VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH THỊ ĐIỂM
TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC TRONG TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU
N N TIẾN T IẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH THỊ ĐIỂM
TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC TRONG TRUYỆN KIỀU
CỦA NGUYỄN DU
Ngành : Triết học
Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62220301
N N TIẾN T IẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Cƣ
2. PGS.TS. Lê Thị
168 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 827 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Tư tưởng triết học trong truyện Kiều của Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị Lan
HÀ NỘI - 2016
Hà Nội, năm 2013
ỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi muốn bày tỏ lòng cảm kích và sự biết ơn sâu sắc đối với hai giáo
viên hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Văn Cư và PGS.TS. Lê Thị Lan đã giúp đỡ tận tình và
làm việc với tất cả tinh thần trách nhiệm, đặc biết hai thầy cô đã có những ý kiến đóng
góp quý báu đồng thời sữa chữa rất công phu để tôi hoàn thành được luận án của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến quý thầy, cô giáo trong Khoa Triết học -
Học Viện Khoa học xã hội, đặc biệt là PGS.TS. Phạm Văn Đức, PGS.TS. Hồ Việt
Hạnh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và ủng hộ đề tài luận án của tôi rất nhiệt tình để
tôi có cơ hội thực hiện niềm đam mê khoa học của mình. Xin được cảm ơn các thầy
cô trong Hội đồng khoa học, đã tận tình đóng góp ý kiến với tinh thần khách quan và
khoa học để luận án của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi không thể thực hiện được sự nghiệp học tập của mình nếu như không có sự
ủng hộ và tạo điều kiện mọi mặt từ phía cơ quan công tác của mình, vì thế tôi vô cùng
biết ơn sự giúp đỡ quí báu của ban lãnh đạo Trường sĩ quan Tăng Thiết giáp - Bộ tư
lệnh Tăng Thiết Giáp. Đặc biệt là sự ủng hộ và giúp đỡ kịp thời của PGS. TS. Thiếu
Tướng Hoàng Trung Kiên.
Tôi không xem việc tôi làm này như một công trình cá nhân, mà đằng sau luôn
là sự giúp đỡ và chia sẻ của thầy cô, bạn bè, gia đình, và sự hiện diện vắng mặt vô giá
của những người tôi không thể nhắc hết tên, đặc biệt là bố mẹ yêu quí của mình. Con
cảm ơn bố mẹ vì tất cả những hi sinh, vất vã mà bố mẹ đã dành cho con. Ở một nơi
nào đó có ai sẵn sàng hi sinh tất cả mọi của cải, mọi thứ ân sủng quí giá nhất trên đời,
sẵn sàng vì con mình mà chịu đựng tất cả thì đó chính là bố mẹ của tôi. Con yêu bố
mẹ thật nhiều!
Hà Nội, năm 2016
TÁC GIẢ LU N ÁN
Đinh Thị Điểm
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án: Tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận án đã được
nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc, các trích dẫn trong luận án
là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, năm 2016
T C GIẢ N N
Đinh Thị Điểm
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG .......................................................................................................... 5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨ IÊN Q AN ĐẾN ĐỀ
TÀI LU N ÁN ......................................................................................................... 5
1.1.Tình hình nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời Truyện Kiều và những sáng tạo
của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân .................................................................................................................... 5
1.2. Tình hình nghiên cứu về ảnh hưởng của tư tưởng triết học Việt Nam và
triết học Nho - Phật - Lão trong Truyện Kiều ................................................. 11
1.3. Tình hình nghiên cứu về tư tưởng triết học trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du ................................................................................................. 20
1.4. Qua việc khảo cứu các công trình liên quan đến đề tài tác giả lựa chọn và
xác định những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án ......................... 31
Chƣơng 2. TRUYỆN KIỀU VÀ NHỮNG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC ẢNH
HƢỞNG ĐẾN TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU ........................................ 34
2.1. Bối cảnh lịch sử ra đời của của tác phẩm Truyện Kiều và những sáng tạo
của Nguyễn Du so với nguyên tác .................................................................... 34
2.2. Những tư tưởng triết học ảnh hướng đến Truyện Kiều của Nguyễn Du ... 44
Chƣơng 3. NỘI DUNG NHỮNG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN
TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU .................................................. 72
3.1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng triết học .................................................. 72
3.2. Tư tưởng triết học về nhân sinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ........ 77
3.3. Tư tưởng triết học về xã hội trong Truyện Kiều của Nguyễn Du ............ 98
Chƣơng 4. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRONG
TRUYỆN KIỀU .................................................................................................... 113
4.1.Giá trị nhân sinh, giá trị xã hội và giá trị đối với văn hóa dân tộc ........... 113
4.2. Những hạn chế của tư tưởng triết học trong Truyện Kiều ...................... 139
C. KẾT LU N ....................................................................................................... 153
NHỮNG CÔNG T ÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ IÊN Q AN ĐẾN
LU N ÁN ............................................................................................................. 155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 156
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được chưng cất từ tinh hoa
trí tuệ dân tộc, đứng ở vị trí hàn lâm cao sang nhưng lại có sức lan tỏa với sức sống
mạnh mẽ trong dân chúng. Từ bậc học giả đến tầng lớp thường dân không ai lại
không thuộc một vai câu Kiều. Hơn ba ngàn hai trăm câu thơ từ xưa được phổ biến
sâu rộng trong đời sống nhân dân. Người ta có tâm trạng thường đọc Kiều, vui thì
hát Kiều, vịnh Kiều, buồn lại lẫy Kiều, lo lắng bất an trong lòng thì bói Kiều, thi thố,
giải trí lại đố Kiều, tập Kiều. Chừng ấy câu thơ của Kiều như có cuộc sống riêng
ngoài đời vì có thể bất kỳ tâm trạng vui, buồn, thương, ghét nào của con người cũng
có thể ứng với một hai câu Kiều để biểu lộ, để ngẫm ngợi, để giải tỏa, biện minh,
giải thích và đồng cảm. Có những câu Kiều đã trở thành chân lý trong tư duy của
quần chúng, có tính triết lý rất sâu sắc. Trong một thời gian dài, Truyện Kiều với
những giá trị mà tác giả truyền tải đã xâm nhập vào những hành vi ứng xử của người
dân trong đời sống. Truyện Kiều như là triết lý ở đời khuyên răn con người về lẽ
sống, chỉ dạy về cách xử thế trong đời. Đọc Truyện Kiều, thuộc Kiều, nghiên cứu
Truyện Kiều sẽ thấy được những giá trị triết học trong đó để trở nên “Người” hơn,
nhân ái hơn, văn hóa hơn và học được cách ứng xử trong cuộc sống trí tuệ hơn.
Truyện Kiều thật đẹp về mặt văn chương, sâu sắc về mặt chính trị, hội tụ đầy đủ
các giá trị chân-thiện-mỹ mang tính dân tộc, đầy tính triết lý nhân sinh cùng sự minh
triết trong cuộc đời. Mặt khác, Truyện Kiều còn có tính giáo dục ở nhiều phương
diện, chuyên chở trong đó một nền tảng ý thức nhân văn và luân lý đạo đức của người
Việt Nam một cách tự nhiên và sâu sắc. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường với sự
mở rộng giao lưu văn hóa, hội nhập như hiện nay nếu thế hệ trẻ Việt Nam chỉ trang bị
cho mình vốn kiến thức về văn hóa của dân tộc hết sức mong manh thì sợ rằng luồng
gió văn hóa ngoại lai sẽ thổi bay đi hết những giá trị văn hóa thuần Việt. Với việc
nghiên cứu đề tài “Tư tưởng triết học trong Tuyện Kiều của Nguyễn Du” tác giả
mong muốn thế hệ trẻ biết tiếp thu, giữ gìn và trân trọng những tinh hoa văn hóa của
dân tộc qua đó tự trang bị cho mình vốn hiểu biết cần thiết về giá trị văn hóa của
chính dân tộc mình, bởi lẽ Truyện Kiều là thi phẩm kiệt xuất chứa đựng rất nhiều tinh
hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam.
1
Bàn đến Truyện Kiều, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ở các góc
độ khác nhau, nhưng Truyện Kiều vẫn là một đề tài hấp dẫn cho bất cứ ai đến với nó.
Không phải là trường hợp ngoại lệ, Truyện Kiều đặc biệt hấp dẫn và cuốn hút tác giả
khi đặt vấn đề khám phá tư tưởng triết học ẩn chứa trong tác phẩm. Việc tìm ra tư
tưởng triết học trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý giải được phần nào nguyên nhân tạo
ra giá trị bất hủ của Truyện Kiều và làm tăng tính giáo dục bằng những luân lý đạo
đức cho con người. Làm rõ tính triết học ẩn chứa trong Truyện Kiều sẽ góp phần lý
giải được về kiếp người, về số phận con người, hiểu thêm về quan niệm sống ở đời,
về triết lý nhân sinh, thấy được giá trị của những triết lý trong Truyện Kiều đối với xã
hội, học được cách ứng xử tao nhã, tế nhị, văn hóa và vô cùng trí tuệ. Vì vậy, đề tài
mong muốn khảo sát các tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, một tác phẩm văn
học nổi tiếng của dân tộc, từ đó thấy được giá trị của những tư tưởng triết học
trong Truyện Kiều đối với văn hóa dân tộc và đối với đời sống xã hội hiện nay.
Đặc biệt trong thời kỳ phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ
thông tin như vũ bão, với xu thế hội nhập, mở rộng sự giao lưu về văn hóa như
hiện nay thì việc bảo tồn, giữ gìn, tôn vinh và học hỏi những giá trị tinh hoa của
triết học dân tộc lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
+ Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ tư tưởng triết học trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, qua đó rút ra
được giá trị của nó đối với đời sống nhân sinh, xã hội và đối với văn hóa dân tộc.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ bối cảnh lịch sử - xã hội và các dòng tư tưởng ảnh hưởng đến sự ra đời
của tác phẩm Truyện Kiều cùng những sáng tạo của Nguyễn Du so với nguyên tác.
- Làm rõ những nội dung tư tưởng triết học cơ bản trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
- Đánh giá về giá trị và hạn chế của các tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
đối với đời sống xã hội.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
+ Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là tư tưởng triết
học trong Truyện Kiều, chủ yếu tập trung vào triết học nhân sinh và tư tưởng triết
học xã hội.
2
+ Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi của luận án chỉ giới hạn việc phân tích tư tưởng triết học trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du ở khía cạnh triết học nhân sinh và triết học xã hội. Lấy cuốn
“Nguyễn Du và Truyện Kiều” của Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích
làm tài liệu chính để trích dẫn các câu Kiều.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
+ Cơ sở lý luận:
Tác giả luận án lấy lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận. Đồng thời đặt
mọi vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng và đặt trong điều kiện lịch
sử cụ thể để nghiên cứu một cách khách quan về những tư tưởng triết học cơ
bản trong Truyện Kiều qua đó rút ra được những giá trị và hạn chế của nó trong
đời sống xã hội.
+ Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: so sánh và đối
chiếu, phân tích và tổng hợp, phương pháp liên hệ thực tiễn và phỏng vấn lấy ý
kiến chuyên gia.
5. Đóng góp mới của luận án
+ Luận án đã làm rõ được sự ảnh hưởng của các dòng tư tưởng triết học đến
Truyện Kiều của Nguyễn Du, như tư tưởng Việt Nam, tư tưởng Nho - Phật - Lão.
+ Luận án đã phân tích và làm rõ được những nội dung cơ bản của tư tưởng
triết học trong Truyện Kiều, đó là tư tưởng triết học nhân sinh và tư tưởng triết học
xã hội.
+ Từ việc nghiên cứu và làm rõ tư tưởng triết học trong Truyện Kiều, luận án
đã rút ra được giá trị và hạn chế của nó đối với đời sống xã hội và đối với văn hóa
của dân tộc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
+ Ý nghĩa lý luận:
Kết quả của luận án đạt được giúp chúng ta hiểu hơn về tư tưởng triết học của
chính dân tộc mình, từ đó hiểu thêm về biện chứng trong tâm hồn người Việt, giải
3
mã được sự phong phú trong đời sống tinh thần và sức mạnh vươn lên vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ trong cuộc sống hàng ngày của người dân.
Với kết quả nghiên cứu mà luận án đã đạt được sẽ góp phần học hỏi và phát
huy những giá trị văn hóa của dân tộc, gúp thế hệ trẻ Việt Nam biết tiếp thu, biết
giữ gìn và trân trọng những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình.
+ Ý nghĩa thực tiễn:
Có thể vận dụng những triết lý mang tính giáo dục mà Nguyễn Du gửi gắm
trong Truyện Kiều vào đời sống hàng ngày, vào mối quan hệ ứng xử giữa người
với người để cuộc sống ngày càng trở nên tốt đẹp hơn, văn hóa hơn.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy triết
học Phương Đông, triết học Việt Nam, và văn học Việt Nam.
7. ết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương, 11 tiết.
4
B. NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨ IÊN Q AN ĐẾN
ĐỀ TÀI LU N ÁN
1.1.Tình hình nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời Truyện Kiều và những sáng
tạo của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân
1.1.1. Những nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Truyện Kiều
Trong cuốn “Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du”, do Ủy ban khoa học xã hội
Việt Nam, Viện Văn học phát hành năm 1971, ngay ở bài “Diễn Văn khai mạc lễ
kỷ niệm 200 năm sinh thi hào dân tộc Nguyễn Du” do ông Hoàng Minh Giám đọc
đã khẳng định: Thời đại Nguyễn Du là thời đại đau khổ và oanh liệt vào bậc nhất
trong lịch sử Việt Nam, thời đại của chế độ phong kiến mục nát, thời đại của nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp, nhất là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn vĩ đại đã lật
đổ vua chúa trong nước và chiến thắng hai mươi vạn quân Mãn Thanh xâm lược.
