hướng tới phát triển con người toàn diện. Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử xã hội. Trong những giá trị con người sáng tạo ra thì văn hóa là một sản phẩm đặc biệt, tính đặc biệt của nó ở “giá trị” văn hóa. Với tư cách là một bộ phận trong kiến trúc thượng tầng, các giá trị văn hóa trở thành cội nguồn của giá trị trong đời sống tinh thần con người. Nó không phải là cái có sẵn, bất biến, mà được hình thành, phát triển gắn liền với hoạt động của con người trong một hệ thống các hoạt động giao tiếp với tự nhiên, với con người, với tộc loại và với lịch sử. Quá trình giao tiếp này sản sinh ra và tiếp tục làm giàu thêm đời sống tinh thần, văn hóa của cộng đồng, dân tộc và nhân loại. Vì vậy, phát triển văn hóa là một yêu cầu quan trọng trong quá trình phát triển và hoàn thiện con người, bởi “mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa lại là một bước tiến tới tự do” [87, tr.164].
Như vậy, có thể nói phát triển con người trong tư tưởng của C.Mác là phát triển con người trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên và xã hội, phát triển các giá trị văn hóa – giá trị tinh thần của con người, phát triển sự phong phú của bản chất con người, nâng cao năng lực con người, giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa, khỏi sự phiến diện, què quặt do tình trạng bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó, con người phát triển cá tính, năng khiếu, sự tự do và năng lực làm chủ xã hội của mình.
2.1.2. Phát triển con người toàn diện gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, thông qua lao động sản xuất và hoạt động thực tiễn của con người
Khi coi con người là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử, C.Mác đã khẳng định rằng: “Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình” [83, tr.41]. Sự vận động, phát triển của lịch sử chính là sự thay thế các nền văn minh, văn hóa, gắn liền với quá trình tiến hóa, phát triển của con người, của xã hội loài người. Bằng hoạt động thực tiễn sáng tạo của mình, con người không chỉ phát triển chính bản thân mình, mà thông qua đó, con người còn sáng tạo ra lịch sử xã hội loài người. C.Mác viết: “Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” và “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người” [90, tr.658]. Sáng tạo ra toàn bộ mọi nền văn minh và văn hóa của nhân loại, con người thể hiện ra là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là thước đo giá trị của mọi giá trị. Như vậy, xét về thực chất, con người không chỉ là sản phẩm, là chủ thể, mà còn là mục đích của sự phát triển xã hội. Và do vậy, sự phát triển con người toàn diện không thể không gắn với sự phát triển xã hội.
Con người không chỉ sáng tạo ra lịch sử, mà con người còn chính là động lực cơ bản nhất cho sự phát triển của lịch sử. Đứng trên lập trường duy vật về lịch sử, C.Mác cho rằng tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội. Sản xuất càng phát triển, tính chất xã hội hóa của sản xuất cũng ngày càng cao. Sự phát triển mới của nền sản xuất sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình, nền sản xuất đó sẽ tạo ra những điều kiện cho sự phát triển con người toàn diện, sẽ làm cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội “có năng lực phát triển toàn diện” [85, tr.474]. Điều này cho thấy C.Mác luôn đặt sự phát triển của con người trong quan hệ biện chứng với phát triển sản xuất và phát triển xã hội. Hơn thế, C.Mác còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển con người toàn diện là “một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội” [86, tr.52].
Để phát triển con người toàn diện, theo C.Mác, cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa lao động sản xuất với giáo dục về thể chất và trí tuệ. C.Mác viết: “Kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp duy nhất để sản xuất ra con người phát triển toàn diện nữa” [88, tr.688]. Với quan niệm này, C.Mác còn đề cập đến một khái niệm rộng hơn, toàn diện hơn - hoạt động thực tiễn. Coi hoạt động thực tiễn là một phương pháp phát triển con người, C.Mác cho rằng hoạt động thực tiễn tác động trực tiếp đến tư duy. Bằng hoạt động thực tiễn và thông qua thực tiễn cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội, con người ngày càng hoàn thiện mình hơn, xét trên cả hai phương diện sinh học và xã hội.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, phát triển con người toàn diện trong quan niệm của C.Mác có cơ sở là hoạt động thực tiễn. Từ nhu cầu và sự sinh tồn của cuộc sống, bằng hoạt động thực tiễn, mà trước hết là hoạt động lao động sản xuất, con người phát triển chính bản thân mình. Đó là quá trình đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển con người toàn diện. Với quan điểm này, học thuyết Mác đã cho thấy tính cách mạng và khoa học trong quan niệm về biện pháp phát triển con người là thông qua hoạt động thực tiễn của chính con người.
