VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ HỒNG HÀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2020
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THỊ HỒNG HÀ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ SỰ VẬN DỤNG
VÀO VIỆC GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở
VIỆT NAM HIỆ
179 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Luận án Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng vào việc giảng dạy lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỆN NAY
NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS
MÃ SỐ : 9229002
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS: NGUYỄN THẾ NGHĨA
HÀ NỘI - NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận án là công trình nghiên cứu độc lập của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, rõ ràng và có nguồn
gốc cụ thể. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Lê Thị Hồng Hà
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CB, ĐV Cán bộ, đảng viên
CNTB Chủ nghĩa tư bản
CNCS Chủ nghĩa cộng sản
GDLLCT Giảng dạy lý luận chính trị
LLCT Lý luận chính trị
Nxb Nhà xuất bản
TBCN Tư bản chủ nghĩa
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................. 8
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn .................................................................................... 8
1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan về thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính
trị ở Việt Nam .......................................................................................................... 15
1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến các giải pháp nâng cao chất lượng
giảng dạy lý luận chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn ....................................................................................................... 20
1.4. Đánh giá về các công trình đã nghiên cứu và những vấn đề mà luận án tiếp tục
nghiên cứu ............................................................................................................... 24
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN ............................................................................................................ 27
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn ........................................................................................................................... 27
2.1.1. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................................... 27
2.1.2. Cơ sở lý luận ........................................................................................................ 34
2.1.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh ........................................................................... 39
2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ... 47
2.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận ........................................................................ 47
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực tiễn ..................................................................... 49
2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ....................... 52
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng
dạy lý luận chính trị ................................................................................................. 61
2.3.1. Khái niệm lý luận chính trị, giảng dạy lý luận chính trị theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ............................................................................................................................... 61
2.3.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
giảng dạy lý luận chính trị .............................................................................................. 68
Chương 3. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ
THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG GIẢNG DẠY LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ TẠI CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 89
3.1. Những vấn đề đặt ra trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................... 89
3.1.1. Một số khái niệm cơ bản ...................................................................................... 89
3.1.2. Những nhân tố tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị ở
Việt Nam hiện nay ......................................................................................................... 92
3.1.3. Những yêu cầu cần đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị ........................ 105
3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị tại các trường chính trị ở Việt Nam hiện
nay .......................................................................................................................... 112
3.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị và nguyên nhân
của nó ........................................................................................................................... 112
3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong GDLLCT tại các trường chính trị ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................................ 117
Chương 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ...................... 130
4.1. Nhóm giải pháp về nhận thức ......................................................................... 130
4.1.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm các cấp uỷ, tổ chức đảng .............................. 130
4.1.2. Tăng cường sự quan tâm, vai trò lãnh đạo của nhà trường, khoa, bộ môn ........ 133
4.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện`............................................................ 135
4.2.1. Giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị ......................... 135
4.2.2. Giải pháp đổi mới nội dung, chương trình ......................................................... 140
4.2.3. Giải pháp về đổi mới phương pháp giảng dạy ................................................... 145
4.3. Nhóm giải pháp về công tác quản lý, kiểm tra, đánh giá ............................... 153
4.3.1. Giải pháp đổi mới công tác quản lý học viên ..................................................... 153
4.3.2. Giải pháp đổi mới phương thức đánh giá kết quả học tập ................................. 155
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 159
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 162
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là
tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Lý luận hình thành và phát triển trên cơ sở thực
tiễn, là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn. Khi lý luận hình thành, nó lại
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn, vạch ra phương hướng, phương pháp
giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. V.I. Lênin khẳng định: “Không có
lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng” [60, tr.30]. Vì vậy,
trong mọi hoạt động của con người cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa
lý luận với thực tiễn. Một mặt, phải vận dụng sáng tạo lý luận để chỉ đạo thực
tiễn, mặt khác, phải biết phân tích, tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý
luận. Không vận dụng đúng đắn mối quan hệ này thì hoạt động của con người
không thể có hiệu quả. Hồ Chí Minh đã nhận định: “Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn và một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không có
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [81, tr.95].
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Cuộc đời và sự nghiệp của Người là hình mẫu chuẩn mực về sự thống nhất
giữa nói và làm, giữa lý thuyết và thực hành, giữa nhận thức và hành động,
giữa lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
đưa đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cũng chính từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Người đã đúc kết thành một hệ thống lý luận, soi đường cho
con đường phát triển của dân tộc, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, làm phong phú và phát triển lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận khoa
học và toàn diện, gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, thể hiện trên nhiều
lĩnh vực. Dù trên bất kỳ lĩnh vực nào, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn thể hiện sâu
2
sắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu, tiếp thu và vận
dụng hệ thống tư tưởng của Người là yêu cầu tất yếu của Đảng và mỗi CB,
ĐV.
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác GDLLCT, nhằm xác
lập thế giới quan khoa học trên cơ sở, lập trường của giai cấp công nhân, cốt
lõi là chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam” [72, tr.289]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
GDLLCT thể hiện sâu sắc sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Về mục tiêu
giáo dục, ngay từ năm 1949, Hồ Chí Minh đã viết: “Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích, thì phải cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư” [76, tr.208]. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với
triết lý của UNESCO. Năm 1996, dựa trên Báo cáo của Hội đồng Delos,
UNESCO đã khuyến nghị giáo dục toàn thế giới trong thế kỷ XXI với các mục
tiêu: “Học để biết, học để làm việc, học để chung sống, học để làm người”
(Learning to know, learning to work, learning to live together and learning to
be). Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc GDLLCT nhằm giúp CB, ĐV nâng
cao nhận thức về LLCT, sửa chữa tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách mạng, và
cuối cùng “chúng ta học tập lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế” [81, tr.95],
nâng cao năng lực, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng, không phải để “lòe người ta” [77, tr.120] hay đem ra “mặc
cả với Đảng” [71, tr.95]. Hồ Chí Minh yêu cầu nội dung GDLLCT phải toàn
diện về tri thức LLCT và những kinh nghiệm thực tiễn hoạt động chính trị. Về
phương pháp GDLLCT, Hồ Chí Minh phê phán phương pháp dạy “nhồi sọ”,
thực hiện phương châm lý luận gắn với thực tế: “Chỉ đem lý luận khô khan
nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu
rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế, tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh
nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích” [75, tr.311].
3
Phương pháp giảng dạy có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả
GDLLCT. Do đó, giảng viên GDLLCT phải được tuyển chọn cẩn thận, phải là
người thực sự mẫu mực về mọi mặt, bản lĩnh chính trị vững vàng, sâu sắc lý
luận, kiến thức thực tiễn phong phú.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xem công tác GDLLCT là
nhiệm vụ cơ bản trong công tác tư tưởng. Tuy nhiên, thực tiễn thường xuyên
biến đổi, lý luận lại có khuynh hướng tương đối ổn định, thường phát triển
không theo kịp thực tiễn. Hiện nay, bối cảnh thế giới và trong nước có những
thay đổi nhanh chóng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Công tác GDLLCT
ở nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn
chế, nhất là công tác GDLLCT: mang tính hình thức, bệnh thành tích, giáo
điều, nội dung chương trình và phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa gắn
lý luận với tổng kết thực tiễnTrong Nghị quyết số 32-NQ/TW (ngày 26
tháng 5 năm 2014) của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, Đảng ta nhận
định rằng, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng
LLCT còn những hạn chế nhất định: “Nội dung, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng chậm được đổi mới, bổ sung, cập nhật, còn trùng lặp, chưa đáp ứng yêu
cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo
đức, phong cách lãnh đạo, quản lý. Phương pháp giảng dạy, học tập chậm
được đổi mới, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực,
sáng tạo của học viên...” [136].
Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục xuyên tạc lý luận Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta,
đặc biệt là chúng tăng cường “diễn biến hoà bình”, làm cho một bộ phận CB,
ĐV “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, biểu hiện ở cả trong nhận thức, niềm tin
và hành động. Đó là sự suy giảm về tư tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục
tiêu CNXH, lý tưởng cách mạng. Nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ đưa đến
hậu quả khó lường. Vì vậy, công tác GDLLCT có hiệu quả sẽ trang bị cho CB,
ĐV cơ sở lý luận khoa học, củng cố và tăng cường lòng tin vào sự nghiệp cách
4
mạng, khắc phục thái độ vô cảm, tình trạng mơ hồ, thiếu sâu sắc, thiếu chính
kiến, giúp họ có đủ trình độ đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản
động, thù địch.
Đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn và sự vận dụng vào việc giảng dạy lý luận chính trị ở Việt Nam hiện
nay” góp phần nâng cao trình độ và bản lĩnh chính trị, năng lực công tác của
CB, ĐV, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng trên trong GDLLCT, đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT tại các trường
chính trị ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án xác định và thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, thu thập, hệ thống hoá các công trình khoa học liên quan đến đề
tài; phân tích, đánh giá những công trình này theo những nội dung cụ thể của
đề tài, kế thừa những quan điểm hợp lý, phù hợp với hướng nghiên cứu của đề
tài.
Thứ hai, phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong GDLLCT.
