Luận án Vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH LAN HƯƠNG VẤN ĐỀ KHAI THÁC CHẤT LIỆU VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội, năm 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRỊNH LAN HƯƠNG VẤN ĐỀ KHAI THÁC CHẤT LIỆU VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC MÃ SỐ: 62 31 06 40 HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS. TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH Hà Nội, năm 2

pdf230 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Luận án Vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung và số liệu trong luận án là hoàn toàn trung thực, trích dẫn đúng quy định. Nếu có điều gì trái với lời cam đoan trên, tôi xin chịu trách nhiệm. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trịnh Lan Hương MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU ................................................................................................................ .1 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN...9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... ..9 1.2. Cơ sở lý luận ..... ............................................................................................... 16 Chương 2: MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC KHAI THÁC CHẤT LIỆU VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC VIỆT NAM ............................... 33 2.1. Vì chất lượng, hiệu quả nghệ thuật ................................................................... 33 2.2. Tự tôn dân tộc, phục vụ cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ........................................................................................................ 40 2.3. Giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong âm nhạc Việt Nam theo chủ trương, đường lối của Đảng .................................................................................... 56 Chương 3: THỰC TẾ VIỆC KHAI THÁC CHẤT LIỆU VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC VIỆT NAM ................................................... 66 3.1. Các phương thức khai thác ................................................................................ 66 3.2. Mức độ khai thác các thể loại văn học dân gian ............................................... 84 3.3. Xu hướng vận động, biến đổi của việc khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam ............................................................................ 89 Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC KHAI THÁC CHẤT LIỆU VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................................................................... 110 4.1. Sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của nhà nước ............................................ 110 4.2. Chủ thể sáng tạo và biểu diễn ca khúc ............................................................ 114 4.3. Quá trình toàn cầu hóa và sự giao lưu, hội nhập quốc tế ................................ 116 4.4. Yếu tố kinh tế thị trường ................................................................................ 120 4.5. Quá trình đô thị hóa, sự biến đổi hệ giá trị văn hóa truyền thống ................. 122 4.6. Văn hóa đọc .................................................................................................... 129 4.7. Sự khiếm khuyết, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về sáng tác, biểu diễn, giáo dục đào tạo văn hóa nghệ thuật .................................................... 131 4.8. Hoạt động của các cơ quan thông tin, truyền thông ........................................ 133 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 139 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................... 142 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 143 PHỤ LỤC ............................................................................................................. 161 BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU I. CÁC CHỮ VIẾT TẮT - CLVHDG: Chất liệu văn học dân gian - CNXH: Chủ nghĩa xã hội - CNH - HĐH: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa - GS: Giáo sư - HN: Hà Nội - KHXH: Khoa học xã hội - KHXH và NV: Khoa học xã hội và nhân văn - NCS: Nghiên cứu sinh - NSND Nghệ sĩ nhân dân - NSƯT: - Nxb: Nghệ sĩ ưu tú Nhà xuất bản - PGS Phó giáo sư - tr: Trang - TS: Tiến sĩ - VHDG: Văn học dân gian - VHNT: Văn hóa nghệ thuật - VN: Việt Nam - xb: Xuất bản - XHCN: Xã hội chủ nghĩa II. KÝ HIỆU Trong luận án, những đoạn trích dẫn được rút từ các tài liệu tham khảo đều được ghi xuất xứ. Con số thứ nhất là thứ tự tài liệu trích dẫn (như trong danh mục Tài liệu tham khảo), sau dấu phẩy là các chữ số biểu thị trang của đoạn trích dẫn, tất cả đều được ghi trong móc vuông. Ví dụ: ký hiệu [111, tr.289] thể hiện xuất xứ của đoạn trích dẫn là ở trang 289 của tài liệu có số thứ tự 111 trong danh mục Tài liệu tham khảo. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Mức độ khai thác các thể loại văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam ......................................................................................................... 85 Bảng 3.2: Mức độ sử dụng các phương thức khai thác chất liệu văn học dân gian qua các thời kỳ ca khúc Việt Nam ................................................................. 89 Bảng 3.3: Mức độ khai thác chất liệu văn học dân gian theo các tính chất chủ đề nội dung qua các thời kỳ ca khúc Việt Nam ........................................... 100 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Văn học (trong đó có văn học dân gian) và âm nhạc (trong đó có ca khúc) là hai loại hình nghệ thuật chuyên biệt, mỗi loại hình có những đặc trưng riêng về chất liệu để xây dựng hình tượng, về phương thức phản ánh đời sống song chúng tồn tại và phát triển trong sự tương tác, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau. Từ trước đến nay, việc khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc của các thế hệ nhạc sĩ Việt Nam luôn là một thực tế sống động và phong phú, biểu hiện mối quan hệ khăng khít giữa ngôn ngữ văn học và ca từ trong âm nhạc mới. Mỗi ca khúc là một chỉnh thể, giai điệu và các yếu tố âm nhạc vốn được coi là rất quan trọng nhưng không vì thế mà phần ca từ có thể xem nhẹ. Có những bài hát, giai điệu dù rất đẹp nhưng cũng nhanh chóng bị lãng quên bởi người ta không muốn nghe những lời ca tẻ nhạt, trống rỗng, tầm thường của nó. Bởi vậy, khi soạn ca từ, các nhạc sĩ luôn phải dày công chọn lựa những từ ngữ trong vốn ngôn ngữ của cộng đồng để chuốt ra những lời ca hay. Mỗi ca khúc đều chứa đựng những “cái mã”, những tín hiệu nghệ thuật, thể hiện thế giới tâm hồn của người sáng tác; sự đồng điệu cảm xúc, sự yêu thích của người thưởng thức đối với ca khúc chỉ có được khi họ có thể “giải mã”, hiểu được những tầng vỉa ý nghĩa của những tín hiệu nghệ thuật đó. Văn học dân gian là sự kết tinh cái hay cái đẹp của ngôn ngữ dân tộc, kết tinh trí tuệ và tâm hồn con người Việt Nam qua các thời đại. Trong quá trình sáng tác, các nhạc sĩ Việt Nam đã tìm về kho tàng văn học dân tộc, khai thác vốn quý văn học dân gian, làm cho cái hay, cái đẹp của văn học dân gian hóa thân vào ca từ, mang lại cho ca khúc những giá trị và sức sống bền lâu. Đó chính là việc đưa những mã, những tín hiệu nghệ thuật ngôn từ dân gian đã từng được biết đến, đã trở nên quen thuộc với nhiều người vào trong một tác phẩm mới. Vậy, dấu hiệu nào để nhận biết được sự hiện diện của chất liệu văn học dân gian trong ca khúc? Có những cách thức nào để chuyển hóa văn học dân gian thành ca từ? Các tác giả ca khúc khai thác chất liệu văn học dân gian nhằm mục đích gì? Trong bối cảnh văn hóa xã hội nước 2 ta hiện nay, nhà lãnh đạo – quản lý, người sáng tác, công chúng thưởng thức âm nhạc có quan điểm nhìn nhận như thế nào về việc văn học dân gian trở thành chất liệu nghệ thuật của những tác phẩm âm nhạc?... Những câu hỏi cứ dần tăng lên đã khiến chúng tôi có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam. Bản sắc văn hóa Việt Nam hình thành, tồn tại và phát triển từ nền tảng văn hóa dân gian mà trong đó có văn học dân gian. Giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo của Đảng. Việc khai thác, vận dụng vốn văn hóa dân gian phục vụ quá trình sáng tạo tác phẩm nghệ thuật đã được đông đảo giới lãnh đạo, quản lý, sáng tác, nghiên cứu, công chúng âm nhạc quan tâm. Tuy nhiên, khi bàn luận về ca khúc, giới nghiên cứu âm nhạc mới chỉ dành sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề khai thác chất liệu âm nhạc dân gian (thang âm, điệu thức, tiết nhịp...), còn thiếu vắng những công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian, vấn đề ca từ trong ca khúc Việt Nam. Vì vậy, đây là một đề tài mới, xứng đáng được nghiên cứu. Chọn vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam để nghiên cứu, chúng tôi cũng hướng tới việc đáp ứng yêu cầu thực tiễn đã trở nên cấp thiết của đời sống âm nhạc nước ta hiện nay. Chất liệu văn học dân gian là một yếu tố góp phần làm nên tính dân tộc, bản sắc dân tộc trong ca khúc Việt Nam. Nhìn chung, âm nhạc Việt Nam hiện nay đã có nhiều yếu tố cập nhật, hội nhập với đời sống âm nhạc đương đại của thế giới. Tuy nhiên, đối với một số người sáng tác - nhất là những người viết trẻ, việc cho ra đời những ca khúc mới có ca từ vừa phù hợp với thẩm mỹ thời đại lại vừa mang đậm bản sắc dân tộc thực sự là một thử thách không dễ vượt qua. Trong những tác phẩm của họ, số lượng ca khúc có ca từ sử dụng chất liệu văn học dân gian còn ít và khai thác chưa hiệu quả. Vì vậy, nếu không nghiên cứu để thấy rõ tác dụng và ý nghĩa của chất liệu văn học dân gian, sự phong phú và đa dạng của các phương thức khai thác... thì việc khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc sẽ có nguy cơ bị mai một và một trong 3 những lối đi dẫn tới tính dân tộc, bản sắc dân tộc cho ca khúc có thể sẽ không được coi trọng, thậm chí bị lãng quên. Vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam càng trở nên cấp thiết hơn khi những năm gần đây (đặc biệt là từ tháng 7/2011), các phương tiện thông tin đại chúng nhiều lần đề cập tới một tình trạng đáng báo động. Không ít ca khúc bị coi là “thảm họa” khi ca từ không phù hợp