Nhưng rốt cuộc xã hội Việt Nam thời ấy vẫn không thoát ra khỏi chế độ phong
kiến. Với lời khẳng định trên, tác giả đã cung cấp cho chúng ta thấy tình hình chính
trị-xã hội thời đại Nguyễn Du đầy bất ổn và hỗn loạn trong dân chúng cùng sự nổi
dậy chưa từng có của các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại giai cấp phong kiến.
Ở công trình “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Du” của giáo sư Lê
Đình Kỵ là một công trình mang tính khái quát cao đồng thời phân tích sâu sắc bối
cảnh thời đại Nguyễn Du. Cùng với sự rối ren trong xã hội, sự tiêu điều về kinh tế
và suy đồi về đạo đức là hàng loạt phong trào nông dân khởi nghĩa: “Đó là lịch sử
của những nội chiến miên man, của những cuộc tranh giành địa vị, giết hại lẫn
nhau trong triều đình. Đồng thời, đó cũng là lịch sử của những cuộc khởi nghĩa
nông dân anh dũng, “cầm lửa đốt trời”, những cuộc vùng dậy của nhân dân rút
cuộc bị đè bẹp, nhưng ý chí thì không sao dập tắt nổi”[45, tr. 23].
Tác giả Xuân Diệu với cuốn “Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam” đã nói lên
sự đau khổ của thời đại thấm vào ngòi bút Nguyễn Du, để rồi bật lên tiếng khóc
lớn dưới chế độ xã hội hà khắc “Đoạn trường tân thanh” là “tiếng kêu mới về nỗi
đứt ruột”. Tác giả đã vạch ra những mâu thuẫn không giải quyết được của xã hội
phong kiến, cuối cùng Xuân Diệu kết luận: “Nguyễn Du của ta sống trong một thời
5
đại chế độ phong kiến ở Việt Nam tan rã đến tột độ, một thời đại loạn ly, một xã
hội tan nát đã làm cho tâm hồn rất mực dễ cảm, rất mực thương người của Nguyễn
Du đau đớn xót xa. Ông lấy những đau khổ của thời đại làm những đau khổ của
chính mình” [20, tr.8-9].
Bài viết “Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải” của tác giả Đặng Thanh Lê đã phân
tích một cách sắc sảo bối cảnh thời đại Nguyễn Du là một giai đoạn lịch sử có nhiều
biến cố lớn lao và mọi giá trị đều bị đảo lộn, một thế kỷ “cương thường đảo lộn, thế
sự đảo điên”. Bên cạnh những quan lại tha hóa, hèn nhát, là một số anh hùng nổi lên
với lý tưởng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”: “Thế kỷ XVIII là thế kỷ nông
dân khởi nghĩa. Sử sách cũng đã kể lại nhiều sự kiện như trên khi viết về lịch sử
vùng dậy của nông dân Việt Nam thời đại này. Ở một phạm vi nhất định, nói màn
báo ân báo oán trong Truyện Kiều gắn bó với tư tưởng “ bảo dân” của các lãnh tụ
nhân dân khởi nghĩa thế kỷ XVIII cũng không phải là không có cơ sở” [52, tr. 358].
Nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều không thể không nhắc tới
công trình vô cùng giá trị, phân tích hết sức sâu sắc mọi khía cạnh từ kinh tế, chính
trị, xã hội đến các cuộc đấu tranh giai cấp trong thời đại Nguyễn Du đó là cuốn
“Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du” của tác giả Trương Tửu. Với công trình này
Trương Tửu đã phân tích đầy thuyết phục những mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội
dẫn đến các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại bọn cường hào, diệt trừ quan
tham. Tình hình kinh tế đình trệ, cộng với sự bóc lột nông dân thậm tế của giai cấp
thống trị đã làm cho mâu thuẫn xã hội lên đến đỉnh điểm.
Lê Đình Kỵ với cuốn “Hiểu đúng đắn về Truyện Kiều” đã làm rõ tình hình rối
ren về chính trị và bất ổn về xã hội với sự sụp đổ liên tiếp của các triều đại đã làm
chấn động đến tâm hồn dễ cảm của Nguyễn Du, nhiều khi làm cho ông mất niềm
tin vào cuộc sống mà phải hướng niềm tin vào định mệnh: “Ở vào thời kỳ ly loạn,
đảo điên, tính mệnh con người như cỏ rác, tư tưởng người ta cũng dễ hướng vào
chủ nghĩa định mệnh. Thời đại Nguyễn Du là thời đại có nhiều biến cố dữ dội, bao
nhiêu sự việc diễn ra Nguyễn Du không sao hiểu được. Những tranh giành giết hại
lẫn nhau vẫn thường thấy ở các triều đại trước đến thời Nguyễn Du thì trở thành
chuyện hàng ngày” [44 ,tr. 19].
Cùng với quan điểm trên trong cuốn “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm”
Nguyễn Hữu Sơn đã phân tích về tình trạng hỗn loạn và xu thế tan rã của xã hội
6
phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ đã làm cho đời sống nhân dân hết sức cực khổ:
“Không cần phải mô tả nhiều ai cũng có thể đoán biết người dân Việt Nam sống
giữa những biến cố ấy, giữa sự tan vỡ của một chế độ đã tàn ác lại càng tàn ác hơn
trong khi nó tan vỡ thì lầm than khốn khổ như thế nào. Cái cảnh sớm màn loan
trướng huệ, chiều chiếc lá lênh đênh không phải là cảnh tưởng tượng mà là cảnh
Nguyễn Du từng mục kích, từng trải qua vậy nên Nguyễn Du đã cảm thông được
một phần nỗi khổ chung của con người bị chà đạp dưới một chế độ ngày càng thêm
mục nát” [79, tr. 483-484].
Đỗ Đức Dục với cuốn “Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du” đã phân tích
một cách cụ thể tình hình kinh tế suy sụp, chính trị rối ren và tác giả còn vẽ lên được
bức tranh khá hào hùng về cuộc nổi dậy long trời lỡ đất của lực lượng nông dân chống
lại phong kiến đứng đầu là Nguyễn Huệ: "Xã hội Việt Nam ở thế kỷ 18, đó là những
đảo lộn chưa từng thấy trên bối cảnh hoàng hôn phong kiến bầy ra một mặt thối nát và
bất lực của vua chúa, mặt khác cùng cực và trổi dậy của nông dân” [15, tr.140].
Ở công trình “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên đã
phản ánh về sự xuống dốc của đạo đức trong xã hội, sự tiêu cực và bệ rạc trong thi
cử, phản ánh một nền giáo dục hư hỏng trong bối cảnh thời đại Nguyễn Du, với
tình trạng mua quan bán chức, đút lót trong thi cử để được đậu đạt một cách công
khai “Xã hội loạn lạc của thế kỷ XVIII là nguồn gốc của những suy tư văn học và
sáng tác văn học. Nhiều tác phẩm văn học lớn đã ra đời, như “Chinh Phụ Ngâm”
của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm, “Cung Oán Ngâm Khúc” của Nguyễn Gia
Thiều, và nhất là cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du, ra đời đầu thế kỷ XIX, là tác
phẩm tiêu biểu của văn học cổ điển Việt Nam. Các tác phẩm trên phản ánh nhiều
cảnh ngộ éo le của con người, thể hiện nhiều khát vọng về tình yêu và lẽ sống, về
đạo làm người, đồng thời đề cập đến nhiều phương hướng giải quyết các vấn đề
nhân sinh và xã hội” [102, tr. 413].
“200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều” do tác giả Lê Xuân Lít sưu tầm
(2005), là một công trình đồ sộ và mang tầm vóc khoa học lớn lao, chứa đựng trong
đó nhiều bài viết sắc sảo, có giá trị rất lớn về mặt học thuật đặc biệt với bài viết
“Chiếc ngai vàng mục rũa và sấm sét của phong trào nông dân khởi nghĩa” của
Đặng Thanh Lê đã phân tích một cách sát thực về tình hình kinh tế, chính trị, đạo đức
khủng hoảng một cách trầm trọng trong toàn bộ cơ cấu xã hội phong kiến và sức trỗi
7
dậy với một khí thế chưa từng có trong phong trào nông dân khởi nghĩa. “Chưa bao
giờ, chế độ phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam lại bộc lộ bản chất
tiêu cực, phản động của nó một cách trắng trợn, lỗ liễu và toàn diện như lúc này.
Không những bất lực, nó còn đi vào con đường phản động trên mọi vấn đề kinh tế,
chính trị, ngoại giaođặt ra trước mắt. Tuy nhiên trận tuyến hàng đầu vẫn là cuộc
đấu tranh giữa những người nông dân chống lại giai cấp phong kiến với một khí thế
quyết liệt chưa từng có trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam”[52, tr. 22-24].
Ngoài những công trình, bài viết đã phân tích ở trên về hoàn cảnh lịch sử thời
đại Nguyễn Du còn có một số công trình, bài viết cũng đề cập đến vấn đề này như
cuốn “Khảo luận về Truyện Kiều của Đào Duy anh”, năm 1943, đã đề cập đến
hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều nhưng mới chỉ là bản tóm tắt, thống kê những sự
kiện lịch sử chưa phân tích về điều kiện kinh tế, chính trị thời đại Nguyễn Du. Còn
Trương Tửu thì lại tuyên bố: “Truyện Kiều là bức tranh trung thành của thời đại
Tây Sơn, tiếng nói trung thành của quần chúng nhân dân đã làm ra phong trào Tây
Sơn, ý thức sâu sắc về cuộc chiến chống phong kiến đương thời với tất cả ưu điểm,
khuyết điểm, nhược điểm của tầng lớp xã hội bị bóc lột, áp bức tiến hành cuộc
chiến đấu ấy” [101, tr. 515].
Như vậy, với những công trình tâm huyết, với những bài viết sắc sảo và những
kết luận sát thực với thực tế tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX hầu như các tác giả đã làm rõ được bối cảnh thời đại Nguyễn Du.
Tác giả luận án trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi
trước sẽ đi vào tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều một cách chuyên sâu
hơn và cố gắng tiếp cận theo một hướng kế thừa có sáng tạo để thấy được những
tiền đề kinh tế, chính trị-xã hội và tư tưởng nào đã tác động đến Nguyễn Du góp
phần hình thành nên những tư tưởng triết học trong Truyện Kiều.
1.1.2. Những nghiên cứu về sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều
so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân
Công trình “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” của tác giả
Phan Ngọc đã làm rõ được sự sáng tạo của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ở góc độ kết cấu, bố cục và cách kể chuyện,
xét về mặt kết cấu hầu như tiểu thuyết Trung Quốc đều kết cấu theo lối chương hồi
truyền thống. Sang Truyện Kiều, chúng ta hầu như bước sang một thế giới khác
8
hẳn, đây là việc Nguyễn Du làm khác hẳn so với thể loại truyền thống của tiểu
thuyết Trung Quốc, sự việc diễn ra do cái lôgic khách quan của cuộc sống, và quan
trọng hơn ông đặt sự việc vào một thế đối lập, vào những tương phản bắt người ta
phải rút ra những kết luận cần thiết.
Đào Duy Anh trong sách “Khảo luận về Truyện Thúy Kiều” đã nêu lên nhiều
vấn đề mới quan trọng như sự tích lịch sử của Thúy Kiều, đặc biệt là tác giả so
sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện, và đã nêu lên nhận định mới:
“Nguyễn Du đã hoán cốt đoạt thai Kim Vân Kiều truyện mà tạo thành một tác
phẩm hoàn toàn mới. Nguyên Văn thì tự sự rất tỷ mỷ mà khô khan, Nguyễn Du thì
tự sự vắn tắt, gọn gàng, vừa tự thuật vừa tự luận khiến văn có hứng thú, Nguyễn
Du tuy không tả thực nhưng lại là một tay tâm lý học sành sỏi”[1,tr.49]. Những ý
kiến của Đào Duy Anh rất độc đáo và giá trị vì nó đã gợi hướng mới cho những
người đi sau nghiên cứu về những sáng tạo của Nguyễn Du vượt hẳn nguyên tác.
Cùng đồng nhất với quan điểm trên tác giả Nguyễn Lộc trong cuốn “Văn học
Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX” đã cho rằng: “Ngày nay có
lẽ hầu hết học giả đều xem Truyện Kiều không phải là tác phẩm dịch hay phóng
tác, mà là một tác phẩm sáng tạo đích thực. Lẽ cố nhiên, là được sáng tạo theo các
quy luật của văn học trung đại, trên cơ sở vay mượn, cải biến, cải tạo một truyện
có sẵn để tạo thành một tác phẩm khác, xuất phát từ một cảm hứng mới với những
nguyên liệu mới, những điều nghe thấy, cảm xúc, suy nghĩ của mình trong hoàn
cảnh xã hội Việt Nam thời đại Nguyễn Du”[59,tr.67].