Thứ ba, phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong GDLLCT tại các trường chính trị ở Việt
Nam hiện nay.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn tại các
trường chính trị ở Việt Nam hiện nay.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự
vận dụng tư tưởng này trong việc GDLLCT tại các trường chính trị tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhất là trong GDLLCT. Sự vận dụng tư tưởng
này trong việc GDLLCT tại các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác GDLLCT ở Việt Nam. Đồng thời luận
án còn kế thừa một số thành tựu của các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học có liên quan đến luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Để làm sáng tỏ các nội dung
nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như:
- Phương pháp logic – lịch sử: Đây là phương pháp chủ yếu trong luận án.
Phương pháp này được sử dụng khi phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn gắn với bối cảnh lịch sử -
xã hội Việt Nam và thế giới vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Từ thực tiễn của những phong trào cách mạng ở nước ta, từ sự khảo nghiệm
các phong trào cách mạng tư sản, Hồ Chí Minh đã đó nhận ánh sáng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, định hướng cách mạng Việt Nam theo con đường cách
mạng vô sản, phù hợp với xu thế vận động của dân tộc và thời đại. Khi phân
6
tích, làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, đó là kết quả của quá trình vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn gắn nhất là trong GDLLCT, luôn gắn với nhiệm vụ
của cách mạng trong từng thời kỳ, để giúp CB, ĐV giải quyết tốt những nhiệm
vụ của cách mạng đặt ra. Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, nhất là trong GDLLCT, luận án tiếp tục làm rõ sự vận dụng
tư tưởng này vào việc GDLLCT tại các trường chính trị ở Việt Nam hiện nay;
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng vào
quá trình tìm hiểu các tư liệu có liên quan đến lý luận về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn, khi đánh giá về thực trạng GDLLCT tại các trường chính trị
ở Việt Nam hiện nay. Phương pháp này còn được sử dụng khi vận dụng, kế
thừa các ý kiến và những nhận xét, đánh giá của các nhà khoa học nghiên cứu
tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, các giảng viên làm công tác nghiên cứu và
GDLLCT.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng khi
phân tích và chứng minh sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của triết học
Mác – Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận, thực tiễn và mối quan hệ
của chúng, về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong GDLLCT.
Các phương pháp trên được chúng tôi sử dụng lồng ghép với nhau nhằm
thực hiện những nhiệm vụ luận án đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích, khái quát và hệ thống hoá nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhất là trong GDLLCT.
- Luận án làm rõ thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong GDLLCT tại các trường chính trị ở Việt
Nam hiện nay.
7
- Luận án xây dựng một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
GDLLCT theo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn tại các trường
chính trị ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
- Về mặt khoa học, luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhất là trong GDLLCT.
Đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng này trong GDLLCT tại các trường
chính trị, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT tại
các trường chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn.
- Về mặt thực tiễn, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu khoa
học, có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng
dạy, học tập LLCT. Đồng thời, luận án có thể sử dụng như nguồn tư liệu trong
việc nghiên cứu, nâng cao chất lượng GDLLCT ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương, 12 tiết.
8
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta đã khẳng định:
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh
được các nhà khoa học nghiên cứu một cách công phu, có hệ thống trên nhiều
lĩnh vực như: triết học, chính trị, văn hoá, đạo đức, giáo dục, ngoại giao...
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
có các công trình tiêu biểu như sau:
Giáo sư Trần Văn Giàu đã dày công nghiên cứu sự phát triển của tư tưởng
Việt Nam (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 1996), với ba tập
gồm: tập 1, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng
tháng Tám: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ
lịch sử; tập 2, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng tháng Tám: Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó trước các nhiệm vụ
lịch sử; tập 3, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng tháng Tám: Thành công của chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Đây là công trình nghiên cứu công phu về sự phát triển tư tưởng Việt
Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám. Từ việc phân tích bối cảnh
lịch sử - xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX, tác giả đã chứng minh
rằng, hệ tư tưởng phong kiến thất bại trước nhiệm vụ lịch sử là tất yếu. Tư
tưởng phong kiến đã rất lạc hậu so với thời đại. Hệ tư tưởng tư sản cũng trở
nên bất lực trước yêu cầu mới của lịch sử, đã không thể dẫn dắt dân tộc Việt
Nam đi đến mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho
cách mạng Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của công trình này đã chứng minh
tư tưởng Hồ Chí Minh ra đời là để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng
9
Việt Nam. Đây là nguồn tài liệu quí để chúng tôi tham khảo, kế thừa. Điều đó
cho thấy, cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là từ bối cảnh xã hội Việt Nam những năm cuối thế
kỷ XIX, từ những trải nghiệm trong quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí
Minh, đặc biệt là sự kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Tác giả Trương Văn Chung và Doãn Chính (chủ biên): Bước chuyển tư
tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2005). Đây là công trình tập trung phân tích bối cảnh lịch sử, các điều
kiện khách quan và chủ quan tác động đến xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX. Từ đó, các tác giả đã đi đến lý giải một cách rõ ràng nhất
những chuyển biến tư tưởng có ý nghĩa canh tân, thúc đẩy lịch sử và cả những
hạn chế của lịch sử các phong trào yêu nước như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục, vận động Duy Tân, Việt Nam Quang phục Hội Đặc biệt, các tác giả đã
chứng minh: Trên cơ sở nắm vững xu thế thời đại, vượt qua tầm nhìn hạn chế
và từ những bài học thất bại của các bậc tiền bối yêu nước đương thời, Nguyễn
Ái Quốc đã xác định con đường đúng đắn, phù hợp cho dân tộc Việt Nam, đưa
cách mạng nước ta giành thắng lợi. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với
tinh hoa văn hoá nhân loại, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện Việt Nam là cơ sở quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là tài
liệu có giá trị, chúng tôi sẽ kế thừa trong quá trình phân tích cơ sở hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Tác giả Phạm Ngọc Anh (chủ biên): Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – giá
trị lý luận và thực tiễn (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009). Các tác giả đã
phân tích nguồn gốc hình thành triết lý phát triển Hồ Chí Minh, một trong
những nguồn gốc quan trọng là giá trị hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Về nội dung của triết lý phát triển Hồ Chí Minh, cuốn sách tập trung phân tích
quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và con đường phát triển của xã hội
Việt Nam; về mô thức phát triển đất nước trong triết lý phát triển Hồ Chí
Minh; về động lực và các nguồn lực phát triển dân tộc theo triết lý phát triển
10
Hồ Chí Minh Kết quả nghiên cứu của công trình cho chúng ta thấy rằng: cơ
sở quan trọng hình thành triết lý Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nói riêng từ chính quá trình
trải nghiệm thực tiễn, từ nhân tố chủ quan của bản thân Hồ Chí Minh: với
phong cách tư duy khoa học và cách mạng; độc lập, tự chủ, sáng tạo, đặc biệt
là năng lực tổng kết thực tiễn...
Tác giả Mạch Quang Thắng (chủ biên): Nhân cách Hồ Chí Minh (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010). Các tác giả đã chứng minh, Hồ Chí Minh có
một nhân cách cao đẹp, vĩ đại, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong quá trình phát
triển của nhân loại thế kỷ XX, góp phần làm phong phú thêm những giá trị
chung của loài người. Qua đó, các tác giả đã làm rõ các nhân tố khách quan và
chủ quan tác động đến sự hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách Hồ Chí
Minh như: nhân tố gia đình, quê hương, nhân tố truyền thống văn hóa dân tộc
Việt Nam, nhân tố thời đại, phẩm chất cá nhân con người Hồ Chí Minh... Cùng
tác giả Mạch Quang Thắng với bài viết: Tư tưởng Hồ Chí Minh – Dòng chảy
tiếp nối chủ nghĩa Mác – Lênin (Tạp chí Lý luận chính trị, số 07/2020), đã chỉ
ra rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sự tiếp nối lý luận của học thuyết Mác
– Lênin ở nhiều điểm. Trong đó, năm điểm chính là: Về mục tiêu và con
đường phát triển của dân tộc Việt Nam; đối với cách mạng giải phóng dân tộc;
đối với vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền; vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền; về xây dựng CNXH. Những tư liệu này cung cấp thêm những luận cứ
để chúng tôi phân tích, làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Mặc dù không có công trình nào đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhưng khi nghiên cứu tư tưởng triết
học của Hồ Chí Minh, các tác giả đã dành một phần để nghiên cứu vấn đề này.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên): Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh (Nxb
Lao động, Hà Nội, 2000); Tác giả Nguyễn Đức Đạt: Tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005); Tác giả Trần Văn Phòng và
Hoàng Anh: Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh - một số vấn đề cơ bản (Nxb
11
Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2015); Tác giả Trần Nhâm: Hồ Chí Minh
- nhà tư tưởng thiên tài (Nxb Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2015). Các
công trình trên đã tập trung nghiên cứu, phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
khái niệm lý luận, thực tiễn; mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Các tác giả
cũng thống nhất quan điểm: tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là kết quả của sự nghiên cứu, tiếp thu lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, nhưng điểm nổi bật là những lý luận ấy được Hồ Chí Minh diễn
đạt dưới hình thức đơn giản, dễ hiểu, thực tế, nhưng lại hết sức sâu sắc, tinh tế,
tạo nên một hệ thống lý luận vừa khoa học, vừa thiết thực.
