i
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THU HẰNG
VAI TRÒ CỦA XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI
Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS
Mã số: 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS CHU VĂN TUẤN
2.PGS.TS. NGUYỄN MINH PHƯƠNG
Hà Nội - 2016
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng trong luận án là trung thực.
Những kết luận khoa học
204 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận án Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của luận án chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Vũ Thị Thu Hằng
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ASEAN : HIệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CSO : Tổ chức xã hội dân sự
ECOSOC
: Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên hợp quốc
HĐNQLHQ : Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
ICCPR : Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
ICESCR : Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
KTTT : Kinh tế thị trường
LHQ : Liên hợp quốc
NGOs : Các tổ chức phi chính phủ
NPOs : Các tổ chức phi lợi nhuận
NNPQ : Nhà nước pháp quyền
OHCHR : Văn phòng cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc
TCXH : Tổ chức xã hội
UDHR : Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế
UPR : Thủ tục kiểm điểm định kỳ phổ quát
XHCD : Xã hội công dân
XHDS
: Xã hội dân sự
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... v
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ................................................. 1
1.1. Tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự .................................................................... 1
1.2. Tình hình nghiên cứu về quyền con người ............................................................ 15
1.3. Tình hình nghiên cứu vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền
con người ...................................................................................................................... 21
1.4. Những vấn đề chưa được các nghiên cứu đề cập đến ............................................ 27
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ,
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI .............................. 29
2.1. Những vấn đề lý luận chung về xã hội dân sự ....................................................... 29
2.2. Những vấn đề lý luận chung về quyền con người ................................................. 46
2.3. Những vấn đề lý luận chung về thực hiện quyền con người ................................. 61
Chương 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA
XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI .................. 73
3.1. Những vấn đề chung về vai trò của xã hội dân sự ................................................. 73
3.2. Những vấn đề cơ bản về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện quyền
con người ...................................................................................................................... 86
3.3. Những khó khăn của xã hội dân sự trong việc thực hiện quyền con người ........ 104
Chương 4. XÃ HỘI DÂN SỰ Ở VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG
VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY ........................................... 115
4.1. Khái quát về xã hội dân sự Việt Nam .................................................................. 115
4.2. Vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt
Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra ........................................................................ 134
4.3. Một số đề xuất, kiến nghị về vai trò của xã hội dân sự với việc thực hiện
quyền con người.......................................................................................................... 160
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................... 168
DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN............................................................................................... 172
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 173
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 1
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhìn lại quá trình phát triển xã hội những năm gần đây, cùng với sự xâm nhập
của nền văn minh công nghiệp, quyền lực kinh tế và quá trình dân chủ hóa xã hội,
quyền con người đang nổi lên như một vấn đề toàn cầu, được cộng đồng quốc tế và
các quốc gia không phân biệt hệ tư tưởng, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa, trình độ
phát triển, v.v.. coi trọng, xem đó như một thành tựu của nền văn minh hiện đại, là
thước đo của sự tiến bộ xã hội.
Sự phát triển của quyền con người một mặt gắn liền với những hoàn cảnh, điều
kiện lịch sử và sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thể loài người; mặt
khác, gắn liền với các học thuyết triết học về quyền con người, về bản chất con người,
đóng vai trò là cơ sở, tiền đề lý luận cho sự hình thành và phát triển của quyền con
người. Jean Jacques Rousseau nói, “người ta sinh ra tự do” [54, tr.52], bởi vậy họ có
quyền, bởi quyền chính là khả năng, là sự tự do lựa chọn các hành động, các cơ hội
sống của mình. Do đó, mỗi con người khi sinh ra đã mang quyền của mình trong đó,
nó là cái vốn có. Nhưng, trên thực tế, nó vừa là cái vốn có lại vừa là cái không phải tự
nhiên. Cụ thể, ngay tiếp câu dẫn ở trên của mình, Rousseau nói tiếp: “Nhưng rồi đâu
đâu con người cũng sống trong xiềng xích” [54, tr.52]. Con người trong thời kỳ chưa
sống trong những cộng đồng xã hội, không bị ràng buộc bởi những chế định xã hội, họ
sống bản năng nhiều hơn, nhưng bản thân họ lại gặp nhiều thử thách, bị mất an ninh,
bị lạm dụng hoặc họ lại sử dụng tự do của mình một cách thái quá, ảnh hưởng đến tự
do của người khác. Đến khi sản xuất phát triển hơn, yêu cầu về sự sống cấp bách hơn,
con người đã thiết lập cho mình những cộng đồng người có tổ chức để có thể sinh
sống an toàn, tự do trong đó. Nhưng, ngay cả khi những cộng đồng người có tổ chức
được thiết lập thì sự khác nhau về văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, lịch sử trong
những điều kiện sinh sống nhất định, trong những hoạt động nhất định cũng dẫn đến
sự ràng buộc, lệ thuộc và xâm nhập vào tự do của nhau. Trong cộng đồng xã hội, mỗi
người không chỉ thực hiện tự do của mình, ý chí của mình mà còn thực hiện những ý
chí chung khác. Mỗi người lại có một lựa chọn riêng trong việc giải quyết các vấn đề
của họ, do vậy không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, những vi phạm trong thực hiện
quyền con người. Vậy làm thế nào để thực hiện quyền của người này mà không vi
vi
phạm quyền của người khác; làm thế nào để đảm bảo, duy trì và phát triển các quyền
của con người. Có chăng, họ phải tìm cho mình một hình thức liên kết chính trị để
nhân loại có thể được bảo an nhưng không mất đi quyền tự do.
Trong quá trình luận giải những vấn đề trên, để tìm kiếm các cách thức bảo đảm
các quyền của con người, các lý thuyết đã đưa đến các yếu tố như nhà nước và pháp
luật. Nhưng, ngay cả khi các cá nhân từ bỏ trạng thái tự nhiên chuyển sang trạng thái
dân sự thì xuất hiện các mâu thuẫn giữa tự do cá nhân và nghĩa vụ phục tùng đời sống
xã hội, mâu thuẫn giữa tính chuyên chế của đa số chống lại thiểu số, hay chế độ độc
tài. Bản chất của quá trình phát triển là sự mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn,
do đó, các quan hệ dân sự (các quan hệ không mang tính quyền lực trực tiếp như quan
hệ giữa công dân với nhà nước, quan hệ gia đình) trong đời sống đã góp phần giải
quyết phần nào mâu thuẫn này và tác động lớn đến việc thực hiện các quyền con
người. Bởi ngoài việc ủy quyền cho nhà nước thực hiện các công việc của mình, người
dân còn tự thực hiện các quyền của họ. Đây là cơ sở để hình thành nên xã hội dân sự
(XHDS) và là điểm cơ bản để XHDS thực hiện vai trò của mình. Bên cạnh đó, những
vấn đề nảy sinh cùng với quá trình phát triển như vấn đề môi trường, khủng hoảng
kinh tế, di cư quốc tếđã là những cản trở rõ ràng cho việc thực hiện các quyền con
người. Những vấn đề này đã cung cấp động lực cần thiết cho việc mở rộng, phát triển
XHDS đối với việc bảo đảm, thực hiện quyền con người trên toàn thế giới.
Trên thực tế, XHDS thực hiện nhiều chức năng và vai trò khác nhau trong quá
trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và thế giới Từ đó, XHDS đã
có nhiều phương pháp, sáng kiến và huy động được nhiều nguồn lực trong việc thực hiện
quyền con người ở nhiều quốc gia khác nhau, nhất là cho những người yếu thế ở các quốc
gia mà có các tổ chức XHDS hoạt động. Những năm gần đây, XHDS phát triển mạnh ở
tất cả các quốc gia, ở Mỹ có tới 1,5 triệu tổ chức, sở hữu khối lượng tài sản trị giá 500 tỷ
USD, ngay cả ở những nước kém phát triển hơn số lượng tổ chức XHDS cũng rất nhiều
như Hungari là 400.000; Brazil gần 45.000 tổ chức, các tổ chức này đã sử dụng một lực
lượng lao động tự nguyện khổng lồ tập trung cho các lĩnh vực chính như giáo dục, sức
khỏe và dịch vụ xã hội [36, tr.1]. Từ thực tế đó cho thấy, việc phát huy vai trò của XHDS
đối với việc thực hiện quyền con người là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
vii
Ở nước ta, từ khi bắt đầu quá trình đổi mới, cùng với quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đã tạo ra những cơ sở, điều kiện để hình thành XHDS và hiện thực hóa
các quyền con người. Vấn đề đặt ra ở đây là với một thể chế xã hội đang hình thành, đang
hoàn thiện thì vai trò của nó với việc thực hiện quyền con người sẽ được xem xét, giải quyết
như thế nào? Nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất lãnh đạo, trong một nền kinh tế
đang chuyển đổi với trình độ dân trí chưa cao, người dân vẫn chưa ý thức, chưa chủ động
được quyền của mình. Trong khi đó quyền con người lại là một vấn đề lớn, vừa thuộc về
phạm trù đạo đức, chính trị lại thuộc về phạm trù pháp lý, để thực hiện được nó phải cần có
một chiến lược lâu dài, phải có sự kết hợp giữa các chủ thể khác nhau, và sự ý thức và chủ
động hành động của bản thân mỗi cá nhân trong xã hội.
Thực tế cho thấy, với Nghị quyết số 8B-NQ/TW khóa (VI) ngày 27-3-1990 của
Đảng đã nêu ra chủ trương; trong giai đoạn mới dần thành lập các hội đáp ứng nhu cầu
chính đáng về nghề nghiệp và đời sống nhân dân hoạt động theo hướng ích nước, lợi nhà,
tương thân, tương ái các tổ chức hội quần chúng được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện,
tự quản và tự trang trải về tài chính trong khuôn khổ pháp luật; đến nay, cùng với việc ban
hành nhiều văn bản pháp luật khác tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức này ra đời và phát
triển. Các tổ chức này ngày càng ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong quá trình
phát triển và đã tham gia tích cực, chủ động trong nhiều lĩnh vực [27, tr.3].
Do đó, xuất phát từ mong muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa XHDS và
quyền con người để có thể trả lời cho những câu hỏi về quá trình thực hiện quyền con
người dưới sự tác động, ảnh hưởng của XHDS trên thế giới? quá trình này dựa trên
những nguồn lực, yếu tố nào và để đảm bảo thực hiện nó trên thực tiễn thì cần phải hành
động ra sao? ai sẽ là người cung cấp nguồn lực, kinh nghiệm và trang bị phương pháp
cho quá trình này? và đặc biệt, ở Việt Nam, mối quan hệ này sẽ được biểu hiện ra sao
trong hoàn cảnh chính trị xã hội đặc thù để có thể hướng tới mục tiêu vì sự phát triển
toàn diện của con người, tác giả đã quyết định lựa chọn chủ đề: “Vai trò của xã hội
dân sự đối với việc thực hiện quyền con người” để tiến hành nghiên cứu làm đề tài
luận án tiến sĩ Triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
viii
Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về XHDS, quyền con người,
thực hiện quyền con người và vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người,
luận án phân tích vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam
hiện nay, từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong việc
thực hiện quyền con người.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, cần thực hiện 4 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu về XHDS, quyền con người, thực
hiện quyền con người và vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người
trên thế giới và Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận chung về XHDS,
quyền con người, thực hiện quyền con người.
Thứ ba, phân tích, làm rõ những vai trò cơ bản của XHDS đối với việc thực hiện
quyền con người, đồng thời, chỉ ra những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện
vai trò này.
Thứ tư, trình bày khái quát về XHDS ở Việt Nam, vai trò của XHDS Việt Nam
trong quá trình thực hiện quyền con người. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm
phát huy vai trò của XHDS trong quá trình thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện
nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề liên quan đến XHDS, quyền
con người, thực hiện quyền con người và những vai trò cơ bản của XHDS đối với quá
trình thực hiện quyền con người. Đồng thời, luận án cũng nghiên cứu vai trò của
XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: Luận án tập trung vào việc nghiên cứu, khảo sát
XHDS, các vai trò cơ bản của XHDS đối với quá trình thực hiện quyền con người nói
chung và ở Việt Nam nói riêng.
ix
Về thời gian nghiên cứu: Luận án khảo sát sơ lược tiến trình phát triển XHDS,
Quyền con người trong lịch sử và việc thực hiện quyền con người được khảo sát từ năm
1948 khi Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền được thông qua và những nghiên cứu về
XHDS ở Việt Nam được khảo sát từ năm 1990 đến nay khi chính sách về đổi mới của
Đảng và Nhà nước đã làm cho không gian XHDS được mở rộng hơn.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận án sử
dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội như là triết học, chính trị học, xã
hội học, luật học, triết học - chính trị học, triết học - xã hội học, triết học - luật học
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành của Triết học và khoa
học xã hội khác có liên quan như phương pháp lôgic - lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, dự báo, v.v..