với thẩm mỹ dân tộc, lai – căng nước ngoài, lời ca thô mộc, tầm thường. Nhiều nhạc sĩ, nhà quản lý, nhà báo và công chúng yêu nhạc đã bày tỏ sự lo ngại về chất lượng nghệ thuật của những ca khúc trẻ mà ca từ của nó vẫn giữ nguyên cái vẻ thô nhám, bụi bặm, suồng sã của thứ ngôn ngữ thường gặp ở nơi lộn xộn, bát nháo... Trong những ca khúc đó, cái ranh giới của ngôn từ nghệ thuật với ngôn ngữ của đời thường đã bị xóa nhòa, ca từ chỉ còn là những lời nói đơn điệu, có khi cợt nhảm, phi thẩm mỹ gây nên sự phản cảm, lệch lạc về thị hiếu thẩm mỹ, tác động tiêu cực tới việc xây dựng nhân cách đạo đức, lối sống của giới trẻ. Để ca từ không còn là vấn đề “thảm họa”, “đáng báo động”, để ca khúc của người trẻ viết cho giới trẻ không xa rời mục đích thỏa mãn nhu cầu thưởng thức cái đẹp, nâng cao sự hiểu biết và thanh lọc tâm hồn cho con người thì việc phê phán, cảnh báo là chưa đủ; cần phải định hướng cho những người sáng tác ca khúc (đặc biệt là những người trẻ mới vào nghề) bằng việc gợi ý thêm một hướng đi với những cách thức có hiệu quả để vận dụng vào quá trình sáng tác, góp phần nâng cao chất lượng nghệ thuật của ca từ nói riêng và của ca khúc nói chung. Chúng tôi hy vọng, đề tài luận án kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn nói trên. Là một giảng viên giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường quân đội thuộc khối văn hóa nghệ thuật, từng học và biểu diễn chuyên ngành Thanh nhạc, bản thân tôi nhận thấy rất rõ sức sống và vai trò của văn học (trong đó có văn học dân gian) đối với các loại hình nghệ thuật khác (trong đó có ca khúc âm nhạc). Thiết nghĩ, nếu giải quyết tốt những vấn đề đặt ra, đề tài chắc chắn sẽ có tác động tích cực đối với việc giảng dạy của bản thân cũng như việc học tập của sinh viên - nhất là chuyên ngành Sáng tác âm nhạc. Vì vậy, đối với tôi, nghiên cứu đề tài này không đơn thuần là một nhiệm vụ khoa học cần phải hoàn thành mà đó thực sự là một nhu cầu tự thân với nhiều hứng thú, say mê. 4 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Thông qua việc phân tích, luận giải về tính chủ động của người sáng tác ca khúc khi khai thác chất liệu văn học dân gian (CLVHDG) kết hợp với việc nhận diện quá trình khai thác CLVHDG trong sự vận động của đời sống xã hội (lịch sử, chính trị, văn hóa...), luận án trình bày những kiến giải về mối quan hệ giữa thành tố văn học và âm nhạc trong bối cảnh nền văn hóa VN hiện nay nhằm làm sáng tỏ những luận điểm khoa học có tính định hướng đối với chủ thể sáng tạo nghệ thuật về việc khai thác CLVHDG trong quá trình sáng tác. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ sau: - Trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu theo các nhóm vấn đề; đánh giá mức độ thành công cũng như những khoảng trống mà người đi trước chưa đề cập đến. - Giới thuyết các khái niệm cơ bản (“ca khúc”, “ca từ”, “bản sắc dân tộc”), trình bày quan niệm về khai thác CLVHDG; vận dụng lý thuyết hệ thống, lý thuyết diễn ngôn, lý thuyết hành động xã hội trong quá trình nghiên cứu. - Nghiên cứu mục đích của người sáng tác ca khúc khi khai thác CLVHDG. - Trình bày quá trình khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay, nhận diện các phương thức khai thác, mức độ khai thác và xu hướng vận động của việc khai thác CLVHDG qua diễn trình lịch sử. - Phân tích các yếu tố tác động đến việc khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Việc khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về chủ thể sáng tác: phạm vi nghiên cứu là các tác giả ca khúc VN. Việc phỏng vấn được tiến hành đối với 14 nhạc sĩ tiêu biểu cho các thành phần lứa tuổi, phong cách âm nhạc, tính chất công việc (nhạc sĩ làm lãnh đạo - quản lý, nhạc sĩ tự 5 do, nhạc sĩ quân đội...); phần lớn trong số 14 nhạc sĩ này là những người nổi tiếng, có nhiều thành công với những ca khúc mang phong cách dân gian [Phụ lục 02, tr.168]. Về tư liệu ca khúc: phạm vi nghiên cứu là ca khúc VN từ thời kỳ Tân nhạc (1930) cho đến nay. Căn cứ vào những dấu hiệu nhận biết CLVHDG [Phụ lục 03, tr.170], chúng tôi đề xuất một danh sách gồm 274 ca khúc có khai thác CLVHDG; từ kiến bình chọn của các chuyên gia (ca sĩ, nghệ sĩ - giảng viên thanh nhạc) chọn ra 150 ca khúc tiêu biểu để tiến hành khảo sát - thống kê [Phụ lục 01, tr.162], [Phụ lục 04, tr.174]. Do tính chất phức hợp của đề tài nên trong quá trình khảo sát - thống kê, các tác phẩm VHDG in trong Tổng tập văn học dân gian người Việt (Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nxb KHXH, 19 tập, 2002 - 2006) được dùng để so sánh, đối chiếu. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án luôn quán triệt nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: sự vật luôn vận động và thường xuyên có mối liên hệ với các sự vật khác; việc nhận xét, đánh giá bất kỳ sự việc, hiện tượng nào cũng phải chú ý đến những điều kiện lịch sử cụ thể. Khi xử lý vấn đề về văn học nghệ thuật, chúng tôi cũng luôn thấm nhuần một yêu cầu có tính nguyên tắc của Đảng Cộng sản VN là kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp nghiên cứu liên ngành Đối với một vấn đề nằm ở vị trí “giáp ranh” giữa văn học và âm nhạc, NCS sử dụng phương pháp liên ngành - kết hợp phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành liên quan: tiếp cận đối tượng nghiên cứu từ góc độ văn học để tìm hiểu tình hình, mức độ khai thác các thể loại VHDG; từ góc độ âm nhạc học để phân tích các phương thức khai thác CLVHDG; từ góc độ văn hóa học để lý giải mục đích của việc khai thác CLVHDG, chiều hướng vận động, biến đổi của việc khai thác 6 CLVHDG trong tiến trình phát triển nền ca khúc VN và tìm hiểu những yếu tố liên quan, tác động đến việc khai thác CLVHDG giai đoạn hiện nay. 4.2.2. Các phương pháp cụ thể - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Qua việc tập hợp và nghiên cứu các văn bản tài liệu liên quan gồm tác phẩm VHDG, tác phẩm âm nhạc, sách, báo, công trình nghiên cứu (với các thao tác: phân tích, tổng hợp, khảo sát - thống kê, so sánh...), NCS kế thừa và vận dụng kết quả những công trình trước đây, đồng thời phát hiện, khái quát hóa thành những luận điểm, nhận định riêng. Trong đó, việc khảo sát - thống kê được chú trọng sử dụng để nghiên cứu mức độ và các phương thức khai thác CLVHDG, bởi các con số thu được từ thao tác có tính định lượng này có nhiều ý nghĩa. - Phương pháp điều tra xã hội học: sử dụng kết hợp việc dùng bảng hỏi (phiếu điều tra) và phỏng vấn sâu. + Bảng hỏi (phiếu điều tra): dùng bảng hỏi để thu nhận ý kiến bình chọn ca khúc của các ca sĩ, nghệ sĩ - giảng viên thanh nhạc, từ đó xác định phạm vi ca khúc nghiên cứu [Phụ lục 09, tr.207]. + Phỏng vấn sâu: tiếp cận phỏng vấn 14 nhạc sĩ sáng tác thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án để lý giải một số khía cạnh liên quan của vấn đề khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN bằng “cái nhìn của người trong cuộc”. Đây là phương pháp định tính quan trọng, khi sử dụng kết hợp với kết quả khảo sát - thống kê và bảng hỏi sẽ có thể đi đến những kết luận, nhận định khả dĩ thuyết phục trong nghiên cứu. - Phương pháp xin ý kiến chuyên gia. Trong quá trình thực hiện luận án, NCS đã gặp gỡ 5 nhà quản lý về VHNT và 4 nhà khoa học am hiểu về các lĩnh vực liên quan đến đề tài. Có khi, sau một buổi làm việc, ý kiến của họ gợi mở thêm ý tưởng mới hoặc ý kiến phản biện, giúp bổ sung và hoàn thiện luận án. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án nghiên cứu làm sáng tỏ những nội dung khoa học và giá trị khoa học của vấn đề khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN. Cụ thể như sau: 7 Qua việc giới thuyết các khái niệm, trình bày quan niệm về “khai thác CLVHDG” và “bản sắc dân tộc”, tác giả luận án đóng góp ý kiến bàn luận, trao đổi dưới góc độ lý luận, góp tiếng nói vào đời sống học thuật hiện nay về vấn đề bản sắc dân tộc nói riêng và vấn đề văn hóa xã hội nói chung. Khi nghiên cứu mục đích khai thác CLVHDG, luận án góp phần lý giải điều gì đã thôi thúc những chủ thể sáng tạo nghệ thuật sử dụng CLVHDG một cách có chủ ý, tự giác. Đây là lần đầu tiên vấn đề này được xem xét từ góc độ chủ thể sáng tạo. Với việc nhận diện các phương thức khai thác, nghiên cứu mức độ khai thác các thể loại VHDG, xu hướng vận động, biến đổi về phương thức khai thác và về nội dung chủ đề CLVHDG qua các thời kỳ lịch sử ca khúc..., luận án đi đến những nhận xét, nhận định khái quát, làm căn cứ ban đầu cho những nghiên cứu tiếp theo về từng tác giả, tác phẩm cụ thể nhìn từ vấn đề này. Ngoài ra, luận án còn đánh giá những tác động (thuận chiều và nghịch chiều) của các yếu tố trong đời sống xã hội đối với việc khai thác CLVHDG. Các nội dung trên được giải quyết sẽ là những đóng góp khoa học trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa các thành tố trong chỉnh thể nền văn hóa VN hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần khẳng định tính đúng đắn của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tính đúng đắn của đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản VN. Luận án cũng cho thấy: việc các nhạc sĩ khai thác CLVHDG trong quá trình sáng tác ca khúc là phong phú, gợi mở nhiều vấn đề về lý luận và học thuật. Đi theo hướng này, các nhạc sĩ chẳng những đóng góp thiết thực vào đời sống văn hóa - văn nghệ nước nhà mà còn là dịp để bộc lộ tài năng cá nhân, sự sáng tạo độc đáo. Qua nghiên cứu, luận án cũng góp phần làm rõ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, khẳng định giá trị của văn hóa truyền thống, góp thêm tiếng nói bảo vệ quan điểm, đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng Cộng sản VN. Về ý nghĩa thực tiễn, luận án là tài liệu tham khảo để các nhà quản lý VHNT hoạch định những chính sách, giải pháp phù hợp và hiệu quả đối với hoạt động sáng tác và biểu diễn ca khúc. 8 Kết quả nghiên cứu còn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập các chuyên ngành nghệ thuật ở các trường thuộc khối VHNT và áp dụng vào thực tiễn của người sáng tác ca khúc. Điều này có ý nghĩa thiết thực đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, tác động tích cực đến sự phát triển đúng hướng, lành mạnh của nền ca khúc âm nhạc VN trong hiện tại và tương lai. Nghiên cứu vấn đề khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN góp phần định hướng, nâng cao