Khi luận giải quan điểm của Hồ Chí Minh về lý luận, các tác giả đều đi
đến nhận định rằng, khi bàn về khái niệm lý luận, Hồ Chí Minh đã thể hiện rất
rõ quan điểm biện chứng, đặt trong mối quan hệ với thực tiễn. Lý luận là sự
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành, nhưng lý luận chân chính là lý luận
phải được chứng minh trong thực tế. Chúng tôi tán thành với những nhận định
này. Điều này thể hiện rõ nhất trong quan điểm của Hồ Chí Minh về lý luận,
thể hiện trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc: “Lý luận là đem thực tế trong
lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ
lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi đem nó chứng minh với thực tế. Đó là
lý luận chân chính” [75, tr.273] và thể hiện trong Bài nói chuyện tại Trường
Nguyễn Ái Quốc vào năm 1957: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm
của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử” [81, tr.96].
Về khái niệm thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các tác giả đã chỉ ra
rằng, Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn. Mặc dù
hai khái niệm này có nội hàm khác nhau. Thực tế rộng hơn thực tiễn. Hồ Chí
Minh tiếp cận khái niệm thực tiễn đúng như quan điểm của triết học Mác –
Lênin – là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Với khái niệm thực tế, được
Hồ Chí Minh lý giải: “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn
của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là
12
những vấn đề mà cách mạng đề ra cho chúng ta giải quyết. Thực tế bao gồm
rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính
sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề
trong nước và trên thế giới” [81, tr.96].
Chúng tôi đồng tình với cách giải thích trong cuốn sách: Tác giả Lê Hữu
Nghĩa (Chủ biên): Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh (Nxb Lao động, Hà Nội,
2000): Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm thực tế hơn khái niệm thực tiễn,
bởi vì phần lớn CB, ĐV ta đều xuất thân từ nông dân, trình độ học vấn nói
chung còn hạn chế, lại không quen với những lý thuyết, sách vở cao xa cùng
những khái niệm chuyên môn phức tạp khó hiểu. Việc dùng khái niệm thực tế
chắc chắn là dễ giải thích, dễ tuyên truyền, dễ hiểu hơn là khái niệm thực tiễn
– với tư cách là phạm ...n tích thực trạng vận
dụng thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn trong GDLLCT tại các trường chính trị ở Việt Nam.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu có liên quan về những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT. Các công trình đã chỉ ra những giải pháp
cụ thể nhằm nâng cao chất lượng GDLLCT cho từng đối tượng khác nhau như
sinh viên, cán bộ ở đơn vị cơ sở trong quân đội...
Tóm lại, các công trình nghiên cứu nói trên đã cung cấp một khối lượng
lớn những tài liệu khoa học, những tư liệu quí báu tư tưởng Hồ Chí Minh về
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, các công trình nghiên cứu cũng
đã chỉ ra những tồn tại trong GDLLCT, đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng và hiệu quả GDLLCT ở nước ta. Tác giả tham khảo, kế thừa, phát triển
và giải quyết những nhiệm vụ của đề tài.
27
Chương 2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn
2.1.1. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam - những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX – là nước thuộc
địa nửa phong kiến. Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có nhiều biến đổi lớn:
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị hà khắc, chúng đàn
áp đẫm máu các phong trào yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị
cấm, xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, đồng thời vẫn duy trì chính
quyền phong kiến và tay sai làm chỗ dựa. Mọi quyền hành đều nằm trong tay
người Pháp. Chúng thực hiện chính sách “chia để trị”, chia rẽ ba nước Đông
Dương, xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ chính trị thế
giới, lập ra Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Ở Việt Nam, Pháp chia rẽ giữa
ba kỳ, nhằm tạo những xung khắc, chia rẽ dân tộc, hạn chế sức mạnh của tinh
thần đoàn kết dân tộc.
Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân. Họ bưng bít, ngăn
cản ảnh hưởng của văn hoá tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hoá độc hại,
xuyên tạc lịch sử và giá trị văn hoá Việt Nam, dùng rượu và thuốc phiện để đầu
độc người Việt Nam.
Về kinh tế, chính sách độc quyền của Pháp đã biến Việt Nam thành thị
trường của chính quốc, phụ thuộc kinh tế vào chính quốc. Thực dân Pháp tiến
hành những cuộc khai thác thuộc địa, ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao
động người bản xứ, đặt ra nhiều hình thức thuế khoá nặng nề... làm cho đời
sống của người dân Việt Nam hết sức cơ cực, lầm than, dẫn đến mâu thuẫn
giữa nhân dân ta với thực dân Pháp càng thêm sâu sắc.
Về cơ cấu xã hội, giai cấp địa chủ phong kiến có sự phân hoá, một bộ
phận cam tâm bán nước, làm tay sai cho Pháp để duy trì quyền lợi của mình,
28
một bộ phận khác nêu cao truyền thống và tinh thần dân tộc, khởi xướng và
lãnh đạo các phong trào yêu nước chống Pháp để giành độc lập và bảo vệ chế
độ phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương.
Giai cấp nông dân là lực lượng to lớn trong dân cư, hăng hái chống đế
quốc và phong kiến, khao khát độc lập. Tầng lớp trí thức tiểu tư sản có tinh
thần dân tộc, yêu nước, rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc.
Trong giai cấp tư sản Việt Nam, có một bộ phận gắn liền lợi ích với tư sản
Pháp, một bộ phận là tư sản dân tộc, mâu thuẫn với tư sản Pháp và triều đình
phong kiến, nhưng cả thế và lực yếu ớt, phụ thuộc. Vì thế, mặc dù có tinh thần
yêu nước, chống đế quốc và phong kiến nhưng tư sản dân tộc không có khả
năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong quá trình thực dân
Pháp thực hiện các cuộc khai thác thuộc địa, số lượng ngày càng tăng. Cũng
như giai cấp nông dân và tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam
chịu sự áp bức, bóc lột của cả đế quốc, phong kiến và giai cấp tư sản, phần lớn
xuất thân từ nông dân. Đây là cơ sở khách quan, thuận lợi cho công nhân và
nông dân liên minh chặt chẽ ngay từ khi mới ra đời, cũng như trong suốt quá
trình đấu tranh cách mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, giai cấp công
nhân Việt Nam không chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cải lương. Tuy lực lượng
còn ít, trình độ văn hoá, kỹ năng, tay nghề còn thấp nhưng giai cấp công nhân
Việt Nam thực sự là đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, có ý thức tổ
chức, kỷ luật và tinh thần cách mạng kiên quyết nhất, triệt để nhất.
Với truyền thống yêu nước nồng nàn, hàng trăm cuộc đấu tranh anh dũng
của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược đã liên tục diễn ra, theo các
đường lối khác nhau, nhưng đều lần lượt thất bại.
Với các cuộc khởi nghĩa theo ý thức hệ phong kiến, do các sĩ phu yêu
nước lãnh đạo nông dân khởi nghĩa:
Về tư tưởng, các cuộc khởi nghĩa này chưa có lý luận khoa học dẫn đường,
vẫn dựa vào hệ tư tưởng phong kiến của một xã hội quá lạc hậu so với sự phát
triển của thời đại lúc bấy giờ. Đánh giá về phong trào Cần Vương, giáo sư Trần
29
Văn Giàu nhận xét: “Ngọn lửa Hương Sơn tắt, chấm dứt thời kỳ kháng chiến
Cần Vương, cũng là chấm dứt một thời kỳ lịch sử trong đó tư tưởng nho giáo
của tầng lớp sĩ phu là ngọn cờ vận động cứu nước chính, là tiêu biểu cho chủ
nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam. Tư tưởng nho giáo và các dạng thần bí
phật giáo, đạo giáo đều tỏ ra bất lực, đều thất bại trong cuộc đấu tranh cứu
nước chống thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc độc lập” [41, tr.9].
Về địa vị giai cấp, các phong trào trên đều do các văn thân, sĩ phu yêu
nước lãnh đạo. Mặc dù, họ có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc Pháp sâu
sắc nhưng đều xuất thân từ giai cấp phong kiến – giai cấp đã mất vai trò lịch
sử, không có khả năng liên kết, tập hợp được lực lượng cách mạng để phát
triển thành một cao trào cách mạng có qui mô toàn quốc. Vì vậy, các phong
trào này chủ yếu vẫn còn mang tính chất tự phát, địa phương nên không tránh
khỏi thất bại.
Trong điều kiện ấy, các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX nhận thấy con
đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến đã trở nên lỗi thời, chỉ có thể dẫn
đến thất bại. Họ hăng hái tìm kiếm con đường cứu nước mới, nhanh chóng đón
nhận tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản, với khẩu hiệu tự do, bình đẳng,
bác ái... Các phong trào Duy Tân hội, Việt Nam Quang phục hội do Phan Bội
Châu lãnh đạo chủ trương bạo động, hay công cuộc cải cách Duy Tân, do Phan
Châu Trinh khởi xướng thì cuối cùng đều thất bại. Có thể thấy, nước ta là nước
thuộc địa với quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu, tư sản dân tộc cả thế và lực
chưa đủ mạnh để lãnh đạo cách mạng, tập hợp lực lượng cách mạng, không
động viên được sức mạnh toàn dân tộc. Tư sản dân tộc có lợi ích gắn với Pháp
nên ý thức cách mạng không cao. Mặt khác, dưới ách thống trị hà khắc của
thực dân Pháp, không thể đấu tranh bằng con đường dân chủ. Do đó, hệ tư
tưởng tư sản vẫn không làm được nhiệm vụ “soi đường” cho dân tộc ta trong
công cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.