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về XHDS, quyền con
người và thực hiện quyền con người.
- Luận án làm rõ hơn vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người
dưới góc độ triết học.
- Luận án nêu lên những đặc điểm cơ bản của XHDS ở Việt Nam và vai trò, những
thách thức của nó đối với quá trình thực hiện quyền con người, từ đó, đưa ra các đề xuất, kiến
nghị nhằm phát huy vai trò của XHDS trong việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án đã góp phần bổ sung các nghiên cứu lý luận về XHDS, quyền con người và
thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Đặc biệt, luận án góp phần phân tích, luận giải
những vấn đề lý luận, thực tiễn về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con
người.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án góp phần nâng cao nhận thức của cả xã hội nói chung, các chủ thể lãnh
x
đạo, quản lý xã hội và bản thân các tổ chức XHDS nói riêng về XHDS, vai trò của
XHDS, nhất là vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người.
Những đề xuất, kiến nghị của luận án có thể cung cấp cơ sở khoa học cho việc
hoạch định chính sách xã hội có liên quan đến lĩnh vực XHDS và quyền con người.
Đồng thời, luận án cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn cho các cơ quan nhà nước trong
công tác quản lý gắn với các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án có
thể tài liệu tham khảo, phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu về triết học, chính
trị học, xã hội học về XHDS, quyền con người, v.v..
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được chia làm 4 chương, 13 tiết.
1
Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về xã hội dân sự
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Xã hội dân sự là một vấn đề không mới đối với các nhà nghiên cứu. Ở Việt
Nam trong những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, hội thảo quốc gia,
bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí... về vấn đề này theo nhiều hướng khác nhau:
Thứ nhất, tập trung vào khái niệm, đặc điểm, vai trò, cấu trúc hoạt động của
XHDS ở Việt Nam và trên thế giới.
Cuốn sách Xã hội dân sự - Một số vấn đề chọn lọc do tác giả Vũ Duy Phú chủ
biên đã nêu lên những vấn đề khá rõ ràng về XHDS khi đi từ lịch sử vấn đề và khái
niệm, đến vai trò và những dấu hiệu, biểu hiện của XHDS trong bối cảnh mới. Các tác
giả đã nhấn mạnh sự tác động của toàn cầu hóa, nền kinh tế tri thức, tự do dân chủ
trong phát triển XHDS, những cơ hội và thách thức đối với XHDS, từ đó cho rằng,
phát triển XHDS thông thái tương xứng với nhà nước pháp quyền hiện đại là nhiệm vụ
quan trọng của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Cuốn sách này đã cung cấp những thông
tin khá cụ thể về XHDS Việt Nam như cấu trúc, môi trường, giá trị tác động, những
hạn chế và điểm mạnh của xã hội này.
Tác giả Vũ Văn Nhiêm, trong Vài nét về xã hội dân sự trong lịch sử và kinh
nghiệm đối với nước ta đã khẳng định, “XHDS” là quan niệm xuất hiện khá sớm, gắn
liền với sự phát triển của nhà nước công dân Hy Lạp - La Mã cổ đại và phát triển
mạnh vào thời kỳ Khai sáng; theo tác giả, bản chất của XHDS là dân chủ, quá trình
dân chủ hóa gắn liền với sự hình thành phát triển của XHDS.
Tác giả Lê Thị Thanh Hương với cuốn sách Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái
Lan đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về quá trình hình thành cũng như thực trạng
XHDS ở hai quốc gia này. Để thấy được sự khác biệt và tương đồng giữa các quốc gia
này so với cách nhìn nhận của phương Tây về XHDS, từ đó có thể gợi mở những kiến
giải, hoặc đơn thuần là đưa ra một mô hình XHDS đặc thù nhằm giúp cho việc phát
triển XHDS bền vững ở một nước có mô hình chính trị riêng như Việt Nam.
Cuốn Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự ở Liên minh châu Âu
của tác giả Đinh Công Tuấn đã từ những nghiên cứu có hệ thống về khái niệm cơ bản,
2
nguồn gốc, sự hình thành và phát triển XHDS ở EU nói chung, ở từng nước đại diện cho
các mô hình phát triển kinh tế - xã hội như Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Hungari, Ba
Lan, Slovakia, để chỉ ra mặt tích cực, tiêu cực trong quá trình thực hiện XHDS ở các
nước này. Theo tác giả, với ý nghĩa truyền thống XHDS là khoảng không gian nằm giữa
nhà nước, thị trường và gia đình, nơi mọi người cùng bắt tay nhau để xây dựng, thúc đẩy
quyền lợi chung của xã hội và cá nhân trong xã hội. Ngày nay, nó được hiểu là một xã
hội tốt đẹp, một đời sống hiệp hội, một lĩnh vực công cộng được hình thành trên cơ sở tự
nguyện, tự tổ chức, tự chủ, đa dạng, phi lợi nhuận, phi thương mại, hành động tập thể,
giải trình cao, minh bạch với các chức năng về kinh tế, xã hội, chính trị, các chức
năng này đã quy định vai trò XHDS như vận động chính sách, điều tiết nền chính trị dân
chủ, thực hiện các dịch vụ công, thúc đẩy quá trình xã hội hóa và tạo ra, duy trì sự đoàn
kết trong xã hội. Ngoài ra, cuốn sách cũng đưa ra các tiêu chí đánh giá về cấu trúc (cơ
sở hạ tầng, phạm vi) thể chế, tổ chức, mạng lưới, các cá nhân, thành tố, nguồn lực; môi
trường (không gian kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp lý..); các giá trị gồm dân
chủ, minh bạch, khoan dung, phi bạo lực, bình đẳng giới; tác động, ảnh hưởng tới các
vấn đề chung của xã hội.
Tác giả Bùi Quang Dũng với bài viết Xã hội dân sự: khái niệm và các vấn đề đã
điểm lại các quan điểm về XHDS và nhấn mạnh các định nghĩa phổ biến về XHDS
hiện nay đều nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các
quyền lợi hợp pháp và giá trị của mình. Theo đó, XHDS được tạo lập bởi các đoàn thể
nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền thông, giữa
các tổ chức chính thức và phi chính thức. Từ đó, tác giả cho rằng, ở Việt Nam, ngoài các
tổ chức xã hội truyền thống, nhiều tổ chức xã hội mới đã và đang ra đời, đang tích cực
tham gia và đóng góp vào nhiều hoạt động xã hội, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội Việt Nam trong điều kiện mới.
Tác giả đã xác định vai trò của XHDS như: "Củng cố phát triển và dân chủ (dân
chủ thực sự); tăng cường trách nhiệm giải trình, tính công khai và phản hồi của cơ quan
Nhà nước, cũng như tăng cường sự tham gia và phổ biến thông tin đến người dân; tham
gia ngày càng tích cực vào quá trình cung cấp dịch vụ, từ đó XHDS có một vai trò quan
trọng trong việc đòi hỏi và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của Nhà nước đối với công
dân của mình.
3
Tác giả Trần Tuấn Phong, trong bài viết Xã hội công dân và xã hội dân sự từ
Aritxtot đến Hêghen đã trình bày khái quát sự biến đổi khái niệm xã hội công
dân/XHDS trong lịch sử tư tưởng triết học chính trị từ Arixtốt đến Hêghen. Tác giả đi
từ quan niệm của Arixtốt về cộng đồng chính trị - một khái niệm được coi là tiền thân
của khái niệm xã hội công dân/XHDS sau này. Đặc biệt, tác giả đã làm rõ sự kế thừa
và phát triển của Hêghen đối với quan điểm của Arixtốt về xã hội công dân. Theo tác
giả, tư tưởng của Hêghen về XHDS và nhà nước tuy mang tính duy tâm, song những
luận điểm của ông đóng vai trò nhất định trong sự hình thành tư tưởng
C.Mác, Ph.Ăngghen về XHDS. Tác giả cũng cho rằng, xung quanh việc nhận định về
XHDS hiện còn nhiều bàn luận khác nhau, từ đó dẫn đến những cách hiểu khác nhau
về mối liên hệ giữa xã hội công dân/XHDS, gia đình, thị trường và nhà nước.
Đề tài cấp bộ Cơ sở triết học và thực tiễn của việc xây dựng xã hội dân sự do
PGS,TS. Phạm Văn Đức, Viện Triết học chủ nhiệm (2007-2009) đã tiếp cận các vấn
đề XHDS từ góc độ triết học, đặc biệt là góc độ lịch sử triết học trình bày tương đối
đầy đủ, chi tiết về lịch sử phát triển của khái niệm này từ Aristot, đến Th.Hobbes và
J.Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau, I.Kant,G.V.Hegel và C.Mác đến các quan điểm
hiện đại của chủ nghĩa cộng đồng, cộng hòa...) và chứng minh bằng các mô hình
XHDS thực tiễn ở một số nơi trên thế giới như: Anh, Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Singapore. Từ đó xác định các bản chất, đặc trưng và điều kiện để xây dựng XHDS,
góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng XHDS ở Việt Nam
hiện nay.
Luận án “An ninh của xã hội dân sự trong bối cảnh toàn cầu hóa” của NCS
Trần Việt Hà đã góp phần làm rõ các khái niệm xã hội dân sự Luận án đã góp phần
làm rõ các khái niệm: “Xã hội dân sự”, “An ninh”, “An ninh của xã hội dân sự”, “An
ninh con người”. Luận án đã làm rõ những điểm mới trong nội dung khái niệm "an
ninh của xã hội dân sự" khi đặt vào bối cảnh toàn cầu hóa. An ninh của xã hội dân sự
là trạng thái trật tự, kỷ cương, an toàn về thân thể và ổn định về mặt tinh thần. Nói
cách khác, an ninh của xã hội dân sự chính là một một phương diện của an ninh con
người nhằm tạo ra sự an toàn về thân thể, ổn định về mặt tinh thần, phát triển bình
thường của các cá nhân. Mục tiêu an ninh của xã hội dân sự là làm sao cho cộng đồng
ấy có được trạng thái trật tự và ổn định, những cá nhân ở trong đó thoát khỏi cảm giác
4
lo sợ, bất an và được an toàn về mặt thân thể. Bên cạnh đó, Luận án góp phần chứng
minh rằng, toàn cầu hóa gây ra các yếu tố “bất định” và “rủi ro” và đó chính là những
thách thức mới đối với an ninh của XHDS. Góp phần làm rõ tính tất yếu của sự chuyển
dịch từ an ninh “truyền thống” sang “phi truyền thống”. Rút ra một số bài học nhằm bảo
đảm an ninh con người trong quá trình hội nhập của Việt Nam hiện nay.
Ngoài những bài viết trên, một số tác giả khác đã đề cập đến vấn đề này như:
Nguyễn Thanh Tuấn, Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Đình Tường, Trần Hữu Quang, Đinh
Công Tuấn, Tống Đức Thảo, v.v..
Thứ hai, nhóm các công trình làm rõ mối quan hệ tác động qua lại giữa nhà
nước, XHDS và KTTT.
Ở nhóm này, các tác giả Lê Văn Quang, Văn Đức Thanh với tác phẩm Quan hệ
giữa Nhà nước và XHDS Việt Nam lịch sử và hiện tại; Đào Trí Úc với bài viết Mối liên
hệ giữa nhà nước với XHDS và vấn đề cải cách hành chính; Hoàng Ngọc Giao, XHDS
với nhà nước và thị trường; Trần Ngọc Hiên, KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa với
Nhà nước pháp quyền và XHDS nước ta; Phạm Thị Ngọc Trầm, Nhà nước pháp
quyền, XHDS với vấn đề về quyền và nghĩa vụ công dân; Đinh Ngọc Vượng, XHDS
và nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; Hà Thị Mai Hiên, XHDS và cá nhân trong Nhà
nước Pháp quyền; Đỗ Hoài Nam (chủ nhiệm) Đề tài cấp nhà nước Mối quan hệ giữa
NNPQ, KTTT, XHCD, v.v.. đã trình bày các vấn đề cơ bản về việc xây dựng nhà nước
pháp quyền trong mối quan hệ giữa XHDS và nền KTTT, trong đó nhà nước pháp
quyền phải được xây dựng trên nền tảng của XHDS và việc xây dựng nhà nước pháp
quyền phải được tiến hành đồng thời với nhau. Cũng có tác giả cho rằng, 3 yếu tố nhà
nước pháp quyền, XHDS, KTTT phải bổ sung cho nhau, làm tiền đề cho nhau và cùng
phục vụ lợi ích của nhau.