Nghiên cứu về vấn đề này Nguyễn Thạch Giang đã đưa ra ý kiến của mình:
“Ngày nay, tuy lác đác vẫn còn có người xem Truyện Kiều là tác phẩm dịch, mô
phỏng, song tuyệt đại bộ phận học giả vẫn xem Kiều là một sáng tác”[28,tr.73].
Ngay học giả Trung Quốc trong công trình “So sánh văn học Trung Quốc và văn
học nước ngoài‟‟ do Chu Vi Chi chủ biên. Khi đề cập tới Truyện Kiều của Nguyễn
Du tuy cũng nói “phiên bản” của tiểu thuyết Trung Quốc, song đã viết: “Truyện
Kiều tuy vay mượn đề tài của tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện, nhưng quyết
không phải là một tác phẩm dịch, cũng không phải là tác phẩm mô phỏng máy móc
đơn giản, mà là một thành quả lớn của việc cấu tứ lại một cách tinh vi, và tái tạo lại
trên cơ sở dị thực” [10, tr. 317].
9
Vượt xa tất cả những nghiên cứu đã phân tích ở trên về phương diện sáng tạo
của Nguyễn Du so với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân,
tác giả Trần Đình Sử đã đề cập tới sự sáng tạo của Nguyễn Du về góc độ tư tưởng
và quan niệm mới về con người, mà trong nguyên tác không có để cho ra đời một
kiêt tác bất hủ với thời gian, tuy nhiên tác giả chưa đi sâu vào chứng minh và làm
rõ cụ thể sáng tạo về mặt tư tưởng mới như thế nào nhưng phải thừa nhận đây là
một tìm tòi và phát hiện vô cùng đáng trân trọng và có giá trị gợi mở cho người đi
sau tiếp tục nghiên cứu mà từ trước chưa ai đề cấp tới.
N.L Niculin, nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam, đã có bài viết hết sức đặc
sắc “Nguyễn Du nhà thơ nhân đạo lỗi lạc” trình bày một cách thuyết phục những
sáng tạo bậc thầy của Nguyễn Du trong Truyện Kiều so với nguyên tác ban đầu về
cốt truyện, về hình tượng nhân vật, đặc biệt tác giả nhấn mạnh sự sáng tạo của
Nguyễn Du trong việc dựa trên truyền thống thơ ca Việt Nam và đã sử dụng rất
nhiều hình ảnh của ca dao để sáng tạo ra một hệ thống hình tượng độc đáo.
Lê Hoài Nam đã có một sự so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện rất
chi tiết trong cuốn “200 năm nghiên cứu và bàn luận về Truyện Kiều” về phương
diện hình thức nghệ thuật, phương pháp sáng tác cho đến tính hiện thực, tính tư
tưởng, đồng thời tác giả đã thực hiện việc đối chiếu giữa hai tác phẩm để tìm ra
điểm dị đồng về các mặt như tổ chức kết cấu, tính cách nhân vật, cơ sở chủ đề tư
tưởng. Từ kết quả những so sánh ấy tác giả đã rút ra những nhận định về cách xử
lý cuốn Kim Vân Kiều truyện, về tài năng nghệ thuật, về phong cách và phương
pháp sáng tác, về thế giới quan Nguyễn Du và giá trị chân chính của Truyện Kiều.
Đây thực sự là một bài viết tâm huyết, so sánh một cách chi tiết và đưa ra những
kết luận hết sức giá trị, đồng thời tác giả đã có những phát hiện mới mẻ về sáng tạo
của Nguyễn Du vượt trội nguyên tác.
Trong cuốn “Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm”, tác giả Nguyễn Hữu Sơn với
bài viết “Tiếp cận Truyện Kiều của Nguyễn Du trong sự so sánh với Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân” đã làm nổi bật sự khác biệt về nội dung xã
hội, màu sắc triết lý. Đây thực sự là một quá trình nghiên cứu dựa trên tinh thần
khoa học, đã đi sâu lý giải giá trị và đặc trưng của mỗi tác phẩm và tác giả đã đi
đến kết luận: “Thực tế cho thấy, nếu tác phẩm gốc, nguyên mẫu thường mới chỉ là
những phác họa, những nguyên liệu mới được pha chế, thì các nhà nghệ sĩ đã phù
10
phép hoán cải cốt truyện, mở rộng dung lượng hiện thực, đưa vào trong đó ý nghĩa
triết lý, sức khái quát cao và được thể hiện trong một hình thức nghệ thuật sinh
động” [79, tr. 530].
Trần Thị Phương Phương với bài viết “Tiếp cận Truyện Kiều từ hướng văn
học so sánh và phương pháp so sánh loại hình lịch sử”. Ở bài viết này tác giả đã có
ba hướng chủ yếu trong việc so sánh, nhứ nhất là so sánh Truyện Kiều với chính
nó, đây là vấn đề liên quan đến văn bản, thứ hai là so sánh Truyện Kiều với các tác
phẩm văn học dân tộc vừa cho thấy sự phát huy truyền thống trong sáng tác của
Nguyễn Du, vừa cho thấy những nét độc đáo đặc sắc của riêng nhà thơ và Truyện
Kiều. Và điều quan trọng thứ ba là việc so sánh Truyện Kiều với nguyên tác của
nó, từ đó tác giả khẳng định: “Việc so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện
cho thấy nguồn gốc của Truyện Kiều, nhưng chủ yếu cho thấy Truyện Kiều của
Nguyễn Du không phải là bản dịch từ văn xuôi sang văn vần, mà là một sáng tác
của Nguyễn Du cả về mặt hình thức và nội dung tác phẩm” [56, tr. 628].
Như vậy, qua những công trình đã khảo cứu ở trên dù đánh giá khác nhau như
thế nào về mức độ sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều nhưng tất cả đều
thống nhất và đi đến kết luận: Truyện Kiều không phải là một tác phẩm dịch mà là
một kiệt tác được sáng tạo vô cùng độc đáo bởi trái tim và khối óc tài hoa của thiên
tài Nguyễn Du. Mặc dù các tác giả đã chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Du về mặt
văn chương, nghệ thuật, cốt truyện, tình tiết, nhân vật, tuy nhiên chưa có tác giả
nào bàn đến việc sáng tạo của Nguyễn Du trong quan niệm mới về con người, về
cuộc đời đầy biến động, về một chủ nghĩa nhân đạo mới mà trong nguyên tác
không có, tức là Nguyễn Du đã lồng vào đó một tư tưởng mới, đây là sự sáng tạo
cần phải nghiên cứu và làm rõ, vậy nên tác giả luận án trên cơ sở tiếp thu những
nghiên cứu của các học giả đi trước để làm nền tảng, cơ sở cho mình đi vào tìm
hiểu nghiên cứu về tư tưởng mới Nguyễn Du đã gửi gắm trong Truyện Kiều.
1.2. Tình hình nghiên cứu về ảnh hƣởng của tƣ tƣởng triết học Việt Nam
và triết học Nho - Phật - Lão trong Truyện Kiều
1.2.1. Những nghiên cứu về ảnh hƣởng của tƣ tƣởng triết học Việt Nam trong
Truyện Kiều.
Trước khi nói tới ảnh hưởng của tư tưởng triết học Việt Nam trong Truyện
Kiều chúng ta tìm hiểu một số quan điểm về vấn đề Việt Nam có triết học hay
11
không? Hay Việt Nam chỉ có tư tưởng triết học. Giáo sư Nguyễn Tài Thư cho rằng
“Từ rất sớm trong lịch sử, người Việt Nam đã hình thành một loại kiến thức chung
có tính chất phổ biến cho cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Kiến thức đó là
gì? Là triết học hay chưa triết học? Là tư tưởng đang quá độ đến triết học? Nhưng
mọi người đều nhất trí xem đó là kiến thức khái quát nhất...u văn học của Trung
Quốc đã phân tích một cách sâu sắc nguồn gốc của tư tưởng tài mệnh tương đố là
xuất phát từ thực tại khổ đau của con người, tác giả lý giải nguyên nhân từ xã hội,
từ những mâu thuẫn trong xã hội, từ những lực lượng đối lập với Kiều. Đây là cách
nhìn nhận và phân tích mâu thuẫn tài mệnh dựa trên lập trường duy vật biện
chứng: “Trong thời đại mà cả công lý đến chính nghĩa cũng không có, thì vận
mệnh của một người phụ nữ bình thường là bi thảm như thế đấy. Tư tưởng “tài
mệnh tương đố” được thể hiện qua hình tượng Vương Thúy Kiều, thực ra đã phản
ánh hiện tượng đáng nguyền rủa về những mâu thuẫn giữa những con người có tài
năng với hiện thực đương thời. Bằng ngòi bút xuất sắc của mình, tất cả sự mục
ruỗng và đen tối của xã hội phong kiến đã được nhà thơ phơi bày ra trước mắt
người đọc, với một sự phê phán đúng mức”[25, tr.128-129].
Đồng tình với quan điểm trên, tác giả Đỗ Đức Dục cũng cho rằng: “Thật ra cái
thuyết “tài mệnh tương đố” có cơ sở thực tế, cơ sở xã hội của nó, và nó có tính chất
phổ biến, nghĩa là nó nảy sinh ở bất cứ chế độ xã hội nào có đấu tranh giai cấp, có
áp bức bóc lột, khi mà người ta chưa nhận thức được đầy đủ vấn đề đấu tranh xã hội,
vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, và quan niệm những lực lượng xã hội một
cách siêu hình hay xem đó như những thế lực siêu nhiên và trong xã hội phong kiến
vấn đề xung đột giữa tài và mệnh là vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân tài năng và xã
hội, cuối cùng, về thực chất, đó là vấn đề quyền sống của con người và vấn đề chế
độ xã hội” [15,tr.79-80]. Với quan niệm này tác giả muốn đề cấp tới ý khách quan, ý
nghĩa xã hội rộng lớn vượt xa chủ đề tài mệnh, vượt xa tư tưởng chủ quan của tác
giả, nó đề cấp tới vấn đề quyền sống của con người trong xã hội phong kiến.
Xuân Diệu với cuốn “Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam” đã cho rằng mọi
khổ đau của người tài hoa là do xã hội phong kiến, chính xã hội suy đồi, phản động
24
đã bóp chết tài năng, xã hội phong kiến chật hẹp không dung nổi tài năng chứ
không có mệnh nào hết. Đây là một lập luận đanh thép và đúng với tồn tại thực
trong chế độ phong kiến: “Cái chế độ phong kiến ấy càng kéo dài, càng tan rữa và
hà khắc, nó không dung nổi tài hoa, những Đỗ Thập Nương phải làm kỷ nữ, những
Thúy Kiều phải bán mình, những Gia Bảo Ngọc phải uất hận, cái xã hội ấy cũng
không dung nổi những hồng nhan, đẹp quá là đã không tuân theo cái mực thước
phong kiến rồi, “hồng nhan bạc mệnh” phải đâu chỉ là một thành kiến để thở than,
bốn chữ đó là tổng kết kinh nghiệm của hàng ngàn năm sự đời dưới chế độ phong
kiến” [20, tr.73-74].
Cùng với quan điểm của Xuân Diệu là quan điểm của Thái Kim Đỉnh và
Hoàng Ngọc Hiến trong cuốn “Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam” đã cho rằng
số mệnh chính là những nguyên nhân trực tiếp và thực tại chứ không phải lực
lượng thần bí, đó là những thủ phạm gây ra số kiếp long đong của nàng Kiều, đây
là thực tại của những thiết chế trong một chế độ phong kiến suy tàn. Như vậy, mâu
thuẫn tài mệnh thực ra là mâu thuẫn giữa chế độ xã hội phong kiến bất công và bản
chất tốt đẹp của con người.
Tán thành với ý kiến trên của Kim Đỉnh và Ngọc Hiến hai tác giả Đặng
Nguyên Cẩn và Đặng Thai Mai cũng đã đưa ra ý kiến hết sức sắc sảo và khẳng
định: “Mâu thuẫn trong Truyện Kiều là mâu thuẫn giữa tài năng với chế độ, mâu
thuẫn giữ chế độ xã hội bất công với tài năng con người là một mâu thuẫn tuyệt
đối. Bao giờ còn chế độ xã hội bất công, nhất là ở giai đoạn suy vong của chế độ
xã hội này, tài hoa chỉ còn là một mối hận hết sức thê thảm. Nói một cách khác,
Nguyễn Du đặc biệt chú trọng trình bày, miêu tả mâu thuẫn sâu sắc giữa khát vọng
hạnh phúc của con người với những thế lực xấu xa, tàn bạo của chế độ phong
kiến”[50, tr.129-130].