Tóm lại, các phong trào yêu nước ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX đều lần lượt thất bại, nguyên nhân là do khủng hoảng về đường lối,
về lý luận cách mạng, không có được lý luận khoa học dẫn đường, không phản
30
ánh đúng xu thế của thời đại. Đúng như giáo sư Song Thành đã nhận xét: “Các
phong trào Văn Thân – Cần Vương phát động đấu tranh chỉ để “phò vua giúp
nước” mà không được dẫn dắt bởi một thứ lý luận nào. Các phong trào Đông
Du, Duy Tân, Việt Nam Quốc dân Đảng đều ít quan tâm đến lý luận, vấn đề
học thuyết, đều chưa xác định được mục tiêu chiến lược, sách lược một cách rõ
ràng, nhất quán” [106, tr.28].
Thực tiễn của đất nước đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tìm một hệ tư
tưởng mới, có khả năng dẫn dắt công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,
giải phóng dân tộc hữu hiệu nhất, không chỉ phù hợp cho dân tộc, mà còn phù
hợp với xu thế của thời đại. Để tìm lý luận đáp ứng cho mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức, mang lại hạnh phúc thực sự cho
nhân dân Việt Nam, phù hợp với điều kiện lịch sử - xã hội của dân tộc và xu
thế vận động của thời đại. Hồ Chí Minh đã bắt đầu từ thực tiễn Việt Nam và sự
vận động của thế giới hiện thực, sớm phát hiện ra những hạn chế cơ bản không
thể vượt qua của những phong trào yêu nước đương thời đã được kiểm nghiệm
trong thực tiễn. Yêu cầu đó, đòi hỏi Hồ Chí Minh không thể rập khuôn theo
con đường cứu nước của các bậc tiền bối, mà phải bám sát tình hình cụ thể
trong nước và thế giới để có hướng đi phù hợp. Điều này đúng như nhận định
trong cuốn “Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”: Hoàng
Hoa Thám, dựa vào nông dân, tiến hành chiến tranh du kích để đánh Pháp nên
vẫn mang “cốt cách phong kiến”. Phan Châu Trinh thực hiện bằng phương
pháp dân chủ, với mục tiêu đấu tranh nhằm “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân
sinh” lại dựa vào Pháp thì khác nào “xin giặc rũ lòng thương”... [Xem 104,
tr.10].
Năm 1911, Hồ Chí Minh rời xa Tổ quốc, tìm kiếm con đường cứu nước,
cứu dân. Cách mạng Việt Nam phải theo con đường nào? Đó là câu hỏi cấp
bách, trả lời câu hỏi này sẽ giải quyết nhiệm vụ của lịch sử Việt Nam đặt ra lúc
bấy giờ.
Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia vào Đảng xã hội Pháp, một đảng tiến
bộ, đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lúc
31
bấy giờ. Vào giữa tháng 7 năm 1920, Hồ Chí Minh đọc được bản “Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin
đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo) – cơ quan truyền thông của Đảng xã hội
Pháp. Luận cương giúp Hồ Chí Minh rõ hai vấn đề cơ bản nhất: Giai cấp vô
sản ở chính quốc có trách nhiệm ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa; Quốc tế III có vai trò rất lớn đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa và nó ủng hộ một cách triệt để cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
nhược tiểu. Hồ Chí Minh đã hoàn toàn tin theo V.I.Lênin và Quốc tế III. Chính
niềm tin đó là cơ sở để Người quyết định đi theo con đường cách mạng triệt để
của chủ nghĩa Lênin. Chính chủ nghĩa Lênin đã giải quyết được vấn đề cấp
bách của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh luôn canh cánh trong lòng, làm
thế nào để giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Tổ quốc? Câu trả lời chỉ có
thể là Quốc tế III, là chủ nghĩa Lênin. Có thể nói, từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ
Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Lênin, trước tiên vì Người hiểu rằng, đó là con
đường duy nhất để có thể giải phóng dân tộc. Sau 30 năm hoạt động cách mạng
ở nước ngoài, năm 1941, Hồ Chí Minh trở về nước để lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, với điều kiện cụ thể của Việt Nam, Người xác định cách mạng Việt Nam
là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm
đánh đổ đế quốc, thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, sau đó tiến lên
thực hiện cách mạng XHCN.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, CNTB phát triển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, chúng tăng cường xâm chiếm thuộc địa, nô dịch các dân tộc
thuộc địa làm cho mâu thuẫn vốn có trong lòng CNTB càng sâu sắc. Mâu thuẫn
nội tại của CNTB biểu hiện ở những điểm cơ bản: Mâu thuẫn gay gắt giữa lao
động và tư bản, mâu thuẫn này là tiền đề đưa giai cấp công nhân đến với cách
mạng; mâu thuẫn giữa các tập đoàn tài chính và giữa các cường quốc đế quốc
trong việc tranh giành nguyên liệu và thuộc địa, mâu thuẫn này dẫn đến chiến
tranh của các nước đế quốc, làm suy yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tất yếu
dẫn đến cách mạng vô sản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc chủ nghĩa với các
32
nước thuộc địa và nửa thuộc địa, mâu thuẫn này phát triển sâu sắc và gay gắt
thêm sẽ làm bùng lên phong trào giải phóng dân tộc.
Các mâu thuẫn trên đã dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ nhất (8-1914
đến 11- 1918). Vì vậy, cách mạng vô sản ở các nước đế quốc và phong trào
giải phóng dân tộc có mối quan hệ khăng khít với nhau, cùng chống một kẻ thù
chung. Đây cũng là nguyên nhân bùng nổ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga.
Lúc này, nước Nga là nơi tập trung tất cả những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt
của CNTB – đế quốc. Nước Nga Sa hoàng không chỉ là đại diện của chủ nghĩa
đế quốc ở phương Đông mà chúng còn là đồng minh, có lợi ích gắn bó với
nhau.
V.I.Lênin đã phân tích sâu sắc về CNTB trong giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc, chỉ ra những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục của CNTB, cuối
cùng đi đến khẳng định khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản và cách mạng
giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, thiết lập
chính quyền Xô viết – nhà nước công nông đầu tiên đã mở ra thời đại mới từ
CNTB lên CNXH, thúc đẩy sự phát triển phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới.
Có thể nói, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là sự vận dụng
sáng tạo lý luận cách mạng của C. Mác vào thực tiễn của nước Nga lúc đó.
Trước Cách mạng Tháng Mười, trong lý luận về cách mạng vô sản của C. Mác,
CNXH chỉ là dự án của giai cấp vô sản ở các nước tư bản phát triển, khi lực
lượng sản xuất phát triển cao, giai cấp công nhân đã chiếm ưu thế trong xã hội,
mâu thuẫn giai cấp giữa tư sản và vô sản càng gay gắt, sẽ sớm tạo ra tiền đề
cho cách mạng nổ ra. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm thay
đổi tất cả, nó kiểm chứng cho lý luận của V.I.Lênin, cách mạng cũng sẽ nổ ra
và thành công ở những nước có nền kinh tế tư bản kém phát triển. Cách mạng
Tháng Mười Nga thành công đã biến CNXH từ lý luận thành hiện thực trong
đời sống chính trị thế giới. Nó đánh một dấu mốc mới trong lịch sử phát triển
của nhân loại, mở ra thời đại mới cho nhân loại, thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
33
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh nhân loại, là động
lực mạnh mẽ cổ vũ các dân tộc thuộc địa đứng lên đấu tranh chống lại áp bức,
bóc lột của giai cấp phong kiến, tư sản, tự giải phóng mình; là xung lực thúc
đẩy phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Hồ Chí Minh đã nhận định: “Giống như mặt
trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh
hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài
người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”
[85, tr.387].
Từ đây, Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước của Việt Nam là nằm
trong quĩ đạo của cách mạng vô sản, dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng
Mười Nga. Hồ Chí Minh nhận định: kết quả của cách mạng tháng Mười Nga
đã đánh dấu việc mở đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, kỷ
nguyên này được xác định với những biểu hiện: Một là, “nó đã mở đường đi
đến những thắng lợi mới của giai cấp công nhân trong cuộc sống xã hội” [81,
tr.159]; Hai là, “lần đầu tiên trong lịch sử loài người, nhân dân lao động bắt tay
vào xây dựng xã hội XHCN không có bóc lột và áp bức dân tộc” [81, tr.160];
Ba là, “đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây
dựng xã hội XHCN, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một
cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống
xứng đáng, vẻ vang, ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ
quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng mà
trước kia không thể nghĩ tới” [81, tr.161]; Bốn là, “đã mở ra thời đại của một
chính sách ngoại giao mới, chính sách hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc”
[81, tr.162].
Như vậy, từ yêu cầu của thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã tổng kết
thực tiễn sinh động đó để tìm tòi, sáng tạo một hệ thống lý luận đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn, soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Đây là
cơ sở thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn.