Thứ ba, nhóm các công trình nghiên cứu thực trạng xã hội dân sự và đánh giá
ban đầu về các yếu tố hình thành, phát triển XHDS Việt Nam.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu, Viện nghiên cứu tiến hành các dự án nghiên cứu
về thực trạng XHDS Việt Nam trên các góc độ, từ tổ chức, hoạt động đến sự ảnh
hưởng của chúng đối với đời sống xã hội, như: Trong những năm 2000, Viện Xã hội
học đã tiến hành khảo sát về Hệ thống chính trị cơ sở - Xem từ nhân dân thu thập dữ
5
liệu về nông thôn của người dân sự hiểu biết và ý kiến về hệ thống chính trị ở cấp làng,
xã, bao gồm cả xã hội tổ chức chính trị (Trịnh Duy Luân, 2002); Phối hợp với các nhà
nghiên cứu quốc tế về nghiên cứu kết hợp các kỹ thuật định tính và định lượng về tổ
chức dân sự tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh (dự án COHH) trong các nghiên
cứu của mình. Đây là dự án đầu tiên sử dụng hình thức điều tra xã hội học để nghiên
cứu về các tổ chức XHDS Việt Nam. Tiếp đó, năm 2002-2003, IOS thực hiện hai dự
án về những nỗ lực tập thể và phong trào xã hội, trong đó một số tổ chức chính trị xã
hội, hiệp hội và các trung tâm phi chính phủ đã được Bùi Thế Cường và các cộng sự
nghiên cứu. Sang đến giai đoạn cuối những năm 2000 việc nghiên cứu XHDS Việt
Nam đã đi vào thực tiễn hơn, các dự án Phòng chống tham nhũng - đánh giá hiện trạng
và xây dựng năng lực trong phòng chống tham nhũng cho các TCXH và các cộng
đồng nông thôn do sự hỗ trợ bởi Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam (2008).
Ngoài ra, một số nghiên cứu của Bùi Thế Cường và Thaveeporn (2008) về cơ
chế chính thức cho đối thoại giữa các cơ quan nhà nước, quốc hội và các tổ chức
XHDS Việt Nam đã chỉ ra những đặc thù về các TCXHDS Việt Nam, hay nghiên cứu
của TS Nguyễn Quang A và Bạch Tân Sinh về các hình thức cam kết hợp tác giữa cơ
quan nhà nước và các tổ chức XHDS Việt Nam.
Mới đây, Chương trình viện trợ Ailen: Tổ chức xã hội và các tổ chức phi chính
phủ trong Chương trình Quốc gia Việt Nam (2010), đã tiến hành các hạng mục thúc
đẩy, tăng cường năng lực của các VNGO trong việc cung cấp các dịch vụ, xây dựng
chính sách, hoạt động cộng đồng.
Dự án “Sự trao quyền của tổ chức xã hội trong việc vận động và phát triển
chính sách ở Việt Nam”, do quỹ Dân chủ Quốc gia Hoa Kỳ (UNDEF) tài trợ, năm
2012, với sự tham gia của hơn 40 tổ chức xã hội và đại diện của các cơ quan chính phủ
liên quan. Bên cạnh đó, còn nhiều các dự án nghiên cứu về XHDS Việt Nam đã và đang
được các tổ chức quốc tế tài trợ.
Nhiều tác giả đã xuất bản sách, bài báo về XHDS Việt Nam:
Năm 1996, Nguyễn Khắc Mai xuất bản cuốn sách Vị trí và vai trò của các Hiệp
hội nhân dân ở đất nước chúng ta. Bài báo Xã hội dân sự và phi chính phủ tại Việt
Nam, tác giả Bạch Tân Sinh xem xét lại sự phát triển và những khó khăn phải đối mặt
của các tổ chức dân sự Việt Nam. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả Lê Bạch
6
Dương và các cộng sự đã mô tả các đặc tính của các loại hình tổ chức dân sự và
nghiên cứu trường hợp một số tổ chức công dân.
Năm 2002, cuốn sách Vai trò của các hiệp hội trong đổi mới và Phát triển quốc
gia của tác giả Thang Văn Phúc đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề lý
thuyết của các tổ chức dân sự và một hình ảnh của Hội người Việt Nam cũng như các
NGO quốc tế hoạt động tại Việt Nam.
Cuốn sách Vai trò của tổ chức xã hội đối với phát triển và quản lý xã hội của
TS.Thang Văn Phúc và PGS,TS. Nguyễn Minh Phương đã nêu lên một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về vai trò của các tổ chức xã hội (TCXH) đối với phát triển xã hội
như khái niệm, cơ sở, nguyên tắc hình thành và hoạt động của tổ chức xã hội, vai trò
của nó đối với sự phát triển xã hội bao gồm nhận thức về vai trò của TCXH ở một số
nước trên thế giới và ở Việt Nam, quá trình hình thành, phát triển xu hướng của TCXH
ở nước ta. Từ đó, tác giả đã khái quát lại những thành quả trong hoạt động của các tổ
chức xã hội ở nước ta hiện nay như các hội chính trị - xã hội, hội chính trị - xã hội -
nghề nghiệp, hội nhân đạo, từ thiện, hội xã hội nghề nghiệp và các hiệp hội kinh tế.
Qua đó, đưa đến cho người đọc một hình dung khá tổng thể về sự biến đổi, đóng góp
của các TCXH ở nước ta trong những năm qua.
GS. Tương Lai với bài viết Xã hội dân sự và mấy vấn đề của các tổ chức xã hội
dân sự đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp luật, số 4/2007, sau khi điểm những lại
những khái niệm về XHDS tác giả đã nêu lên vai trò của XHDS được thể hiện qua
hoạt động của các tổ chức xã hội, của nhân dân khi tham gia vào quy trình lập pháp
của Quốc hội và phản biện xã hội. Tác giả làm rõ việc TCXH sẽ tham gia vào quy
trình lập pháp của Quốc hội chính là các tổ chức thực hiện liên kết ngang, tạo nên cấu
trúc của XHDS mà chúng ta đang cố gắng hình thành gắn liền với xây dựng nhà nước
pháp quyền. Song, dù lập luận như vậy nhưng tác giả vẫn băn khoăn rằng, khái niệm
TCXH sẽ tham gia vào quy trình lập pháp của Quốc hội có gồm cả các tổ chức xã hội
đã tham gia vào MTTQVN và các tổ chức xã hội nằm ngoài Mặt...n xã hội, là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời là vấn đề chính trị phức tạp”.
Phạm Ích Khiêm, Hoàng Văn Hảo (1995), “Quyền con người trong thế giới hiện
đại: nghiên cứu và thông tin” đề tài KX-07. Công trình này đã tập hợp những khảo sát của
các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về những vấn đề lý luận cơ bản về quyền
con người (lịch sử khái niệm, các nhóm quyền cơ bản) trong bối cảnh thế giới hiện đại
và việc thực hiện quyền con người ở một số nước như Pháp, Mỹ, Đức, Úc. Cuốn sách
cũng đã đề cao việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người, một vấn đề rất phức
tạp và rộng lớn. Đây là một công trình khoa học bổ ích cho những nghiên cứu ban đầu về
quyền con người ở nước ta.
Những nghiên cứu này đã chỉ ra vấn đề nổi cộm hiện nay là một số quốc gia lợi
dụng vấn đề nhân quyền để thực hiện âm mưu bá chủ của mình, áp đặt chuẩn nhân
quyền của mình với các nước khác trên thế giới mà không nhìn thấy sự khác biệt về dân
tộc, tôn giáo, hoàn cảnh địa lý và đặc biệt là văn hóa của những nước đó - đấy là những
công cụ để giải thích về vấn đề nhân quyền như trong quyền Toàn cầu hóa và quyền
công dân ở Việt Nam nhìn từ khía cạnh văn hóa, tác giả Trần Văn Bính đã khẳng định.
Do vậy, việc thực hiện quyền con người ở Việt Nam hiện nay cần phải được nhìn nhận
một cách khách quan và có những bước đi và lộ trình thích hợp, phải căn cứ trên chế độ
chính trị, sự phát triển kinh tế và truyền thống văn hóa của mỗi nước.
Bên cạnh đó, các vấn đề khái quát về nhân quyền trong thế kỷ XX dự báo thế kỷ
XXI, các cách tiệp cận dựa trên quyền để phát triển, các giải pháp thực hiện phát triển
quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, chính sách pháp luật bảo vệ quyền
con người, các mối liên hệ giữa quyền con người giữa Việt Nam, Trung Quốc, Úc và các
nước khác trên thế giới cũng được các bộ ngành và các tác giả như: Vũ Thị Minh Chi,
Phạm Thị Tính (Viện NC Con người), Vũ Hoàng Công, Chu Hồng Thanh nghiên cứu
một cách cụ thể.
20
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, việc nghiên cứu quyền con người được chia làm nhiều khía cạnh,
nhiều lĩnh vực theo những chiều tiếp cận khác nhau, từ việc nghiên cứu lịch sử tư
tưởng phát triển của khái niệm quyền, đặc điểm, nội dung, bản chất đến việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa quyền con người trong tổng thể các yếu tố khác của xã hội.
Trong lời mở đầu Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 viết: “Chúng ta, các quốc gia
thuộc Liên hợp Quốc đã quyết tâm khẳng định niềm tin của mình vào những quyền cơ
bản của con người, vào nhân phẩm,và giá trị của mỗi người, vào quyền bình đẳng nam
nữ và quyền bình đẳng của các quốc gia dù lớn hay nhỏ”. Những điều này đã trở
thành di sản tri thức vượt qua mọi ranh giới chính trị – luôn luôn được hoàn thiện - và
làm cho cuộc sống của con người trên toàn thế giới được tốt hơn. Những tư tưởng đó
đã trở thành chủ điểm mà các nhà nghiên cứu trên thế giới đề cập đến khi nghiên cứu
về Quyền con người, cụ thể chia thành các nhóm như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu vai trò của Tuyên ngôn Quyền con người, những nội dung
chủ yếu của nó và những kết quả mà nó mang lại trong cuộc sống của con người trên
toàn thế giới.
Thứ hai, từ việc nghiên cứu Tuyên ngôn này, các nhà nghiên cứu đi sâu vào
việc tìm hiểu về sự ra đời của các quyền và quá trình hoàn thiện các văn kiện nhằm
nâng cao hiểu biết mới về nhân quyền cho mỗi người.
Thứ ba, những rào cản lớn về mặt chính trị trong việc kêu gọi, cam kết thực thi
Tuyên ngôn này và các công ước quốc tế khác về quyền con người trên thực tế ở mỗi
quốc gia.
Thứ tư, nhiều nghiên cứu chỉ ra những cáo buộc nhân rằng quyền chỉ là một sự
áp đặt của các đế quốc, các nước giàu hoặc các nước phương Tây.
Thứ năm, nhóm nghiên cứu khác lại cho rằng: mặc dù, có những sự khác biệt về
chi tiết cụ thể trong các nhóm quyền nhưng có sự nhất trí rộng rãi của nhiều nền văn
hóa chấp nhận tính toàn cầu của các quan niệm về nhân quyền chủ yếu. Quyền con
người thể hiện tính toàn cầu, là di sản chung của mọi người dân trên toàn thế giới.
Thứ sáu, nhóm nghiên cứu quyền con người trong mối quan hệ với các yếu tố
khác như phát triển, phát triển bền vững, toàn cầu hóa, KTTT, nhà nước pháp quyền,
21
dân chủ, bản sắc văn hóa, đa dạng văn hóa, tôn giáo, dân số, y tế, giáo dục, an sinh xã
hội,v.v..
Thứ bảy, nhóm nghiên cứu quyền con người trong lịch sử phát triển của nó.
Thứ tám, nhóm nghiên cứu việc thực hiện nhân quyền ở mỗi quốc gia cụ thể.
Một số công trình trong các nhóm nghiên cứu trên: What is human rights?