Trong cuốn “Hiểu đúng đắn về Truyện Kiều” tác giả Lê Đình Kỵ đã đi vào
phân tích mâu thuẫn tài mệnh có cơ sở từ xã hội phong kiến vì xã hội phong kiến
vốn không dung nạp tài năng, và nó tồn tại trong xã hội phong kiến nói riêng và
trong xã hội áp bức bóc lột giai cấp nói chung. Đây là một tìm tòi và phát hiện
đáng được tiếp tục đi vào nghiên cứu để thấy hết được giá trị tích cực và cống hiến
của Nguyễn Du trong Truyện Kiều mà một số người chỉ xét trên khía cạnh duy tâm
máy móc rồi cho rằng thuyết tài mệnh trong Kiều là hạn chế của Nguyễn Du tin
25
vào lực lượng thần bí, vì bóc cái siêu hình thần bí đi thì hiện rõ nội dung xã hội
thực tế sâu sắc và có giá trị tố cáo mạnh mẽ.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu về các công trình, bài viết nêu trên của các tác giả
chúng ta thấy hầu hết các tác giả đều cho rằng mâu thuẫn tài mệnh trong Truyện
Kiều là mẫu thuẫn giữa tài năng con người với chế độ phong kiến, mâu thuẫn giữa
quyền sống con người với chế độ xã hội bất công hay là mấu thuẫn giữa chế độ
phong kiến xấu xa với bản chất tốt đẹp của con người. Thống nhất với cách hiểu có
căn cứ thực tế đó tác giả luận án sẽ đi sâu vào nghiên cứu mâu thuẫn tài mệnh
trong Truyện Kiều với cái nhìn biện chứng và trên lập trường duy vật, gạt bỏ đi
những yếu tố duy tâm, thần bí sẻ làm nổi bật được nội dung xã hội và sự thật lịch
sử mà Nguyễn Du muốn gửi gắm, muốn chia sẻ, đồng thời lên án, phê phản tất cả
những gì bóp nghẹt và vùi dập tài năng của con người.
1.3.2 Tình hình nghiên cứu về triết học xã hội trong Truyện Kiều
1.3.2.1 Những nghiên cứu về bản chất của nhà nước phong kiến trong Truyện
Kiều
Đầu tiên có thể kể đến công trình “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực” của
Lê Đình Kỵ, đây là một công trình hết sức giá trị, tác giả đã nhìn thẳng vào sự thật
lịch sử mà cho rằng mọi nổi oan khổ của con người trong Truyện Kiều là do xã hội
phong kiến gây nên, tác giả phê phán và vạch trần những bộ mặt đại diện cho triều
đình phong kiến là những ông quan hiểm ác, điển hình là Hồ Tôn Hiến hèn nhát và
đầy phản trắc “Nhưng rõ ràng “oan kia theo mãi với tình” chỉ là thực tế của xã hội
phong kiến, xã hội của những Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Hồ Tôn Hiến. Hồ
Tôn Hiến được đại diện cho triều đình, nhưng thêm vào tính tàn bạo thông thường
của bọn quyền thế, hắn còn hèn nhát và phản trắc. Hồ Tôn Hiến không dám đương
đầu với Từ Hải và đang tâm giết hại kẻ đã qui hàng” [45, tr.150].
Trong cuốn “Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam” do Hồ Ngọc Lệ sưu tầm
và tuyển chọn đã chỉ ra tệ nạn tham ô trong xã hội phong kiến, vạch mặt thẳng
thừng những ông quan ăn tiền một cách trắng trợn trong Truyện Kiều “Bước
đường lưu lạc của cô Kiều bắt đầu. Quan nha đòi cho được ba trăm lạng tiền lót.
Để chuộc cha Kiều phải bán mìnhChính quyền phong kiến là thủ phạm đã làm
cho nhà họ Vương vô tội phải tan nát, cho cô Kiều phải lênh đênh. Truyện Kiều
quả là một bản cáo trạng bằng thơ, bằng hình tượng nghệ thuật, để bộc lộ tất cả cái
26
thối tha của chế độ quan liêu phong kiến đang sa đọa trên con đường tan rã. Là vì
nó thối nát từ cuống tim, từ đầu óc” [50,tr.52-53].
Cũng nói về vấn đề “đổi trắng thay đen” của đồng tiền trong bài viết “Đặc sắc
của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung Truyện Kiều” tác giả Đặng Thai Mai đã
lên án xã hội phong kiến trong Truyện Kiều luôn sử dụng sức mạnh của đồng tiền để
tác oai, tác quái, làm giàu cho lũ quan nha. Đồng tiền đã cho phép cả lũ ác ma như
Mã Giám Sinh với Tú Bà mua người bán người dưới sự che chở của pháp luật.
N.I.Niculin với bài viết “Nguyễn Du nhà thơ nhân đạo lỗi lạc” đã phân tích rất
sâu sắc với tất cả lập luận có căn cứ về những thế lực xã hội trong Truyện Kiều đã
cản trở hạnh phúc của con người, quyền sống của con người, đó là tầng lớp quan
lại, bọn sai nha,và đặc biệt là sức mạnh của đồng tiền “Nhưng trong xã hội phong
kiến có những thế lực hung hãn cản trở hạnh phúc đó. Và trong số những lực lượng
hắc ám đó, trước hết Nguyễn Du nêu rõ bọn quan lại phong kiến. Suốt từ đầu chí
cuối thiên trường ca lộ rõ thái độ phê phán, phủ định của nhà thơ đối với bọn quan
lại, từ bọn sai nha cho đến bọn quyền thần vốn chỉ biết có luật lệ, hối lộ và lộng
hành. Pháp luật của họ dựa trên nguyên tắc: “Trong tay đã sẵn đồng tiền. Dẫu lòng
đổi trắng thay đen khó gì” [74, tr. 75].
Lưu Trọng Lư với bài viết “Một quyển kinh về tình thương” lại lên án, phê
phán xã hội phong kiến ở sự lọc lừa, buôn bán, kiếm lời trên thân xác người phụ
nữ, đây là một kết luận nhức nhối, phản ánh trung thực xã hội Truyện Kiều và nói
lên được nhưng đày đọa mà người phụ nữ phải gánh chịu “Trong Truyện Kiều ta
thấy rõ mặt mũi những tên buôn người. Trước đó ông truy ra tội ác của đồng tiền,
ông lên án những ông quan lớn, nhỏ, đổi trắng thay đen, áp bức, lật lọng, sau đó
Nguyễn Du nói đến bọn buôn người” [61, tr. 988].
Nguyễn Khắc Viện với bài viết “Giới thiệu về Truyện Kiều” đã lên án, phê
phán xã hội phong kiến ở phương diện đạo đức, chính đạo đức phong kiến đã bóp
nghẹt tình yêu và hạnh phúc của người phụ nữ, những lễ giáo phong kiến khắt khe
đã làm điêu đứng cuộc sống của bao người phụ nữ dưới xã hội cũ. Bài viết đã góp
một tiếng nói lên án, phê phán xã hội tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc của con người,
đồng thời khẳng định giá trị của chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều “Một thứ
chủ nghĩa nhân đạo mang tính chất tố cáo khi tác giả dùng lối hiện thực châm biếm
miêu tả cái xã hội tàn bạo đã chà đạp mọi ước mơ vô tội của một cô gái đang thì
27
hoa nở, dìm tấm thân của cô xuống bùn nhơ. Chủ nghĩa nhân đạo đó, nhà thơ lớn
Nguyễn Du đã toát ra bằng những giọng khi dịu dàng, khi thống thiết, khắc sâu vào
lòng của hàng triệu người niềm khao khát hạnh phúc mà xã hội phong kiến luôn
luôn tìm cách bóp nghẹt” [107, tr.762-763].
Như vậy, qua sự phân tích với rất nhiều ý kiến vạch trần, lên án bản chất xấu
xa của nhà nước phong kiến trong Truyện Kiều, chúng ta thấy hầu hết các tác giả
đã lên án nhà nước phong kiến về nạn tham quan, xử kiện bằng tiền, những ông
quan tráo trở, phản trắc, tệ nạn buôn người với những nhà chứa lỗ liệu. Đó là
những vấn đề nhức nhối mà các tác giả đã nghiên cứu và khai thác. Tác giả luận án
tiếp tục kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước đã đạt được đồng thời làm rõ
thêm những vấn đề xung quanh sự lên ngôi của đồng tiền làm đảo lộn các giá trị
đao đức trong xã hội, sự lật lọng, đểu giả, bội ước của quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến
lừa gạt giết chết một người anh hùng. Sự khắt khe của lệ giáo phong kiến đã chôn
vùi niềm kiêu hãnh được làm người và được hưởng hạnh phúc của Thúy Kiều. Sự
chối bỏ hạnh phúc lứa đối của Kiều với Kim Trong ở đoạn kết là một tiếng kêu
nhức nhối, là một bản cáo trạng đanh thép đánh vào xã hội phong kiến, chính xã
hội phong kiến đã bóp nghẹt và chặn đứng hạnh phúc của con người, tác giả sẻ làm
rõ khía cạnh này trong luận án.
1.3.2.2. Những nghiên cứu về tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân
dân trong Truyện Kiều
Trương Tửu với công trình “Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du”, đây là một
cuốn sách có giá trị và mang tính hiện thực vì tác giả đã góp tiếng nói đề cao tinh
thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do cho con người “Lòng tha thiết thèm
khát một cuộc đời tự do, lòng thiết tha đòi hỏi một sự trả thù quyết liệt để lập lại
công lý nhân đạo trong xã hội, lòng căm thù đối với bọn bóc lột, tất cả những yếu
tố phản phong ấy của các tầng lớp bị áp bức sống bao nhiêu năm dưới bàn tay đẫm
máu của bọn thống trị phong kiến đều kết tinh vào Từ Hải, vào cuộc khởi nghĩa
oanh liệt của Từ Hải” [101,tr.174].
Công trình “Hiểu đúng đắn Truyện Kiều” đã nói lên được khát vọng ngàn đời
của con người, khát vọng tự do và hạnh phúc, đồng thời phản ánh được cuộc nỗi
dậy của quần chúng nhân dân nhằm thực hiện ước mơ giải phóng hào hùng nhất
“Từ một bức tranh xã hội không chút ảo tưởng, người đọc sẻ rút ra cái kết luận cần
28
thiết về việc đấu tranh cho mọi chế độ xã hội công bằng, không còn có những nạn
nhân, như Thúy Kiều, như Từ Hải, trong đó cái hay, cái đẹp được nảy nở, con
người được sống trong hạnh phúc, thực hiện được những nguyện vọng chính đáng
nhất của mình” [44, tr. 34].
Từ Sơn với bài viết “Tác phẩm của Nguyễn Du sống mãi trong lòng nhân dân”
trong cuốn “Kỷ niệm hai trăm năm năm sinh Nguyễn Du” (1971). Tác giả đã nói
lên được ước mơ dẹp tan nỗi bất bằng, xóa sạch những bất công trong xã hội. Đặc
biệt là ước mơ Từ Hải, tác giả cho rằng Từ Hải là hiện thân sự vùng dậy khởi
nghĩa của quần chúng bị áp bức, nhưng rất tiếc Từ Hải lại đầu hàng, điều này phản
ánh những cuộc nổi dậy chống phong kiến áp bức của nhân dân thất bại, và tác giả
khẳng định đây chính là sự yêu mến con người, muốn xóa bỏ mọi bất công, hướng
con người đến hạnh phúc là chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
Đăng Thanh Lê trong bài viết “Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải” đã dành
nhiều tình cảm lẫn sự hối tiếc làm nổi bật được ý nghĩa xã hội của nhân vật. Tác
giả cho rằng hành động anh hùng “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha” của Từ
Hải làm thỏa mãn ước mơ công lý, khát vọng tự do của nhân dân. Từ Hải là giấc
mơ hạnh phúc, giấc mơ giải phóng, có ý nghĩa phản phong. Mặc dù hạn chế về
việc đầu hàng giữa chừng nhưng đặt trong hoàn cảnh đương thời vẫn có giá trị tiến
bộ và rút ra được bài học đắt giá đối với xã hội hiện nay.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc với công trình “Văn học Việt Nam nửa cuối thế
kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX” đã đi sâu vào khai thác cuộc sống thời đại của
Nguyễn Du, đưa ra được những tìm tòi, phát hiện về sự đối lập gay gắt giữa quyền
sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ với chế độ phong kiến nghẹt thở,
không lối thoạt, buộc con người phải đứng lên tự tháo gỡ, tự nới lỏng không gian
sống cho mình. Công trình “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du”
của Lê Đình Kỵ đã có những đóng góp đáng kể trong việc thức tỉnh tinh thần đấu
tranh đến cùng không bỏ cuộc, không đầu hàng để có được tự do và công lý của
quần chúng nhân dân. Tác giả cho rằng: Nguyễn Du đã tiếp thu được những giá trị
tinh thần của nhân dân, những khát vọng tự do, công lý của những con người bị
chà đạp, và nhân vật Từ Hải là kết tinh một luồng tư tưởng tự do và công lý của
thời đại. Nguyễn Du của chúng ta không chỉ biết kêu thương, cam chịu mà đã cùng
nhân vật của mình vùng lên.
29
Nhà văn Cu Ba Fêlích Pita Rôdriget với bài viết “Nguyễn Du nhà thơ vĩ đại
của dân tộc Việt Nam” đã ca ngợi tinh thần đấu tranh cho tự do và công lý. Tác giả
đánh giá Truyện Kiều là một bài thơ chiến đấu, tố cáo sự tàn bạo của chế độ phong
kiến. “Điểm nhất quán là tinh thần quật khởi, tinh thần đấu tranh cho sự tự do, tinh
thần đó đã được duy trì và không ngừng phát triển một cách đáng khâm phục trong
quần chúng dân nhân. Tinh thần nhất quán đó nảy nở trong toàn bộ nền văn học
truyền khẩu của thời đại Nguyễn Du như là sự phản ánh tự nhiên của cuộc đấu
tranh đó” [76, tr. 97-98]. Đây là một đánh giá, nhận xét sắc sảo và vô cùng gía trị
của một tác giả nước ngoài đối với Truyện Kiều. Ý nghĩa của bài viết là ở chỗ, tác
giả khẳng định tính chiến đấu, tinh thần đấu tranh cho tự do và công lý của nhân
dân và tố cáo sự bạo tàn của chế độ phong kiến trong Truyện Kiều.