nhận thức của người sáng tác ca khúc và công chúng âm nhạc về vai trò và sức mạnh của VHDG đối với nghệ thuật đương đại, hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương: - Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận - Chương 2: Mục đích của việc khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN - Chương 3: Thực tế việc khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN - Chương 4: Những yếu tố tác động đến việc khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN hiện nay 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Giới nghiên cứu phê bình âm nhạc VN đã sớm quan tâm tìm hiểu về thể loại ca khúc từ nhiều góc độ khác nhau, trong đó có vấn đề khai thác, vận dụng vốn quý cổ truyền của dân tộc. Số lượng bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề trên khá dồi dào: Mấy ý kiến về vấn đề nghiên cứu dân ca và vận dụng dân ca vào sáng tác (1962) của Lê Lôi, Xung quanh vấn đề vận dụng dân ca miền Trung vào một số sáng tác mới (1966) của Đào Việt Hưng; các bài viết của Nguyễn Viêm: Dùng chất liệu âm nhạc cổ truyền dân tộc cho tác phẩm mới (1979), Ứng dụng chất liệu dân ca Bình Trị Thiên vào tác phẩm mới (1979), Âm nhạc dân gian với tác phẩm chuyên nghiệp (1982); luận văn Đại học chuyên ngành Lý luận âm nhạc của Biện Thị Lộc, Nhạc viện HN: Tìm hiểu việc sử dụng chất liệu hát ví và giặm Nghệ - Tĩnh trong một số ca khúc mới Việt Nam (1985); luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học của Trần Bảo Lân, Viện Nghiên cứu văn hóa: Những yếu tố dân gian trong ca khúc Việt Nam thời đổi mới (2007); luận văn Đại học chuyên ngành Lý luận âm nhạc của Tạ Xuân Sơn, Nhạc viện HN: Nhạc sĩ An Thuyên và một số ca khúc mang phong cách dân gian (2007); luận văn Đại học chuyên ngành Lý luận âm nhạc của Đỗ Trọng Thi, Nhạc viện HN: Phương pháp vận dụng chất liệu âm nhạc truyền thống trong một số ca khúc Việt Nam đương đại mang âm hưởng dân gian (2008); Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa dân gian, Học viện KHXH của Trần Bảo Lân: Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam (2013)... Ca khúc là một thể loại âm nhạc được tạo thành bởi hai thành phần cốt yếu: nhạc và lời cho nên nói đến việc khai thác, vận dụng chất liệu dân gian trong sáng tác ca khúc là phải xem xét việc khai thác, vận dụng chất liệu âm nhạc dân gian và CLVHDG (bộ phận tinh túy của ngôn ngữ dân gian). Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên mới chỉ tập trung vào vấn đề chất liệu âm nhạc dân gian (thang âm, điệu thức, âm hình, tiết tấu...) mà chưa nhìn nhận sâu về vấn đề CLVHDG và ca từ. Có thể 10 nói, sự quan tâm thiên lệch - “nặng” về nhạc, “nhẹ” về lời (ca từ) là thực trạng bức tranh nghiên cứu về ca khúc VN bấy lâu nay. Tình hình trên xuất phát từ quan điểm cho rằng vấn đề ca từ nằm ở đường giáp ranh giữa hai loại hình: nghệ thuật ngôn từ và nghệ thuật âm nhạc, nơi mà mà cả hai ngành khoa học là văn học và âm nhạc học đều tuyên bố rằng mình không có thẩm quyền [1, tr.15]. Số lượng bài viết, công trình nghiên cứu có đề cập đến vấn đề ca từ, vấn đề khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN cũng cho thấy điều đó. 1.1.1. Điểm luận tài liệu 1.1.1.1. Những nghiên cứu đề cập đến vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam - nhìn từ góc độ thể loại văn học Tuy không đặt thành một vấn đề độc lập để nghiên cứu nhưng trong một chừng mực nhất định, các tác giả đã đề cập tới việc khai thác các thể loại VHDG trong sáng tác ca khúc VN. Các nhận định khá thống nhất: trong quá trình sáng tác ca khúc VN, nhiều nhạc sĩ đã tìm về kho tàng VHDG của dân tộc, vận dụng ngôn từ nghệ thuật ở các thể loại VHDG. Một số ý kiến tiêu biểu như sau: Tác giả Tạ Xuân Sơn khi nghiên cứu đề tài Nhạc sĩ An Thuyên và một số ca khúc mang phong cách dân gian đã viết: “Lời ca trong các ca khúc thường thấm đượm ca dao, tục ngữ dân gian” [122, tr.52]. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận định khái quát, tác giả chưa khảo sát cụ thể về vấn đề này. Trong luận văn thạc sĩ của Trần Bảo Lân Những yếu tố dân gian trong ca khúc Việt Nam thời đổi mới (1986 - 2007), những yếu tố dân gian được nghiên cứu gồm: thang âm - điệu thức, âm điệu, tiết tấu, thủ pháp ca từ, lối cấu trúc đan xen giữa kiểu nhạc có tiết nhịp và không tiết nhịp, yếu tố dân gian trong phần đệm, phần biểu diễn. Khi tiến hành khảo sát khá toàn diện các yếu tố đó, tác giả đã đề cập đến một số thể loại VHDG được dùng làm chất liệu để sáng tác ca khúc và đi đến nhận định: “Ca khúc thời đổi mới tiếp tục khai thác những hình tượng văn học dân gian từ nhiều nguồn khác nhau như: ca dao, tục ngữ, dân ca, các tích truyện dân gian...” [79, tr.56]. 11 Vấn đề này còn tiếp tục được Trần Bảo Lân đề cập tới trong luận án Văn hóa dân gian Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam. Tác giả khẳng định: trong giai đoạn ca khúc VN thời đổi mới, các yếu tố dân gian tiếp tục được khai thác từ nhiều góc độ, từ đời sống dân gian của người dân, từ ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết... và được sử dụng với mức độ gia tăng so với ca khúc VN trước thời đổi mới [80]. Có thể thấy, trong những công trình, bài viết nêu trên, vấn đề các thể loại VHDG và sự tham gia của chúng vào quá trình sáng tác ca khúc mới chỉ được điểm qua một cách khái lược. Tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, trong bài viết Bước đầu tìm hiểu việc khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam, chúng tôi đã dành một phần nội dung để trình bày về tình hình khai thác chất liệu VHDG nhìn từ góc độ thể loại. Trên thực tế, các thể loại VHDG được khai thác, vận dụng với mức độ không như nhau. Qua khảo sát ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Phó Đức Phương, An Thuyên, Trần Tiến, Lê Minh Sơn, kết luận được rút ra là: trong các thể loại VHDG, thể loại ca dao (thuộc phương thức trữ tình) được khai thác, vận dụng nhiều nhất; kế đến là tục ngữ (thuộc phương thức luận lý); thể loại truyện dân gian (thuộc phương thức tự sự) ít khi được khai thác; các kịch bản chèo, tuồng, múa rối... (thuộc phương thức kịch sân khấu dân gian) rất ít được khai thác, vận dụng [60, tr.49]. Năm 2012, trong cuốn sách Sức sống của văn học dân gian trong ca khúc Việt Nam (Trịnh Lan Hương chủ biên), vấn đề này đã được tìm hiểu ở phạm vi bao quát hơn. Trên phương diện lý thuyết, ngôn từ ở tất cả các thể loại VHDG đều có thể trở thành chất liệu để sáng tác. Tuy nhiên, thể loại nào có sự tương đồng, phù hợp, gần gũi với ca từ hơn thì sẽ được người sáng tác ca khúc vận dụng nhiều hơn. Từ đó, tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế, đánh giá mức độ khai thác của một số nhạc sĩ VN đối với từng thể loại VHDG, xác định thể loại nào được khai thác, vận dụng nhiều nhất và bước đầu lý giải vì sao trên thực tế, các thể loại văn học VHDG lại được khai thác ở mức độ nhiều, ít như vậy [59, tr.38 - 60]. 12 1.1.1.2. Những nghiên cứu đề cập đến phương thức khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam Trong một số công trình, bài viết giới thiệu chân dung nhạc sĩ, nghiên cứu các giai đoạn ca khúc, các phong cách âm nhạc, các dòng nhạc và tác giả, tác phẩm âm nhạc VN, các tác giả Nguyễn Thị Minh Châu, Văn Chung, Nguyễn Thụy Kha, Tú Ngọc, Nguyễn Thị Nhung, Bùi Đình Thảo, Nguyễn Viêm... ít nhiều đều đã nói đến việc chuyển hóa VHDG vào ca khúc bằng những cách thức, phương pháp nhất định. Tác giả Nguyễn Thụy Kha, khi phát biểu cảm nhận và sự yêu thích của mình đối với ca khúc Hồ trên núi của nhạc sĩ Phó Đức Phương đã nhấn mạnh đến nét ca dao “non xanh nước biếc” [63, tr.165]. Tác giả Nguyễn Thị Nhung, khi bàn về tính kế thừa truyền thống cũng đề cập tới việc học tập “cách phổ thơ” trong dân ca [112, tr.1017]. Có chung quan niệm đó, nhạc sĩ Bùi Đình Thảo khẳng định: “Trong sáng tác bài hát, phổ thơ là một cách làm rất dân tộc và kế thừa một truyền thống tốt đẹp” [124, tr.1037]. Chi tiết hơn, từ kinh nghiệm của bản thân, nhạc sĩ Văn Chung nói đến một số kỹ thuật, thủ pháp phổ thơ: nhắc lại, thêm câu thêm từ, hoặc đảo câu đảo từ để phát triển, biến hóa, mở rộng bài ca dao [20, tr.72]. Liên quan đến vấn đề này, đáng chú ý là ý kiến của Nguyễn Viêm, Nguyễn Thị Minh Châu về ca khúc của nhạc sĩ Văn Chung. Nguyễn Viêm viết: (...) trong bài Gái thôn Đoài trai thôn Thượng: Lời ca duyên dáng, tình tứ mở đầu bài hát: “Mình về có nhớ ta chăng”... cho người nghe liên tưởng đến điệu cò lả quen thuộc vốn khó quên được lời ca: “Mình về có nhớ ta chăng/ Ta về ta nhớ hàm răng mình cười” [146, tr.646]. Nguyễn Thị Minh Châu nhận xét: Lời ca của Văn Chung rất tự nhiên và mang nhiều nét “mộc” của dân gian. Ông có cái duyên riêng trong cách diễn tả theo lối dân dã (...) Những câu ca dao “nguyên chất” - như “Trâu ơi ta bảo trâu này”, “Mình về có nhớ ta chăng? - hay “pha chất” ca dao với những hình ảnh thôn dã cây đa giếng nước mái đình đã được phổ nhạc với khá nhiều “gợi ý” của các cụ ta xưa [17, tr.53]...”, bị áp đặt văn hóa bởi những nước lớn. Tuyên ngôn toàn cầu của UNESCO về đa dạng văn hóa ra đời (năm 2001) đã làm bùng lên trào lưu bảo vệ sự đa dạng của bản sắc các dân tộc trên thế giới. Xuất phát từ quan điểm cho rằng sự hồi sinh của văn hóa dân tộc, ý thức tìm về cội nguồn là cách khẳng định vị thế dân tộc mình, chống lại sự đồng nhất văn hóa, bá quyền văn hóa, nhiều quốc gia đã có những chiến lược phát triển văn hóa mà tinh thần cốt yếu là dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc, ý thức hệ truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc mình. Một số nước đã coi việc giữ gìn bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc “là một hình thức an ninh chiến lược liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của dân tộc và họ đã đẩy văn hóa lên thành thứ quyền lực mềm của chính trị quốc tế, làm nảy sinh ý thức về chủ quyền văn hóa; coi bảo vệ văn hóa cũng tức là bảo vệ chủ quyền quốc gia” [125, tr.19]. 