Như vậy, với “chủ nghĩa nhân đạo hiện thực” và quan điểm quy vật triệt để của mình, học thuyết Mác đã khẳng định con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử; con người là động lực và cũng là mục đích của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Con người với bản tính luôn hướng tới tự do và làm chủ, đã bằng hoạt động thực tiễn cách mạng của chính mình để phát triển bản thân mình và thông qua đó làm cho xã hội phát triển. Sự nghiệp giải phóng và phát triển con người là cuộc đấu tranh để xóa bỏ sự tha hóa của con người, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Xã hội mới đó là một cộng đồng xã hội với “một liên hợp, trong sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [85, tr.628], mọi cá nhân có điều kiện để có thể tự do phát triển “năng khiếu” của mình. Do đó, chỉ có trong cộng đồng xã hội như vậy, con người mới có thể được giải phóng và phát triển toàn diện.
2.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN
Với bản chất cách mạng và khoa học của mình, học thuyết Mác - Lênnin đã trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Trên thực tế, học thuyết Mác - Lênin nói chung, học thuyết Mác về con người và phát triển con người nói riêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu, phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, thông qua các bài viết, bài nói của Người, chúng ta thấy rằng, trong tư tưởng của Người, con người phát triển toàn diện là con người có đủ các phẩm chất, bao gồm: Đạo đức, trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ (Đức, trí, thể, mỹ). Trong bài: “Gửi các em học sinh” trên báo Nhân Dân ngày 24/10/1955, Người đã viết:
Đối với các em, việc giáo dục gồm có:
+ Thể dục: Để làm cho thân thể khỏe mạnh.
+ Trí dục: Ôn lại những điều đã học, học thêm tri thức mới.
+ Mỹ dục: Để phân biệt cái đẹp, cái gì không đẹp.
+ Đức dục: Là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu của công [98, tr.75].
Tư tưởng này được Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định trong “Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi” tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa 1 Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1959), trong đó Người viết: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục” [99, tr.593].
Như vậy, con người toàn diện trong quan niệm của Hồ Chí Minh hiện ra như một thực thể vẹn toàn, trong đó sự mạnh khỏe về thể chất, sự phong phú về mặt trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc về cái đẹp, cái tốt, cái cao cảcũng như những phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp là những điểm cơ bản và chủ yếu nhất. Khái quát về con người toàn diện, Hồ Chí Minh gọi con người đó phải có đủ đức và tài, “hồng” và “chuyên”.
Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người toàn diện, Đảng ta, trong các cương lĩnh của mình đã luôn thể hiện quan điểm cần phải xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã cho rằng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện – “Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ và lao động giỏi; sống có văn hoá và tình nghĩa; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính” [29, tr.15]. Tại Đại hội IX, Đảng ta cho rằng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam cần phải hướng đến con người “phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [36, tr.114]. Và tại Đại hội XI, khi tiếp tục khẳng định quan điểm phát triển con người toàn diện, Đảng ta đã đề ra mục tiêu là phải “xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính” [39, tr.40].
Như vậy, có thể thể nói, Hồ Chí Minh và Đảng ta đều thấm nhuần học thuyết Mác về phát triển con người toàn diện và vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử của con người. Vì thế, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thấy được việc cần thiết phải xây dựng con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện. Cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta thấy Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng và phát triển con người Việt Nam mới trên hai phương diện: Thứ nhất, phát triển con người toàn diện với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạngViệt Nam; thứ hai, phát triển con người toàn diện là phát triển về các phương diện thể lực, trí lực và tâm lực.