Lê Trí Viễn với bài viết “Một sức mạnh vùng lên tháo củi sổ lồng” đã phản
ánh cuộc sống của nhân dân dưới chế độ phong kiến vô cùng ngột ngạt, phải có
một lối thoát, nhân dân muốn sống một cuộc sống công bằng, tự do, hạnh phúc.
Đó là qui luật của đấu tranh giai cấp nên Từ Hải xuất hiện là hợp lý .Đây là một
bài viết hay và phân tích đầy thuyết phục về hình tượng anh hùng Từ Hải dám
đứng lên phủ định cái triều đại trước mắt, tiêu biểu cho mọi sự áp bức, đè nén,
bài viết làm nổi bật được ý chí, khát vọng tự do của quần chúng nhân dân, đem
lại một sự thỏa mãn cho ước mơ tư do, ước mơ tháo củi sổ lồng, ước mơ giải
phóng con người.
Qua sự phân tích các công trình và bài viết hầu hết các tác giả đã phản ánh
được cuộc sống ngột ngạt của người dân dưới xã hội phong kiến, đòi hỏi phải có
một cuộc sống tự do. Đặc biệt một số bài viết đã khắc họa được nhân vật Từ Hải
biểu tượng của công lý, thể hiện ý chí đấu tranh đòi quyền sống của con người.
Tuy nhiên ở đây mới chỉ là những bài viết lẻ tẻ, và những công trình chưa đi vào
nghiên cứu sâu và có hệ thống về tinh thần đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do
của con người, sự đấu tranh đến cùng của nhân dân để có một tòa án công lý xử tội
những kẻ gian ác, mà người làm chủ tòa án là nhân dân như trong Truyện Kiều
Nguyễn Du đã trình bày ở màn báo ân, báo oán. Vậy nên, qua nghiên cứu đề tài
luận án, hy vọng tác giả luận án sẻ cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này.
30
1.4. Qua việc khảo cứu các công trình liên quan đến đề tài tác giả lựa chọn
và xác định những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án
Việc tiếp cận Truyện Kiều của Nguyễn Du ở khía cạnh triết học, khám phá
nghiên cứu tư tưởng của tác phẩm dưới góc độ triết học, từ đó rút ra những giá trị
và hạn chế của các tư tưởng triết học trong Truyện Kiều đối với đời sống xã hội và
đối với văn hóa dân tộc là điều cần thiết và thực sự chưa có công trình nào đi vào
nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu. Để làm được điều này tác giả luận
án lựa chọn và xác định những vấn đề thuộc nội dung của luận án cần phải tập
trung giải quyết như sau:
Một là, tác giả luận án trên cơ sở tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các
tác giả đi trước để tìm hiểu về bối cảnh kinh tế, chính trị - xã hội, tư tưởng quyết
định sự ra đời tác phẩm Truyện Kiều, cố gắng tiếp cận theo một hướng kế thừa có
sáng tạo qua đó thấy được những tiền đề kinh tế, chính trị-xã hội và tư tưởng nào
đã tác động đến Nguyễn Du góp phần hình thành nên những tư tưởng triết học
trong Truyện Kiều.
Hai là, hầu hết các tác giả đi trước đã chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Du về mặt
nghệ thuật, kết cấu, đặc sắc tâm lý nhân vật, tả tình, tả cảnh nhưng chưa có tác giả
nào nói đến sự sáng tạo của Nguyễn Du trong quan niệm mới về thân phận con
người, về cuộc đời đầy biện chứng trong Truyện Kiều, nghĩa là Nguyễn Du đã đưa
vào tác phẩm của mình một chủ đề tư tưởng mới, đây là sự sáng tạo cần phải được
nghiên cứu và làm rõ.
Ba là, qua các công trình đã khảo cứu ở trên hầu như các tác giả đều thừa nhận
viết nên tác phẩm bất hủ Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ảnh hưởng bỡi các dòng tư
tưởng triết học như tư tưởng Nho - Phật - Lão, tư tưởng Việt Nam, nổi bật là tư
tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo, tư tưởng đạo hiếu của dân tộc. Trên cơ sở kế
thừa những nghiên cứu của các tác giả đi trước, tác giả luận án sẻ tiếp tục nghiên
cứu về vấn đề này tuy nhiên đi theo một hướng mới đó là tìm hiểu và làm sáng tỏ
nguyên nhân khiến Nguyễn Du đã nâng được tiếng nói dân tộc thành ngôn ngữ thơ
ca lên một trình độ điêu luyện và rực rỡ như trong Truyện Kiều. Điều này sẽ luận
giải được sự ảnh hưởng của tư tưởng yêu nước Việt Nam trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du một cách thuyết phục. Bên cạnh đó, tác giả luận án sẻ tiến hành nghiên
cứu tư tưởng nhân đạo tích cực của dân tộc trong Truyện Kiều, đồng thời phát hiện
31
thêm những tiếp nhận của Nguyễn Du đối với ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Lão ở
phương diện bình dân, không còn nguyên nghĩa mà đã được Việt hóa, để dễ hiểu,
dễ đi vào đời sống của nhân dân như tư tưởng về đạo Hiếu của người con Việt
Nam đối với cha mẹ, tư tưởng nhân quả, nghiệp báo. Đặc biệt tác giả sẻ đi vào
nghiên cứu ảnh hưởng của tư tưởng Lão giáo về luật luật thừa trừ trong tác phẩm
mà hầu như chưa có tác giả nào đi sâu khai thác về góc độ này của sự tiếp nhận
một cách sáng tạo.
Bốn là, tác giả luận án sẽ đi vào phân tích những tư tưởng triết học nhân sinh và
triết học xã hội trong Truyện Kiều qua việc làm rõ quan niệm về cuộc đời con người
đầy biện chứng với nhiều biến động trong cuộc đời, đặc biệt là cuộc đời nhân vật
chính Thúy Kiều. Cái mới mà tác giả sẽ làm rõ hơn trong luận án đó là biện chứng
về thời gian, biện chứng về thân phân con người, và quan niệm tích cực, lạc quan
trong cuộc đời. Bên cạnh đó đi vào phân tích mâu thuẫn tài mệnh của con người
trong Truyện Kiều, đó là mâu thuẫn giữa tài năng con người với chế độ phong kiến,
mâu thuẫn giữa quyền sống con người với chế độ xã hội bất công. Đồng thời làm rõ
bản chất của nhà nước phong kiến trong Truyện Kiều với sự lên án, tố cáo những bất
công vùi dập tài năng và khát vọng sống của con người, ca ngợi tinh thần đấu tranh
đòi quyền sống, quyền tự do của nhân dân lao động thông qua hình tượng anh hùng
Từ Hải. Dưới khía cạnh triết học tác giả sẽ tập trung giải quyết và cố gắng làm
sáng tỏ những vấn đề đã lựa chọn và xác định trong luận án nêu trên đồng thời rút
ra những giá trị và hạn chế của tư tưởng triết học về nhân sinh, tư tưởng triết học
về xã hội trong Truyện Kiều.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong dòng chảy của lịch sử, mọi giá trị đều chịu sự thử thách khắc nghiệt của
thời gian, và cái gì không có giá trị sẽ dần dần rơi vào quên lãng. Đúng với quy
luật ấy, những tác giả và tác phẩm đặc sắc không ngừng được nghiên cứu, bàn luận
hết sức sôi nổi qua các thời kỳ. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một hiện tượng như
thế. Sỡ dĩ kiệt tác Truyện Kiều được đông đảo bạn đọc và các học giả bàn luận,
nghiên cứu nồng nhiệt qua từng thời kỳ bởi trong đó ẩn chứa nhiều giá trị, tích tụ
nhiều tư tưởng mà qua bao nhiêu bước đi của thời gian vẫn chưa bàn luận hết về
giá trị tư tưởng, giá trị đạo đức, giá trị văn hóa, giá trị mỹ học, giá trị triết học
trong Truyện Kiều. Hơn hai trăm năm qua Truyện Kiều luôn bị đánh thức, luôn bị
32
tra vấn, luôn bị đào sâu nghiên cứu, càng nghiên cứu người ta càng thấy ẩn chứa
trong đó nhiều tư tưởng, nhiều giá trị phù hợp với mỗi thời đại mà nhà nghiên cứu
đã phát lộ để tham gia vào dòng chảy của cuộc sống hiện tại. Tìm hiểu quá trình
nghiên cứu về tư tưởng và giá trị trong Truyện Kiều, hầu hết các công trình chỉ
mới bàn về giá trị văn hóa, giá trị nghệ thuật, giá trị luân lý, giá trị thẫm mỹ, chứ
chưa có công trình nào đề cập tới giá trị triết học trong Truyện Kiều. Qua việc tổng
quan lại các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, đồng thời đánh
giá những thành quả mà các tác giả đi trước đã đạt được và chưa đạt được một
cách khách quan, tác giả luận án nhận thấy nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các
dòng tư tưởng triết học tới Truyện Kiều của Nguyễn Du và nghiên cứu về tư tưởng
triết học nhân sinh, triết học xã hội trong Truyện Kiều, đồng thời rút ra giá trị và
hạn chế của nó trong đời sống xã hội thực sự chưa có công trình nào đề cập đến
những vẫn đề này. Vậy nên đề tài “Tư tưởng triết học trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du” mà tác giả lựa chọn làm luận án của mình là hoàn toàn mới so với các
công trình đã công bố từ trước tới nay.
33
Chƣơng 2
TRUYỆN KIỀU VÀ NHỮNG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC ẢNH HƢỞNG ĐẾN
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
2.1. Bối cảnh lịch sử ra đời của của tác phẩm Truyện Kiều và những sáng
tạo của Nguyễn Du so với nguyên tác
2.1.1 Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Truyện Kiều
Tác giả Truyện Kiều là Nguyễn Du, tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại kinh thành Thăng Long, quê ở làng Tiên Điền,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thuộc dòng dõi thế phiệt trâm anh, cha của
Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1707- 1775) đỗ tiến sĩ, làm tới chức tể tướng,
đứng đầu các hàng quan ở triều đình nhà Lê. Mẹ là Trần Thị Tần (1740 - 1778)
đẹp nổi tiếng đất Kinh Bắc, quê hương hát quan họ. Các anh Nguyễn Du đều làm
quan lớn, đặc biệt là Nguyễn Khản, một người anh cùng cha khác mẹ, đỗ tiến sĩ,
làm tới chức thượng thư bộ Lại. Mặc dù sinh ra trong gia đình quí tộc quyền thế,
nhưng Nguyễn Du sớm phải chịu cảnh đời bất hạnh, năm lên 10 tuổi Nguyễn Du
mất cha và 13 tuổi lại mồ côi mẹ, nên phải ở với người anh cả là Nguyễn Khản.
Sống với cha mẹ và anh chị ông rất được nuông chiều và có dịp được chứng kiến
những “cuộc vui đầy tháng, trận cười thâu đêm”. Đến khi về quê hương Tiên Điền
thì ông thường sang Trường Lưu hát phường vải, và khi về quê mẹ, ông lại dự
nhưng buổi hát quan họ rất trữ tình đất Kinh Bắc. Vốn dòng dõi trâm anh, tư chất
thông minh. Năm 1783 Nguyễn Du đi thi hương đỗ tam trường, làm Chánh thủ
hiệu ở Thái Nguyên. Nguyễn Du sống phong lưu không được bao lâu thì phải đối
mặt với trăm nghìn cay đắng, bới lẽ cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt
Nam bắt đầu từ thế kỷ XVIII đã bước sang giai đoạn trầm trọng cùng cực, chuẩn bị
cho sự sụp đổ vào cuối thế kỷ XIX. Chưa bao giờ, chế độ phong kiến Việt Nam,
giai cấp phong kiến Việt Nam lại bộc lộ bản chất tiêu cực, phản động của nó một
cách trắng trợn, lộ liễu và toàn diện như lúc này. Không những bất lực, nó còn đi
vào con đường phản động trên mọi vấn đề kinh tế, chính trị, đạo đức đang đặt ra
trước mắt.
- Về kinh tế, nền nông nghiệp lạc hậu càng bị đình trệ trầm trọng và nền sản
xuất hàng hóa vốn đã nảy nở từ trước đến nay cũng bị kìm hãm vì tình trạng chiến
tranh liên miên, vì hoàn cảnh chia cắt Bắc - Nam, và vì những chính sách kìm hãm
34
công nghiệp, thương nghiệp của giai cấp thống trị. Đời sống người dân hết sức khổ
cực, khốn đốn vì thiếu thốn về vật chất và bất ồn về tinh thần. Ruộng đất của nông
dân chủ yếu tập trung vào tay giai cấp địa chủ, sự phá sản và bần cùng hóa ngày
càng gia tăng, đẩy nhiều người dân vào tình trạng khốn khổ. Bên cạnh đó để có
tiền ăn chơi phung phí và trang trải cho chiến tranh, tầng lớp quan lại, vua chúa đã
đưa ra chính sách thuế khóa hết sức nặng nề. Đối lập với cảnh thiếu thốn, đói
nghèo, khổ cực của nhân dân là cảnh ăn chơi sa đọa của vua quan thống trị lại càng
làm tặng thêm sự mâu thuẫn cơ bản trong nhân dân lúc bấy giờ.