27 Ở VN, từ xa xưa - trước khi xuất hiện các khái niệm, thuật ngữ “bản sắc dân tộc”, “bản sắc văn hóa dân tộc”, cha ông ta đã có ý thức phân biệt mình với Trung Quốc, mặc dù người xưa học tập Trung Quốc rất nhiều. Bên cạnh việc thừa nhận có những tương đồng nhất định với Trung Quốc nhưng người xưa vẫn thường chỉ ra những điểm khác biệt: Thời phong kiến, một vị vua Trần đã từng nói: Tổ tông chúng ta đã có pháp độ riêng, cớ sao bọn thư sinh mặt trắng cứ phải học theo Trung Quốc? Một vị vua Trần khác (Trần Dụ Tông) đã so sánh việc Kiến Thành bị giết, Trần Liễu được sống dưới hai triều vua đều có miếu hiệu Thái Tông rằng: “Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng” [156, tr.42]. Vào cuối thế kỷ XIV, một nhà nho hay chữ nước ta đã viết một bài minh, trong đó phân biệt vạc nhà Chu với vạc đất Việt rồi kết luận: họ dễ đổi thay còn ta thường vui vẻ [90, tr.35]. Đỉnh cao của ý thức phân biệt giữa ta và họ thể hiện trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Theo đó, so với nước láng giềng Trung Quốc, nước ta cũng có truyền thống lịch sử, văn hiến đáng tự hào của mình. Chính nhận thức được bản sắc riêng và ý chí độc lập tự cường, dân tộc ta đã lập nên những chiến công vang dội chống giặc ngoại xâm phương Bắc. Ở thời kỳ Pháp thuộc, trong những lời các sĩ phu yêu nước hiệu triệu nhân dân ta đứng lên chống giặc ngoại xâm, trong những lời kêu gọi của Đảng Cộng sản VN đều nhắc đến truyền thống lịch sử, văn hóa của VN. Năm 1922, trong một bài diễn thuyết ở Pháp, Phạm Quỳnh (người mà cho đến nay chưa được một tác giả nào trong nước gọi là sĩ phu yêu nước) cũng đã nói rằng, nền văn hóa VN không phải là một tờ giấy trắng. Đó là một cuốn sách cổ chứa đầy những dòng chữ được viết bằng một thứ mực không thể tẩy xóa được hoàn toàn và người ta không thể tự do muốn viết gì vào đấy thì viết [119, tr.405 - 406]. Theo ông, ngôn ngữ và văn học nghệ thuật chính là sức sống của một dân tộc: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Từ những năm 80 của thế kỷ trước đến nay, các tác giả VN bàn luận nhiều về bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc. Trước đó, các cụm từ, thuật ngữ “tính chất dân tộc”, “tính dân tộc”, “tính cách dân tộc”, “hồn dân tộc” được sử dụng 28 trong văn kiện chính trị của Đảng, trong các công trình, bài viết mang tính học thuật và cả trong giao tiếp hằng ngày của xã hội. Suy xét kỹ có thể nhận thấy, mặc dù trong thời kỳ này, thuật ngữ “bản sắc dân tộc” chưa xuất hiện nhưng những cụm từ, thuật ngữ nói trên thường được sử dụng với nội hàm ý nghĩa gần gũi, tương đương: Trong Đề cương văn hóa (1943), Đảng ta đã xác định rõ tính chất của nền văn hóa mới: “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung” [7, tr.32]. Năm 1960, cụm từ “tính chất dân tộc về hình thức” trong diễn ngôn trước đó được đổi thành “tính chất dân tộc” khi xác định đặc điểm của nền văn nghệ mới: “Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.” [7, tr.153]. Năm 1977, Chỉ thị số 08 – CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Về công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiên lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: Cần quán triệt những quan điểm cơ bản trong Nghị quyết của Đại hội Đảng: (...) xây dựng nền văn hóa mới có nội dung XHCN và tính chất dân tộc, nền văn hóa có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc [7, tr.276]. Năm 1982, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982) tiếp tục xác định nhiệm vụ: Xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá mới (...). Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản [7, tr.352]. Năm 1986, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khẳng định: “tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc” [32, tr.222]. Từ năm 1986 đến nay, cụm từ “bản sắc dân tộc” tiếp tục xuất hiện trong Cương lĩnh chính trị (1991), trong văn kiện Đại hội VIII (1996), trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong Văn kiện Đại hội X (2006) và Văn kiện Đại 29 hội XI (2011): Xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc VN vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội [14], [135], [179]. Như vậy, trong văn kiện của Đảng, cụm từ “bản sắc dân tộc” được chính thức ghi nhận từ năm 1986. Từ đó, trên các diễn đàn chính trị, học thuật, lý luận phê bình và trong ngôn ngữ đời sống thường nhật, thuật ngữ “bản sắc dân tộc”, “bản sắc văn hóa dân tộc” ngày càng được sử dụng rộng rãi; các từ ngữ, thuật ngữ “tính chất dân tộc”, “tính dân tộc”, “nét riêng của dân tộc”, “diện mạo đặc sắc của dân tộc”... không mất đi song ít được sử dụng so với trước. + Quan niệm về bản sắc dân tộc Ở nước ngoài, “bản sắc dân tộc”, “bản sắc văn hóa” được quan niệm và thể hiện bằng những diễn giải khác nhau. Nội dung của nó ngày càng trở nên phong phú, đa nghĩa. Tuy nhiên, tựu trung lại có hai góc độ tiếp cận là “bản thể luận” và “kiến tạo luận”. Những người theo cách tiếp cận truyền thống - “bản thể luận” cho rằng bản sắc dân tộc là một thực thể khách quan, tự thân (bản sắc văn hóa được hiểu tương tự với “bản chất” về cái tôi/căn tính), tồn tại ở trạng thái tĩnh, ít biến đổi còn những người tiếp cận theo góc độ “kiến tạo luận” lại cho rằng bản sắc dân tộc là do cái chủ quan của nhà nghiên cứu, nhà chính trị... kiến tạo ra; nó “chỉ là một mô tả trong ngôn ngữ (diễn ngôn) và vì vậy, bản sắc dân tộc nói chung (bản sắc văn hóa) nói riêng không có tính cố định, tĩnh tại - “đa dạng” và hay thay đổi. Điều đáng quan tâm, từ góc độ “kiến tạo luận” đã làm xuất hiện quan niệm: bản sắc văn hóa là tạo dựng, là vấn đề của sự lựa chọn - mà các diễn ngôn chính là cách thức để tạo dựng bản sắc văn hóa. Theo Đoàn Thị Tuyến, trong tranh luận học thuật hiện nay ở nước ngoài, chưa có kiến giải nào thuyết phục được những người theo “kiến tạo luận” từ bỏ lập trường [138, tr.7 - 14]. Ở VN, đã từng có nhiều phát biểu thể hiện quan niệm về bản sắc dân tộc. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có những điểm thống nhất như sau: “Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt những đặc điểm của một dân tộc tạo nên diện mạo và dạng hình riêng của dân tộc” [157, tr.15], nó được 30 coi “là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc này với dân tộc khác”. Bản sắc bao gồm “các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia, dân tộc” và “thể hiện tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc” [179]. Cho nên, “tìm bản sắc dân tộc là tìm cái cốt lõi, cái tinh túy của tính dân tộc ở mỗi lĩnh vực cụ thể của văn hóa và nghệ thuật” [157, tr.25]. Chúng tôi nhất trí với quan niệm: bản sắc dân tộc là dấu hiệu cơ bản để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, tuy cả hai đều có tính chung nhân loại. Nói cách khác, bản sắc là cách thể hiện riêng cái bản chất người của nhân loại ở từng dân tộc. Trong đó, bản sắc văn hóa giống như một tấm thẻ căn cước, giúp nhận dạng và phân biệt giữa các cá nhân, nhóm và cộng đồng trên cơ sở các trải nghiệm văn hóa trong các bối cảnh [138, tr.20]. Nội hàm của “bản sắc dân tộc” rộng hơn “bản sắc văn hóa dân tộc”; trong “bản sắc dân tộc”, “bản sắc văn hóa dân tộc” là bộ phận chủ yếu. Bản sắc có khi là cái chỉ có ở dân tộc này mà không có ở dân tộc khác, song trong nhiều trường hợp, bản sắc là cái tuy nhiều dân tộc cùng có nhưng lại tập trung đậm nét ở một dân tộc. Bản sắc không phải là một cái gì nhất thành bất biến. Có trường hợp, bản sắc là thực thể/cái có tính khách quan, tự thân (như tính linh hoạt, mềm dẻo là một trong những phẩm chất của người Việt; nó thuộc về bản chất người Việt và là thực tế khách quan). Có trường hợp, bản sắc là do kiến tạo - đó là khi người ta nhận diện đúng về các yếu tố làm cơ sở, nền tảng cho sự hình thành bản sắc và tác động đến các yếu tố đó nhằm thúc đẩy sự hình thành của bản sắc. Bản sắc là “con dao hai lưỡi”, nếu các nước đang phát triển không chú ý đến bản sắc thì sẽ bị hòa tan, song nếu quá nhấn mạnh đến bản sắc thì sẽ kéo dài tình trạng tụt hậu. Không chỉ nước nhỏ, nước đang phát triển mới chú ý bảo vệ văn hóa dân tộc, hạn chế ảnh hưởng văn hóa ngoại lai. Ấn Độ ngăn chặn việc bán Coca Cola, Pháp sử dụng hàng vạn cán bộ và chi rất nhiều tiền để giữ bộ mặt văn hóa độc đáo, Trung Quốc tuyên bố chống ô nhiễm tinh thần, Nhật Bản liên tục mở những hội nghị bàn về văn hóa dân tộc... [74], [125]. Khi bàn luận, nghiên cứu về bản sắc dân tộc trong âm nhạc, có một vài ý kiến không thực sự đề cao vai trò quan trọng của chất liệu dân gian: 31 1/ Năm 1967, một nhạc sĩ phát biểu: Bất kỳ sự sáng tạo cái mới nào, với mức độ khác nhau trên cơ sở vốn cổ, nếu tinh thần bài hát không gây được cho người nghe tình yêu tổ quốc, lòng tự hào dân tộc, tính chiến đấu và tính thần lạc quan chiến thắng kẻ thù thì bài hát đó không cách mạng, và do đó nó không mang tính dân tộc (...) Cái nhận thức đầu tiên đối với một bài hát không phải là tỉ lệ phần trăm về chất liệu dân ca nhạc cổ mà chủ yếu là tính tư tưởng của tác phẩm thông qua tiếng hát [152, tr.507]. 2/ Tác giả Hoàng Đạm, trong bài viết Suy nghĩ về tính dân tộc trong tác phẩm âm nhạc (1972), mặc dù không phủ nhận nhưng tác giả cũng không đề cao vai trò của chất liệu dân gian mà đề cao yếu tố thời đại đối với việc tạo nên bản sắc dân tộc: Một tác phẩm âm nhạc có thể giàu ngôn ngữ dân gian những chưa chắc đã có tính dân tộc, nếu tác phẩm đó không mang hơi thở cuộc sống, hay là không biểu hiện gì, hoặc biểu hiện những tình cảm đen tối, phản động, lạc lõng với thời đại [Dẫn theo 80, tr.29]. 3/ Tác giả Thiên Lang, trong bài viết Dân ca và không gian văn hóa (2006) đã phủ định vai trò, mối liên hệ của việc khai thác chất liệu dân gian với bản sắc dân tộc: Khi khai thác một quãng đặc trưng của dân ca, “mượn” từ dân ca dù chỉ là một nét giai điệu, một thủ thuật nhấn nhá, một cách gieo quãng hay cả một hệ thống thang âm (...) cũng chỉ là sử dụng các thành tố của một không gian văn hóa như những chất liệu âm nhạc. Những chất liệu ấy không hề mang ý nghĩa “bản sắc” hay quyết định “tính dân tộc” của một tác phẩm [Dẫn theo 80, tr.30]. Tuy nhiên đó chỉ là số ít. Đại đa số các ý kiến đều khẳng định vai trò của chất liệu dân gian (âm nhạc dân gian, VHDG) đối với việc hình thành, kiến tạo bản sắc, tính dân tộc trong ca khúc: những yếu tố dân gian là nền tảng cơ bản cho việc tạo nên bản sắc dân tộc trong lĩnh vực ca khúc nói riêng và trong âm nhạc nói chung. Đây cũng là kết luận của Trần Bảo Lân sau khi hệ thống hóa các quan niệm từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau và qua nghiên cứu đề tài luận án Bản sắc dân tộc trong ca khúc mới Việt Nam [80, tr.67 - 72]. 