2.2.1. Phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam
Với quan niệm đúng đắn về vị trí, về vai trò của con người và về phát triển con người, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người và phát triển con người toàn diện là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, là nhiệm vụ trung tâm, là động lực của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội luôn gắn liền với giải phóng và phát triển con người. Đồng thời, mục tiêu giải phóng con người phải xuất phát từ giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với lập trường đó, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải “đem hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân lợi cho dân” [95, tr.61]; “dựa vào: Lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân” [95, tr.444]; “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy” [100, tr.556].
Ngay khi mới bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta cũng đã xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội mà ở đó, “con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [29, tr.9]. Mục tiêu này cho thấy sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng ta là hướng tới con người, coi sự phát triển con người toàn diện là đặc trưng, là bản chất của chế độ ta, là mục tiêu tối cao, là động lực to lớn của sự nghiệp cách mạng.
Cụ thể hoá mục tiêu này, Đảng ta đã chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cở sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội” [29, tr.13].
Khi xác định phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn chú ý đến hoàn cảnh lịch sử, đến thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mục tiêu chung của cách mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Song, trong mỗi giai đoạn lịch sử cần phải xác định mục tiêu cụ thể. Mục tiêu tối cao của cách mạng Việt Nam trước năm 1945 là giành chính quyền, sau năm 1945 là làm sao chính quyền đó phải mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, bởi “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Do vậy, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã yêu cầu “chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành” [94, tr.152]. Khi miền Bắc đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu nhất định, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện chính sách “khoan thư sức dân”, “nâng cao dần mức sống của nhân dân..., đồng thời giảm nhẹ dần sự đóng góp của nông dân” [98, tr.48]. Trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không quên chăm lo cho lợi ích của nhân dân, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng rất cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng” [98, tr.272]. Khi đất nước ta bước vào giai đoạn khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, mục tiêu lúc n...à lợi ích hợp pháp của nhân dân; tôn trọng và thực hiện các luật, thực hiện tốt các điều ước quốc tế về quyền con người.
Như vậy, mở rộng phát huy dân chủ, kết hợp với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực chất cũng chính là nhằm đảm bảo cao nhất quyền và lợi ích của nhân dân, thực hiện tốt vấn đề này là yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc bảo đảm cho sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp phát triển con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, điều tiên quyết là phải đề ra được những định hướng đúng đắn. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra ba định hướng cơ bản, gồm các định hướng:
Thứ nhất, phát triển con người toàn diện vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, gắn chiến lược phát triển con người toàn diện với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, phát triển con người toàn diện là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị và mọi tổ chức xã hội.
Trên cơ sở những định hướng cơ bản đó, cần phải có một hệ thống các giải pháp và biện pháp thiết thực, hiệu quả, khả thi để có thể nhanh chóng áp dụng trong thực tiễn, nhằm thúc đẩy nhanh sự nghiệp phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Trước hết, chúng ta cần thực hiện các giải pháp sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển con người Việt Nam theo những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
2. Kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần của con người Việt Nam.
3. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
4. Tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm phát triển chất lượng con người Việt Nam.
5. Tiếp tục kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp gắn với tăng cường xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng trong con người Việt Nam.
6. Xây dựng, tổ chức thực hiện và giám sát hiệu quả hệ thống chính sách xã hội nhằm mục tiêu phát triển con người toàn diện.
Sự thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả những định hướng và giải pháp trên là điều kiện đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
KẾT LUẬN
1. Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, vấn đề con người đều được nhiều nhà khoa học, cũng như nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Và dù ở lĩnh vực khoa học nào thì các học giả đều hướng tới một mục tiêu cơ bản là làm sao để con người được phát triển. Sự ra đời của học thuyết Mác là một bước ngoặt vĩ đại trong nghiên cứu về con người và phát triển con người toàn diện. Đứng trên lập trường thế giới quan duy vật biện chứng, học thuyết Mác đã luôn xem xét và đặt con người trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và tự nhiên. Ở trong mối quan hệ đó, con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử - xã hội; nhờ và bằng hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình, con người đã sáng tạo ra lịch sử - xã hội và cũng chính trong lịch sử - xã hội đang phát triển đó, con người sẽ được tự do và phát triển. Với quan niệm đó, học thuyết Mác đã trở thành học thuyết về con người, trong đó sự phát triển con người toàn diện là một nội dung cốt lõi.
2. Kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác về phát triển con người toàn diện vào thực tiễn ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa – Con người Việt Nam mới, phát triển toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”; rằng sự giải phóng và phát triển con người là bản chất của chế độ ta. Với lập trường quan điểm như vậy, trong vai trò của người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, đồng thời triển khai trong thực tiễn nhằm phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Và những thành quả đạt được trong sự nghiệp cách mạng này là hết sức lớn lao.
3. Lấy học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện làm nền tảng lý luận, làm cơ sở phương pháp luận và làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Ngay từ những ngày đầu bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định lấy sự phát triển con người toàn diện làm mục tiêu phấn đấu cao nhất, làm nền tảng để xây dựng chế độ xã hội mới. Trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã làm tất cả những gì cần làm để đạt mục tiêu ấy. Hiện nay, hơn lúc nào hết, phát triển con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện được Đảng ta hết sức quan tâm và coi đó là một trong những vấn đề mang tính đột phá chiến lược của cách mạng Việt Nam.
4. Từ những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển con người Việt Nam mới - con người phát triển toàn diện, trong những năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển con người Việt Nam. Mặc dù nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển chưa cao, song con người Việt Nam đã có sự phát triển nhất định cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong các lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân là rất đáng tự hào, thể hiện sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương của Đảng và trong chính sách của Nhà nước ta. Đồng thời đó cũng là kết quả phản ánh sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, cũng như toàn thể nhân dân ta trong suốt những năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, sự phát triển của con người Việt Nam hiện nay còn chưa tương xứng với nhu cầu của sự phát triển, và còn chậm so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Hơn thế, một số vấn đề yếu kém, tiêu cực trong đời sống, trong kinh tế, chính trị, xã hội vẫn chậm được khắc phục và đang là trở lực lớn đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam.
5. Trong bối cảnh của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong xu thế hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức ngày càng cao như hiện nay, vấn đề phát triển con người toàn diện ở Việt Nam càng phải được ưu tiên hàng đầu. Trước hết, trên cơ sở thực trạng phát triển con người Việt Nam hiện nay, nhất là những vấn đề mang tính cấp thiết đang đặt ra đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam, chúng ta phải có những định hướng phát triển con người đúng đắn, mang tính chiến lược; đồng thời, hệ thống giải pháp đưa ra phải xác thực, khả thi, có tính hiệu quả cao và được thực hiện một cách đồng bộ. Có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng và phát triển con người Việt Nam mới – con người phát triển toàn diện, tạo nền tảng để xây dựng nước Việt Nam, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
"Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn diện", Thông tin khoa học xã hội, (2009), (7), tr.10-15.
"Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp", Lý luận chính trị và truyền thông, (2010), (8), tr.38-42.
"Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo: nhân tố quyết định đến chất lượng con người Việt Nam hiện nay”, Lý luận chính trị và truyền thông, (2013), (11), tr.49-55.
"Thực trạng về sự phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, (2013), (11), tr.47-53.
"Vai trò của giáo dục và đào tạo với sự phát triển trí lực con người Việt Nam”, Giáo dục lý luận, (12/2013), (206), tr.56-59.
(Thành viên nhóm nghiên cứu), Nâng cao ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà nội trong giai đoạn hiện nay, Nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, (2013).
"Ý thức pháp luật của HSSV – Thực trạng và giải pháp”, Khoa học và Công nghệ, (2/2014),(20), tr.97-100.
(Thành viên nhóm nghiên cứu), Tăng cường giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Nghiên cứu khoa học cấp Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội,(2013).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Hồng Anh (2010), "Nghiên cứu phát triển con người trên thế giới và kiến nghị cho nghiên cứu phát triển con người ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận Trung ương (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng cục Dạy nghề, Viện Nghiên cứu phát triển phương Đông (2012), Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Quốc Bảo, Trương Thị thúy Hằng (Đồng Chủ biên), (2005), Chỉ số phát triển kinh tế trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Quốc Bảo, Trương Thị thúy Hằng (Đồng Chủ biên), (2005), Chỉ số tuổi thọ trong HDI - Một số vấn đề thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Quốc Bảo, Đặng Thị Thanh Huyền (Đồng Chủ biên), (2005), Chỉ số tuổi thọ trong giáo dục trong HDI - Cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Chí Bảo (1998), "Sự biến đổi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường", Những thay đổi về văn hóa, xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở một số nước Châu Á, Nxb KHXH, Hà Nội. (10).