34
2.1.2. Cơ sở lý luận
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga chứng tỏ rằng, những tư tưởng
vĩ đại của những nhà sáng lập CNXH khoa học đã từ lĩnh vực lý luận trở thành
hiện thực sinh động. Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa
yêu nước, chứ chưa phải CNCS đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ
ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác – Lênin,
vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH, CNCS mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ” [82, tr.563]. Càng nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí
Minh càng bị thuyết phục bởi tính khoa học và cách mạng của nó. Đánh giá về
chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin” [72, tr.289]. Là chủ nghĩa chắc chắn nhất vì chủ nghĩa Mác
– Lênin là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân
và các lực lượng cách mạng, đặc biệt là quan điểm duy vật lịch sử đã chỉ ra
được những động lực và những qui luật khách quan chi phối sự vận động và
phát triển của lịch sử xã hội loài người. Đó còn là cẩm nang thần kỳ của tất cả
các dân tộc bị áp bức và bóc lột để hướng đến thoát khỏi ách áp bức giai cấp,
áp bức dân tộc. Là chủ nghĩa cách mạng nhất vì chủ nghĩa Mác – Lênin là kim
chỉ nam soi đường cho sự đấu tranh vì mục tiêu giải phóng triệt để giai cấp
công nhân, nhân dân lao động khỏi bóc lột, áp bức, bất công để xây dựng xã
hội vì công bằng, tiến bộ, độc lập, tự do, hạnh phúc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là tiêu chuẩn kiểm chứng, là
thước đo đánh giá tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Hồ
Chí Minh khẳng định: “Muốn biết lý luận đúng hay không, thì phải dùng nó
vào thực hành, xem nó có đạt được mục đích đã định hay không. Chủ nghĩa
Mác – Lênin đúng là vì nó được chứng minh là đúng trong thực hành cách
mạng giai cấp và cách mạng dân tộc. Duy vật biện chứng là đúng, vì thực hành
nào cũng không thoát ra khỏi phạm vi của nó. Nếu có lý luận không đầy đủ
35
hoặc sai lầm thì cần phải trải qua thực hành mà sửa chữa, làm cho nó đầy đủ
hơn, đúng hơn” [77, tr.127-128].
Thời gian sau đó, Hồ Chí Minh dành toàn bộ tâm sức để nghiên cứu chủ
nghĩa Mác – Lênin. Trong những năm 1920 – 1930, Người tập trung truyền bá
chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam nhằm nâng cao trình độ nhận thức về
con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
được xây dựng trên mảnh đất thực tiễn – từ phong trào đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân với mục đích chỉ đạo thực tiễn – hình thành thế giới
quan và phương pháp luận khoa học hướng dẫn cuộc đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, xây dựng thành công CNXH và CNCS. Đây là điểm thể
hiện giá trị vô giá, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa
Mác hình thành từ thực tiễn của phong trào công nhân, và luôn được hoàn thiện
trong quá trình tổng kết thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
chống giai cấp tư sản và CNTB. Chủ nghĩa Mác thể hiện sự gắn kết chặt chẽ
giữa lý luận khoa học với thực tiễn phong trào công nhân, là kim chỉ nam soi
đường cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản hình thành trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, CNTB đã phát triển thành
chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản động, cản trở sự
phát triển của xã hội. Sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc không chỉ đối với giai
cấp công nhân ở chính quốc mà còn đối với nhân dân lao động trên toàn thế
giới. Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng kể
cả ở những thuộc địa. V.I.Lênin đã tổng kết thực tiễn sinh động, xây dựng nên
học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản lấy chủ
nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng.
Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, giác ngộ
nhất của giai cấp công nhân. Vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện trước
hết trên lĩnh vực lý luận. Người khẳng định: “Chỉ Đảng nào được một lý luận
tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò của chiến sĩ tiên
36
phong” [62, tr.32]. Đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân,
là người định hướng chính trị, và là người giáo dục, động viên, tổ chức cho
quần chúng hành động cách mạng. V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục
Đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong
này đủ sức mạnh nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên CNXH, đủ sức
lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường,
làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp
họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống
lại giai cấp tư sản” [62, tr.33]. Do vậy, Người coi việc trang bị lý luận của chủ
nghĩa Mác cho giai cấp công nhân là yếu tố quan trọng để giác ngộ họ, nâng
cao lập trường chính trị và việc giáo dục chủ nghĩa Mác cho đội ngũ đảng viên
là một nội dung đặc biệt quan trọng của việc xây dựng Đảng về tư tưởng.
Người đặt ra yêu cầu đầu tiên về tư cách người đảng viên phải là giác ngộ lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa. Một khi từng đảng viên của Đảng giác ngộ sâu sắc
lý tưởng CSCN, nguyện hi sinh quên mình vì sứ mệnh lịch sử và Đảng được tổ
chức, hoạt động theo những nguyên tắc chung, cốt lõi là nguyên tắc tập trung
dân chủ, sẽ tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động của toàn thể đảng viên, tổ
chức Đảng, khi đó các Đảng Cộng sản sẽ thống nhất cả về tư tưởng, tổ chức và
hành động để lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Sống trong thời đại mới, V.I.Lênin đã phân tích toàn diện và sâu sắc sự
vận động của CNTB trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa và chỉ rõ rằng: “Sự phát
triển không đều về kinh tế và chính trị là qui luật tuyệt đối của CNTB...” [63,
tr.447] và “do đó phải đi đến kết luận tất yếu này: CNXH không thể đồng thời
thắng lợi trong tất cả các nước. Trước hết, nó thắng lợi trong một nước, hoặc
một số nước...” [64, tr.173] – nơi mà ở đó, các mâu thuẫn của CNTB phát triển
tập trung và gay gắt nhất, và do đó nó trở thành “khâu yếu nhất” của chủ nghĩa
đế quốc. Thực tiễn đã chứng minh rằng, “khâu yếu nhất” đó là ở nước Nga vào
năm 1917. Cuối cùng V.I.Lênin đi đến luận điểm: cuộc cách mạng vô sản có
thể nổ ra và giành thắng lợi ở những nước có nền kinh tế tư bản chưa phát
triển. Cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc
37
không thể tách rời, “vô sản và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Sau khi lãnh
đạo nhân dân Nga tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng Tháng Mười (1917),
giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, Đảng Bônsêvich Nga trở thành
Đảng cầm quyền, tiếp tục lãnh đạo nhân dân Nga xây dựng CNXH. Bấy giờ,
quyền lãnh đạo và uy tín của Đảng trước hết được thực hiện thông qua hoạt
động của của Nhà nước. Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu
quả là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện có hiệu quả vai trò lãnh đạo của
mình đối với xã hội. Nhưng thông qua đội ngũ CB, ĐV hoạt động trong cơ
quan nhà nước và trong các tổ chức quần chúng, phương thức lãnh đạo của
Đảng mới được thực hiện. Người chỉ ra rằng, giai cấp vô sản và chính Đảng
của mình muốn giữ vững chính quyền, lãnh đạo có hiệu quả thì nhất thiết phải
đào tạo, xây dựng được một đội ngũ cán bộ có phẩm chất, vững vàng lập
trường chính trị, có năng lực và phong cách lãnh đạo tốt. V.I.Lênin đã dành
tâm sức để xây dựng hệ thống lý luận về công tác cán bộ: đào tạo, bồi dưỡng,
lựa chọn, sử dụng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.
Yêu cầu chung của cán bộ là phải có đầy đủ hai mặt năng lực thực tiễn và tư
duy lý luận. Năng lực thực tiễn biểu hiện ở khả năng quản lý, khả năng làm
việc, tư duy lý luận biểu hiện trước tiên là sự giác ngộ lý tưởng cộng sản, có
trình độ lý luận nhất định về CNXH khoa học, nắm được đường lối, chính sách
của Đảng.
Như vậy, tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin còn thể
hiện ở chỗ, đó là một học thuyết mở, luôn được bổ sung, hoàn thiện trong thực
tiễn. Hồ Chí Minh đánh giá: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng
ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và CNCS” [82, tr.563]. Thực tiễn
không ngừng vận động, vì vậy, trong mọi hoạt động phải lấy lý luận khoa học
soi đường, nhưng không được vận dụng lý luận rập khuôn, máy móc. Hồ Chí
Minh khẳng định: “Phải học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin; học tập
lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng
38
lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề
thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta” [81, tr.95].
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha ta và lịch sử nhân loại, dưới
ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm tòi, khảo cứu và đi
đến lựa chọn con đường cách mạng vô sản đã giúp Hồ Chí Minh vượt lên trên
các bậc tiền bối để giải quyết xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đặt ra. Bởi vì, chủ
nghĩa Mác – Lênin đã xác định rõ mục tiêu của cách mạng vô sản là xây dựng
CNXH, đồng thời vạch ra con đường để đạt mục tiêu trên. Đối với một nước
thuộc địa, nửa phong kiến như nước ta lúc bấy giờ, con đường mà ta phải tuân
theo là kết hợp chặt chẽ, nhất quán và kiên định cuộc đấu tranh cho độc lập dân
tộc và CNXH. Con đường cách mạng này phù hợp với khát vọng của toàn thể
nhân dân Việt Nam, trở thành nguồn động lực và sức mạnh lôi cuốn đồng bào
đi theo Đảng. Hồ Chí Minh viết: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và
nhân dân Liên Xô đã đánh tan bọn phát xít Đức – Nhật và giữ vững Tổ quốc
XHCN, và do đó mà giúp đỡ giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Chính vì do tinh thần yêu nước mà quân giải phóng và nhân dân
Trung Quốc đã đánh tan bọn bán nước là Tưởng Giới Thạch và đuổi bọn đế
quốc Mĩ... Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy
năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực
dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam
dân chủ mới” [77, tr.39]. Con đường giải phóng dân tộc gắn liền với con đường
giải phóng giai cấp, sự nghiệp cách mạng Việt Nam không tách khỏi quá trình
cách mạng thế giới – được xem là tư tưởng biện chứng, toàn diện, đồng thời
còn thể hiện quan điểm thực tiễn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến
lược và sách lược cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh vốn là nhà hoạt động chính trị, nhà lãnh đạo cách mạng,
không phải là nhà hoạt động lý luận chuyên nghiệp, nhưng từ thực tiễn hoạt
động cách mạng, Người phải tự học, tự trau dồi tri thức lý luận, tiếp thu sáng
tạo lý luận khoa học và cách mạng để thực hiện ước mơ, hoài bão của mình. Rõ
39
ràng, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ từ chính sự
thuyết phục bởi bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này mà còn từ
nhu cầu lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh lựa chọn, tin
theo chủ nghĩa Mác – Lênin một cách chủ động, sáng tạo, không giáo điều, rập
khuôn, máy móc, giúp Người giải quyết xuất sắc những vấn đề của thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn để tổng kết thành lý luận, do đó, lý luận của
Hồ Chí Minh luôn gắn với thực tiễn, dễ học, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ vận dụng.