32 Tiểu kết Trong nguồn tài liệu phong phú viết về VHDG, số công trình, bài viết về CLVHDG và việc khai thác CLVHDG phục vụ quá trình sáng tác văn học nghệ thuật (văn học hiện đại, sân khấu, điện ảnh...) nói chung và sáng tác ca khúc nói riêng chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Về vấn đề khai thác CLVHDG trong sáng tác ca khúc VN, những nghiên cứu trước đây mới chỉ tập trung nhìn nhận, đánh giá từ góc độ Văn học, Âm nhạc học mà chưa tìm hiểu, lý giải từ góc độ Văn hóa học; còn một số chiều cạnh của vấn đề vẫn chưa được đề cập tới hoặc đề cập chưa thấu đáo. Vì vậy, cần tìm hiểu mục đích của việc khai thác CLVHDG, tìm hiểu sự vận động, biến đổi và nguyên nhân biến đổi của việc khai thác CLVHDG qua các chặng đường phát triển của ca khúc VN và xem xét những tác động của các yếu tố xã hội đối với việc khai thác CLVHDG hiện nay. Khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, lý thuyết hệ thống, lý thuyết diễn ngôn, lý thuyết hành động xã hội là những cơ sở lý luận giúp tác giả luận án nhận thức đối tượng nghiên cứu, đi tới những kiến giải phù hợp. Liên quan đến đề tài luận án, các khái niệm, thuật ngữ: “ca khúc”, “ca từ”, “khai thác chất liệu văn học dân gian”, “bản sắc dân tộc” thường được sử dụng; trong đó thuật ngữ “bản sắc dân tộc” đã thu hút được sự chú ý của nhiều tác giả trong nước và nước ngoài. Tác giả luận án nhất trí với quan niệm: bản sắc dân tộc là dấu hiệu cơ bản để phân biệt để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác; trong đó, bản sắc văn hóa giống như một “tấm thẻ căn cước”, giúp nhận dạng và phân biệt giữa các cá nhân, các nhóm và cộng đồng trên cơ sở các trải nghiệm văn hóa trong các bối cảnh. Từ trước khi xuất hiện thuật ngữ “bản sắc dân tộc”, cha ông ta đã có ý thức nhận diện những đặc điểm riêng, biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau (ngôn ngữ, các sản phẩm văn hóa, cách ứng xử...), giúp phân biệt nước ta với nước khác. Đảng và Nhà nước ta hiện nay cũng đã quan tâm thích đáng đến vấn đề này. Trên các diễn đàn trao đổi, học thuật, tuy còn một vài ý kiến khác biệt nhưng đại đa số các nhà nghiên cứu VHNT đều khẳng định vai trò, tầm quan trọng của CLVHDG đối với việc góp phần tạo nên bản sắc dân tộc trong tác phẩm văn học nghệ thuật hiện đại. 33 Chương 2 MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC KHAI THÁC CHẤT LIỆU VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG SÁNG TÁC CA KHÚC VIỆT NAM 2.1. VÌ CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ NGHỆ THUẬT Ca khúc là một bản nhạc có lời ca, là một tổng thể khăng khít giữa nhạc và lời. Từ nguồn cội âm nhạc dân gian, dân ca là những khúc hát được tạo nên từ việc đem lời thơ dân gian “bẻ thành những làn điệu” cho nên công chúng âm nhạc VN lâu nay vẫn có thói quen, có nhu cầu thưởng thức nhạc có lời, nhạc hát. Nắm bắt nhu cầu và thói quen đó, những nhạc sĩ thành danh của VN cũng là những người luôn hướng đến việc tạo nên sức sống cho ca khúc của mình từ vẻ đẹp của cả phần âm nhạc và lời ca để có thể khảm vào trí nhớ của người nghe, lay động những cảm xúc tâm hồn của họ và trở thành tiếng hát trái tim của mọi người, mọi nhà. Nhưng viết lời ca cho những bài hát VN là một việc không hề đơn giản, không dễ có những thành công ngay. Người sáng tác “phải trải qua biết bao trăn trở, cân nhắc biết bao suy nghĩ, đi qua biết bao thử thách thất bại” mới tạo nên sự kết hợp có tính thẩm mỹ giữa nhạc và lời, mới điều khiển cùng một lúc cả tư duy âm nhạc và tư duy văn học để sáng tạo nên những hình tượng đẹp, những ấn tượng sâu sắc cho người nghe. Những điều được rút ra từ kinh nghiệm gần 40 năm sáng tác ca khúc của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý cũng chính là mối quan tâm của các thế hệ nhạc sĩ VN về việc làm thế nào để có được lời ca đẹp cho một bản nhạc hay: “Sự dễ dãi trong cách dùng từ ngữ là kẻ thù phải xa lánh” [143, tr.605]. Suy nghĩ đó đã hướng những người sáng tác đến việc khai thác CLVHDG - khai thác vốn ngôn ngữ nghệ thuật của những người bình dân, trải qua sự sàng lọc của thời gian, nó được coi là một kho tàng vĩ đại và vô giá, ở đó hội tụ đầy đủ các giá trị nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ. Họ đã học được rất nhiều khi ngẫm nghĩ về những lời ca dao trong những bài hát dân ca VN được nhiều người yêu thích. Những câu: Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc... hay Người ơi người ở đừng về... hoặc Giận thì giận mà thương thì 34 thương..., với chất thơ của nó đã làm cho “tâm hồn người nghe dính chặt vào bài hát” ngay từ những câu hát mở đầu [143, tr.605]. Mỗi CLVHDG là một cái “mã nghệ thuật” để mở ra các tầng vỉa nội dung ngữ nghĩa. Chỉ một điển tích quê hương Phù Đổng (Mẹ tôi - Đoàn Bổng) có thể mang trọn hàm ý sâu xa về một quê hương giàu truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết đánh thắng giặc ngoại xâm; một biểu tượng con cò (Vũ khúc con cò – Phó Đức Phương) có thể gợi lên sự lam lũ, nhọc nhằn nhưng đầy nghị lực của những người lao động chốn quê nghèo. Có khi, chỉ một câu tục ngữ được tác giả đưa vào ca từ (Hát ru người mẹ lính – An Thuyên) cũng chứa đựng thông điệp về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” - nét đẹp trong truyền thống văn hóa của dân tộc Một số trường hợp tiêu biểu: Ca khúc Câu hò bên bờ Hiền Lương (Hoàng Hiệp – thơ: Đằng Giao). Tác phẩm được sáng tác năm 1957, khi dòng sông Bến Hải và cây cầu Hiền Lương đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước thành hai miền - hai chế độ, việc hiệp thương tổng tuyển cử toàn quốc không thực hiện được. Biết bao gia đình, đôi lứa phải sống trong xa cách; Bắc - Nam vẫn mong mỏi ngày vui sum họp. Trong lời hát, hiện lên hình tượng một người đang đứng từ bờ Bắc ngóng trông về phía quê nhà; từ nơi rộng mở thênh thang buồm căng theo gió, đàn chim dang cánh lưng trời gửi lời nhớ thương bờ Nam đang chìm trong sương mờ và bão tố: 35 Hò ơ... ơ ớ ơ... Thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến chăng? Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền. Câu hát được lấy từ lời ca dao đã làm nên đoạn cao trào tình cảm của bài hát, đúc kết tình cảm vợ chồng, Bắc - Nam thủy chung son sắt. Tình yêu gắn bó bền chặt, thủy chung là một trong những phẩm chất tâm hồn mà con người mọi thời đại đều khát khao hướng tới. Vì vậy, sự xuất hiện của lời ca dao thuyền – bến trong Câu hò bên bờ Hiền Lương đã làm giàu thêm ý nghĩa và sức sống cho ca từ. Từ khi ra đời cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ, ca khúc này vẫn được nhiều người yêu thích, hiện diện thường xuyên trong đời sống âm nhạc nước nhà. Trước một đề tài được cho là khô khan, khó viết (đề tài dân số - kế hoạch hóa gia đình), nhạc sĩ Trần Tiến đã sáng tác một chùm ca khúc chẳng những đáp ứng mục đích tuyên truyền mà còn trở thành những giá trị nghệ thuật. Bằng việc khai thác CLVHDG, cái khô cái khó của đề tài đã được ông đã hóa giải: Hồi đó, vào năm 1989, một người bạn của tôi công tác trong Ban tổ chức Cuộc vận động sáng tác ca khúc cho thanh niên về hôn nhân và dân số (do Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động) đến đặt vấn đề nhờ tôi sáng tác bài hát cho chương trình đó. Tôi nhận lời mời tham gia với ý nghĩ, có thể mình không viết được nhưng sẽ liên hệ với khoảng 20 nhạc sĩ mà mình quen biết để mời họ cùng sáng tác cho cuộc vận động này. Về cuộc vận động, tinh thần cốt yếu của nó là: đừng vội yêu, yêu rồi thì đừng vội cưới, cưới rồi thì đừng vội đẻ, ai đẻ rồi thì đừng đẻ nhiều. Tôi đã viết. “Đừng vội yêu” thì tôi viết Cô bé vô tư - “Đừng yêu em anh nhé, đừng yêu nhé, em muốn làm con dế vô tư lang thang, em không muốn làm người lớn đâu anh”; “đẻ rồi thì đừng đẻ nhiều” là bài Thượng đế buồn. Bài “yêu rồi đừng vội lấy” thì lúc đầu tôi giao cho anh Xuân Hồng, nói: “- Anh viết cho em bài hát Đừng vội lấy chồng”. Thế mà rồi không hiểu vì sao anh Xuân Hồng không hoàn thành, chiều nay vẫn không có bài, trong khi sáng hôm sau phải nộp bài rồi Thấy gấp quá, tôi cũng không biết làm sao. Tối hôm đó, câu chuyện “nợ bài” lại được nhắc tới trong bữa nhậu với với những người bạn. Rồi một người bạn - vẫn được gọi vui là Vua Lốp ở Hà Nội - nó mới 36 đọc: “Bướm vàng đậu trái mù u/ Lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn”... Tôi bảo: “- Thôi chết, đây rồi!”. Thế là trong bữa nhậu thịt chó đó, tôi vừa nhậu vừa viết, đúng 1 tiếng rưỡi thì xong. Sáng hôm sau hát thì đó là bài hát hay nhất, được giải Và bài Thượng đế buồn, viết để vận động chị em lấy chồng rồi thì đừng đẻ nhiều cũng có giải. (Nhạc sĩ Trần Tiến trả lời phỏng vấn, ngày 14/2/2015) Như vậy, lời ca dao “Bướm vàng đậu trái mù u/ Lấy chồng càng sớm lời ru càng buồn” đã gợi ý, dẫn dắt ý tưởng cho sự hình thành ca từ của bài Sao em nỡ vội lấy chồng. Cũng tương tự, khi sáng tác ca khúc Thượng đế buồn, câu tục ngữ “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” lại là xuất phát điểm để từ đó tác giả phản ánh một thực trạng đáng báo động – Trời sinh voi, trời không còn cỏ. Thượng đế buồn, thượng đế bỏ đi... nhằm thuyết phục mọi người phải có trách nhiệm thực hiện kế hoạch hóa gia đình, giảm tốc độ tăng dân số. Bằng việc khai thác, vận dụng CLVHDG, những câu chữ, khẩu hiệu khô cứng của cuộc vận động (khó kết hợp với nhạc) đã được thay thế bằng ca từ giàu hình ảnh và hàm súc dựa trên nền tảng ngôn từ VHDG. Nhạc sĩ Trần Tiến đã nói rõ về sự chủ động của ông trong việc khai thác cái hay cái đẹp của chất liệu dân gian để làm nên chất lượng nghệ thuật cho ca khúc mà ông tâm đắc: Khi viết bài Tùy hứng qua cầu, tôi đưa một chút Nam Bộ vào đúng cái câu quan trọng nhất: “Ôi đóa hoa tím trôi liu riu... anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu anh thương”... Chỉ đến đúng cái câu ca dao Nam Bộ đó tôi mới cho một chút điệu thức của người Nam Bộ vào. Còn bài Phố núi, có câu hát: Thung lũng buồn bên nhà rông, người thiếu nữ vú cong môi hồng, tà váy rộng, gió thổi tung, bắp chân trần như chớp đêm giông. Nó là từ một bài kể khan của người Ê - đê (hay là dân tộc nào đó tôi không nhớ rõ). Đại ý, lời kể khan là thế này: Em đi lên đèo, gió thổi tung váy, bắp chân của em chợt sáng lên như một tia chớp... Đó là một hình ảnh rất chân thực và là một hình tượng rất đẹp. Vì tôi nhớ kỹ và rất thích nên khi sáng tác ca khúc thì đưa vào. Thung lũng buồn, bên nhà rông, người thiếu nữ vú cong môi hồng là câu của tôi. Còn 37 câu tiếp theo lấy ý từ lời khan là: Tà váy rộng gió thổi tung, bắp chân trần như chớp đêm giông. Đấy là câu “kinh khủng” nhất của tôi. (Nhạc sĩ Trần Tiến trả lời phỏng vấn, ngày 22/1/2015) Nhạc sĩ Nguyễn Cường cũng không phải là một ngoại lệ. Trong một lần trả lời phỏng vấn trên báo mạng (năm 2010), ông cũng cho rằng âm nhạc dân gian, VHDG của dân tộc là di sản vô cùng quý giá, nó đã được thời gian - “hội đồng nghệ thuật công tâm nhất”- thẩm định: Một bài hát bình thường sống hàng vài chục năm, vài ba ngày, có bài chết ngay khi ra, nhưng âm nhạc dân gian nó đã sống hàng nghìn năm nay rồi (...). Tôi có buổi nói chuyện với sinh viên. Các bạn thích các bài thất tình chứ gì? Cứ thỏa sức hát. Nào tình não, tình khổ, tình buồn, tình nhớ nhung các thứ đi. Sau khi họ hát xong, tôi chỉ hát một câu thôi: Đêm nằm ôm gối thở than/ Gối ôi là gối, bạn xưa đâu rồi. Tất cả những than tình trước nó đều đều trở nên rởm hết. (...) Tây xịn ngồi nghe nhạc trẻ, nó cười khẩy mũi nhưng nghe âm nhạc dân gian là không dám đùa rồi [181]. Ông cho rằng âm nhạc dân gian, VHDG là một kho báu, một thứ vàng mà người Việt ta luôn có sẵn trong người. Và ông tự hỏi: “Ta có sẵn vàng trong người, tại sao không dùng?”