Human
Rights in UNDP, www.undp.org/governance/docs/HRPN_English.pdf; John
M.Ackerman, human rights and social Accountability, www
portals.wi.wur.nl/files/docs/gouvernance/HumanRightsandSocial0AccountabilityFINAL.pd
f; J.symonides (2000), Human Rights: concept and standards, UNESCO; Human Rights to
day (European legal texts), Council of publishing; Democracy and development: A culture
perspective; David P.Forsythe (2000), Human Rights in International Relations,
Cambridge; UNDP (1998), Itegrating Human Rights with sustainable human development;
United Natios (1990), Population&human rights; Human Rights review, The State
University of New Jersey (2001); Goodhart Micheal (2005), Democracy as human rights
freedom and equality in the Age of Globalization, New York Routledge.
1.3. Tình hình nghiên cứu về vai trò của xã hội dân sự đối với việc thực hiện
quyền con người
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Hiện có rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu, độc lập về vấn đề này, nếu
có thường được nghiên cứu dưới dạng gắn hai yếu tố này với nhà nước pháp quyền,
hoặc XHDS là môi trường, là điều kiện để đảm bảo cho thực hiện quyền con người,
bên cạnh các yếu tố như NNPQ và KTTT, hoặc từng tác động cụ thể của XHDS đến
các mặt khác nhau của việc thực hiện quyền con người. Có thể kể đến một vài công trình
như trong cuốn Hỏi đáp về Quyền con người do tập thể tác giả trường Đại học Quốc gia Hà
Nội xuất bản, cuốn Tìm hiểu về quyền con người của Wolfgang Benedek, hay cuốn
Quyền con người tập hợp những bình luận khuyến nghị chung của Văn bản công ước
LHQ cho rằng các yếu tố của XHDS là chủ thể trực tiếp của quyền con người và có nghĩa
vụ bảo đảm quyền con người. Ngoài ra, các cuốn sách trên cũng chỉ ra cơ chế tầm quan
trọng của các tổ chức phi chính phủ trong việc thực hiện nhân quyền, từ đó các cơ quan
nhân quyền LHQ đã thiết lập mối quan hệ phối hợp với các tổ chức này ở các cấp độ quốc
22
gia, khu vực, quốc tế, trên tất cả các lĩnh vực từ việc tư vấn, giám sát việc thực hiện quyền
con người, đến các hoạt động hoàn thiện chính sách, giáo dục quyền con người.
Tiếp đó, tác giả Vũ Thị Minh Chi với bài viết Về giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện quyền con người trong sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam đã đưa ra
các giải pháp nâng cao tính hiệu quả thực hiện quyền con người trong quá trình phát
triển, trong đó có giải pháp về để cao vai trò của các tổ chức XHDS tham gia vào quá
trình ra quyết định, phản biện quyết định, chiến lược, chính sách của nhà nước nhằm
nâng cao tính minh bạch trong quản lý nhà nước. Giúp nhà nước giải quyết một số công
việc liên quan đến các vấn đề xã hội, mở rộng dân chủ, đảm bảo tính dân chủ trong mọi
hoạt động v.v.. Với việc đưa ra các giải pháp này, tác giả đã cho thấy việc cần thiết phải
có sự tham gia của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người.
Tác giả Đặng Dũng Chí - Hoàng Văn Nghĩa, trong cuốn Chủ nghĩa xã hội và
quyền con người, ngoài việc khẳng định những giá trị to lớn của chủ nghĩa xã hội
trong bảo vệ quyền con người, cũng đã chỉ ra những vấn đề đương đại của chủ nghĩa
xã hội và quyền con người (phần 6). Đó là vấn đề giải quyết những mâu thuẫn của thời
đại như phát triển KTTT định hướng XHCN gắn với bảo đảm công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc với hội nhập và phát triển, vấn đề nhà nước pháp
quyền, XHDS với việc bảo đảm quyền con người, biến đổi khí hậu, an ninh quốc gia,
chủ nghĩa khủng bố và quyền con người. Cụ thể, nhóm tác giả thông qua quan điểm
của các nhà dân chủ xã hội cho rằng việc thực thi hiệu quả quyền lực của nhân dân
được thể hiện qua hai hình thức, thứ nhất, thông qua sự ủy thác vào những đại diện
cho mình trong bộ máy nhà nước bằng cách thức dân chủ, công khai và minh bạch, thứ
hai, thông qua việc thực thi quyền lực trực tiếp quyền lực của mình ở trong tổ chức và
hoạt động của tổ chức XHDS [127, tr.361]. Từ đó, cho thấy, XHDS là một phương
thức để người dân thực hiện các quyền của mình.
Bài viết Quyền con người và xã hội dân sự của tác giả Hà Mai Hiên, trích trong
cuốn Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành Khoa học xã hội do GS,TS.
Võ Khánh Vinh chủ biên đã khẳng định sự tồn tại của XHDS là hỗ trợ và phản biện tốt
nhất đối với chế độ, chính sách nhà nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng, quyền tự do,
dân chủ của người dân chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và tùy tiện của cá nhân và
quyền lực. Trong XHDS, luật pháp không chỉ là các nguyên tắc do cơ quan quyền lực
23
tối cao thiết lập nên mà còn là những quy định được ban hành phù hợp với giới hạn
hiến định của Nhà nước và xã hội và ghi nhận các quyền tự do của các thành viên
trong xã hội.
Trong Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010, World Bank đã giành chương 6
nói về vai trò giám sát của các tổ chức XHDS Việt Nam trong các hoạt động vận động
chính sách, thực hiện các hoạt động cộng đồng nhằm thực hiện quyền con người nói
riêng. Báo cáo đã chỉ ra được các thành tựu, các hạn chế, thách thức của XHDS Việt
Nam trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội nói chung và thực hiện quyền con người
nói riêng.
Ngoài ra, còn một số tài liệu, báo cáo của các tổ chức phi chính phủ về các hoạt
động của tổ chức mình nói chung cũng có đề cập ít hay nhiều đến các khía cạnh thực
hiện các quyền con người, hay vai trò giáo dục quyền con người, nâng cao trình độ
nhận thức của người dân về quyền con người như khảo sát của quỹ ASIA Foundation
(2008), Khảo sát nhu cầu đào tạo của các tổ chức XHDS: Phát triển tổ chức và huy
động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính sách ở Việt Nam, Hà Nội. Khảo sát
Khỏa lấp sự cách biệt: XHDS mới nổi tại Việt Nam của UNDP Việt Nam...
1.3.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Việc nghiên cứu vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người trên
thế giới chủ yếu được thể hiện qua các đánh giá, khảo sát, dự án mà các tổ chức nhân
quyền thế giới, các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền, các tổ chức
XHDS... tiến hành thông qua các báo cáo về vấn đề quyền con người ở các khu vực,
quốc gia cụ thể. Bên cạnh đó,vai trò này còn được nhìn nhận lồng ghép trong quá trình
tương tác của các cá nhân, tổ chức XHDS với chủ thể quyền khác như Nhà nước,
chính phủ các nước, tổ chức quốc tế.... trong các văn bản, điều ước quốc tế về quyền
con người. Cụ thể:
Thứ nhất, đứng ở góc độ pháp lý quốc tế, vai trò của XHDS mà cụ thể là của
các tổ chức phi chính phủ đối với sự nghiệp nhân quyền được phát triển theo các giai
đoạn sau: Giai đoạn 1 là sự ra đời của LHQ với cam kết rõ ràng của mình cho việc
khuyến khích nhân quyền trên toàn thế giới đã tạo môi trường thể chế cần thiết cho
phép chương trình nhân quyền phi chính phủ phát triển. Giai đoạn 2 là khi hai công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, văn hóa, xã hội ra đời đã
24
tạo điều kiện cho sự nghiệp nhân quyền phi chính phủ hoạt động. Ở giai đoạn này
LHQ đã hình thành cơ chế và thủ tục cưỡng chế quốc tế cho phép những người ủng hộ
quyền con người độc lập. Giai đoạn 3 là cơ quan LHQ nhấn mạnh đến sự cần thiết cho
việc phát triển các thể chế quốc gia có hiệu quả gồm cả nhóm ủng hộ nhân quyền phi
chính phủ để thúc đẩy các quyền con người. LHQ công nhận rõ ràng tính hợp pháp và
tầm quan trọng của sự nghiệp ủng hộ nhân quyền phi chính phủ ngày nay [155,
tr1182]. Bên cạnh đó, việc các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực nhân
quyền được phản ánh qua hai thời kỳ. Thứ nhất, là sự ra đời của tổ chức Ân xá quốc tế
từ năm 1961 và thời kỳ thứ hai là các tổ chức giám sát nhân quyền quốc gia phát triển
và các nhóm ủng hộ nhân quyền ở các quốc gia tăng lên. Điều này làm tăng sự chú ý
của quốc tế và buộc các quốc gia phải thay đổi các chính sách về nhân quyền.
Thứ hai, vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người được các
văn kiện, công ước, tuyên bố và các chương trình hành động về Quyền con người của
Liên hợp quốc ghi nhận như sau: Tại nghị quyết số 1296 (XLIV) của Hội đồng kinh tế
và xã hội đã đưa ra những cách thức tham vấn với các tổ chức phi chính phủ nhằm
cung cấp một cơ chế thúc đẩy nguyên tắc và mục đích hoạt động của LHQ. Hay, trong
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của LHQ đã quy định tại điều 21: “Mọi người đều
có quyền tham gia vào công việc công cộng của nước mình, hoặc trực tiếp, hoặc qua
trung gian những đại diện được tự do lựa chọn” [156, tr.152]. Bản Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị nhân quyền châu Á tại Thái Lan năm 1991, điểm thứ 25 khẳng định
“Ghi nhận tầm quan trọng của sự hợp tác và đối thoại giữa các chính phủ và các tổ
chức phi chính phủ trên cơ sở cùng chia sẻ các giá trị cũng như sự tôn trọng và hiểu
biết lẫn nhau trong việc thúc đẩy nhân quyền và khuyến khích các tổ chức phi chính
phủ có quy chế tư vấn với Hội đồng kinh tế và xã hội, đóng góp tích cực vào quá trình
này phù hợp với nghị quyết 1296 (XLIV) của Hội đồng”[156, tr.480]. Trong bản Tuyên
ngôn VIENNA và Chương trình hành động 1993 (Được thông qua tại Hội nghị thế giới
về quyền con người lần thứ hai, họp tại Viên ngày 25/6/1993) ở điểm 13, khẳng định:
Các quốc gia và tổ chức quốc tế hợp tác với các tổ chức phi chính phủ cần phải tạo
điều kiện thuận lợi trên bình diện quốc gia, khu vực và quốc tế đảm bảo việc hưởng
thụ thực sự và đầy đủ các quyền con người. các quốc gia cần loại bỏ mọi vi phạm
nhân quyền và các nguyên nhân gây ra vi phạm cũng như các trở ngại đối với sự
25
hưởng thụ các quyền này”[156, tr.502]. Hay điểm 34 của Tuyên ngôn cũng khẳng
định vai trò của XHDS đối với việc nâng cao nhận thức của người dân về quyền con
người. Tiếp đến, Hội nghị thế giới về quyền con người, điểm 38 cũng tiếp tục thừa
nhận vai trò quan trọng của các tổ chức phi chính phủ trong việc thúc đẩy tất cả các
quyền con người và các hoạt động nhân đạo ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993 tiếp tục khẳng định
một lần nữa “Trao cho khối tư nhân, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức XHDS
nói chung những cơ hội rộng rãi hơn trong việc đóng góp vào việc hiện thực hoá các
mục tiêu và chương trình của Liên hợp quốc”.
Về vai trò của XHDS đối với việc giáo dục quyền con người, Tuyên ngôn Liên
hợp quốc về Giáo dục và đào tạo nhân quyền đã được thông qua tại Đại hội đồng
LHQ ngày 9/12/2011đã Tái khẳng định tuyên bố của Hội nghị Thế giới về Nhân quyền
tổ chức tại Vienna năm 1993 kêu gọi tất cả các Nhà nước và các tổ chức đưa nhân
quyền, luật nhân đạo, dân chủ và nguyên tắc thượng tôn pháp luật vào chương trình
của tất cả các tổ chức đào tạo, và tuyên bố của hội nghị rằng giáo dục nhân quyền nên
bao gồm hòa bình, dân chủ, phát triển và công bằng xã hội, như đã đưa ra trong các
công ước nhân quyền quốc tế và khu vực, để đạt được một cách hiểu và nhận thức
chung với xu thế tăng cường cam kết toàn cầu về nhân quyền. Cụ thể tại điều 7.2 của
Tuyên ngôn cho rằng: Nhà nước nên tạo ra một môi trường an toàn và khuyến khích
sự tham gia của xã hội dân sự, khu vực tư nhân cũng như các bên tham gia có liên
quan khác trong giáo dục và đào tạo về nhân quyền,... Hay, ở điều 10.1. Nhiều tác
nhân trong xã hội, bao gồm các tổ chức giáo dục, truyền thông, các gia đình, cộng
đồng địa phương, các thiết chế XHDS bao gồm các tổ chức phi chính phủ, những
người bảo vệ nhân quyền và khu vực tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy và thực hiện các hoạt động giáo dục và đào tạo về nhân quyền. 2. Các tổ chức
XHDS, tổ chức tư nhân và các bên liên quan khác được khuyến khích để đảm bảo giáo
dục và đào tạo về nhân quyền đầy đủ cho các cán bộ và nhân viên của họ [224].