- Về chính trị - xã hội, như một quy luật, kinh tế đình đốn thường dẫn đến sự
hỗn loạn về chính trị, những mâu thuẫn vốn có, chứa chất lâu ngày trong lòng chế
độ phong kiến Việt Nam đến đây đã có dịp bùng nổ dữ dội, giai cấp phong kiến lại
càng trở nên phản động hơn. Chưa bao giờ giai cấp phong kiến lại suy đồi như thời
này. Trong lĩnh vực đạo đức, đây là lúc xuất hiện những bạo chúa khét tiếng tàn ác,
lộng quyền như Trịnh Giang, Trịnh Sâm, những quyền thần chuyên bóc lột, vơ vét
của dân như Trương Phúc Loan ở Đàng Trong, những hoàng thân quốc thích đáng
ghê sợ như Đặng Mậu Lân ở Đàng Ngoài. Tất cả đều được lưu sử sách lưu lại không
phải đức lớn công dày, mà chính vì những hành động xấu xa, tàn ác.
- Về tư tưởng: Vào thế kỷ XVIII, nền tảng tư tưởng làm bệ đỡ cho nhà nước
phong kiến vẫn là hệ tư tưởng Nho giáo, giai cấp phong kiến dùng Nho giáo làm
hệ tư tưởng chủ yếu nhằm duy trì và bảo vệ cho các tổ chức chính trị, và giữ gìn
trật tự xã hội trong khuôn khổ phong kiến. Mặc dù tầng lớp thống trị lấy Nho giáo
làm hệ tư tưởng chủ yếu cho giai cấp mình nhưng giai đoạn lịch sử này Nho giáo
không còn là hệ tư tưởng độc tôn như trước nữa, bằng chứng là xã hội ngày càng
trở nên hỗn loạn, không có một trật tự, kỷ cương nào hết, cụ thể trong lĩnh vực
giáo dục, thi cử trở nên bát nháo, mất hết tính nghiêm túc bởi nạn chạy chọt, lo lót
để đậu đạt, chứ không phải là cuộc thi khách quan để lựa chọn nhân tài cho đất
nước. Nạn mua quan bán chức càng trở nên lộ liễu, những kẻ có tiền tìm cách đút
lót, hối lộ để lên làm quan, bên cạnh đó sự lên ngôi của đồng tiền đã làm băng hoại
và đảo lộn nhiều giá trị đạo đức Nho giáo. Thực hiện được vai trò động viên, an ủi,
làm chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong thời kỳ này là Phật giáo, vì vậy Phật giáo
lại được lên ngôi. Bằng chứng là vua quan và tầng lớp thống trị rất tôn sùng Phật
giáo, qua việc sửa chữa và xây dựng các ngôi chùa mới. Bởi vì giai đoạn này đời
35
sống xã hội rối ren, phức tạp, tinh thần hoảng loạn nên người ta lại muốn tìm đến
sự tĩnh tâm và yên bình trong đạo Phật. Không chỉ tầng lớp vua chúa tìm đến Phật
giáo mà tầng lớp bình dân cũng tìm thấy ở đạo Phật sự ản ủi, che chở trong những
ngày tăm tối ở giai đoạn lịch sử bất ổn này.
Vào giai đoạn này nổi bật nhất là tình trạng rối ren hỗn loạn về chính trị, nảy
sinh trên cơ sở đấu tranh giai cấp quyết liệt và tình trạng phân liệt dữ dội trong
hàng ngũ nội bộ giai cấp phong kiến, xung quanh chiếc ngai vàng là sự tranh chấp,
chém giết lẫn nhau để giành cương vị bá chủ thiên hạ. Tình trạng chúa Nguyễn
Đàng trong, chúa Trịnh Đàng ngoài, vua Lê chúa Trịnh, cung vua phủ chúa tồn tại
song song đúng là một thực trạng trái ngược hẳn lại nguyên tắc tổ chức của chế độ
phong kiến tập quyền. Như vậy, xã hội phong kiến lúc bấy giờ không còn một chút
kỷ cương nào nữa, người dân phải gánh chịu mọi tai ương, thuế khóa nặng nề, mất
mùa đói kém, giặc giã chiến tranh.
Đến thế kỷ XVIII, phong trào nông dân khởi nghĩa liên tục bùng nổ trên khắp
đất nước Việt Nam. Ở đây tập trung những cuộc khởi nghĩa lớn mạnh nhất, với
những lãnh tụ kiết xuất một thời đã làm điêu đứng các tập đoàn phong kiến như
cuộc khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương (1740 - 1750), cuộc khởi nghĩa Nguyễn
Hữu Cầu (1741 -1751), cuộc khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1736 - 1769). Ngoài
ra, lớn nhỏ còn không biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa khác. Tất cả khí thế, sức
mạnh của thế kỷ nông dân khởi nghĩa ấy kết tinh vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn
bùng nổ năm 1771, đánh dấu vẻ vang bằng những chiến thắng của lãnh tụ áo vải
Nguyễn Huệ, mở đầu cho triều đại Sơn Tây. Nguyễn Du sống giữa thời đại nhiễu
nhương, loạn lạc. Các tập đoàn phong kiến lao mình vào những cuộc chiến tranh
cát cứ gây ra cho nhân dân biết bao cảnh khổ cực.
Thời đại Nguyễn Du là thời đại có nhiều biến cố giữ dội, là giai đoạn lịch sử
vô cùng rối ren, phức tạp. Trong mười năm trời lưu lạc ở đất Bắc, ông nếm đủ mùi
gian nan, già nửa đời người sống trong cảnh loạn lạc, phải nếm đủ mùi đắng cay,
tủi nhục của một kiếp người nghèo khổ, túng bấn, bệnh tất, long đong:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường [27, tr.123].
36
Ông bất lực và chán chường đã thốt ra” lúc loạn lạc, cười khóc cũng phải theo đời;
thân già yếu nên yên lặng để giữ mình” (Tạp Thi). Ông không nghĩ đến hành động
nữa, chỉ muốn xoa dịu vết thương l... trừ khi bị đánh đổ. Điều này Nguyễn Du hoàn
toàn trở nên lúng túng và rơi vào ngõ cụt, không lối thoát, nên nhân vật anh hùng
Từ Hãi đã thất bại thảm hại trong quá trình đấu tranh với kẻ thù. Khi bị áp bức bóc
lột, khi bị giam hãm trong cuộc đời nô lệ chỉ có con đường duy nhất là đứng lên
đấu tranh, đi theo phong trào cách mạng, đấu tranh để giải phóng cuộc đời mình,
chứ không phải trốn vào chùa để đi tu, để thoát khỏi kiếp nô lệ, đó chỉ là một giải
pháp tình thế tạm thời, là sự lánh nạn, trốn tránh khổ đau chứ không phải là con
147
đường cách mạng để thay ngôi đổi phận. Nguyễn Du đã không để cho Kiều đấu
tranh nhằm giải phóng đời mình, lại để Kiều tìm đến ngú trụ nơi cửa Phật, tìm sự
giải thoát cuộc đời trong bế tắc, nên cuối cùng đời Kiều lại tiếp tục bị áp bức một
lần nữa, lại bị lừa bán vào lầu xanh. Khi con người bị áp bức, bị làm nhục, bị vùi
dập là phải đứng lên đấu tranh cho tự do của mình chứ không phải cúi đầu cam
chịu khổ đau, để rồi lại đổ lỗi cho số, cho mệnh, thủ tiêu hết tinh thần đấu tranh
phản kháng của chính mình. Đây là hạn chế lớn của Nguyễn Du, khi đã để cho
Kiều tin vào định mệnh, tin vào nghiệp quả, tự thủ tiêu khát vọng sống của mình:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu![27, tr.115].
Hạn chế này của Nguyễn Du không chỉ bắt nguồn từ ý thức hệ phong kiến
Nguyễn Du bị ảnh hưởng mà còn do hạn chế bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt
Nam, điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam lúc bấy giờ còn lạc hậu nên chưa thể có
điều kiện cho hệ tư tưởng cách mạng xuất hiện. Tồn tại xã hội còn lạc hậu nên ý
thức xã hội bị thụ động và chưa phát triển được đó là điều đương nhiên, vậy nên
không thể đòi hỏi Nguyễn Du có được tư tưởng cách mạng triệt để như lịch sử Việt
Nam thế kỷ XX sau này, khi có hệ tư tưởng Mác - Lê Nin truyền bá, du nhập vào.
“Chịu sự áp lực của ý thức hệ các giai cấp thống trị, bị kìm hãm bởi một tình trạng
lạc hậu và nhân dân thời xưa thường không đủ sức đạt tới ý thức rõ rệt về những
đường lối đúng của sự phát triển xã hội, về những quyền lợi thực của các tầng lớp
người sản xuất ra của cải vật chất. Kết quả là: thường thường, tính chất nhân dân
của các tác phẩm văn học thời xưa, biểu hiện ra ở một hình thái chưa được chín về
lý thuyết, còn về mặt lịch sử thì hẹp hòi và vướng mắc nhiều thành kiến giai cấp”
[101, tr.75]. Đó là một thực tế lịch sử, đó cũng là lý thuyết kinh điển Mác xít.
Đối với một thiên tài như Nguyễn Du phải sống trong một hoàn cảnh xã hội
mà điều kiện lịch sử chưa cho phép xuất hiện những lý luận về xã hội khác với lý
luận phong kiến thì vấn đề đặt ra ở trên không thể giải quyết được bằng những biện
pháp lý luận thoát khỏi tính cách phong kiến, mặc dù Nguyễn Du có ý thức đấu
tranh chống phong kiến, có mầm mống tư tưởng tiến bộ nhưng khi cần khái quát
thành một thế giới quan, thành quan điểm có hệ thống phản ánh được xu hướng,
đường lối phát triển khách quan của xã hội thì lại vướng phải hệ tư tưởng phong
kiến còn tồn tại trong ý thức, chính vì thế mà Nguyễn Du luẩn quẩn, lúng túng
148
trong quan niệm và đưa ra các giai pháp bế tắc để giải quyết các vấn đề xã hội
đương thời. Đáng lẽ phải là giải pháp bằng đấu tranh giai cấp, bằng bạo lực cách
mạng, vì theo học thuyết Mác - Lên nin, giải quyết mâu thuẫn giai cấp, xung đột về
lợi ích kinh tế chỉ có thể bằng bạo lực cách mạng mà thôi, không thể theo đường
lối đấu tranh ôn hòa được. Vì bế tắc nên Nguyễn Du đã đưa ra giải pháp chữ Tâm,
bỡi ngoài giải pháp chữ Tâm ra lúc này Nguyễn Du cũng không biết quần chúng
nên đi theo con đường giải thoát nào, nếu đứng trước cái ác, đứng trước sự bất
công mà lấy giải pháp cái Tâm để đấu tranh thì cái ác, sự bất công vẫn không bị
đầy lùi, đó thực ra là một sự bất lực, rút cuộc vẫn không tự cứu được chính mình.
Vì thế Nguyễn Du mới đau lòng đứt ruột bỡi bất lực không tìm ra lối thoát khỏi
chế độ áp bức bóc lột, sống theo Tâm khi bản thân vẫn bị áp bức, bị chà đạp thì chỉ
làm cho con người đau khổ hơn. Mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Du phản ánh
mâu thuẫn trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, đó là tư tưởng lỗi thời, lạc hậu
phong kiến đã bị phá vỡ và tư tưởng mới tiến bộ chưa được hình thành trọn vẹn,
chưa có điều kiện để phát huy. Ở thời đại Nguyễn Du chưa có những điều kiện
kinh tế để những tư tưởng mới nãy mầm và phát triển, điều này là đương nhiên vì
“Một nhà văn, dù là thiên tài, cũng phải chịu sự quy định và giới hạn của thời đại
về mọi phương diện: tư tưởng, triết lý, nhãn quan chính trị, nghệ thuật biểu hiện.
Điều này đã thành một quy luật khoa học” [101, tr. 96].
Bị những điều kiện lịch sử giới hạn, cho nên phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân trong Truyện Kiều chưa thể thoát ra khỏi tính chất phong kiến nên
dẫn đến thất bại. Kinh nghiệm trong thực tiễn và lịch sử của các cuộc đấu tranh
cách mạng cho thấy nếu chưa có một đường lối cách mạng đúng đắn, chưa có một
tổ chức lãnh đạo tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ thì các cuộc đấu tranh
đều đi đến thất bại nặng nề. Nguyễn Du mặc dù mong muốn xây dựng một nhà
nước lý tưởng, trong xã hội không có áp bức bóc lột, bảo đảm ấm no, hạnh phúc
cho người dân nhưng Nguyễn Du lại không biết rằng điều mong ước của mình chỉ
có thể thực hiện được khi quần chúng nhân dân lật đổ và thủ tiêu được chế độ
phong kiến, chứ không phải ảo tưởng tin vào lời hứa của chính quyền thống trị hay
sự thỏa hiệp, nhượng bộ trong quá trình đấu tranh cách mạng, để mất tinh thần
cảnh giác, mắc vào âm mưa gian xảo của đối phương đến nỗi trở tay không kịp khi
bị đánh bất ngờ: Tin lời thành hạ yêu minh,
149
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiền binh hậu khắc cờ tập công [27, tr.223-224].