. Đó là một câu hỏi mang hàm ý khẳng định việc khai thác vốn nghệ thuật dân gian VN là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng làm nên cái hay cái đẹp của ca khúc âm nhạc VN đương đại. Cũng từ nhận thức như vậy về giá trị và vai trò của chất liệu dân gian mà trong quá trình sáng tác ca khúc, nhạc sĩ Nguyễn Cường luôn trung thành với con đường mình đã chọn. Chất liệu âm nhạc Tây Nguyên và dân ca đồng bằng Bắc Bộ được ông ví như hai bộ trang phục (một là cái khố, hai là bộ áo the khăn xếp) góp phần làm nên diện mạo đặc sắc của mình. Công chúng âm nhạc cảm thấy quen thuộc gần gũi khi nghe những câu hát: Đâu trúc mai sân đình. Đâu dáng ai ưa nhìn. Động lòng tôi câu hát người xinh (Mái đình làng biển); ... Nửa chăn nửa chiếu ngại ngùng. Ngẩn ngơ một bóng lạnh lùng. Tiếc cho ngày tháng trôi qua. Tiếc cho ngày tháng trôi qua lạnh lùng (Khúc độc thoại Thị Màu)... 38 Là một người có nhiều thành công trong việc khai thác, vận dụng chất liệu dân ca Nghệ Tĩnh, nhạc sĩ An Thuyên đã phát biểu, có ý đúc kết kinh nghiệm: Lời trong các bài hát dân ca Nghệ Tĩnh đạt đến độ hoàn bích của nghệ thuật văn chương. Hoàn bích đến mức, âm nhạc tôi nhìn thấy như là cái cột, còn lời ca là toàn bộ ngôi nhà; âm nhạc là con đò, còn lời ca là những lấp lánh ánh trăng trải đầy dòng sông. Cho nên nghiên cứu và khai thác dân ca Nghệ Tĩnh phải có cái nhìn tổng thể, không thể chỉ nhìn cái cột mà không nhìn toàn bộ ngôi nhà, không thể chỉ nhìn con thuyền mà không biết nhìn cả dòng sông đầy trăng. () Trong lĩnh vực sáng tác, chỉ khi nào người nhạc sĩ không đơn thuần tiếp thu chất liệu âm nhạc, phải có đậm đà văn chương trong chất liệu ấy và thấm đẫm tình đời, tình người xứ Nghệ mới có những bài ca rung động lòng người. Nay đang thông thường là giới nhạc chúng tôi đang ít chú ý đến lời ca, đấy là sự thiệt thòi lớn. Phải có văn chương trong lời ca thì ca khúc phát triển dân ca Nghệ Tĩnh mới rung động lòng người” [214]. Lời phát biểu của nhạc sĩ An Thuyên đã hé mở tính mục đích của việc khai thác CLVHDG trong những sáng tác của ông. Từ nhận thức về vẻ đẹp và giá trị nghệ thuật của VHDG (cụ thể là ca dao xứ Nghệ), ý thức được tầm quan trọng của việc khai thác chất liệu âm nhạc dân gian và CLVHDG đối với chất lượng nghệ thuật của ca khúc, bản thân ông thêm vững tin đi tiếp con đường dân gian dân tộc và kêu gọi, khuyến khích những người khác tận dụng tối đa những giá trị của CLVHDG. Ngay trong một ca khúc của ông - Neo đậu bến quê, nhiều lời ca dao, ý ca dao, hình ảnh và biểu tượng ca dao cùng được phát huy: ... Xuống đò một mình tôi với dòng sông tuổi thơ. Và một giọng đò đưa, vẫn neo đậu bến xưa. Lang thang đi bốn phương trời, nay về sông quê tắm mát. Sông Lam biết khi mô cho cạn. Đục trong, đục trong nhục vinh hỡi người (1). Câu đò đưa thầm gọi tôi ghé về tuổi thơ. Vầng trăng non ngơ ngác theo tôi đi chân trần. Cây đến thì trổ hoa, chuyến đò đầy rời bến. Em hát rằng đến duyên, em lấy chồng năm ấy (2). Hát lại giọng đò đưa như mẹ ru hồn tôi. Điệu buồn và điệu thương sao cháy lòng đến thế. Sông Lam biết khi mô cho cạn, như tình quê hương trong tôi. Sông Lam biết khi mô cho cạn, người 39 ơi, đục trong câu hát cháy lòng (3). Người về neo đậu bến mô, hồn tôi bến quê neo đậu, người ơi (4). Có thể nhận ra CLVHDG trong lời ca đó, bao gồm: (1): Ca dao - dân ca Nghệ Tĩnh Ai biết sông Lam rằng là trong, là đục Biết cuộc đời rằng là nhục, là vinh... (2): Ca dao – dân ca Nghệ Tĩnh Anh đến giàn hoa, hoa đến thì hoa nở Anh đến bến đò, đò đầy đò phải sang sông Đến duyên em thì em phải lấy chồng... (3): Ca dao – dân ca Nghệ Tĩnh. Giống như trường hợp (1). (4): Ca dao Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền Trước thời điểm Neo đậu bến quê ra đời (năm 1993), trong nền ca khúc VN đã từng có nhiều khúc hát về quê hương rất hay, lưu dấu vững chắc và bền chặt trong lòng người. Nhưng dù vậy, nhạc sĩ An Thuyên vẫn tạo được một dấu ấn riêng. Câu thơ dân gian Thuyền về có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền là lời của tình yêu lứa đôi, của người đi người ở. Vận dụng chất liệu đó, nhạc sĩ đã lấy cái tha thiết, thủy chung son sắt của tình yêu lứa đôi để nói về tình yêu quê hương: Người về neo đậu bến nao, hồn tôi bến quê neo đậu. Tình cảm sâu nặng với quê hương khó có thể nói hết bằng một vài từ chung chung như nhớ, thương, yêu... Nó đã được nói bằng những tầng lớp ý nghĩa của ngôn từ nghệ thuật, bằng lời ca dao. Văn chương làm cho câu chữ của người nhạc sĩ có hồn, ngắn gọn mà hàm súc, sâu sắc. Kho ngôn từ phong phú của VHDG sẽ giúp cho người nhạc sĩ có thể phản ánh một cách chân thực, gợi cảm và sống động những bức tranh hiện thực đời sống và diện mạo tâm hồn con người. Khi được đưa vào ca khúc một cách có hiệu quả, CLVHDG làm tăng cường khả năng biểu đạt nội dung của lời ca. Bằng kinh 40 nghiệm thực tế, nhạc sĩ Văn Chung nhận định: “Phổ thơ là nâng cao chất lượng văn học và nghệ thuật trong ca khúc” [20, tr.72]. Nhạc sĩ Trần Hoàn bình luận: Không phải ngẫu nhiên mà bài Trông cây lại nhớ đến Người của Đỗ Nhuận, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác của An Thuyên và nhiều bài hát của các nhạc sĩ hiện đại khi khai thác tốt chất liệu dân ca Nghệ Tĩnh đều được đông đảo nhân dân yêu thích và đều có sức sống lâu bền. Bài hát Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm của tôi nếu trong đó không vận dụng được cái đẹp của dân ca Nghệ Tĩnh để đưa vào, chưa chắc đã được nhiều người ưa thích [102, tr.429]. Trong một cuộc phỏng vấn (ngày 17/11/2014), nhạc sĩ Ngọc Thịnh cho biết: “Nền tảng chất liệu dân gian là cái căn bản, vô cùng quan trọng. Bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào được xây dựng trên nền móng đó đều vững bền hơn”. Trả lời phỏng vấn, khi khai thác CLVHDG một cách có ý thức (chủ ý), tất cả các nhạc sĩ được hỏi đều nói đến mục vì đích chất lượng, hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm - trừ một đôi khi họ khai thác CLVHDG một cách vô thức: “Lúc đó tôi không nghĩ gì cả, ca dao dân ca nó ngấm sẵn trong con người tôi, lúc nào nó ra là nó ra” (nhạc sĩ Trần Tiến). Thậm chí có tác giả nhấn mạnh, tuyệt đối hóa mục đích này: dùng CLVHDG vì cái gì thì cũng không quan trọng, miễn là nó phải hay. Từ những cứ liệu trên đây có thể khẳng định: trong quá trình sáng tác ca khúc, nhiều nhạc sĩ VN đã tìm thấy ở CLVHDG những giá trị quan trọng để mang lại cho tác phẩm của mình sự lôi cuốn hấp dẫn và sức sống bền lâu; CLVHDG đã trở thành một công cụ để phục vụ cho mụ...iờ ngày 7/9/1990, thời lượng phát sóng ban đầu là 8 giờ/ ngày, đến 1/1/1995 phát sóng 24 giờ/ngày) đã dành thời lượng đáng kể giới thiệu dân ca và nhạc cổ truyền của các dân tộc. Hầu hết di sản âm nhạc của các dân tộc có dân số đông và tương đối đông như Kinh, Tày, Nùng, Thái, Mường, Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Mơ Nông, Chăm, Khơ Me v.v đều đã ít nhiều được truyền trên sóng của VOV. Tuy còn một số hạn chế (làm cho thính giả không được tiếp nhận những di sản âm nhạc dân tộc ở dạng nguyên gốc) nhưng đây vẫn và một phương thức truyền bá một cách nhanh chóng và sâu rộng đến công chúng âm nhạc - nhất là ở vùng sâu vùng xa, tạo nên tiền đề thuận lợi cho việc kế thừa và phát triển những giá trị âm nhạc truyền thống trong ca khúc VN hiện nay. 201 PHỤ LỤC 07: MỘT SỐ HỘI THẢO KHOA HỌC VỀ TÍNH DÂN TỘC VÀ HIỆN ĐẠI, VỀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG ÂM NHẠC VIỆT NAM TỪ NĂM 2009 ĐẾN NAY Để đạt được mục tiêu xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giới văn nghệ sĩ (trong đó có giới nghiên cứu, lý luận, phê bình, sáng tác âm nhạc) đã có nhiều trăn trở, tìm tòi, thể nghiệm ở nhiều cách thức, con đường khác nhau. Đó cũng là những nội dung trọng tâm của các hội thảo âm nhạc được tổ chức ở nhiều vùng, miền trên cả nước. 1. Hội thảo Tính dân tộc và tính hiện đại trong tác phẩm văn học nghệ thuật Việt Nam hiện nay do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương tổ chức (tháng 8/2009) tại Hội An - Quảng Nam. 2. Hội thảo Tính dân tộc và tính hiện đại trong ca khúc trước yêu cầu hội nhập toàn cầu hóa do Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh và Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (tháng 10/2009) tại thành phố Hồ Chí Minh. 3. Hội thảo Bảo tồn và phát huy dân ca trong giáo dục âm nhạc ở trường phổ thông do Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương tổ chức (tháng 10/2009) tại HN. 4. Hội thảo Tính dân tộc – hiện đại trong âm nhạc hiện nay được tổ chức trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc Miền núi phía Bắc (tháng 11/2009), tại Việt Trì - Phú Thọ. 5. Hội thảo Tính dân tộc – hiện đại trong ca khúc Đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức (tháng 11/2009) tại Cần Thơ. 6. Hội thảo Vị trí của âm nhạc dân tộc trong đời sống âm nhạc Việt Nam được tổ chức trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc khu vực phía Nam do Hội Nhạc sĩ VN phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận tổ chức (cuối tháng 3/2012) tại Phan Rang - Tháp Chàm - tỉnh Ninh Thuận. 