Thứ ba, vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người ở các khu vực,
quốc gia cụ thể như nghiên cứu trong một số sách được các tác giả Việt Nam nghiên
cứu, dịch ra tiếng Việt như cuốn sách Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong khu
vực ASEAN đã phân tích khái quát thực tiễn nhân quyền tại các quốc gia trong khu vực,
26
sự hình thành những chuẩn mực, các cơ chế khu vực bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền,
cũng như vai trò của các chủ thể khác nhau ở ASEAN (nhà nước, tổ chức phi chính phủ,
cơ sở giáo dục, nghiên cứu...) trong việc bảo vệ nhân quyền. Đặc biệt, cuốn sách dành
hẳn phần 3 để nói về hoạt động của các tổ chức XHDS ở Campuchia, Indonesia,
Malaysia, Myanmar, Philippin, Thái Lan, hoạt động của các tổ chức, mạng lưới XHDS
khu vực. Cùng với xu hướng phát triển của XHDS trên phạm vi toàn cầu và vai trò gia
tăng của các tổ chức, mạng lưới phi chính phủ tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, song
phương và đa phương, các tổ chức XHDS trong khu vực ASEAN cũng đã có những
bước tiến đáng kể trên nhiều mặt và ngày càng có vai trò tích cực hơn trong đối thoại
với chính quyền ở phạm vi trong nước cũng như ở tầm ASEAN. Điều 13 Hiến chương
ASEAN đã ghi nhận sự tham gia của XHDS vào tiến trình hội nhập và phát triển “thúc
đẩy một cộng đồng ASEAN dựa vào nhân dân, trong đó khuyến khích sự tham gia của
mọi thành phần trong xã hội để có thể hưởng lợi từ quá trình hội nhập và xây dựng cộng
đồng ASEAN”. Từ đó, quá trình hoạt động của các tổ chức XHDS có nhiều thành tựu,
tác động tích cực vào quá trình thực hiện quyền con người ở khu vực, tuy vậy, cuốn sách
cũng chỉ ra những hạn chế nhất định từ vai trò này của XHDS được ghi trong Hiến
chương đó là tính thực thi trên thực tế của Hiến chương này, bản thân trong Cơ quan
nhân quyền ở ASEAN không có đại diện của khu vực XHDS, một số quốc gia thậm chí
còn không công nhận vai trò của các tổ chức XHDS [167, tr.111-113].
Hay cuốn sách Làm việc cùng chương trình nhân quyền Liên hợp quốc: Sổ tay
cho xã hội dân sự của Cao ủy nhân quyền Liên hợp quốc do dịch giả Nghiêm Hoa dịch
đã đánh giá rất cao vai trò của các tổ chức XHDS trong việc thực hiện quyền con
người đó là các vai trò cụ thể như việc chia sẻ thông tin, vận động, giám sát chặt chẽ
các quyền con người; báo cáo các vi phạm, hỗ trợ nạn nhân; thực hiện các chiến dịch
xây dựng những tiêu chuẩn nhân quyền mới. từ đó, cuốn sách đã giúp các nhân tố
trong XHDS hiểu và tiếp cận với hệ thống nhân quyền LHQ một cách hiệu quả hơn.
Các tác nhân XHDS quan tâm đến việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người có giá
trị toàn cầu ví dụ như những người bảo vệ nhân quyền, các tổ chức nhân quyền (các
NGO, hiệp hội, nạn nhân); các tổ chức làm việc về các lĩnh vực hoặc vấn đề liên quan,
v.v.. Cuốn sách nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng về nhân quyền cho các tổ chức
XHDS, nhằm đảm bảo một cách bền vững việc bảo vệ nhân quyền ở cấp quốc gia.
27
Cuốn sách đã cung cấp những thông tin về các cơ quan và cơ chế nhân quyền LHQ và
việc vận dụng các cơ quan, cơ chế này như thế nào. Bên cạnh đó các thông tin về các
thủ tục, cơ chế, cách thức gửi khiếu nại tổ cáo về những vi phạm nhân quyền, các
thông tin về nhà tài trợ, quỹ tài trợ... giúp cho các tổ chức XHDS dễ dàng tiếp cận với
quy trình làm việc của các cơ quan nhân quyền, nhằm đẩy mạnh hiệu quả của việc
thực hiện nhân quyền.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như Sitharamam
Kakarala, Human Rights, Pluralism and Civil Society Reflecting on contemporary
challenges in India; Ken Bonneville, Civil Society and Human Rights; Kwadwo
Appiagyei-Atua, civil society, human rights and development in africa: an important
analyse () Civil society discusses human rights implications
Thứ tư, là những nghiên cứu về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền
con người ở những khía cạnh cụ thể như vận động chính sách, giám sát phản biện việc
thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người, thực hiện các nhóm quyền cụ thể,
giáo dục quyền con người Một số công trình liên quan như: Negad El-Borai, Civil
Society and Human Rights in Egypt, Làm thể nào để XHDS thúc đẩy được quyền tự
quyết; Báo cáo của CHRI (commonwealth Human Rights initiative). CHRI 2011
report: A partnership for human rights: civil society and national human rights
institutions; Conor Gearty, Human rights, civil society and the challenge of terrorism -
A Centre for the Study of Human Rights report (www.lse.ac.uk/humanrights); David
skidmore (2001), Civil society, Social capital, Economic development; Civil society
crucial in advancing human rights, UN officials tell Paris meeting; Civil Society: Civil
Society & Peacebuilding Processes, v.v..
1.4. Những vấn đề chưa được các nghiên cứu đề cập đến
Có thể thấy, những nghiên cứu về XHDS và quyền con người trên thế giới và
Việt Nam khá nhiều, đa phần các nghiên cứu đi sâu vào việc chỉ ra bản chất, đặc điểm,
các hoạt động thực tế của XHDS, quyền con người, các điều kiện, cơ sở hình thành,
bảo đảm sự phát triển của các yếu tố này và đặc biệt một số nghiên cứu đã bước đầu
chỉ ra được một vài điểm đặc thù của XHDS Việt Nam, các khía cạnh riêng lẻ khác
nhau về vai trò của XHDS đối với việc thực hiện quyền con người. Tuy vậy, những
nghiên cứu này không nhiều và chưa hệ thống, do đó, trên cơ sở khách quan, chúng tôi
28
sẽ cố gắng nghiên cứu rõ hơn về XHDS, các đặc điểm và vai trò của nó nói chung và
vai trò đối với việc thực hiện quyền con người nói riêng. Nhờ vậy, đề tài sẽ có những
điểm mới mà các nghiên cứu trước đó ít, hoặc chưa đề cập tới, như:
Thứ nhất, chưa có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa XHDS với thực hiện
quyền con người, những nghiên cứu này, nếu có thường rất ít, sơ sài.
Thứ hai, việc nghiên cứu vấn đề “thực hiện quyền con người” dưới góc độ lý
luận chưa được đề cập đến nhiều trong các nghiên cứu về quyền con người ở Việt Nam.
Thứ ba, những vai trò cụ thể của XHDS đối với thực hiện quyền con người mới
chỉ được nêu ra trong một số bài viết dưới dạng những nhận định, chứ chưa có những
phân tích chuyên sâu về vấn đề này.
Thứ tư, chưa có công trình nào nghiên cứu về vai trò của xã hội dân đối với việc
thực hiện quyền con người ở Việt Nam trên góc độ lý luận và thực tiễn.
29
Chương 2.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÃ HỘI DÂN SỰ,
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI
2.1. Những vấn đề lý luận chung về xã hội dân sự
2.1.1. Khái niệm xã hội dân sự
Xã hội dân sự là khái niệm được phát triển trong khuôn khổ của triết học, khoa
học chính trị, xã hội học và pháp luật học phương Tây. Nó đã xuất hiện tương đối lâu
trong lịch sử, mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia, mỗi trường phái, mỗi nhà nghiên cứu lại hiểu
khái niệm này trên những khía cạnh khác nhau.
Những tư tưởng ban đầu về XHDS đã được các nhà triết học Hy Lạp Cổ đại
nêu ra, đó là tư tưởng về dân chủ được thể hiện qua việc tranh luận công khai; tư
tưởng về một nhà nước mà người dân được sống bình đẳng, nhân đức. Theo Socrat, để
đảm bảo văn minh trong cộng đồng và đảm bảo một cuộc sống tốt cho người dân cần
phải thông qua tranh luận công cộng. Với Platon, nhà nước lý tưởng là một xã hội mà
trong đó con người hiến thân vào việc phổ biến và thực hành nhân đức. Công dân
trong xã hội đó là những công dân của trí tuệ, điều độ, dũng cảm và công bằng. Qua
những tư tưởng đầu tiên này chúng ta thấy chúng đã hàm chứa những đặc điểm về
quyền được tham gia, về dân chủ - những giá trị cốt lõi của XHDS sau này.
Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhà tư tưởng sau này đã làm rõ hơn các
yếu tố cơ bản của XHDS. Trong tác phẩm Chính trị, Aristotle đã nêu lên khái niệm
thành - bang (polis). Polis là cộng đồng chính trị do con người tổ chức ra, nhằm đáp
ứng nhu cầu tự nhiên muốn hoàn thiện mình để có cuộc sống hạnh phúc hơn. Cộng
đồng này được hình thành dựa trên những công dân tự do (tự do về kinh tế, có tài sản,
có địa vị xã hội, có giáo dục, biết suy nghĩ, có năng lực làm chủ), tự chịu trách
nhiệm về hành động của mình, cùng nhau chia sẻ và điều hành cộng đồng vì những
mục đích chung. Điểm gắn kết các công dân trong cộng đồng chính trị chính là truyền
thống văn hóa của cộng đồng đó. Mọi việc liên quan đến đời sống cộng đồng đều được
đưa vào thảo luận bình đẳng giữa các công dân tự do trong khuôn khổ hiến pháp của
Polis. Bản chất chính của một cộng đồng chính trị là XHDS, là sự tham gia tự nguyện
của các thành viên tùy năng lực của mình cùng nhau chia sẻ việc điều hành cộng đồng,
30
vì mục đích của cộng đồng. Rõ ràng là, với khái niệm này, Aristotle đã phân biệt lĩnh
vực công thuộc về cộng đồng với lĩnh vực tư (gia đình) mà theo như tác giả Trần Tuấn
Phong nhận định đó là sự khác biệt giữa một bên là lĩnh vực được tổ chức để đáp ứng
các nhu cầu thiết yếu của con người, để đảm bảo sự tồn tại về mặt sinh học của cá thể
và duy trì sự tồn tại của giống loài, không có sự bình đẳng, không có tự do vì họ không
được coi là công dân, với một bên là đời sống cộng đồng, đời sống chính trị của những
công dân thành - bang mà chúng tôi đã đề cập đến ở trên [46, tr.66-67].
Và sự phân biệt này cũng là cơ sở cho việc phân chia khu vực XHDS, nhà nước
và KTTT hay lĩnh vực công, lĩnh vực tư mà nhiều học giả đề cập đến sau này. Đồng
thời, việc nghiên cứu này của Aristotle cũng đã chỉ ra một trong đặc điểm bản chất
nhất của khái niệm XHDS là tính tự nguyện và hoạt động vì mục đích chung của cộng
đồng, là hướng đến cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc - hay là sự ý thức về nhân vị, khác
với mục đích của gia đình là lĩnh vực tư, đời sống kinh tế, cái riêng, đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của tồn tại người.
Từ quan điểm về một cộng đồng chính trị của Aristotle, các nhà nghiên cứu sau
này đã phát triển và mở rộng nghiên cứu XHDS trong mối quan hệ với nhà nước.