Bao nhiêu toán tính của Kiều về những quyền lợi được hưởng khi thỏa hiệp
với chính quyền phong kiến để rồi khuyên Từ Hải ra đầu hàng hoàn toàn vô nghĩa,
khi nghe lời khuyên của Kiều về chiêu an với triều đình, lúc đầu Từ Hải khước từ,
nhưng vì cả tin cùng với lập trường không kiên định, tư tưởng không vững vàng đã
trỗi dậy trong đầu óc Từ Hải những tư tưởng thỏa hiệp với phong kiến từ “Thế
công đổi ra thế hàng” là cả một sự đáng tiếc, sự sai lầm không thể nào cứu vãn nỗi,
điều này là kết quả tất yếu của những mâu thuẫn do thời đại tạo nên trong quá trình
tiến triển của tư tưởng Từ Hải, kết quả là Từ Hải bị giai cấp thống trị lừa gạt, đánh
lén từ phía sau lưng, đứng đầu là quan tổng đốc Hồ Tôn Hiến gian xảo đã lập mưu
bài binh bố trận để giết chết Từ Hải trong tình thế không ngờ nhất:
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau
Từ công hờ hửng biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ
Đang khi bất ý chẳng chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn [27, tr.224].
Lực lương quần chúng nhân dân đứng lên chống phong kiến vì chưa có điều kiện
khách quan để lật đổ chế độ phong kiến nên bị trấp áp một cách dã man. Điều này rút
ra một kinh nghiệm xương máu: trong sự bao vây chặt chẽ của chính quyền phong
kiến, tuy nó đang trên đà suy vong những còn những điều kiện lịch sử cho phép nó
tồn tại thì những manh động và tự phát của các phong trào nông dân khởi nghĩa chống
lại chính quyền phong kiến đều thất bại, cộng với sự thỏa hiệp, nửa vời trong đấu
tranh là cái giá phải trả quá đắt cho các phong trào cách mạng. Cuối cùng Nguyễn Du
vẫn không đưa ra được một giải pháp thực tiễn nào có thể giúp quần chúng nhân dân
150
lật đổ chế độ phong kiến đương thời. Biện pháp mà ông đưa ra để giải quyết mâu
thuẫn xã hội vẫn là biện pháp cải lương, không tưởng, tuy nhiên dù bị hạn chế bởi
điều kiện lịch sử thời đại những thực chất tư tưởng Nguyễn Du vẫn là tư tưởng bênh
vực và đứng về phía nhân dân lao động, phê phán nhà nước phong kiến, đề cao tính
nhân loại, đề cao tự do và công bằng, lên án, tố cáo sự áp bức bóc lột con người, tôn
vinh phẩm giá của con người và đấu tranh vì hạnh phúc của con người.
Tiểu kết chƣơng 4
Truyện Kiều được đánh giá cao trước hết ở giá trị hiện thực sâu sắc. Ngòi bút
thiên tài của tác giả đã miêu tả bộ mặt xã hội với những nhân vật điển hình, có diện
mạo và bản chất riêng, có sức tố cáo mạnh mẽ, có chiều sâu lịch sử và có tính thời
sự đối với mọi thời đại. Với Truyện Kiều, bên cạnh tiếng kêu thương đòi quyền
sống cho con người, Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội
phong kiến Việt Nam đương thời và nói lên hiện thực khổ đau của kiếp người. Với
con mắt và trái tim của người nghệ sĩ chân chính, Nguyễn Du không chỉ day dứt và
vô cùng trăn trở trước những bất công ngang trái của cuộc đời, nhà thơ còn chia sẻ
nỗi đau của kiếp người và cảm thông sâu sắc với những khát vọng thiết tha từ ngàn
đời của con người, bức xúc trước những vấn đề nóng bỏng của thời đại.
Giá trị to lớn của Truyện Kiều là ở chỗ tác giả đã phản ánh được những sự mục
rũa của xã hội phong kiến trên con đường suy vong, đã biểu hiện được một phần
những nỗi khổ cực, những nỗi day dứt của nhân dân Việt Nam vào thời cuối Lê
đầu Nguyễn và cả những ước mơ của họ về một cuộc sống bình yên, tốt đẹp. Tư
tưởng trong Truyện Kiều đã phản ánh được những ước mơ, những hi vọng đó của
nhân dân, đồng thời động viên, an ủi họ trong hoàn cảnh sống ngột ngạt, cho họ
niềm tin, sức mạnh để sống, để vươn lên trong đêm trường đau khổ.
Giá trị tư tưởng trong Truyện Kiều không chỉ là một bản án đánh thép, tố cáo
những bạo tàn trong xã hội cũ chà đạp lên quyền sống, quyền tự do của con người
mà còn là một niềm mơ ước về một xã hội công bằng, nhân ái. Yêu thương con
người bị vùi dập, xót xa trước những ngang trái, hướng con người tới điều thiện,
xóa bỏ bất công trong xã hội là những giá trị tích cực của Truyện Kiều trong thời
đại nhiều đau thương của lịch sử dân tộc.
Truyện Kiều bên cạnh những giá trị tích cực mà chúng ta cần học tập thì vẫn còn
những hạn chế bởi lịch sử thời đại, bởi ý thức hệ tư tưởng giai cấp phong kiến. Nguyễn
151
Du đã không xuất phát từ hiện thực xã hội phong kiến Kiều đang sống để lý giải về
nguyên nhân của mọi khổ đau trong cuộc đời Kiều mà lại rơi vào bế tắc, cuối cùng
đổ lỗi cho trời, cho số mệnh. Vì không lý giải được nguyên nhân gây ra đau khổ
cho con người một cách đúng đắn, nên các giải pháp mà tác giả đưa ra để giải
phóng con người thoát khỏi cuộc sống nô lệ mang tính ảo tưởng và chỉ xoa dịu nỗi
đau chứ không diệt trừ tận gốc nỗi đau.
Hạn chế này của Nguyễn Du không chỉ bắt nguồn từ ý thức hệ phong kiến mà
còn do hạn chế bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam, điều kiện kinh tế xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ còn lạc hậu nên chưa thể có điều kiện cho hệ tư tưởng cách
mạng xuất hiện. Có thể thấy sự mâu thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du là phản
ánh những mặt mâu thuẫn nhất định trong xã hội thời kỳ cuối Lê sang Nguyễn,
mới cảm thông được những mâu thuẫn bế tắc trong trong suốt cả cuộc đời đau khổ
của Nguyễn Du, mới thấy được giá trị Truyện Kiều là phản ánh những khía cạnh
trung thực của xã hội, là bản tố cáo và phê phán xã hội phong kiến bất công tàn ác,
là mơ ước giải phóng con người ra khỏi gông cùm nô lệ, để mang lại cho con
người một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc.
152
C. KẾT LU N
Truyện Kiều là tác phẩm đã đưa tên tuổi Nguyễn Du lên hàng đại văn hào thế
giới, hội tụ những giá trị quí báu của dân tộc về tư tưởng, văn học, đạo đức, triết
học. Bao nhiêu khảo luận, phê bình, nghiên cứu của rất nhiều người, rất nhiều học
giả uyên thâm thuộc hàng đại thụ trong nền văn học nghệ thuật trong suốt thời gian
qua đã phần nào chứng minh điều đó. Có thể khẳng định rằng chưa có một tác
phẩm văn chương nào của dân tộc xưa nay lại được giới nghiên cứu văn học, các
nhà tư tưởng quan tâm bình khảo, bình luận, nghiên cứu nhiều như Truyện Kiều
của Nguyễn Du, điều này nói lên vị trí đặc biệt của tác phẩm.
Trước khi đi vào nghiên cứu những tư tưởng triết học cơ bản trong Truyện
Kiều luận án đã tổng quan lại một cách có hệ thống các công trình và bài viết liên
quan đến đề tài luận án, từ đó đánh giá những kết quả đã đạt được của các nhà
nghiên cứu đi trước cũng như những đóng góp mới mà các nhà khoa học đã phát
hiện nhằm gợi mở cho những người đi sau nghiên cứu, bên cạnh đó phát hiện ra
những khoảng trống còn bỏ ngỏ mà các nhà nghiên cứu chưa đề cập tới hay đề cập
chưa sâu để tác giả luận án tiếp tục kế thừa, phát triển và đi vào nghiên cứu một
cách có hệ thống và chuyên sâu hơn.
Để việc tiếp cận và nghiên cứu nội dung tư tưởng triết học trong Truyện Kiều
một cách khách quan và khoa học luận án đã đi vào làm rõ bối cảnh lịch sử - xã hội
ảnh hưởng tới sự ra đời của tác phẩm Truyện Kiều, chủ yếu tìm hiểu điều kiện kinh
tế, chính trị, tư tưởng của thời đại đã tác động tới con người Nguyễn Du giúp ông
hình thành nên những tư tưởng triết học trong Truyện Kiều. Mặt khác qua sự đối
chiếu, so sánh luận án cũng đã làm nổi bật những sáng tạo của Nguyễn Du trong
tác phẩm so với nguyên tác, đặc biệt là sự sáng tạo về chủ đề tư tưởng, về quan
niệm mới trong tác phẩm. Tập trung vào nghiên cứu những dòng tư tưởng ảnh
hưởng tới Nguyễn Du trong quá trình sáng tác Truyện Kiều luận án cũng đã chỉ ra
sự ảnh hưởng của tư tưởng Việt Nam, nổi bật là tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân
văn, nhân đạo, tinh thần nhân ái, yêu thương con người và sự thẩm thấu của tư
tưởng Nho - Phật- Lão trong Truyện Kiều, cụ thể là tư tưởng nhân quả nghiệp báo,
tư tưởng vô thường của nhà Phật, tư tưởng đạo hiếu, tiết nghĩa của Nho giáo, tư
tưởng vô vi của đạo Lão. Điều quan trọng là những tư tưởng tốt đẹp của dân tộc
không chỉ ảnh hưởng sâu sắc tới con người Nguyễn Du mà đáng quí, đáng trân
153
trọng là Nguyễn Du đã biết kế thừa và phát triển những tư tưởng, những giá trị
truyền thống của dân tộc lên một đỉnh cao mới, mở ra một triển vọng mới: như
truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo, nhân văn của dân tộc Việt Nam.
Mặt khác khi sáng tác Truyện Kiều Nguyễn Du đã biết tiếp thu những tinh hoa chủ
yếu trong ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Lão, và vận dụng cụ thể hóa các tư tưởng
này theo phong cách riêng của Việt Nam để tạo nên những nét đặc sắc trong
Truyện Kiều.
Vấn đề trọng tâm luận án đã đạt được đó là đi vào phân tích những tư tưởng
triết học cơ bản trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nổi bật là tư tưởng triết học
về nhân sinh và tư tưởng triết học xã hội. Đối với triết học nhân sinh chủ yếu tập
trung làm rõ tư tưởng biện chứng về cuộc đời con người và mâu thuẫn tài mệnh
của con người trong Truyện Kiều. Tư tưởng về triết học xã hội luận án đã đi vào
phân tích bản chất nhà nước phong kiến và tinh thần đấu tranh đòi quyền sống,
quyền tự do của nhân dân lao động trong Truyện Kiều. Bên cạnh việc phân tích
tư tưởng triết học trong Truyện Kiều luận án đã đánh giá những giá trị cũng như
hạn chế của nó, đặc biệt là giá trị đối với đời sống xã hội và giá trị đối với văn
hóa dân tộc.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu chúng ta thấy Truyện Kiều không những nổi bật
về mặt văn chương, sâu sắc về mặt chính trị, hội tụ đầy đủ các giá trị chân - thiện -
mỹ mang tính dân tộc, đầy tính triết lý nhân sinh cùng sự minh triết trong cuộc đời.
Mặt khác Truyện Kiều còn có tính giáo dục ở nhiều phương diện, chuyên chở
trong đó một nền tảng ý thức nhân văn và luân lý đạo đức của người Việt Nam một
cách tự nhiên và điều đặc biệt Truyện Kiều không bao giờ ngủ yên trong thư viện,
mà luôn bị đánh thức, luôn được các học giả đào sâu nghiên cứu, tìm hiểu về các
giá trị ẩn chứa trong Truyện Kiều, một trong những giá trị nổi bật làm cho Truyện
Kiêu của Nguyễn Du nóng mãi với thời gian đó là giá trị triết học.
154
NHỮNG CÔNG T ÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ IÊN Q AN ĐẾN
LU N ÁN
1. Đinh Thị Điểm (4/2015), Cuộc đời con người trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4, tr. 73-78
2. Đinh Thị Điểm (5/2015), Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 5, tr. 30-34
3. Đinh Thị Điểm (7/2015), Tổng quan nghiên cứu về các khía cạnh tư tưởng
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 7, tr. 35-
41.
4. Đinh Thị Điểm (9/2015), Giá trị của Truyện Kiều đối với đời sống văn hóa
dân tộc, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 231, tr. 179-180.
5. Đinh Thi Điem (September /2015), Study on ideological aspects of The Tale
of Kieu by Nguyen Du, Social Sciences Information Review, Number. 3, tr. 43-50.
6. Đinh Thị Điểm (6/2016), Ảnh hưởng của tư tưởng Đạo giáo trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 6, tr. 37-42.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1958), Khảo luận về Truyện Thúy Kiều, Nhà xuất bản Văn
học, Hà Nội.
2. Lại Nguyễn Ân (1995), Truyện Kiều từ điển văn hóa, Nhà xuất bản Giáo dục,
Hà Nội.
3. Thích Thiên Ân (1965) “Giá trị triết học tôn giáo trong Truyện Kiều”, Văn
hóa Nguyện San, số 10, trang 9.