Bộ Giáo giáo dục và Đào tạo (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục, đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Báo cáo triển khai chiến lược phát triển giáo dục 2011-2010 và thực hiện Kết luận số 51-KL/TW ngày 29/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Hội nghị triển khai chiến lược phát triển giáo dục và kết luận 51-KL/TW, ngày 23/1.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: 10 năm phong trào "Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”(2000-2010), trên www.cinet.gov.vn.
Bộ Y tế (2006), Kế hoạch tổng thể quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của vị thành niên và thanh niên Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020, Nxb Y học, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Châu (Chủ biên), (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2009), "Đầu tiên là công việc đối với con người: Vì dân - một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học (9).
Nguyễn Hữu Công (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Hoàng Đình Cúc (2008), "Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (8).
Phạm Như Cương (Chủ biên), (1978), Về vấn đề con người mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Như Cương (Chủ biên), (1978), Vấn đề xây dựng con người mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phùng Danh Cường (2010), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người toàn diện", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, (7).
Phùng Danh Cường (2010), "Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (8).
Phùng Danh Cường (2013), "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo: nhân tố quyết định đến chất lượng con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (11).
Phùng Danh Cường (2013), "Thực trạng về sự phát triển con người Việt Nam qua chỉ số HDI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (11).
Phùng Danh Cường (2013) "Vai trò của giáo dục và đào tạo với sự phát triển trí lực con người Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (12).
Phạm Thành Dung (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lương Quang Đảng, Nguyễn Thị Yên (2011), "Báo cáo phát triển con người 2011: Hướng tới tương lai tốt đẹp hơn", Tạp chí Dân số và phát triển, (12).
Đảng Cộng sản Việt Nam (1978), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đanien Benxaiđơ (1998), Mác - Người vượt trước thời đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thị Anh Đào (2012), "Quyền được chăm sóc sức khỏe: Đánh giá từ góc độ phát triển con người", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
Đỗ Đức Định (2010), "Xây dựng và thực thi chiến lược phát triển lấy con người làm trung tâm với nguồn lực chất lượng cao là động lực chủ yếu", Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
Trần Văn Giàu (1995), Con người thế kỷ XXI, Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế từ 27-29/7/1994 tại Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (Chủ biên), (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phương pháp luận nghiên cứu con người: Niên giám nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (Chủ biên), (2005), Vấn đề tiềm năng con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc (2008), “Phát triển con người, nguồn nhân lực – quan niệm và chính sách”, Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Minh Hạc, Trần Kiều, Vũ Trọng Vỹ (Đồng Chủ biên), (2000), Cơ sở lý luận và thực tiễn của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước - Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài KHXH 04-04, Viện Nghiên cứu con người, Hà Nội.
Lê Trọng Hanh (1999), "Tư tưởng của V.I. Lênin về giáo dục con người trong xã hội mới", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (7).
Trương Thị Thúy Hằng (2010), "Quan điểm phát triển con người và việc đưa kĩ năng mềm vào chương trình đào tạo", Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi) (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Dương Phú Hiệp (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vũ Tùng Hoa (1996), Mối liên hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong quá trình hình thành và phát triển con người, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Viện Triết học, Hà Nội.
Trần Thị Thu Hoài (2009), "Chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một xã hội cho con người, vì con người", Tạp chí Tạp chí Cộng sản, (9).
Vũ Hùng (1997), "Vai trò của cá nhân theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (8).
Đỗ Huy (2002), Đạo đức học – mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Huyên (2001), Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Nguyễn Văn Huyên (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hứa Toàn Hưng (1999), "Ba vấn đề hiện đại hóa con người", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (3).