Còn thực tiễn của Hồ Chí Minh là thực tiễn sinh động, điển hình, sâu sắc, trung
thực, khách quan là cơ sở để nhân rộng, làm theo, tổng kết thành lý luận.Từ
chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp là con đường mà Hồ Chí Minh đã trải nghiệm và cũng là con
đường tiến triển của dân tộc ta. Đây là cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
2.1.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
Có thể nói, với quá trình trải nghiệm thực tiễn phong phú, cùng với phong
cách tư duy biện chứng, nổi bật là sự trải nghiệm, chiêm nghiệm thực tiễn sâu
sắc, khả năng tổng kết thực tiễn sắc bén và tư duy độc lập, tự chủ, với tính phê
phán cao, là cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ nhãn
quan chính trị sâu sắc, với tầm cao trí tuệ, Hồ Chí Minh đã tổng kết thực tiễn
sinh động mà Người đã trải nghiệm, đồng thời tiếp thu những tư tưởng tiến bộ
của Việt Nam và thế giới để đúc kết, tổng hòa thành tư tưởng mang nét đặc sắc
riêng.
Với sự trải nghiệm, chiêm nghiệm thực tiễn sâu sắc, khả năng tổng thực
tiễn sắc bén, Hồ Chí Minh có quá trình trải nghiệm thực tiễn rất phong phú,
Người đã đi qua 4 châu lục với gần 30 nước có sự phát triển kinh tế, chính trị -
xã hội khác nhau. Trong suốt hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh
luôn gắn bó, hoà nhập vào cuộc sống của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, dành tâm sức xem xét tình hình các dân tộc, các giai cấp.
40
Trong suốt hành trình đó, Hồ Chí Minh vừa tham gia hoạt động thực tiễn,
vừa nghiên cứu lý luận. Để hiểu về cách mạng giải phóng dân tộc, Người đến
nước Mỹ; để hiểu rõ cách mạng công nghiệp, Người đến nước Anh; để hiểu rõ
về cách mạng nhân quyền và dân quyền, Người sống và làm việc ở Pháp; để
hiểu tính ưu việt của cách mạng vô sản, Người đã đến Nga, tận mắt chứng kiến
công cuộc xây dựng CNXH ở đây; để hiểu chính sách cai trị của bọn thực dân,
đế quốc đối với người dân thuộc địa, Người đã đặt chân đến các nước thuộc địa
của Anh, Pháp ở Châu Phi, Châu Mỹ... Người chứng kiến tận mắt sự cùng khổ
của người lao động, sự bóc lột dã man của bọn thực dân, tư bản. Cuối cùng,
Người rút ra nhận xét chung: nhân dân lao động ở khắp mọi nơi vô cùng cực
khổ, bị bóc lột dã man, còn bọn thực dân thì ở đâu cũng ác độc như nhau.
Người khẳng định: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”...học tập, cần lưu ý:
Thứ nhất, việc đánh giá kết quả học tập cần được tiến hành thường
xuyên, phản ánh được cả quá trình học tập của học viên.
156
Chương trình trung cấp LLCT hiện nay không tổ chức kiểm tra giữa môn,
chỉ có thi hết môn.
Cần thiết phải có bài kiểm tra giữa môn, tuỳ theo số tiết của từng môn học
dài hay ngắn, có thể bố trí một hoặc hai bài kiểm tra giữa môn. Vì vậy, điểm
trung bình môn học phải căn cứ trên kết quả bài thi hết môn và điểm quá trình
học tập trên lớp, bao gồm: điểm kiểm tra thường xuyên, điểm thảo luận, điểm
chuyên cần... Nhằm phát huy năng lực tự học, phát huy khả năng tư duy sáng
tạo, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, trong quá trình giảng bài, giảng
viên không chỉ cung cấp tri thức cho người học mà còn hướng dẫn, gợi mở, đặt
ra những vấn đề lý luận và thực tiễn để học viên chuẩn bị trước. Giảng viên sẽ
giới thiệu những tài liệu để học viên có thể tham khảo và chuẩn bị. Giảng viên
có thể phân công cho cá nhân hoặc chia nhóm chuẩn bị. Buổi học hôm sau sẽ
thảo luận, báo cáo kết quả trước lớp. Thông qua đó, giảng viên sẽ ghi nhận
điểm cho các học viên học tập tích cực, sáng tạo, dựa trên các tiêu chí: nắm
vững kiến thức, khả năng tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề và ứng dụng kiến
thức để giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Thứ hai, cần đa dạng hoá các hình thức đánh giá đảm bảo tính hiệu quả,
thiết thực.
Hiện nay, đề thi thường yêu cầu học viên phân tích một vấn đề lý luận,
rồi liên hệ với thực tiễn, với hình thức là bài viết, đề mở. Ngân hàng câu hỏi
được áp dụng chung cho tất cả các lớp cùng chương trình, chưa chú trọng đúng
mức đến tính đặc thù của từng đối tượng người học (chưa xem xét lĩnh vực
công tác, nhu cầu, trình độ, mục đích của người học để đặt câu hỏi cho phù
hợp).
Cần phải đa dạng hơn các hình thức kiểm tra trên lớp như, câu hỏi dạng
đúng – sai (có giải thích), câu hỏi trắc nghiệm, trả lời ngắn, tự luận, báo cáo
nhóm, vấn đáp, viết bài thu hoạch, dùng lý luận đã học để phân tích, luận giải
một vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn, điểm thưởng cho học viên tích cực phát
biểu
157
Về hình thức thi hết môn, tiếp tục duy trì hình thức ra đề mở, có tính khái
quát và tính thực tiễn cao. Hình thức thi này giúp người học phát huy tính độc
lập trong tư duy, rèn luyện kỹ năng vận dụng lý luận để giải quyết tốt những
vấn đề mà thực tiễn đặt ra.
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy, đề thi hết môn
hiện nay mặc dù đã bám sát nội dung, chương trình, gắn lý luận với thực tiễn
song tính khái quát chưa cao, chưa bao quát môn học. Cần tăng cường thêm
các đề thi mang tính tổng hợp, bao hàm cả những kiến thức liên quan trong cả
môn học nhằm phát huy sự sáng tạo, chủ động của người học khi làm bài.
Với cách ra đề thi như thế, dần dần sẽ tạo cho người học tâm lý thụ động,
ỷ vào tài liệu, làm xói mòn khả năng tư duy sáng tạo của người học, dễ hình
thành lối tư duy hạn hẹp, tản mạn, thiếu khả năng tổng hợp, dễ đưa đến bệnh
giáo điều.
Tổ chức thi, kiểm tra một cách nghiêm túc, đảm bảo đúng quy chế, đánh
giá đúng chất lượng, năng lực của học viên. Cán bộ coi thi phải thực hiện đúng
qui chế, dù thi dưới bất kỳ hình thức nào cũng phải bảm đảm nghiêm túc, học
viên chỉ được phép tham khảo tài liệu bằng văn bản, tránh trao đổi, copy bài
của nhau
Việc đánh giá kết quả học tập xét đến cùng cũng nhằm tạo ra động lực để
người học tích cực, chủ động hơn trong học tập, góp phần nâng cao chất lượng
công tác GDLLCT.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Để nâng cao chất lượng GDLLCT cho CB, ĐV theo tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, cần quán triệt và thực hiện
một số nhóm giải pháp chủ yếu:
Một là, nhóm giải pháp về nhận thức: Nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của việc giảng dạy và học tập LLCT (nâng cao nhận thức của các cấp ủy
158
Đảng, các cấp chính quyền và của CB, ĐV), đồng thời, gắn công tác qui hoạch,
bổ nhiệm, đề bạt cán bộ với việc đào tạo LLCT; tăng cường vai trò lãnh đạo
của nhà trường, khoa đối với đổi mới phương pháp giảng dạy.