J.Locke xuất phát từ quan điểm cho rằng có những luật tự nhiên chi phối đời sống xã
hội, và khi hiện thực đời sống diễn ra thì những khế ước xã hội sẽ thay thế xã hội tự
nhiên để đảm bảo quyền tự do ngang nhau của mọi người và đảm bảo sự không xâm
phạm quyền tự do lẫn nhau. Các khế ước xã hội này sẽ tạo ra một xã hội tự do, bình
đẳng, được pháp luật bảo đảm một cách linh động. Các khế ước này độc lập với nhà
nước chuyên chế và nó là chất xúc tác chuyển xã hội từ trạng thái tự nhiên sang trạng
thái văn minh mở đường cho chế độ tự do sau này và ở đó XHDS sẽ được phát sinh từ
ý chí của cá nhân, nơi tập hợp con người ở trình độ cao và được thiết lập vì lợi ích
chung nhằm giúp cho các cá nhân, gia đình thoát khỏi tình trạng tự nhiên. Như vậy là
với J.Locke nhà nước và XHDS xuất hiện đồng thời và tồn tại phụ thuộc vào nhau, sự
hình thành XHDS đánh dấu sự phát triển của xã hội loài người từ trạng thái tự nhiên
sang XHDS - xã hội văn minh (xã hội có tổ chức, có nhà nước nhằm duy trì trật tự xã
hội, hướng đến lợi ích cộng đồng), ngược lại với tự nhiên, bản năng. Đối với ông,
không có sự phân biệt, đối lập giữa XHDS và nhà nước hay xã hội chính trị, mà XHDS
nằm trong nhà nước, nhà nước công nhận XHDS, từ đó, tính xã hội và tính chính trị
31
trong XHDS được thể hiện, cũng như sự trưởng thành của con người với tư cách công
dân cũng được biểu hiện rõ ràng hơn.
Điểm riêng của J.Locke khi nói về XHDS nằm ở mục đích của xã hội này đó là
tôn trọng các quyền con người, phẩm giá con người và đặc biệt là bảo vệ quyền sở
hữu, “quyền tư hữu” bên cạnh việc duy trì hòa bình, an ninh cho các thành viên. Đây
cũng có thể được xem là điểm bổ sung nghĩa kinh tế trong sự phát triển về quan niệm
XHDS.
Từ quan điểm của Aristotle đến J.Locke ta thấy XHDS có hai khía cạnh gắn
chặt chẽ với nhau đó là: Tính xã hội và tính chính trị. Từ khía cạnh xã hội, XHDS được
các triết gia hình dung như một cộng đồng người với các nguyên tắc tự nguyện tham
gia, thảo luận về vấn đề chung Từ khía cạnh chính trị, XHDS là một thực thể ký kết
khế ước với nhà nước hay là một yếu tố của tổ chức chính trị trong xã hội.
Tiếp đến, chịu ảnh hưởng của J.Locke, J.J.Rousseau, nhà triết học Khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII, với sự ý thức sâu sắc về cách thức trở thành một nhân vị đã nhấn
mạnh khía cạnh tư hữu của XHDS, ông nói “Người đầu tiên nào có một miếng đất rào
kín và biết nói được rằng đất này là của tôi thì đó là kẻ sáng lập thực thụ của XHDS"
[50]. XHDS theo J.J.Rousseau là lĩnh vực tư hữu, mặc dù vậy ông cũng muốn tìm một
phương thức thay thế XHDS bằng một xã hội chính trị hơn, ở đó quyền lực chính trị
thuộc về toàn dân, con người không sa đọa vì quá ích kỷ chỉ lo lợi riêng trái lại biết tôn
trọng lợi ích chung, một xã hội của những "công dân" mà ông đã nêu trong tác phẩm
Khế ước xã hội sau này. Quan điểm này của ông đã mở đường cho việc tách XHDS khỏi
nhà nước và hình thành nên xu hướng phát triển quan niệm coi XHDS là xã hội thị
trường.
Điển hình cho xu hướng này có thể kể đến quan điểm của Adam Ferguson
(1723-1816), nhà tư tưởng người Anh, cho rằng XHDS là "kết quả của hoạt động của
con người, chứ không phải của ý định của con người". Ông cho rằng, XHDS không
xuất phát từ sự chủ định của con người, mà là từ sự vận động tự phát của các lợi ích,
các nhu cầu và các tham vọng của con người. Ở đây, chúng ta thấy thuật ngữ XHDS
đã chuyển từ khái niệm "XHDS mang tính quốc gia/nhà nước" (société civile étatique)
như J.Locke quan niệm, sang khái niệm "XHDS mang tính thị trường"
32
Đến Adam Smith thì XHDS mang đậm tính thị trường và đã tách rời khỏi nhà
nước. XHDS là xã hội thương mại, hoạt động tuân thủ theo các quy luật của thị
trường, của lợi ích riêng, của nhu cầu mà không có sự can thiệp của nhà nước. Đây là
xã hội tự trị, tự quản. Có thể thấy quan điểm này của Adam Smith đã hình thành nên
n...c xã hội, số 2 năm 2010, tr.15.
63. Đinh Công Tuấn (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xã hội dân sự
ở Liên minh châu Âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Hoàng Văn Tuệ, Vấn đề phản biện xã hội với yêu cầu thực tế hiện nay, Tạp
chí Triết học, số 4 (179) - 2006, tr.53-57.
65. N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina (2009), Chế độ dân chủ: Nhà nước
và xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội.
66. J.Locke. Khảo luận thứ hai về chính quyền (Lê Tuấn Huy dịch), Nxb Tri
thức, 2006 tr.124 - 125.
67. Viện Nhà nước và Pháp luật (2006), Hội thảo khoa học Xã hội dân sự ở
Việt Nam và những khía cạnh nhà nước pháp quyền, Hải Phòng.
68. Trần Nguyên Việt, Sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát huy dân
chủ XHCN - cơ sở của đồng thuận xã hội và phát triển đất nước hiện nay, Tạp chí
Triết học, số 2 (201) - 2008, tr.3 - 9.
69. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
70. Adamferguson, An essay on the history of civil society, L.L.D;
71. Helmut K. Anheier, Stefan Toepler, Regina list (Eds), (2010),
Intrernational encyclopedia of civil society, Springer Science+Business Media, LLC
(USA), bản pdf.
178
72. Aisha Ghaus (2004), The role of civil society organizations in
governance,(
73. WIB e-Monograp`h Series 2007/2, civil society-state discourses From
Liberalism and Marxism to Neo-Marxism and Neoliberalism.
74. UNDP, (1993) UNDP and civil society, NY, UNDP;
75. Manuel Mejido C, 2007, Toward a typology of civil society actors, Program
paper N.30,UNRISD;
76. Cohen J vaf ACarato A 1992, Political Theory and Civil society,
Cambridge, MA, Mit press;
77. Honneth Axel (1993), Conceptions of Civil society, Radical Philosophy
64/summer;
78. Hall. J(ed) Civil society: Theory, History, Comparision, Polity Press, 1995;
79. George F.Mclean (1996), Civil society and social reconstruction,
Vol.16/george Mclean-Washington D.C: The council for reasearch in values and
philosophy.
80. Chandhoke Nieera (2002) – The Limits of Global civil society in Global
civil society 2003,Oxford University Press;
81. Robison M, White G. (ed) 1998. Democratic development state: politics
and institutional densign, Oxford Universty press. Adher M 2001;
82. White G 1994, civil society, Democratization and development,
Democratization, Vol 1, N 3;
83. Lester Salamon, H.Adheir, regina List, et all Global civil society:
Dimensions of the nonprofit sector, John Hopkin Center for civil society Studies,
1999.
84. Lester Salamon, H.Adheir, regina List, et all, Global civil society: an
overview, 2003.
85. EUISS, the European Commission/DG Research and UNU-CRIS, the role
of civil society in global governance, Bỉ 1/10/2010.
86. Robert W. Cox, (1999) Civil society at the turn of the millenium: Prospects
for an alternative world order, cambridge university press.
179
87. K.M.Seethi, Civil society - state discourse From Liberalism and Marxism to
Neo-Marxism and Neoliberalism, WIB e-Monograph Series 2/2007.
88. Kaldor, Mary, The Idea of Global Civil Society , International Affairs 79,
no;
89. Report 36445-GLB, Civil society and peacebuilding,
www.siteresources.worldbank.org 20/12/2006
TÀI LIỆU TRÊN TRANG WEB:
90. The Asia Foundation (2008), Khảo sát Nhu cầu đào tạo của các tổ chức xã
hội dân sự: Phát triển tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng xây dựng chính
sách ở Việt Nam, Hà Nội (
91. Andrew Wells – Dang, Không gian xã hội dân sự ở Việt Nam đang mở
rộng?, ( ngày 5/9/2014.
92. Andrew Wells Dang, Xã hội dân sự trọng tâm là hành động,
( ngày 4/7/2014.
93. Amartya Sen, Dân chủ như một giá trị toàn cầu,
94. Nguyễn Trần Bạt (2007), Bàn về Xã hội dân sự, (www.chungta.com), Ngày
5/8/2007.
95. Đặng Ngọc Dinh (2006), Đừng sợ Xã hội dân sự, (www.tuoitre.vn), ngày
21/5/2006.
96. Nguyễn Ngọc Giao, Xã hội dân sự , Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Thời
đại, số 15, tháng 3/2009 ( www.tapchithoidai.org).
97. Hugo Grotius,
98. Huỳnh Khôi, Nhận xét lại các quan điểm về Xã hội dân sự tại Việt Nam
(www.kinhtehoc.com), ngày 12/4/2006.
99. Nguyễn Thu Linh (2005), Phát triển bền vững và sự tham gia của Xã hội
dân sự, (www.vids.org.vn), ngày 3/2/2005.
100. Locke Vs.Hobbes, Nature, and Civil Society
(www.philosophy.intellectualprops.com), november, 22nd, 2007.
101. Đào Thế Tuấn, Phải xây dựng xã hội dân sự ở nông thôn
( ngày 21/9/2010.
180
102. Hồ Bá Thâm (2009), Những tiền đề, điều kiện hình thành phát triển xã hội
dân sự ở Việt Nam hiện nay, (www.chungta.com), ngày 23/10/2009.
103. Lê Quang Thế, Dân chủ và phát huy dân chủ theo Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng (
104. Chương 1, www.vids.org.vn/vn/Attach/200651222153_Ch1.doc.
105. Chương bốn kết luận và khuyến nghị (www.vids.org.vn)
106. OHCHR, Làm việc cùng chương trình nhân quyền Liên hợp quốc sổ tay
cho xã hội dân sự, (
107. Xã hội dân sự, xã hội tư sản, (
108. The market economy and civil society: the individual subject and
modernization (
109. Xã hội dân sự là gì? ( ngày 20/4/2014.
110. Xã hội dân sự, (
111. Việt Nam sử dụng hiệu quả viện trợ phi chính phủ nước ngoài vào công
cuộc giảm nghèo và phát triển bền vững ( ngày 7/12/2013.
112.
and-welfare-reform.html.
II. VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
SÁCH VÀ TẠP CHÍ LIÊN QUAN, TIẾNG VIỆT
113. Amartya Sen (2002), Phát triển là quyền tự do, Nxb Thống kê, Hà Nội.
114. Phạm Ngọc Anh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
115. Nguyễn Hồng Anh (2008), Bảo vệ và thúc đẩy quyền dân sự, chính trị vì
mục tiêu phát triển con người, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 6.
116. Wolfgang Benedek (chủ biên) (2008), Tìm hiểu về quyền con người, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, (
117. Trần Văn Bính, (2003) Toàn cầu hóa và quyền công dân ở Việt Nam nhìn
từ khía cạnh văn hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
118. Bộ ngoại giao Việt Nam (2005), Sách trắng nhân quyền, thành tựu bảo vệ
và phát triển quyền con người ở Việt Nam (www.mofa.gov.vn).
181
119. Chương trình khoa học cấp nhà nước KX-07 (1993), Quyền con người,
quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm thông tin tư liệu - Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
120. Vũ Thị Minh Chi, Xã hội dân sự ở Khu vực Đông Á, Tạp chí nghiên cứu
con người số 4/2009.
121. Vũ Thị Minh Chi, Về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền con
người trong sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu con người
số 3/2009, tr.18-19.
122. Đặng Dũng Chí - Hoàng Văn Nghĩa (2014) Chủ nghĩa xã hội và quyền
con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
123. Vũ Hoàng Công (1995), Tìm hiểu tính phổ biến và tính đặc thù của quyền
con người, Luận án Tiến sỹ Triết học, Hà Nội.
124. Trương Văn Dũng (2008), Sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý
nhà nước và xã hội vì mục tiêu phát triển con người, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5.