4. Huỳnh Công Bá (2006), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhà xuất bản Thuận
Hóa.
5. Nguyễn Khắc Bảo (2003),“Bác Hồ với Truyện Kiều”,Tạp chí Ngôn ngữ và
đời sống, số 2, tr. 3.
6. Đặng Nguyên Cẩn (2013), Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất
bản Thanh Niên, Sài Gòn.
7. Lê Nguyên Cẩn (2011), Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, Nhà
xuất bản Thông tin và Truyền thông, Hà Nội
8. Bộ giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình triết học Mác-Lênin, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Huy Cận (1994), Nguyễn Du nhà thơ cổ điển lớn cũng là nhà thơ lãng mạn
lớn đầu tiên của dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Chu Vi Chi (1993), So sánh văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam, Đại
học Nam Khai.
11. Trương Chính (1997), Một vài suy nghĩ về thân thế Nguyễn Du, Tuyển tập
Trương Chính, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
12.Trương Chính (1965) “Nói về Nguyễn Du và Truyện Kiều”, Tạp chí Văn
học, số 11.
13. Nguyễn Đình Chú (1998), “ Nguyễn Du trong thời đại Hồ Chí Minh”, Tạp
chí văn học, số 6, tr. 2.
14. G. Ki-Ri-Len-Cô (1989), Triết học là gì, Nhà xuất bản Tiến bộ. Mat-xcơ-
va.
15. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội.
156
16. Bùi Đăng Duy (1984), “Trở lại vấn đề đối tượng phương pháp lịch sử triết
học”, Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.
17. Trịnh Bá Đĩnh (1998), “Di sản của Nguyễn Du và thời gian” Nguyễn Du về
tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
18. Trần Văn Dĩnh (1968), “Tại sao người Mỹ nào cũng cần đọc Truyện Kiều”,
Tạp chí The Time New, số 5, tr. 2-3.
19. Xuân Diệu (1996), Thi hào dân tộc Nguyễn Du, Nhà xuất bản Sài Gòn.
20. Xuân Diệu (2013), Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản
Thanh niên, Sài Gòn.
21. Đại từ điển tiếng việt (1998), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
22.Cao Huy Đỉnh (2005), “Triết lý đạo Phật trong Truyện Kiều”, 200 năm
nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
23. Thái Kim Đỉnh và Hoàng Ngọc Hiến (2013), Truyện Kiều trong văn hóa
Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài Gòn.
24. Hồng Đức (2007), Nguyễn Du Truyện Kiều, Nhà xuất bản Đại học sư
phạm, Hà Nội
25. Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương (2013), “Nguyễn Du nhà thơ kiệt xuất Việt
Nam và Truyện Kiều” Các tác giả nước ngoài Truyện Kiều trong văn hóa Việt
Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài Gòn.
26. Đại từ điển tiếng Việt (1957), Nhà xuất bản Văn hóa tư tưởng, Hà Nội.
27. Nguyễn Thạch Giang (2011), Nguyễn Du Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
28. Nguyễn Thạch Giang (2001), Nguyễn Du, cuộc đời và thân phận, Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
29. Nguyễn Thạch Giang (1994), “Một số nhận xét về Kim Vân Kiều Truyện
với Đoạn trường tân thanh, Tạp chí Sông Hương, số 2, trang 73.
30. Hà Huy Giáp (1971), “Chúng ta quyết biến thành hiện thực niềm mơ ước
của Nguyễn Du giải phóng dân tộc bị áp bức” Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn
Du, Viện Văn học, Hà Nội.
31. Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Nhà xuất bản Quốc
gia Hà Nội.
157
32. Vũ Hạnh (1993), Đọc lại Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn nghệ, Thành phố
Hồ Chí Minh.
33. Thích Nhất Hạnh (2009) Thả một bè lau, Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn,
Thành phố Hồ Chí Minh
34. Nguyễn Hùng Hậu chủ biên (2002), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
35. Lê Văn Hòe (1953), “Nho giáo và Truyện Kiều”, Tạp chí đời mới, số 8, tr. 3.
36. Đỗ Minh Hợp (2002) “Đối tượng của triết học- Lịch sử của vấn đề”, Tạp
chí Triết học, số 1.
37. Phạm Thị Hồng (2010), “So sánh việc thể hiện xã hội trong Kim Vân Kiều
Truyện và Truyện Kiều, Luận văn Thạc sĩ Văn học, Hà Nội.
38. Đỗ Đức Hiếu (2005), “Truyện Kiều của Nguyễn Du” 200 năm nghiên cứu
bình luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
39. Chu Trọng Huyến (1971), Nơi Nguyễn Du viết Truyện Kiều, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Khánh (2009), Để góp phần tìm hiểu Nguyễn Du và thưởng
thức Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
41. Phạm Công Khanh (2001), Bản sắc văn hóa văn học của người đọc Truyện
Kiều, Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm quốc học.
42. Vũ Khắc Khoan (1960), Nguyễn Du và tình yêu, Nhà xuất bản Nam Sơn, Sài
Gòn.
43.Trần Trọng Kim (1995), Truyện Thúy Kiều, Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
44. Lê Đình Kỵ (1986), Hiểu đúng đắn Truyện Kiều, Ban vận động thành lập
hội văn nghệ Đồng Tháp.
45. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Du, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Lê Đình Kỵ (1999), Truyện Kiều, xã hội phong kiến và thân phận con
người, Nhà xuất bản Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Nguyễn Văn Khỏa (2005), “Về một cách hiểu từ “Đã” trong Truyện Kiều”
200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
158
48. Lê Thị Lan (2007) “Quan niệm của Nguyễn Du về cuộc đời và thân phận
con người”, Tạp chí Triết học, số 9, trang 196 -198
49. Nguyễn Xuân Lam (2008), Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ
XXI, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội
50. Hồ Ngọc Lễ (2013), Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản
Thanh niên, Sài Gòn.
51. Đặng Thanh Lê (1997) “Thế giới Truyện Kiều- Con người Truyện Kiều”,
Nguyễn Du về tác gia tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
52. Đặng Thanh Lê (2005) “Nguyễn Du với nhân vật Từ Hải” 200 năm nghiên
cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
53. Đặng Thanh Lê (2013) “Nguyễn Du và Truyện Kiều” Truyện Kiều trong
văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài Gòn.
54. Đặng Thanh Lê (2013) “Truyện Kiều thành tựu rực rỡ và kết tinh ngôn ngữ
thơ ca dân tộc” Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài
Gòn.
55. Nguyễn Hiền Lê (1965), “Thân phận con người trong Truyện Kiều”, Tạp
chí Bách khoa, số 209, tr. 5.
56. Lê Xuân Lít (2005), 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
57. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, thơ chữ hán, tập 1, Nhà xuất
bản Giáo dục- Trung tâm nghiên cứu quốc học.
58. V.I. Lênin,Toàn tập, Tập 29, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Mát-xcơ-va 1981.
59. Nguyễn Lộc (1976), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế
kỷ XIX, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
60. Nguyễn Kha Lộc (2012), Thúy Kiều từ hội Đạp thanh đến sông Tiền
Đường, Nhà xuất bản Nghệ An.
61. Lưu Trọng Lư (2005), “Một quyển kinh về tình thương”, 200 năm nghiên
cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
62. Đặng Thai Mai (2005) “Đặc sắc văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung
Truyện Kiều” 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.
159
63.C.Mác (1848), Bản thảo kinh tế triết học, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội
64.C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội
65.C.Mác - Ph. Ăngghen (1984), Tuyển tập, Tập 6, Nxb Sự thật, Hà Nội.
66.C.Mác - Ph. Ăngghen (1995),Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
67.C.Mác - Ph. Ăngghen(1995), Toàn tập, tập13, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà
Nội
68.C.Mác - Ph .Ăngghen(1995), Toàn tập,Tập 19, Nxb Chính trị quốc gia,Hà
Nội.
69.C.Mác - Ph.Ăngghen(1995),Toàn tập,Tập 21,Nxb Chính trị quốc gia,Hà
Nội.
70. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Vũ Thị Nga (2010), “Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều”. Luận văn Thạc sĩ Triết học. Hà Nội.
72. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du, Tái bản, Nhà xuất
bản Văn học, Hà Nội.
73. Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngưng (2006), Kim Vân Kiều Truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội
74. N. I. Niculin (2013) “Nguyễn Du nhà thơ nhân đạo lỗi lạc” Các tác giả
nước ngoài Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài
Gòn.
75. Hoàng Nguyên Phổ (2005) “Đọc khảo luận về Truyện Kiều của Đào Duy
Anh” 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
76. Felich Pita Roodriget (2013), “Nguyễn Du nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt
Nam” Các tác giả nước ngoài Truyện Kiều trong văn hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản
Thanh Niên, Sài Gòn.
77. Hồ Sĩ Quí (1998) “Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý”, Tạp chí Triết học,
số 3, trang 56.
78. Ngô Quốc Quýnh (1995), Thử tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du qua Truyện
Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
160
79. Nguyễn Hữu Sơn (1997), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
80. Lê Hồng Sơn (2005) “Đạo Phật trong Truyện Kiều” 200 năm nghiên cứu
bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
81. Trần Đình Sử (2002), Thi pháp Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội.
82. Nguyễn Đức Sự (1984) “Đối tượng và phạm vi của lịch sử tư tưởng Việt
Nam” Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam,Viện Triết học, Hà Nội
83. Nguyễn Đức Sự (2005) “Tư tưởng triết học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và
vấn đề phương pháp tiếp cận” Hội thảo khoa học, Trường Đại học khoa học Xã
hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
84. Trần Đăng Sinh (2009), Tập bài giảng Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Trường
Đại hoc Sư phạm Hà Nội.
85. Tạp chí Cộng sản (1993), số 1, trang 21.
86. Lê Hữu Tầng (1984), “Lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học hay lịch sử tư tưởng
triết học Việt Nam”. Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học,
Hà Nội.
87. Hà Văn Tân (1984), “Lịch sử Việt Nam và tư tưởng Việt Nam”, Một số vấn
đề về lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội.
88. Hoài Thanh (2005), “Nguyễn Du một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”, 200
năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
89. Cung Đình Thanh (1972), “Ảnh hưởng của Truyện Kiều” trong đời sống
bình dân”, Văn hóa tập san, số 1.
90. Nguyễn Khánh Toàn (1971) “Nguyễn Du - Nhà thơ lớn của dân tộc Việt
Nam” Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyên Du, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
91. Nguyễn Chí Tình (2013) “Lời giới thiệu” Các tác giả nước ngoài Truyện
Kiều trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh niên, Sài Gòn.
92. Nguyễn Viết Thông (2013), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội.
93. Trần Nho Thìn (1989), Nguyễn Du và quan niệm Nho giáo về nhân cách,
Nhà xuất bản Khoa học, Hà Nội.
161
94. Nguyễn Đăng Thục (1963), Tư tưởng Việt Nam, Nhà sách Khai Trí, Sài
Gòn
95. Nguyễn Đăng Thục (2003), Thế giới thi ca của Nguyễn Du, Nhà xuất bản
Văn học, Hà Nội.
96.Trần Đưc Thảo, Nội dung xã hội của Truyện Kiều,www.viet-studies.info.
97. Từ điển triết học (1957), Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
98. Nguyễn Quảng Tuân (2000), Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
99. Nguyễn Quảng Tuân (2004), Truyện Kiều nghiên cứu và khảo luận, Nhà
xuất bản Văn học, Hà Nội.
100. Đỗ Minh Tuấn (2005), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
101. Trương Tửu (1956), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, Nhà xuất bản
Xây dựng, Hà Nội.
102. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.
103. Nguyễn Tài Thư (1984), “Mấy vấn đề về lịch sử tư tưởng Việt Nam” Một
số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng Việt Nam” Viện Triết học, Hà Nội.
104. Nguyễn Đức Vân (2008), Thanh Tâm Tài Nhân Kim Vân Kiều truyện,
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
105. Lê Trí Viễn (2005) “Một mối tình đầy ý nghĩa và lãng mạn”, 200 năm
nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
106. Lê Trí Viễn (2005), “Một sức mạnh vùng lên tháo cửi sổ lồng”200 năm
nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
107. Nguyễn Khắc Viện (2005), “Giới thiệu về Truyện Kiều”, 200 năm nghiên
cứu bàn luận Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
108. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2015), Kỷ yếu hội thảo quốc tế
kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1215), Hà Nội.
109. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2015), Di sản văn chương Đại
thi hòa Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội
162
110. Lê Thu Yến (2011) “Văn hóa ứng xử người Việt thể hiện qua tình yêu
Kim - Kiều”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 32,
trang 103.
111. Huyễn Ý (2006), Truyện Kiều qua cái nhìn của nhà học Phật,, Nhà xuất
bản Thành phố Hồ Chí Minh.
112. Huyễn Ý (2007), Truyện Kiều qua khía cạnh tâm linh, Nhà xuất bản Tôn
giáo, Hà Nội.
113. Hoàng Hữu Yên (2003), Cái hay cái đẹp của tiếng Việt trong Truyện
Kiều, Nhà xuất bản Nghệ An.
114. Yang Soo Bae, (1995), Bước đầu nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và
Truyện Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số 10.
115. Yonnosuke Takceuchi, (1964), Nguyễn Du – Kim Vân Kiều tân truyện,
Chiều Hòa tứ thập nhất niên.
163
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_triet_hoc_trong_truyen_kieu_cua_nguyen_du.pdf