Hai là, nhóm giải pháp tổ chức thực hiện: xây dựng đội ngũ giảng viên
LLCT (Đổi mới công tác tuyển dụng giảng viên LLCT; chú trọng đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên LLCT...). Xây dựng đội ngũ giảng viên LLCT, cần chú trọng
các tiêu chí về: phẩm chất đạo đức, chính trị, nhân cách, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ; năng lực sư phạm; phương pháp và kỹ năng hành nghề...; giải pháp
đổi mới nội dung, chương trình: xây dựng nội dung, chương trình GDLLCT
phải bảo đảm tính khoa học cao, tính chuyên môn hóa sâu và bám sát, cập nhật
những vấn đề của thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Đồng
thời, phải bảo đảm tính hệ thống, tính đồng bộ và tính liên thông giữa các bậc
học, trình độ, phù hợp với tiêu chuẩn, chức danh của cán bộ. Bên cạnh đổi mới
nội dung, chương trình GDLLCT, cần đổi mới phương pháp giảng dạy và học
tập LLCT theo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: giảng viên cần
chú ý tính gợi mở, bảo đảm dân chủ trong dạy – học, chú ý lấy ví dụ liên hệ
thực tiễn.
Ba là, nhóm giải pháp về công tác quản lý, kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập. Đổi mới công tác quản lý học viên yêu cầu: Tăng cường sự phối hợp giữa
phòng đào tạo, giáo viên chủ nhiệm với các khoa chuyên môn và giảng viên
trực tiếp giảng dạy môn học trong công tác quản lý học viên; Thường xuyên
làm tốt công tác giáo dục tư tưởng nhằm xây dựng động cơ, thái độ học tập
đúng đắn, khoa học cho học viên; Tăng cường sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo
với địa phương, đơn vị có cán bộ cử đi học LLCT; Tăng cường công tác kiểm
tra, thanh tra hoạt động giảng dạy và học tập LLCT.
Đổi mới phương pháp đánh giá kết quả học tập LLCT yêu cầu: cần đa
dạng hóa các hình thức đánh giá kết quả học tập trên cơ sở bảo đảm tính hiệu
quả và thiết thực trong việc áp dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn.
159
KẾT LUẬN
1. Quan hệ đầu tiên của con người với thế giới bên ngoài không phải là
quan hệ tư tưởng, lý luận, mà là quan hệ thực tiễn. Chính trong thực tiễn, con
người vừa làm ra của cải vật chất, vừa nhận thức thế giới, cải tạo thế giới. Vì
vậy, lý luận và thực tiễn luôn gắn bó với nhau trong chính hoạt động của con
người. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn kiểm
tra tính đúng, sai của lý luận. Lý luận hình thành và phát triển trên cơ sở thực
tiễn, là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn. Khi lý luận hình thành, nó lại
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn, vạch ra phương hướng, phương pháp
hoạt động thực tiễn (lý luận khoa học sẽ thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn,
hoặc sẽ kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu lý luận phản khoa học, lỗi
thời). Vì vậy, trong mọi hoạt động của con người cần thiết phải có sự kết hợp
chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Một mặt, phải vận dụng sáng tạo lý luận để
chỉ đạo thực tiễn, mặt khác, phải biết phân tích, tổng kết thực tiễn để khái quát
thành lý luận.
2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực tiễn và lý luận là hai nhân tố cơ
bản, quan trọng, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của hoạt động con người,
của phong trào cách mạng. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong tư
tưởng của Người là nhất quán, biện chứng và sinh động. Sự thống nhất đó diễn
ra không chỉ trong lý luận, mà cả trong thực tiễn, không chỉ trong nhận thức
mà cả trong hành động. Hồ Chí Minh cho rằng, thực hành sinh ra hiểu biết,
hiểu biết tiến đến lý luận, lý luận chỉ đạo thực hành – đó chính là con đường
nhận thức đồng thời với cải tạo thế giới.
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất chú trọng việc “huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng”, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên” là
nhiệm vụ hàng đầu, quyết định sự thành bại của cách mạng. Đặc biệt, Người
luôn quán triệt nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong công tác
GDLLCT, thể hiện trong mục đích, nội dung, phương pháp giảng dạy.
160
3. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn đề cao công tác GDLLCT. Công tác GDLLCT ở nước ta đạt được nhiều
kết quả tích cực, đã trang bị cho CB, ĐV thế giới quan, phương pháp luận
khoa học và nhân sinh quan cách mạng, góp phần quan trọng vào sự phát triển
tư duy lý luận của CB, ĐV, nhất là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý. Việc
quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất lý luận và thực tiễn trong GDLLCT không chỉ góp phần đổi mới chương
trình, nội dung và phương pháp giảng dạy, mà quan trọng là nâng cao được
chất lượng và hiệu quả của công tác GDLLCT.
Tuy nhiên, GDLLCT cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Đó là
nhiệm vụ đấu tranh chống những luận điệu sai trái, phản động còn bị động,
hiệu quả chưa cao; việc thiết kế nội dung, chương trình giảng dạy chưa hợp lý,
chưa đáp ứng được yêu cầu của đào tạo và chưa phù hợp với đối tượng người
học; phương pháp giảng dạy của một bộ phận giảng viên chưa đảm bảo sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Vì vậy, chất lượng và hiệu quả GDLLCT
chưa cao.
4. Để nâng cao chất lượng GDLLCT cho CB, ĐV ở Việt Nam hiện nay,
cần phải quán triệt sâu sắc và thực hành sáng tạo hơn nữa để bảo đảm sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy và học tập LLCT. Đồng thời phải
thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Một là, nhóm giải pháp về nhận thức: Nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của việc giảng dạy và học tập LLCT (nâng cao nhận thức của các cấp ủy
Đảng, các cấp chính quyền và của CB, ĐV), đồng thời, gắn công tác qui hoạch,
bổ nhiệm, đề bạt cán bộ với việc đào tạo LLCT; tăng cường vai trò lãnh đạo
của nhà trường, khoa đối với đổi mới phương pháp giảng dạy.
Hai là, nhóm giải pháp tổ chức thực hiện: giải pháp xây dựng đội ngũ
giảng viên LLCT có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ,
sẵn sàng “dấn thân” vào sự nghiệp GDLLCT với một niềm đam mê khoa học
và sáng tạo; giải pháp đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp
161
GDLLCT: phải bảo đảm tính khoa học, tính đảng, tính sáng tạo, kết hợp đổi
mới phương pháp giảng dạy và học tập LLCT.
Ba là, nhóm giải pháp đổi mới công tác quản lý học viên, phương pháp
đánh giá kết quả học tập trên cơ sở nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Cần tăng cường sự phối hợp giữa phòng đào tạo, giáo viên chủ nhiệm với
các khoa chuyên môn và giảng viên trực tiếp giảng dạy môn học trong công tác
quản lý học viên, giữa cơ sở đào tạo với địa phương, đơn vị có cán bộ cử đi
học LLCT...
Tiến hành đồng bộ các nhóm giải pháp cơ bản trên sẽ mang lại chất lượng
cao trong GDLLCT, tuy nhiên, điều có ý nghĩa quan trọng, mang tính quyết
định là ý thức, trách nhiệm của người giảng viên LLCT – tự giác học tập, rèn
luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức cũng như lòng say mê nghề
nghiệp, quán triệt sâu sắc sự thống nhất lý luận và thực tiễn trong từng bài
giảng, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong GDLLCT.
162
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên ở cơ sở của trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
2. Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
3. Hoàng Anh - Trần Văn Phòng (2015), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh –
Một số vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên, 2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – giá
trị lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Phạm Ngọc Anh – Bùi Đình Phong (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Trọng Ân (2004), Tăng cường giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ,
đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học xã hội. Số 03.
7. Lương Gia Ban (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý
luận, Tạp chí Triết học, số 01.
8. Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và
đổi mới nội dung, chương trình các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Hoàng Chí Bảo (2020), Con đường cách mạng Hồ Chí Minh: Độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội – giá trị và ý nghĩa thời đại, Tạp chí Cộng
sản, số 6/2020.
10. Hoàng Chí Bảo (2011), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
11. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên, 2010), Bản chất khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Hoàng Quốc Bảo, Học tập phương pháp tuyên truyền cách mạng Hồ Chí
Minh (2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
163
13. Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên, 2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
dạy và học môn Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Vũ Thanh Bình (2012), Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT
trong các Trường Đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết
học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Lê Bình (2004), Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng GDLLCT, Tạp
chí LLCT, số 3.
16. Nguyễn Trọng Chuẩn – Đặng Hữu Toàn (Chủ biên, 2000), Sức sống một
tác phẩm, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Trương Văn Chung – Doãn Chính (Chủ biên, 2005), Bước chuyển tư
tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
18. Thành Duy (1998), Cơ sở khoa học và nền tảng văn hoá của tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Ngô Thành Dương (2007), Phép biện chứng duy vật và công cuộc đổi
mới ở Việt Nam, Nxb LLCT, Hà Nội.
20. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc gia – Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn LLCT
trong các Trường Đại học, Cao đẳng.
21. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Tổng kết thực hiện
Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác lý luận trong giai đoạn
hiện nay.
22. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc gia – Nghị quyết Đại hội XII của Đảng với đổi mới công tác tư
tưởng, LLCT trong các Trường Đại học, Cao đẳng.
23. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán bộ
làm công tác tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Trần Thị Anh Đào (2009), Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
164
25. Nguyễn Đức Đạt (2005), Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
30. Phạm Văn Đồng (1975), Hồ Chủ Tịch – Tinh hoa của dân tộc, lương
tâm của thời đại, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
31. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chủ Tịch – Một con người, một dân tộc,
một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
32. Nguyễn Hữu Đổng (2002), Học tập phương pháp tuyên truyền, giáo
dục tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
33. Bùi Trường Giang (2020), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tư tưởng
của Đảng và việc vận dụng trong tình hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 06.