125. Vũ Khương Duy (2003), Tính đa dạng của Văn hóa và tính phổ biến của
nhân quyền, Tạp chí nghiên cứu Quốc tế, số 54.
126. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
127. Trần Ngọc Đường, (2011), Quyền con người và quyền công dân trong nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
128. Hội luật gia Việt Nam (2007), Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo vệ
quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
129. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Hỏi đáp về Quyền con người, Nxb Công An
nhân dân, Hà Nội.
130. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người “tập tài liệu chuyên đề
của LHQ”, Nxb Công an Nhân dân.
131. Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người tập hợp những bình
luận khuyến nghị chung của Văn bản công ước LHQ, Nxb Công an Nhân dân.
132. Trung tâm nghiên cứu Quyền con người (1998) C.Mác-Ph.Ăngghen về
quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
182
133. Ngô Đình Xây (2003) Một số vấn đề về quyền con người trong kinh điển
Macxit Tạp chí Nghiên cứu Con người Số 4, 2003.
134. Lê Toan, Nguyễn Thị Hương (1998), Trên quan điểm Triết học Mác-Lênin
xem xét cơ sở triết học của nhân quyền, Nxb Học viện CTQGHCM.
135. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (1996), Về quyền con người (C.M -
AG), Nxb Lao Động, Hà Nội.
136. Hoàng Văn Hảo, Chu Hồng Thanh (Chủ biên) (1997), Một số vấn đề về
quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
137. Hoàng văn Hảo, Chu Hồng Thanh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền
con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
138. Hoàng Văn Hảo, Võ Khánh Vinh chủ biên (2010), Giáo dục quyền con
người: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
139. Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải (2010), Tư tưởng của Lênin về
Quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
140. Trần Thị Hòe (2005), Bảo đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới ở
Việt Nam, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5.
141. Nguyễn Quang Hiền, Pháp luật là phương tiện quan trọng bảo vệ quyền
con người, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1/2004.
142. Học viện Quan hệ quốc tế (2004), Dân chủ, quyền con người và mậu dịch
tự do, Tạp chí Quan hệ Quốc tế, số 16.
143. Mai Quỳnh Nam (chủ biên) (2009), Con người văn hóa quyền và phát
triển, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
144. Mourgon Jacques, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người, Sách dịch.
145. Huỳnh Thị Sương Mai (2008), Quyền con người: sự vi phạm và cứu trợ -
cơ chế bảo trợ nhân quyền ở Việt Nam và một số nước trên thế giới, Tạp chí nghiên
cứu con người, số 4.
146. Cao Đức Thái (chủ nhiệm), Quyền con người trong thời kỳ đổi mới –
thành tựu, vấn đề và phương hướng giải quyết (Đề tài cấp nhà nước), 2005.
147. Nguyễn Văn Thạo - Nguyễn Viết Thông (đồng chủ biên) (2011), Tìm hiểu
một số thuật ngữ trong văn kiện đại hội XI của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
183
148. Trịnh Xuân Thắng, Vai trò các tổ chức XHDS đối với Công tác xã hội,
Tạp chí Lý luận Chính trị số 12-2013.
149. Đoàn Trường Thụ, (2006), Luận án Tiến sỹ triết học Quyền con người -
Thước đo quan trọng của tiến bộ xã hội.
150. Lê Minh Thông (1998), Quyền con người quá trình hình thành và phát
triển, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, số 2, tr.12-23.
151. Lê Minh Thông (2000), Hoàn thiện cơ chế pháp luật bảo đảm quyền con
người ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8.
152. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
153. Nguyễn Hữu Trí (2001), Các quan niệm về Quyền con người, Tạp chí Lý
luận Chính trị, số 11.
154. Nguyễn Trung Tín (2009), Về các đặc điểm của Quyền con người, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 7.
155. Lại Văn Trình (2011), Luận án tiến sỹ luật học Bảo đảm quyền con người
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh (
156. TTNCQCN Thành phố Hồ Chí Minh (1997), Các văn kiện quốc tế về
Quyền con người, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
157. TTNCQCN Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Hội nghiên cứu
nhân quyền Trung Quốc (2003), Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền
thống lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
158. TTNCQCN - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và khoa Luật
Châu Á TBD thuộc đại học tổng hợp Sedey, Úc (2001, 2002), Tài liệu dịch: Nhân
quyền lý luận và thực tiễn cách tiếp cận triết học, chính trị học, luật học và đạo đức
học, Thư viện TTNCQCN mã số 31,32,33.
159. TTNCQCN - Khoa Luật ĐHQG (2012), Bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người trong khu vực ASEAN, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
160. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người (2005), Luật nhân đạo quốc tế -
Những vấn đề cơ bản, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
184
161. Tường Duy Kiên (2003), Nhà nước: cơ chế bảo đảm quyền con người,
Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, số 2.
162. Umozurike (1999), Quyền con người và phát triển, Tạp chí Khoa học xã
hội, số 8.
163. Nguyễn Đăng Quang (2005), Quan hệ giữa nhân quyền và phát triển, Tạp
chí Lý luận Chính trị, số 2.
164. Quyền dân chủ, Thư viện viện Nghiên cứu con người, số ký hiệu TL.
0616, tr.325.
165. Phạm Ích Khiêm, Hoàng Văn Hảo (1995), Quyền con người trong thế giới
hiện đại: nghiên cứu và thông tin, đề tài KX-07.
166. Mai Hồng Quỳ (chủ biên) (2010), Hành trình của quyền con người những
quan điểm kinh điển và hiện đại, Nxb Tri thức, Hà Nội.
167. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người tiếp cận đa ngành và
liên ngành luật học, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
168. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người – tiếp cận liên ngành
và đa ngành luật học, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
169. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2009), Quyền con người tiếp cận đa ngành và
liên ngành Khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
170. Võ Khánh Vinh (2010), Giáo dục quyền con người, những vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
171. Võ Khánh Vinh (2011), Quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
172. Nguyễn Văn Vĩnh (2005), Triết học chính trị về quyền con người, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
173. Viện Nghiên cứu quyền con người (2007), Các văn kiện quốc tế và luật
của một số nước về tiếp cận thông tin, Nxb Công An nhân dân, Hà Nội.
TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI
174. www.amnesty.org/en/united-nations/universal-periodic-review/role-of-
civil-society;
175. CHRI (commonwealth Human Rights initiative). CHRI 2011 report: a
partnership for human rights: civil society and national human rights institutions;
185
176. Conor Gearty, Human rights, civil society and the challenge of terrorism -
A Centre for the Study of Human Rights report (www.lse.ac.uk/humanrights).
177. David skidmore (2001), Civil society, Social capital, Economic
development, (www. getcited.org), ngày 26/8/2004.
178. David P.Forsythe (2000), Human Rights in International Relations,
Cambridge.
179. Goodhart Micheal (2005), Democracy as human rights freedom and
equality in the Age of Globalization, New York Routledge.
180. Goran Therborn, Ambiguous ideals and problematic outcomes:
democracy, civil society, human rights, and social justice, Democracy. Reality and
Responsibility Pontifical Academy of Social Sciences, Acta 6, Vatican City
2001,www.pass.va/content/dam/scienzesociali/pdf/acta6/acta6-therborn.pdf
181. Human Rights Approach to Development: Case of EU-ACP Partnership
182. Human Rights in
UNDP,www.undp.org/governance/docs/HRPN_English.pdf.
183. John M.Ackerman, human rights and social Accountability, www
portals.wi.wur.nl/files/docs/gouvernance/HumanRightsandSocial0AccountabilityFINA
L.pdf.
184. J.symonides (2000), Human Rights: concept and standards, UNESCO
185. Ken Bonneville, Civil Society and Human Rights
(https://www.du.edu/korbel/hrhw/researchdigest/russia/civilsociety.pdf)
186. Kwadwo Appiagyei-Atua, civil society, human rights and development in
africa: an important analyse ()Civil society discusses human rights implications,
(
187. Negad El-Borai, Civil Society and Human Rights in Egypt
, Egyptian-Style Waltz, 2004-2009
188. Michael Freeman, The Philosophical Foundations of Human Rights,
Human Rights Quarterly, Vol. 16, No. 3 (Aug., 1994), pp. 491-514, The Johns
Hopkins University Press (
189. Richard Falk (2009), Achieving human rights, First published 2009, by
Routledge 270 Madison Ave, New York, NY 10016 Simultaneously published in the UK.
186
190. Rachel A. Cichowski, civil society and the European court of human
rights, University of Washington Seattle WA 98195.
191. Sitharamam Kakarala, Human Rights, Pluralism and Civil Society
Reflecting on contemporary challenges in India, Pluralism Working Paper, no 6 ,
2010,by the Promoting Pluralism Knowledge Programme, jointly coordinated by:
Humanist Institute for Co-operation with DevelopingCountries P.O. Box 85565 | 2508
CG The Hague |The Netherlands www.hivos.net .
192. Tim Dunne and Nicholas J.Wheeler (1999), Human Rights in global
politics, Cambridge University Press.
193. UNDP (1998), Itegrating Human Rights with sustainable human
development.
194. www.worldcivilsociety.org/documents/18.11_wortley_david.doc&usg=A
LkJrhhLxWzP4tngy4QaPlzcVsnesULBhQ;
195. William H.Thornton, Human Rights and Power Politics in the New Moral
Realism, International Journal of Politics, Culture, and Society, Vol. 14, No. 2
(Winter, 2000), p.p. 315-332 (
196. Vai trò của XHDS trong việc thực hiện quyền con người và luật nhân đạo,
Handicap International, Diễn đàn Xã hội dân sự toàn cầu tại Geneva tháng 7/2002.
MỘT SỐ TRANG WEB
197. Nguyễn Tấn Dũng, Bài phát biểu năm mới 2014, (
ngày 1/1/2014.
198. Lê Hữu Nghĩa, Những đặc trưng thể hiện tính ưu việt của xã hội XHCN
mà nhân dân ta đang xây dựng ( ngày 17/1/2011.
199. Vũ Hữu Ngoãn, Về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, ( ngày 13/1/2010.
200. Bảo đảm thực hiện quyền con người trong Hiến pháp 2013
( ngày 28/3/2014.
201. Các tổ chức xã hội vận động mở rộng các quyền tự do,
(
202. Cơ chế quốc gia bảo vệ nhân quyền (
187
203. Cuối 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn 7,6% ( ngày
28/6/2013.
204. Dự luật nhân quyền Việt Nam của Hạ viện Mỹ là sai trái,
( ngày 14/9/2012.
205. Giới thiệu về TT CEPEW (
206. Hậu UPR: Cơ hội hợp tác cho các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam và
Chính phủ vì quyền con người, ( ngày 20/8/2014.
207. Human Rights Watch: Tổ chức đội lốt nhân quyền,
( ngày 23/10/2012.
208. ISEE phát biểu về quyền LGBT ở Việt Nam tại phiên thông qua báo cáo
UPR Việt Nam ( ngày 20/6/2014.
209. Nghị quyết A/52/469 ngày 20/10/1997 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc, đoạn 11, (
210. Mạng lưới giáo dục Quyền con người toàn cầu www.hrea.org/index.php
211. Một số so sánh quyền con người với quyền công dân,
( ngày 23/1/2013.
212. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948), (
213. Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động, (
214. Tình hình phát triển lĩnh vực báo chí 2014, ( ngày
24/12/2014.
215.
216.
hoai-hoa-binh-cua-trung-quoc_t221c67n72670.html.
217. Việt Nam: Các tổ chức dân sự xã hội hợp tác với công dân nhằm kêu gọi
chính phủ công khai, minh bạch và nâng cao trách nhiệm giải trình
(
218. UNDP, Báo cáo phát triển năm 2000 (
219.
220.