Nguyễn Hoài Hương (2012), "Quyền hưởng an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2012), "Tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở để bảo đảm hiệu quả hơn quyền con người ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên), (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Khiển (2003), Con người và vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
V.A.Xukhomlinxki (1981), Giáo dục con người chân chính như thế nào?, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tường Duy Kiên (2011), "Các chỉ số về quyền con người - Ý nghĩa và khả năng áp dụng ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (5).
Nguyễn Thế Kiệt (1988), Vai trò của những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con người mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án Phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Nguyễn Thế Kiệt (2008), "Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, (6).
Đặng Xuân Kỳ (2002), "Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người", Tạp chí Triết học, (10).
Nguyễn Thị Lê (2012), "Định hướng giá trị con người Việt Nam thời kỳ đổi mới và hội nhập", Tạp chí Nghiên cứu con người, (3).
V.I. Lênin (1978 - 1981), Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Bùi Bá Linh (1998), "Khái niệm con người trong "Bản thảo kinh tế - triết học 1844"", Tạp chí Triết học, (3).
Bùi Bá Linh (1998), "Tư tưởng vì con người và giải phóng con người ở các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác", Tạp chí Khoa học xã hội, (3).
Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về con người và sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Long (1998), "Triết học Mác - Lênin với nhận thức xã hội trong thế giới ngày nay", Tạp chí Cộng sản, (23).
Trường Lưu (1993), "Hai mặt trong tư tưởng giải phóng con người của học thuyết Mác: sự cống hiến vĩ đại và những luận điểm phải bị vượt qua", Tạp chí Triết học, (3).
Sương Mai, Nguyễn Thị Anh Đào (2011), "Những vấn đề văn hóa cơ bản về phát triển con người giai đoạn 2011 - 2020", Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.26 (Phần II), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, t.42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Mai Quỳnh Nam (Chủ biên), (2009), Con người - Văn hóa, quyền và phát triển, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
Đỗ Hoài Nam (Chủ biên), (2012), Phát triển con người Việt Nam năm 2011, Nxb Thế giới, Hà Nội.
Nguyễn Thị Nga (2011), "Phát triển con người toàn diện ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI", tapchicongsan.org.vn, ngày 13/4.
Nguyễn Thị Nga (2012), "Tư tưởng của V.I. Lênin về quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (4).
Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên), (2008), 160 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848-2008), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Nguyễn Thế Nghĩa (1996), "Nguồn nhân lực - Động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Triết học, (1).
Trịnh Thị Kim Ngọc (Chủ biên), (2009), Con người và văn hóa: Từ lý luận đến thực tiễn phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn An Ninh (1998), "Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tiềm năng con người và phát huy tiềm năng trí tuệ con người", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (8).
Nguyễn Thị Tú Oanh (1996), "Về tư tưởng giải phóng con người của học thuyết Mác", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (9).
Phạm Thị Oanh (2009), "Vai trò của con người trong sự phát triển xã hội theo hướng bền vững", Tạp chí Triết học, (8).
Trần Sĩ Phán (1997), "Tìm hiểu tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học 1844" của C.Mác, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (12).
Bùi Đình Phong (2009), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa", Tạp chí Lý luận chính trị (1).
Trần Văn Phòng, Nguyễn Hùng Hậu (Đồng Chủ biên), (2012), Một số vấn đề triết học trong các văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Nguyên Phương (1998), Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Sĩ Quý (Chủ biên), (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph. Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Sĩ Quý (2006), Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu và phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Báo cáo tổng hợp: Đề tài KHCN cấp Nhà nước KX-05-01, Viện Nghiên cứu con người, Hà Nội.
Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, (Giáo trình dùng cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học của Khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Nguyễn Duy Quý (1996), "Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay", Tạp chí Triết học, (3).
Nguyễn Duy Quý (Chủ biên), (1998), 150 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Duy Quý (1998), "Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, (19).
Tô Huy Rứa (1998), "Ý nghĩa thời đại và giá trị nhân văn của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", Tạp chí Cộng sản, (2).
Phương Kỳ Sơn (1997), "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (1).
Vũ Quang Tạo (2008), "C.Mác và sự nghiệp giải phóng con người trong thời đại hiện nay", Tạp chí Triết học, (5).