34. Võ Nguyên Giáp (1991), Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí
Minh sống mãi, Ban Khoa học xã hội Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Võ Nguyên Giáp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh – quá trình hình thành
và phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
37. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Trần Văn Giàu (1988), Triết học và tư tưởng, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
165
39. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 1 – hệ ý thức phong kiến và sự thất bại
của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
40. Trần Văn Giàu (1997), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 2 – hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó
trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
41. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập 3 – Thành công của Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Nguyễn Mạnh Hải (2015), Phát triển đội ngũ giảng viên Trường chính
trị các tỉnh miền núi phía Bắc đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính
trị, Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội.
44. Nguyễn Hùng Hậu (2005), Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số
01.
45. Nguyễn Hùng Hậu (2015), Suy ngẫm về triết Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
46. Vũ Thị Hoa (2006), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào đổi mới
phương pháp giảng dạy lý luận chính trị tại học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 11;
47. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2017.
48. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2017), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2018.
49. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Báo cáo Tổng kết
công tác năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019.
50. Hội đồng Lý luận Trung ương (2014), Luận cứ phê phán các quan điểm
sai trái, thù địch, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.
166
51. Hội đồng Lý luận Trung ương (2018), Biến động tình hình thế giới – Cơ
hội, thách thức và triển vọng, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
52. Nguyễn Văn Huyên (Chủ biên, 2000), Triết lý phát triển C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
53. Vũ Khiêu (2016), Hồ Chí Minh – ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Vũ Thị Khương (2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người,
Tạp chí Triết học, số 02.
55. Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp nghiên cứu, GDLLCT,
Nxb Chính trị - Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
56. Đặng Xuân Kỳ (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và
con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
58. Đinh Xuân Lâm (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Tạp chí
Khoa học xã hội, số 08.
59. Đinh Xuân Lâm (2005), Góp phần tìm hiểu về cuộc đời và tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
61. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
62. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
63. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
64. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
65. V.I. Lênin (1985), Về văn hóa và cách mạng văn hóa, Nxb Tiến bộ,
Matxcơva.
66. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
67. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
167
68. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
69. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
70. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
71. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
72. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
77. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
83. Hồ Chí Minh (2011),Toàn tập, Tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
86. Nguyễn Thị Nga (2006), Quán triệt quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh trong học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, Tạp chí Giáo dục lý
luận chính trị, số 4.
87. Lê Hữu Nghĩa (2004), Đánh giá cán bộ - khâu quan trọng trong công
tác cán bộ, Tạp chí Cộng sản, số 12.
88. Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên, 2000), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb
Lao động, Hà Nội.
89. Nguyễn Thế Nghĩa (Chủ biên, 2016), Những nguyên lý triết học, Nxb
Chính trị Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.
168
90. Trần Nhâm (2015), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị
Quốc gia – Sự Thật, Hà Nội.
91. Hoàng Phê (1994), Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội.
92. Bùi Đình Phong (2003), Lý luận gắn với thực tiễn trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, Tạp chí Tư tưởng Văn hóa, số 12.
93. Bùi Đình Phong (2006), Tư Tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ, Nxb Lao động, Hà Nội.
94. Bùi Đình Phong (2005), Trí tuệ và bản lĩnh Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
95. Trần Văn Phòng (Chủ biên, 2001), Học tập phong cách tư duy Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
96. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh – Từ hoạt động thực tiễn đến
tư duy lý luận, Nxb Chính trị - Hành chánh, Hà Nội.
97. Trần Văn Phùng (2004), Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
quá trình hình thành triết học Mác, Tạp chí Lý luận chính trị, số 01.
98. Nguyễn Đăng Quang (2007), Dạy và học các môn tư tưởng Hồ Chí Minh
theo phương pháp tích cực, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
99. Phạm Ngọc Quang (2002), Tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong tình
hình hiện nay – vấn đề và giải pháp, Tạp chí Triết học, số 02.
100. Đào Duy Quát (2006), “Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác GDLLCT trong tình hình mới”, Tạp chí Tư tưởng - Văn hoá, số 6.
101. Lê Doãn Tá (Chủ biên, 2003), Một số vấn đề Triết học Mác – Lênin, lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
102. Trần Trọng Tân (1995), Góp phần đổi mới công tác lý luận chính trị,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. Lê Hữu Tầng – Hữu Ngọc – Dương Phú Hiệp (1987), Từ điển Triết học
giản yếu của Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
104. Trần Dân Tiên (1999): Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
Tịch, Nxb Trẻ.
169
105. Ngô Văn Thạo (Chủ biên), (2008), Phương pháp giảng dạy lý luận hính
trị (Chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho giảng viên giảng dạy các
chương trình lý luận chính trị tại trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện),
Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
106. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
107. Song Thành (1999), Hồ Chí Minh – nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
108. Trần Thành (Chủ biên) (2007), “Triết học với đổi mới và đổi mới nghiên
cứu giảng dạy triết học”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
109. Mạch Quang Thắng (Chủ biên, 2010), Vận dụng và phát triển sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao
động, Hà Nội.
110. Mạch Quang Thắng (Chủ biên, 2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Phạm Tất Thắng (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác
tư tưởng, lý luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
112. Nguyễn Văn Thắng, Trần Tuyết Minh, Bùi Thị Ngọc Trang, Nguyễn
Thanh Thuyên ( Đồng chủ biên, 2019), Nâng cao chất lượng đào tạo Trung
cấp lý luận chính trị - hành chánh ở các Trường chính trị tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
113. Nguyễn Văn Thắng (2001), Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính
trị cho cán bộ ở cơ sở trong quan đội hiện nay dưới ánh sáng Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quân sự.
114. Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
115. Đào Duy Tùng (1985), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb Sách
giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
170
116. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ
giảng dạy lý luận Mác – Lênin ở các Trường chính trị tỉnh, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
117. Hoàng Trang – Phạm Ngọc Anh (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
118. Trần Minh Trưởng (2020), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đấu tranh
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tạp chí Nghiên cứu Hồ Chí
Minh, số 02.
119. Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Nxb Từ điển bách khoa Việt Nam,
Hà Nội.
120. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
121. Từ điển Tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội.
122. Trường Chính trị Tỉnh Bình Phước – Học viện Cán bộ Tp Hồ Chí Minh
(2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng đào tạo trung cấp lý
luận chính trị - hành chánh ở trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
123. Viện CNXH khoa học – Học viện Chính trị - hành chánh Quốc gia Hồ
Chí Minh (2006): “Nâng cao chất lượng đào tạo khoa học Mác – Lênin – môn
CNXH khoa học” (Đề tài khoa học)
124. Hồng Vinh - Đào Duy Quát (Chủ biên, 2006), Hồ Chí Minh với công tác
tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
125. Lương Ngọc Vĩnh (2012), Hiệu quả công tác giáo dục chính trị - tư
tưởng trong học viên các học viện quân sự ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Khoa học Chính trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
126. Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
127. Trần Quốc Vượng (2020), Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch
Hồ Chí Minh dẫn dắt, soi sáng sự nghiệp đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ
quốc, Tạp chí Cộng sản, số 05.
171
128. Lê Văn Yên (2012), Quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục
lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị, số 8.
TÀI LIỆU INTERNET
129. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Qui định số 256-QĐi/TW (ngày 16-9-
2009): Về việc xác định trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên đã
học lý luận chính trị ở các cơ sở đào tạo ngoài hệ thống trường chính trị của
Đảng hoặc Đại học chính trị chuyên ngành và sau đại học tại Học viện Chính
trị - Hành chánh Quốc gia Hồ Chí Minh. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam – Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
130. Ban chấp hành Trung ương (2018), Qui định số 09-QĐi/TW (Ngày
13/11/2018): Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của trường chính trị
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
– Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
131. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 12-NQ/TW (ngày 16-1-
2012):Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Báo Điện tử Đảng
Cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
132. Ban Chấp hành Trung ương (2016), Nghị quyết số 04-NQ/TW (ngày 30-
10-2016):Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá”. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu –
Văn kiện Đảng.
133. Ban Bí thư Trung ương (2013), Kết luận số 57- KL/TW (ngày 08 tháng 3
năm 2013): Tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – Hệ
thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
134. Ban Bí thư Trung ương (2018), Chỉ thị số 23-CT/TW (Ngày 09-02-
2018): Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu,
vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
172
tình hình mới. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu – Văn
kiện Đảng.
135. Ban Bí thư Trung ương (2014), Kết luận số 94-KL/TW (ngày 28-3-2014):
Việc tiếp tục đổi mới việc học tập LLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân. Báo
Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
136. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 37-NQ/TW (ngày 9 tháng 10 năm
2014) Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. Báo Điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
137. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 32-NQ/TW (ngày 26 tháng 5 năm
2014) Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam –
Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
138. Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW (ngày 22 tháng 10 năm
2018) Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Báo Điện tử Đảng Cộng
sản Việt Nam – Hệ thống tư liệu – Văn kiện Đảng.
139. Www.Hồ Chí Minha.vn/Home/diễn đàn chính trị/5512/đào tạo cán bộ lý
luận – thực trạng và giải pháp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_su_thong_nhat_giua_ly_luan_v.pdf
- Trichyeu_LeThiHongHa.pdf