221. Worldbank, Báo cáo phát triển Việt Nam 2010,
(
188
222.
trinh-xay-dung-phap-luat
223. Quan điểm và chính sách của Việt Nam về quyền con người,
(www.mofahcm.gov.vn), tháng 7/2007
224. Tuyên ngôn về giáo dục nhân quyền của Liên hợp quốc,
(
225.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Văn bản pháp lý thúc đẩy các yếu tố xã hội dân sự
Hệ thống pháp luật nước ta đang dần tạo ra hành lang pháp lý cho các yếu tố
XHDS phát huy vai trò của mình.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, Chính phủ đã ban
hành nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho các loại hình tổ chức của nhân dân ra
đời: ngoài Hiến pháp, một hệ thống các văn bản pháp lý khác là tiền đề trực tiếp cho
sự phát triển XHDS Việt Nam:
Nghị định - Luật 102/SL, 20/5/1957 của Chủ tịch nước ban hành các quy định
về Quyền thành lập các Hiệp hội;
Nghị định 258 ngày 14/6/1957 về các quy định chi tiết hướng dẫn việc thi hành
Luật 102/SL 1957;
Chỉ thị 01 ngày 5/2/1989 của Chỉ tịch Hội đồng Bộ trưởng về quản lý việc tổ
chức và hoạt động của các tổ chức quần chúng;
Thông tư 07 ngày 6/1/1989 của Ban Tổ chức Chính phủ hướng dẫn việc thi
hành Chỉ thị 01;
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 27/3/1990 của Bộ Chính trị về đổi mới chính
sách huy động quần chúng của Đảng, tăng cường các quan hệ giữa Đảng và cộng đồng
dân cư;
Chỉ thị 202 ngày 05/6/1990 của Chủ tịch Hội đông Bộ trưởng v/v thi hành quy
định của Chính Phủ liên quan tới sự thành lập các hiệp hội;
Nghị định 35/HĐBT ngày 28/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng v/v thành lập các
tổ chức khoa học và công nghệ phi lợi nhuận;
Năm 1995, Nhà nước ban hành Bộ luật Dân sự nhằm quy định quyền và nghĩa
vụ của công dân. Năm 2005, Bộ luật này được sửa đổi, bổ sung đã tăng cường vị trí,
vai trò cho các tổ chức địa phương, tổ chức cơ sở. Dự kiến các tổ chức này sẽ đăng ký
là các tổ chức xã hội hoặc xã hội – nghề nghiệp hoặc là các quỹ xã hội, từ thiện tại ủy
ban nhân dân xã/phường. Điều này thể hiện một sự tiến bộ rất lớn trong hành động của
Đảng với các tổ chức XHDS để mang lại tiếng nói chính thức cho các tổ chức này. Họ
hoạt động có tư cách pháp nhân.
2
Năm 1998, Chính phủ ban hành NĐ số 29 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã
với mục đích thực hành dân chủ ở nông thông, đảm bảo dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Đến năm 2003 Nghị định này được tăng cường và bổ sung bao hàm việc
đề cập đến vai trò của các tổ chức quần chúng và các hội nghề nghiệp.
Thông tư 143/TB-TW ngày 5/6/1998 về ý kiến của Ủy ban Thường vụ Bộ
Chính trị về tổ chức, hoạt động và quản lý các Hiệp hội Nghề nghiệp; Nghị định
177/NĐ-CP ngày 22/12/1999 của Thủ tướng Chỉnh phủ quy định về Tổ chức và Hoạt
động của các Quỹ Xã hội và Quỹ từ thiện;
Quyết định 21/QĐ-TTg ngày 29/1/2003 của Thủ tướng Chính phủ về các Quỹ
của Chính phủ cho các hiệp hội nghề nghiệp chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và
các hiệp hội nghề nghiệp liên quan tới các hoạt động có gắn với các nhiệm vụ của Nhà
nước;
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ Quy định về tổ
chức, hoạt động và quản lý hội. Nghị định này quy định về tổ chức, hoạt động và quản
lý Nhà nước đối với hội, khái niệm, đặc điểm, phạm vi hoạt động, quyền lợi, trách
nhiệm của Hội (NĐ này thay cho NĐ 88/2003/NĐ-CP). Theo các văn bản này, hội là
những tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở
thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường
xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên; hỗ trợ nhau
hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tiếp theo, các quỹ phi chính phủ thành lập theo Nghị định 148/NĐ-CP /2007.
Quỹ là tổ chức phi chính phủ có tư cách pháp nhân do một hoặc nhiều cá nhân, tổ chức
tự nguyện dành một khoản tài sản nhất định để thành lập hoặc thành lập thông qua hợp
đồng, hiến tặng, di chúc, nhằm mục đích hỗ trợ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể
thao, khoa học, từ thiện, nhân đạo và các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, không vì mục
đích lợi nhuận (theo báo cáo của Bộ Nội vụ, hiện nay có hàng ngàn tổ chức đăng ký
hoạt động dưới dạng này tại Việt Nam).
Quyết định 64/2001/QĐ-TTG v/v ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện
trợ phi chính phủ nước ngoài. Quyết định này đề cập đến Viện trợ Phi chính phủ, viện
trợ đề cập trong Quy chế này được hiểu là viện trợ không hoàn lại và trợ giúp không vì
mục đích lợi nhuận của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, các tổ chức khác và cá
3
nhân người nước ngoài, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài hỗ trợ cho các
Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức nhân dân (bao gồm các đoàn thể quần chúng, các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và một số tổ chức khác) của
Việt Nam thực hiện các mục tiêu nhân đạo và phát triển dành cho Việt Nam.
Quyết định số 22/2002/QĐ – TTG ngày 30/1/2002 của Thủ tướng Chính phủ về
hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ
thuật Việt Nam (Các hội thành viên của LHHVN cũng được hưởng các quyền theo
quyết định này). Quyết định này mở ra cơ hội cho người dân thông qua các tổ chức
XHDS tham gia cung cấp dịch vụ công và phản biện xã hội.
NQ 05/2005/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18/4/ 2005 của Chính phủ về
đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa...
Dự thảo luật về Hội được đưa ra từ năm 2006, đến nay đã có 11 lần dự thảo và
nhận được sự tranh luận của đông đảo của các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Pháp lệnh Số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 v/v thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn. Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân
dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung nhân dân giám
sát... Việc ban hành pháp lệnh này đã thẻ hiển rất rõ hành động của Quốc hội, cơ quan
quyền lực cao nhất của nhân dân trong việc thực hành và phát huy dân chủ của người
dân. Một bước tiến trong quá trình dân chủ hóa xã hội ở nước ta hiện nay.
Mới đây nhất, 2015 Chính phủ ban hành nghị định số 4 về thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập. Mục
đích của NĐ là nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng
cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Góp phần xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng
suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước. Phòng
ngừa, ngăn chặn và chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách
nhiễu nhân dân.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật nước ta đã và đang trở nên ngày càng hoàn thiện
hơn, bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chỉ tính từ năm 1986 đến nay
4
(tháng 7/2007), Việt Nam đã ban hành 13.000 văn bản pháp luật các loại, trong đó, có
hơn 40 bộ luật và luật, trên 120 pháp lệnh, gần 850 văn bản của Chính phủ và trên 3.000
văn bản pháp quy của các bộ, nghành được thông qua và thực thi.
Như vậy, các quyền của con người được quy định trong hiến pháp không ngừng
được cụ thể hóa thông qua các văn bản pháp quy, điều này, tác động lớn đến sự phát
triển của XHDS đặc biệt là tính chất pháp quyền và mục tiêu vì sự phát triển bền vững
của con người.
Phụ lục 2: Tổng hợp các dạng hành động tập thể ở Việt Nam
Dưới đây là một số bảng khảo sát về các tổ chức xã hội, các dạng hành động tập thể ở
Việt Nam do Viện Nghiên cứu những vấn đề phát triển (VIDS) tiến hành khảo sát năm
2006 [42].
Bảng 1: Các dạng hành động tập thể và người khởi xướng
Các phong trào
từ thập niên 90 tới nay
Người khởi xướng Hệ thống các loại hình
Bảo thọ
Đình công, tranh chấp công
nghiệp
Bảo vệ Môi trường
Chỉnh đốn, xây dựng năng lực
Đảng
Giảm nhẹ Thiên tai
Doanh nhân trẻ
Doanh nhân nhỏ và vừa
Hiến máu Nhân đạo
Khuyến học
Đền ơn đáp nghĩa
Ngày vì người nghèo
Người tốt việc tốt
Quy chế Dân chủ cơ sở
Thanh niên lập nghiệp
Thi đua
Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá ở khu dân cư
Toàn dân tham gia bảo đảm an
toàn trật tự giao thông
Toàn dân xây dựng phong trào
bảo vệ an ninh Tổ quốc
Trẻ nghèo vượt khó
Trở về với truyền thống
Uống nước nhớ nguồn
Cơ quan Đảng.
Cơ quan Nhà nước
Tổ chức chính trị - xã
hội
Tổ chức xã hội (hội,
các tổ chức phi chính
phủ...).
Tổ chức tôn giáo.
Viện nghiên cứu.
Nhóm sơ cấp, thứ cấp.
Họ hàng.
Tập thể.
Cộng đồng.
Cá nhân.
Các hành vi tập thể và
các phong trào xã hội.
Vận động/ Chiến dịch/
Các nỗ lực tập thể/
Phong trào xã hội.
Chính thức và Không
chính thức (Từ trên
xuống và từ dưới lên)
Cách mạng/ Cải cách/
Kháng cự.
Loại hình theo lĩnh
vực/ vấn đề (kinh tế,
mở rộng, chuyển giao
công nghệ, từ thiện,
xã hội, văn hoá).
5
Giảm nghèo
Bảng 2: Các Tổ chức Xã hội theo những Dạng thức xã hội khác nhau
Dạng thức Xã hội Dạng của Tổ chức xã hội Đặc trưng
Xã hội truyền thống
Đoàn thể/Tổ chức Tôn giáo.
Phường hội.
Mạng lưới xã hội.
Phân cấp bậc cao.
Nới lỏng mạng lưới.
Xã hội trên cơ sở nền
Kinh tế kế hoạch Xã
hội Chủ nghĩa (cuối
thập niên 50 ở phía
Nam, cuối thập niên 79
tới cuối thập niên 80
trên toàn quốc)
Tổ chức Quần chúng.
Hiệp hội Nghề nghiệp.
Hội Tôn giáo.
Tập trung hoá dân chủ nhấn
mạnh hơn vào tập trung hoá.
Một số Hiệp hội chọn lọc.
Nhấn mạnh vào các chức
năng chính trị của tổ chức.
Xã hội trên cơ sở nền
KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa (cuối
thập niên 80 tới nay)
Tổ chức Quần chúng.
Hiệp hội Nghề nghiệp.
Tổ chức Bán Chính phủ/
Công.
Tổ chức Phi chính phủ.
Tổ chức phi lợi nhuận.
Hội Tôn giáo.
Hội Kinh doanh.
Mạng lưới không chính thức.
Tập trung hoá dân chủ có
tính đến mở rộng sự tham
gia từ cơ sở lên trên/dưới
lên.
Sự đa dạng về các loại hình
tổ chức xã hội.
Sự đang dạng trong các lĩnh
vực hành động chú trọng tới
phát triển và công tác an
sinh.
Bảng 3: Các đặc trưng của ban dạng nỗ lực tập thể và phong trào xã hội
Dạng 1: Các
phong trào chính thống
Dạng 2: Các tổ chức
nhóm chung mối quan
tâm
Dạng 3:
Các tập thể
Dạng
Phong trào vận động Những nỗ lực tập thể
Phong trào
Các nỗ lực tập thể
Lĩnh vực
hoạt động
Tác động tới chính sách
Môi trường
Kinh tế
An sinh
Từ thiện
Tác động tới chính
sách
Môi trường
Kinh tế
An sinh
Từ thiện
Hoạt động tôn giáo
Kinh tế
An sinh
Tác động chính
sách
Từ thiện
Hoạt động tôn
giáo
Những đặc
điểm về cấu
trúc
Quy mô lớn, tổ chức hành
chính nhiều cấp bậc
Phương pháp tiến cận từ
trên xuống
Kiểu nhà hát
Nhóm gồm những
người ưu tú và năng
động
Tổ chức quy mô vừa và
nhỏ
Lỏng lẻo
Cách thức
hành động
Kế hoạch chương trình;
hành động;Hội thảo;
Họp; Hội thảo;Khuyến
nghị
Áp lực của nhóm
nhỏ
6
Khuyến nghị;
Vận động hành lang;
Vận động
Vận động hành lang;
Vận động
Tổ chức
Có tổ chức Có tổ chức; Không
chính thức
Không chính thức
Dạng tổ chức
(Hiệp) hội; Quỹ;
Trung tâm
(Hiệp) hội; Quỹ;
Viện nghiên cứu; Đại
học
Trung tâm;
Đơn vị/ Tổ chức tôn
giáo
Nhóm nhỏ
Tập thể
Mức độ
nguồn tài trợ
Cao Hạn chế Không
Nguồn tài trợ
chính
Chính phủ
Nhà tài trợ nước ngoài
Chính phủ; tư nhân
Nhà tài trợ nước ngoài
Người dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_vai_tro_cua_xa_hoi_dan_su_doi_voi_viec_thuc_hien_quy.pdf