7. Hội thảo Nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động âm nhạc hiện nay được tổ chức trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc khu vực phía Bắc do Hội Nhạc 202 sĩ VN phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức (tháng 5/ 2012) tại Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc. 8. Hội thảo Nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động sáng tác và biểu diễn trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc khu vực Bắc miền Trung do Hội nhạc sĩ VN phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Bình (tháng 11/2012) tại Đồng Hới - tỉnh Quảng Bình. 9. Hội thảo Khai thác và phát huy Âm nhạc dân gian trong quá trình hội nhập quốc tế trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc khu vực phía Bắc do Hội Nhạc sĩ VN phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Sơn La (tháng 4/2013) tại Sơn La. 10. Hội thảo Âm nhạc Bắc miền Trung - Truyền thống và đương đại trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc khu vực Bắc miền Trung do Hội Nhạc sĩ VN phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (tháng 11/2013) tại Hà Tĩnh. 11. Hội thảo Giữ gìn và phát huy bản sắc các dân tộc Tây Nguyên trong quá trình hội nhập trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc khu vực Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam do Hội Nhạc sĩ VN phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Gia Lai tổ chức (tháng 3/2014) tại Pleiku - tỉnh Gia Lai. 12. Hội thảo Âm nhạc khu vực phía Bắc - truyền thống và đương đại trong khuôn khổ Liên hoan Âm nhạc phía Bắc do Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Hội Nhạc sĩ VN tổ chức (tháng 4/2014) tại Bắc Ninh. 13. Hội thảo quốc tế Bảo tồn và phát huy giá trị dân ca trong xã hội đương đại do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tổ chức (tháng 5/2014) tại Vinh - tỉnh Nghệ An. 14. Hội thảo quốc gia Những giải pháp tổ chức, triển khai Nghị quyết số 33 - NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hội đồng Lý luận trung ương và Báo Nhân Dân tổ chức (tháng 1/2015) tại HN. 203 PHỤ LỤC 08: MỘT SỐ VĂN BẢN, VĂN KIỆN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI VĂN HÓA NGHỆ THUẬT 1. Đề cương văn hóa Việt Nam. Trước cách mạng tháng Tám, ngay trong bản Đề cương văn hóa VN (1943), Đảng ta đã xác định phương hướng nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa với ba mục tiêu là: dân tộc, khoa học và đại chúng. “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”. 2. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/1951). Đảng ta xác định nhiệm vụ: “.... phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và tiếp thu những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”. 3. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960). Đại hội tiếp tục khẳng định: “Chúng ta phải phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc. (...) Báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thanh, điện ảnh và các công tác văn hóa khác phải thật sự trở thành vũ khí ngày càng sắc bén của giai cấp công nhân trên mặt trận tư tưởng và chính trị. Cần ra sức nâng cao tính tư tưởng, tính chiến đấu, tính quần chúng của các công tác đó”. 4. Chỉ thị số 104 - CTTƯ ngày 28/7/1965 “Về công tác văn hóa, văn nghệ trong tình hình mới” và chỉ thị 114- CTTƯ ngày 6/12/1965 về Tăng cường công tác lãnh đạo văn hóa, văn nghệ ở miền núi trong giai đoạn chống Mĩ, cứu nước hiện hay” đều nhấn mạnh: “công tác văn hóa, văn nghệ phải làm tốt hơn nữa chức năng tuyên truyền, giáo dục”. 5. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12 năm 1976). xác định "Xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng văn hoá phản động của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc lột". Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội 204 dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hoá mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn VN, của văn hoá VN, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại. Nền văn hoá mới kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong gia đình dân tộc VN. 6.Chỉ thị số 08/CT - TW ngày 13/4/1977 của Ban chấp hành Trung ương Về công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội tiếp tục nhấn mạnh: “Cần quán triệt những quan điểm cơ bản (...) xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, nền văn hóa có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc”. 7.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982). Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương (Phần I. Tình hình và nhiệm vụ chung) đã xác định: Về tư tưởng và văn hoá, đẩy mạnh công cuộc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới bám thật sát yêu cầu cách mạng và phù hợp với khả năng kinh tế, thúc đẩy tốt hơn công cuộc xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới. Tăng cường đấu tranh xoá bỏ những tệ nạn xã hội cũ, những tàn dư văn hoá thực dân mới, chống mọi ảnh hưởng tư tưởng và văn hoá phản động. Trong phần sau (Phần III. Những nhiệm vụ văn hóa xã hội), Báo cáo chính chị nêu rõ: Chế độ mới và nền kinh tế mới có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nền văn hoá mới, con người mới. Ngược lại, những thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là một động lực to lớn thúc đẩy tiến trình xây dựng chế độ mới và nền kinh tế mới. Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, vai trò cực kỳ quan trọng thuộc về lĩnh vực hoạt động văn hoá nghệ thuật: văn học, sân khấu, điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, kiến trúc, bảo tồn bảo tàng. “Đảng tin tưởng và đánh giá cao sự cống hiến của anh chị em văn nghệ sĩ, luôn luôn mong mỏi trên đất nước ta xuất hiện nhiều tài năng sáng tạo. (...) Đảng khuyến khích mọi tìm tòi, sáng tạo, khuyến khích sự phát triển của phong cách và tài năng nghệ thuật”. 205 8. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986). Trong Nghị quyết ghi rõ: “Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật, xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc”. 9. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991). Một lần nữa quan điểm về văn học nghệ thuật được nêu rõ trong Báo cáo chính trị: “Văn học nghệ thuật là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa, gắn bó với đời sống nhân dân và sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Khuyến khích tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật vì sự hoàn thiện con người”. Cương lĩnh chính trị (năm 1991) cũng tiếp tục đưa ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá VN có đặc trưng “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. 10. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996), Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII. Chủ trương, đường lối văn hóa nghệ thuật của Đảng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong Báo cáo chính trị: “ Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. (...) Kế thừa và phát huy các giá trị tính thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa dân tộc. (...) Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc”. Đường lối của Đảng được cụ thể hóa trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7/1998) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn để xây dựng và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, quan điểm cơ bản chỉ đạo là: Nền văn hoá VN là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng và phát triển nền văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng 11. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (tháng 1/2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (tháng 1/2016). 206 Chủ trương, đường lối văn hóa nghệ thuật của Đảng tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội IX với quan điểm: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”; tiếp tục được bổ sung trong Văn kiện Đại hội X, Đại hội XI: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội” và hoàn thiện thêm trong Văn kiện Đại hội XII: “Phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của văn hóa, con người; phải thực hiện có kết quả mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng tính thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. (...) Mọi hoạt động văn hóa, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hóa; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hóa... đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người”. 207 PHỤ LỤC 09. PHIẾU BÌNH CHỌN CA KHÚC Để phục vụ việc nghiên cứu Vấn đề khai thác chất liệu văn học dân gian trong sáng tác ca khúc Việt Nam, chúng tôi đề xuất một danh sách gồm những ca khúc có khai thác chất liệu văn học dân gian. Xin quý vị vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng trong mỗi cột dưới đây. Những thông tin mà quý vị cung cấp sẽ được công bố theo nguyên tắc khuyết danh và chỉ sử dụng vào mục đích nghiên cứu khoa học. Xin cảm ơn! Họ và tên: .................................... Tuổi:........... Đơn vị công tác:.................................................Ký tên:....................... STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 1 Con cò Lưu Hà An 2 Đi tìm người hát lý thương nhau Vĩnh An 3 Nhớ câu hò sông nước miền Trung Vĩnh An 4 Một đời người một rừng cây Trần Long Ẩn 5 Mừng tuổi mẹ Trần Long Ẩn 6 Cái bống Phan Trần Bảng 7 Trở về bến mơ Ngọc Bích 8 Điệu buồn phương Nam Vũ Đức Sao Biển 9 Mẹ tôi Đoàn Bổng 208 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 10 Nỗi buồn chim sáo Đinh Trầm Ca 11 Cung đàn xưa Văn Cao 12 Thiên thai Văn Cao 13 Trương Chi Văn Cao 14 Thà rằng chẳng biết Vĩnh Cát 15 Trăng xuân Vũ Duy Cương 16 Đàn cầm dây vũ dây văn Nguyễn Cường 17 Khúc độc thoại Thị Màu Nguyễn Cường 18 Mái đình làng biển Nguyễn Cường 19 Khúc mô phỏng những câu ca Xuân Cửu 20 Cô Tấm ngày nay Ngọc Châu 21 Chuyển bến Đoàn Từ Linh Chuẩn - 22 Gửi gió cho mây ngàn bay Đoàn Từ Linh Chuẩn - 23 Lá đổ muôn chiều Đoàn Từ Linh Chuẩn - 24 Tình nghệ sĩ Đoàn Từ Linh Chuẩn - 209 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 25 Thu quyến rũ Đoàn Từ Linh Chuẩn - 26 Dung dăng dung dẻ Văn Chung 27 Đếm sao Văn Chung 28 Gái thôn Đoài trai thôn Thượng Văn Lời: thơ Phạm Huyền - Văn Chung Chung 29 Quê tôi giải phóng Văn Chung 30 Về thăm mẹ Trần Chung 31 Bài ca thống