Vũ Minh Tâm (Chủ biên), (1996), Tư tưởng triết học về con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Lê Hữu Tầng (1993), "Tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng trong chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Triết học, (2).
Cao Đức Thái (2009), "Cách mạng Việt Nam với quyền con người trong thế kỷ XX", Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Thanh (2007), Vấn đề con người và giáo dục con người, nhìn từ góc độ triết học xã hội, Nxb Tổng hợp TP HCM.
Trần Thành (2007), "Phương pháp tiếp cận di sản kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin", Tạp chí Triết học, (2).
Trần Thành (Chủ biên), (2007), Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên cứu giảng dạy triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Đức Thảo (1989), Vấn đề con người và chủ nghĩa "Lý luận không có con người", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Sĩ Thắng (1995), "Mấy vấn đề về "trồng người" trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học, (2).
Lê Sĩ Thắng (Chủ biên), (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Thị Thủy (2001), Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Trần Hữu Tiến (1998), "Tư tưởng vĩ đại về sự nghiệp giải phóng con người", Tạp chí Cộng sản, (3).
Phạm Thị Tính (2009), "Dân chủ tham gia với phát triển con người", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
Hoàng Đình Tỉnh (2009), "Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (7).
Đặng Hữu Toàn (1993), "Tìm hiểu tư tưởng giải phóng con người của C.Mác", Tạp chí Triết học, (4).
Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (1).
Đặng Hữu Toàn (1997), "Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là mục tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tạp chí Khoa học xã hội, (3).
Đặng Hữu Toàn (2000), "Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc", Tạp chí Triết học, (4).
Đặng Hữu Toàn (2002), Chủ nghĩa Mác - Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Hữu Toàn (2003), "Học thuyết Mác về con người và giải phóng con người", Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đặng Hữu Toàn (2004), "Chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (16).
Đặng Hữu Toàn (2005), "Phát triển con người - thước đo nhân văn của tiến bộ xã hội trong thời đại ngày nay và trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam", Tạp chí Khoa học xã hội, (9).
Đặng Hữu Toàn (2008), "Con người - Chủ thể sáng tạo lịch sử", Một số chuyên đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2008), Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2011), Báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2011), Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2011), Niên giám thống kê năm 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2012) Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2012), Điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình thời điểm 1/4/2012 - Các kết quả chủ yếu, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2012), Niên giám thống kê năm 2011, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê năm 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2013) Báo cáo điều tra lao động và việc làm năm 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê - Tóm tắt 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (24/12/2012), "Thông cáo báo chí về tình hình kinh tế - xã hội tháng mười hai và cả năm 2012", www.gso.gov.vn.
Tổng cục Thống kê (2013), "Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013", www.gso.gov.vn.
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (1999), Phát triển con người - từ quan niệm đến chiến lược và hành động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đình Tuân (2011), "Báo cáo phát triển con người 2010: Xu hướng phát triển con người và một số thay đổi trong tính toán các chỉ số", Tạp chí Nghiên cứu con người, (1).
Nguyễn Đình Tuấn (2012), "Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người", Tạp chí Nghiên cứu con người, (2).
Phạm Mậu Tuyển (2012), "Về một số giải pháp đối với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu con người, (3).
Trần Quang Tuynh (2012), "Phát triển con người ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ góc độ quan hệ giữa phát triển kinh tế và môi trường sống", Tạp chí Triết học, (9).
UNDP (2001), Đổi mới và phát triển con người ở Việt Nam, Báo cáo Quốc gia về phát triển con người năm 2001, Hà Nội.
UNDP (2006), Phát triển con người Việt Nam 1999-2004 - Những thay đổi và xu hướng chủ yếu, Báo cáo Quốc gia về phát triển con người năm 2006, Hà Nội.
UNDP (2011), Dịch vụ xã hội vì sự phát triển con người, Báo cáo Quốc gia về phát triển con người năm 2011, Hà Nội.
Huỳnh Khái Vinh (1999), "Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển toàn diện con người", Tạp chí Thông tin lý luận, (3).
Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đàm Đức Vượng (2008), Báo cáo khoa học tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba với chủ đề: Việt Nam, Hội nhập và phát triển, Thực trạng và giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm hiểu vai trò quản lý nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
MỤC LỤC