nhất Võ Văn Di 32 Bài ca dâng Bác Huy Du 33 Chợ Chờ em vẫn chờ ai Huy Thơ: Phạm Tiến Duật Du 34 Người sống mãi trong lòng con Huy Du 35 Nhớ về cửa biển Huy Du 36 Nổi lửa lên em Huy Lời: Giang Lam - Huy Du Du 37 Sóng nước Ngọc Tuyền 38 Thi sĩ bên bờ sông Đuống Huy Lời: thơ Thế Hùng Du 39 Con mèo mà trèo cây cau Đào Ngọc Dung 40 Chú Cuội Phạm Duy 210 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 41 Đố ai Phạm Duy 42 Nụ tầm xuân Phạm Duy 43 Ông trăng xuống chơi Phạm Duy 44 Quê nghèo Phạm Duy 45 Thằng Bờm Phạm Duy 46 Vợ chồng quê Phạm Duy 47 Chào em cô gái Lam Hồng Ánh Dương 48 Hướng về Hà Nội Hoàng Dương 49 Ai về sông Tương Thông Đạt 50 Đừng trách đa đa Võ Đông Điền 51 Đêm nay anh ở đâu Phan Huỳnh Điểu 52 Giai điệu quê mình Phan Huỳnh Điểu 53 Người ấy bây giờ đang ở đâu Phan Huỳnh Thơ: Hoài Vũ Điểu 54 Trầu cau Phan Huỳnh Điểu 55 Mơ hoa Hoàng Giác 56 Ngày về Hoàng Giác 57 Nghệ Tĩnh mình đây Xuân Giao 58 Cho dù có đi nơi đâu Thế Hiển 59 Cảm xúc lý ngựa ô Hoàng Hiệp 211 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 60 Câu hò bên bờ Hiền Lương Hoàng Lời: thơ Đằng Giao Hiệp 61 Chở pháo sang sông Hoàng Thơ: Cao Phương Hiệp 62 Đất mũi Cà Mau Hoàng Hiệp 63 Tuổi thơ Hoàng Thơ: Nguyễn Duy Hiệp 64 Em đứng giữa giảng đường hôm nay Tân Huyền 65 Tiếng hò trên đất Nghệ An Tân Huyền 66 Về miền thương nhớ Hoàng Hiệp 67 Tình yêu bên dòng sông quan họ Phan Lạc Thơ: Đỗ Trung Lai Hoa 68 Giận mà thương Trần Hoàn 69 Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm Trần Thơ: Quý Doãn Hoàn 70 Lời Bác dặn trước lúc đi xa Trần Hoàn 71 Mời anh về Hà Tĩnh Trần Hoàn 72 Vỗ bến lam chiều Trần Hoàn 73 Tìm về lời ru Đào Đăng Hoàn 74 Bài ca may áo Xuân Hồng 75 Hát cho mình nghe Nghiêm Bá Hồng 212 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 76 Tiếng hát sông Lam Đinh Quang Hợp 77 Giọt đàn Thạch Sanh Tuấn Khanh 78 Nhật kí chú Cuội Tuấn Khanh 79 Hết quan hoàn dân Lê Đăng Khoa 80 Con cò đi ăn đêm Nguyễn Xuân Khoát 81 Con mèo trèo cây cau Nguyễn Xuân Khoát 82 Con voi Nguyễn Xuân Khoát 83 Hồn xuân Nguyễn Xuân Lời: thơ Thế Lữ Khoát 84 Ông giẳng ông giăng Nguyễn Xuân Khoát 85 Sơn Tinh Thủy Tinh Nguyễn Xuân Khoát 86 Thằng Bờm Nguyễn Xuân Khoát 87 Người đàn bà hóa đá Trần Lập 88 Câu giã bạn Trọng Lời: phóng tác từ bài thơ Câu giã bạn của Thế Hùng Loan 89 Lời ca dâng Bác Trọng Loan 90 Câu hát tình quê Trần Quang Lộc 91 Chờ nhau Trần Quang Lộc 92 Ngả nón trông theo Trần Quang Lộc 93 Chim sáo xa rồi Trương Quang Lộc 94 Tập tầm vông Lê Hữu Lộc 213 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 95 Đóng nhanh lúa tốt Lê Lôi 96 Con nhện tìm duyên Lê Minh 97 Khách đến chơi nhà Lê Thơ: Việt Dũng Minh 98 Lời ru Lê Thơ: Hoàng Hạnh Minh 99 Về hội Lim Lê Thơ: Nguyễn Bá Thắng Minh 100 Đồng dao con cò Phan Văn Minh 101 Thằng Bờm Phan Văn Minh 102 Son Đức Nghĩa 103 Ánh trăng Hồ Núi Cốc Đặng An Nguyên 104 Em ở nơi đâu Phan Nhân 105 Con cò mà đi ăn đêm Cù Minh Nhật 106 Sông Thương sông nhớ Xuân Nhật 107 Đất nước lời ru Văn Thành Nho 108 Quả bom câm Doãn Lời: Nghiêm Đa Văn - Doãn Nho Nho 109 Giặc đến nhà ta đánh Đỗ Nhuận 110 Quê ta từ đất dấy lên Đỗ Nhuận 111 Sóng cả không ngã tay chèo Đỗ Nhuận 214 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 112 Trai anh hùng gái đảm đang Đỗ Nhuận 113 Trông cây lại nhớ đến người Đỗ Nhuận 114 Việt Nam quê hương tôi Đỗ Nhuận 115 Con thuyền không bến Đặng Thế Lời: Đặng Thế Phong - Bùi Công Kỳ Phong 116 Giọt mưa thu Đặng Thế Phong 117 Hương cau vườn Bác Vi Phong 118 Cơn mưa sang đò Đặng Hữu Phúc 119 Cô lái đò Nguyễn Đình Phổ thơ Nguyễn Bính Phúc 120 Cô Tấm sang sông Nguyễn Đình Phúc 121 Tiếng đàn bầu Nguyễn Đình Phúc 122 Theo câu Quan họ Nguyễn Đình Phúc 123 Bạch Đằng giang Lưu Hữu Lời: Mai Văn Bộ, Nguyễn Thành Nguyên, Lưu Hữu Phước Phước 124 Tiếng gọi thanh niên Lưu Hữu Lời: Hoàng Mai Lưu Phước 125 Bài ca thần chim Lạc Phó Đức Phương 126 Cô Nụ thôn tôi Phó Đức Phương 215 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 127 Cũng một con đò Phó Đức Phương 128 Hồ trên núi Phó đức Phương 129 Huyền thoại hồ Núi Cốc Phó Đức Phương 130 Khúc hát phiêu ly Phó Đức Phương 131 Lồng lộng quê Thanh Phó Đức Phương 132 Mái chèo thiên thu Phó Đức Phương 133 Một thoáng Tây Hồ Phó Đức Phương 134 Người đi Tam Đảo Phó Đức Phương 135 Những cô gái quan họ Phó Đức Phương 136 Phong Châu mở hội Phó Đức Phương 137 Về quê Phó Đức Phương 138 Vũ điệu con cò Phó Đức Phương 139 Người ơi hãy về Tào Tuấn Phương 140 Tình đất Tào Tuấn Phương 141 Dòng máu Lạc Hồng Lê Quang 142 Em yêu anh như yêu câu ví dặm Vũ Ngọc Quang 143 Hát về mẹ Vũ Ngọc Quang 144 Khúc cuối Trương Chi Vũ Ngọc Quang 145 Phía tối tâm hồn tôi Phú Quang 146 Thương lắm tóc dài ơi Phú Quang 216 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 147 Chim sáo ngày xưa Nhất Sinh 148 Tơ hồng Nhất Sinh 149 Em đi trên cỏ non Bắc Sơn 150 À í a Lê Minh Sơn 151 Chuồn chuồn ớt Lê Minh Sơn 152 Đá trông chồng Lê Minh Sơn 153 Đàn cò Lê Minh Sơn 154 Gà trống nuôi con Lê Minh Sơn 155 Người ở người về Lê Minh Sơn 156 Ôi quê tôi Lê Minh Sơn 157 Ơ kìa Lê Minh Sơn 158 Lời ru Âu lạc Nguyễn Minh Sơn 159 Bạc Liêu hoài cổ Thanh Sơn 160 Dư âm ngày cũ Thanh Sơn 161 Em về qua bến Bắc Thanh Sơn 162 Hành trình trên đất phù sa Thanh Sơn 163 Hình bóng quê nhà Thanh Sơn 164 Hương tóc mạ non Thanh Sơn 165 Thương về cố đô Thanh Sơn 217 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 166 Lặng lẽ nơi này Trịnh Công Sơn 167 Lời mẹ ru Trịnh Công Sơn 168 Kéo cưa lừa xẻ Phạm Thị Sửu 169 Yêu nhau ghét nhau Vy Nhật Tảo 170 Đôi mắt đò ngang Nguyễn Trọng Tạo 171 Khúc hát sông quê Nguyễn Trọng Thơ: Lê Huy Mậu Tạo 172 Làng quan họ quê tôi Nguyễn Trọng Thơ: Nguyễn Phan Hách Tạo 173 Làng tôi bên dòng Ô Lâu Nguyễn Trọng Tạo 174 Vầng trăng bến đậu Nguyễn Trọng Tạo 175 Chuyện tình nàng Tô Thị Nguyễn Tiến 176 Hoa cau vườn trầu Nguyễn Tiến 177 Nghe em hát bèo dạt mây trôi Nguyễn Tiến 178 Nghe em hát còn duyên Nguyễn Tiến 179 Nhớ đêm giã bạn Nguyễn Tiến 180 Tìm em câu hát dân ca Nguyễn Tiến 181 Cây đàn đất nước Trần Tiến 182 Chị tôi Trần Tiến 183 Mẹ tôi Trần Tiến 184 Ngẫu hứng sông Hồng Trần Tiến 218 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 185 Quê nhà Trần Tiến 186 Ra ngõ mà say Trần Tiến 187 Ra ngõ mà thương Trần Tiến 188 Ra ngõ mà yêu Trần Tiến 189 Sao em nỡ vội lấy chồng Trần Tiến 190 Sắc màu Trần Tiến 191 Tóc gió thôi bay Trần Tiến 192 Tùy hứng lý ngựa ô Trần Tiến 193 Tùy hứng lý qua cầu Trần Tiến 194 Thượng đế buồn Trần Tiến 195 Đất nước Phạm Minh Lời: dựa ý thơ Tạ Hữu Yên Tuấn 196 Đường tàu mùa xuân Phạm Minh Tuấn 197 Bờm ơi Hồ Trọng Tuấn 198 Mẹ Âu Cơ Hồ Trọng Tuấn 199 Thương nhau lí tơ hồng Trương Quang Tuấn 200 Bà còng đi chợ Phạm Tuyên 201 Cái cò đi đón cơn mưa Phạm Tuyên 202 Cánh cò trong câu hát mẹ ru Phạm Trích thơ Chế Lan Viên Tuyên 219 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 203 Câu hát mẹ ru Phạm Lời: thơ Nghiêm Thị Hằng Tuyên 204 Có ai vô xứ Nghệ Phạm Lời: trích thơ Huy Cận Tuyên 205 Con chim chích chòe Phạm Lời: Đồng dao Tuyên 206 Đền thờ tình yêu Phạm Lời: trích thơ Băng Sơn Tuyên 207 Gánh gánh gồng gồng Phạm Tuyên 208 Nhớ ơn Phạm Tuyên 209 Đêm tàn bến Ngự Dương Thiệu Tước 210 Ơn nghĩa sinh thành Dương Thiệu Tước 211 Lời ru của mẹ Vũ Trọng Tường 212 Ai xây chiến lũy Nguyễn Văn Tý 213 Ăn cỗ đi trước lội nước đi sau Nguyễn Văn Tý 214 Bài ca năm tấn Nguyễn Văn Tý 215 Con sáo sang sông Nguyễn Văn Tý 216 Đường về xứ Nghệ Nguyễn Văn Tý 217 Mẹ yêu con Nguyễn Văn Tý 220 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 218 Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh Nguyễn Văn Tý 219 Người đi xây hồ Kẻ Gỗ Nguyễn Văn Tý 220 Buông áo em ra Hoàng Thành 221 Nghe câu quan họ trên cao nguyên Vũ Lời: Phỏng ý thơ Nguyễn Hữu Chỉnh Thiết 222 Sao lệ rơi giếng ngọc Duy Thịnh 223 Anh có về chiều nay Ngọc Thơ: Bùi Thị Thủy Thịnh 224 Ca dao sông quê Ngọc Thịnh 225 Câu đợi câu chờ Ngọc Thịnh 226 Hà Tĩnh quê mình Ngọc Thịnh 227 Lời quê Ngọc Thịnh 228 Tháng Giêng Ngọc Thịnh 229 Câu hát quê hương Hồ Hữu Thơ: Nguyễn Trọng Tạo Thới 230 Về Nghệ An Hồ Hữu Thới 231 Con thuyền xa bến Lưu Bách Thụ 232 Ca dao em và tôi An Thuyên 233 Chú Cuội chơi trăng An Thuyên 221 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 234 Chỉ tại dòng sông đa tình An Thuyên 235 Đêm trăng thôn nữ An Thuyên 236 Hà Tĩnh mình thương An Thuyên 237 Hát ru người mẹ lính An Thuyên 238 Khi xe tăng qua miền quan họ An Lời: thơ Nguyễn Ngọc Phú Thuyên 239 Khúc hát ru những người đàn bà đánh dậm An Thuyên 240 Mẹ tôi An Thuyên 241 Neo đậu bến quê An Thuyên 242 Nón trắng đồng quê An Thuyên 243 Sông Hiền Lương An Thuyên 244 Tình làng quê An Thuyên 245 Thanh Chương quê hương mến thương An Thuyên 246 Về miền Trung An Thuyên 222 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 247 Con mèo trèo cây cau Lê Thương 248 Hòn vọng phu 1 Lê Thương 249 Hòn vọng phu 2 Lê Thương 250 Hòn vọng phu 3 Lê Thương 251 Ông Ninh ông Nang Lê Thương 252 Thằng Cuội Lê Thương 253 Ông sấm ông sét Đỗ Mạnh Lời 1: Đồng dao Lời 2: Đỗ Mạnh Thường Thường 254 Tùng dinh tùngdinh Đỗ Mạnh Lời: đồng dao Thường 255 Hai chị em Hoàng Vân 256 Hát về cây lúa hôm nay Hoàng Vân 257 Người chiến sĩ ấy Hoàng Vân 258 Quảng Bình quê ta ơi Hoàng Vân 259 Lòng mẹ Y Vân 260 Em đến thăm anh một chiều mưa Tô Vũ 261 Bẽ bàng Lê Yên 262 Bộ đội về làng Lê Lời: thơ Hoàng Trung Thông Yên 223 STT TÊN CA KHÚC TÁC GIẢ TÔI KHÔNG BIẾT CA KHÚC NÀY TÔI BIẾT CA KHÚC NÀY SỰ NỔI TIẾNG CỦA CA KHÚC NÀY Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA CÁ NHÂN VỀ CA KHÚC NÀY Ít người biết Từng nổi tiếng ở một vài thời kỳ nhất định Rất nổi tiếng - là “bài ca đi cùng năm tháng” Không hay Nghe được Khá hay Rất hay 263 Dù xa cuối bể chân trời Lê Lời: thơ Mai Bình Yên 264 Bài ca đất Quảng Thuận Phỏng thơ Hoàng Bích Sơn Yến 265 Bến đợi Thuận Thơ: Hồ Ngọc Chương Yến 266 Con gái mẹ đã thành chiến sĩ Thuận Yến 267 Gửi em ở cuối sông Hồng Thuận Lời: phỏng thơ Dương Soái Yến 268 Hát mừng quê ta giải phóng Thuận Yến 269 Lắng nghe con mẹ ru mẹ hát Thuận Yến 270 Mẹ tôi Thuận Yến 271 Miền Trung nhớ Bác Thuận Yến 272 Thì thầm với dòng sông Thuận Lời: thơ Hoài Vũ Yến 273 Tình ca Tiên Dung Thuận Yến 274 Vọng lời mẹ ru Thuận Lời: thơ Thế Kỳ Yến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_van_de_khai_thac_chat_lieu_van_hoc_dan_gian_trong_sa.pdf
Tài liệu liên quan