VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ TÂM
TỰ TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI:
NGHIÊN CỨU TỪ XÃ HỘI HỌC VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62. 22. 01. 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
Hà Nội, 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ TÂM
TỰ TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI:
NGHIÊN CỨU TỪ XÃ HỘI HỌC VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
195 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 388 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Tự truyện Việt Nam đương đại: Nghiên cứu từ xã hội học văn học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mã số: 62. 22. 01. 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong Luận án là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Hoàng Thị Tâm
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án luận này, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ quý báu từ phía Thầy Cô, đồng nghiệp và người thân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới Thầy hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh. Thầy đã tận tình góp ý, định hướng nghiên cứu và gợi mở
những ý tưởng khoa học cho tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin được cảm ơn các Thầy cô giáo Khoa Văn học, Học viện Khoa học
Xã hội, đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khóa học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai cơ quan là Trường Đại học Hồng
Đức và Học viện Quản lý giáo dục đã tạo điều kiện về thời gian để tôi có thể hoàn
thành nhiệm vụ giảng dạy và học tập.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đặc biệt tới gia đình, bạn bè, những
người đã luôn ở bên tôi trong suốt thời gian qua, đã động viên, khích lệ, tạo động
lực, niềm tin và sự kiên nhẫn để tôi có thể hoàn thành luận án của mình.
Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Tâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu tự truyện Việt Nam đương đại ........... 7
1.1. Tổng quan tài liệu liên quan đến đề tài ........................................................................... 7
1.2. Những nghiên cứu tự truyện từ các khía cạnh xã hội học ............................................ 20
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc nghiên cứu tự truyện Việt Nam
đương đại ............................................................................................................................ 29
2.1. Quan niệm về tự truyện ................................................................................................ 29
2.2. Hướng nghiên cứu xã hội học về tự truyện .................................................................. 46
2.3. Những chặng đường của tự truyện Việt Nam ............................................................... 54
Chương 3: Những điều kiện tự truyện và sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện ............... 65
3.1. Những điều kiện tự truyện ............................................................................................ 65
3.2. Sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện.................................................................................. 71
3.3. Các hình thức biểu đạt chủ thể trong tự truyện ............................................................. 91
3.4. Giới hạn xã hội và lựa chọn của chủ thể .................................................................... 112
Chương 4: Hoạt động tiếp nhận tự truyện .................................................................... 118
4.1. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ hoạt động xuất bản ......................................................... 118
4.2. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ người đọc ....................................................................... 129
4.3. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ các mô hình diễn giải ..................................................... 134
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 151
PHỤ LỤC 1 ...................................................................................................................... 164
PHỤ LỤC 2....................................................................................................................... 180
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Số lượng tự truyện và hồi ký xuất bản từ 1986 đến 1996 chia theo nguồn gốc ..120
Bảng 2: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1997 - 2014 chia theo nguồn gốc 122
Bảng 3: Lý do đọc tự truyện ....................................................................................... 130
Bảng 4: Mục đích đọc tự truyện .................................................................................. 130
Bảng 5: Mức độ đọc tự truyện Việt Nam .................................................................... 131
Bảng 6: Mức độ đọc tự truyện nước ngoài ................................................................. 131
Bảng 7: Anh/chị thích đọc tự truyện của nhóm tác giả nào ........................................ 132
Biểu đồ 1: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1986 đến 1996 ................ 119
Biểu đồ 2: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1997 đến 2014 ................ 121
Biểu đồ 3: Số lượng tự truyện được tái bản từ 1986 đến 2014 ................................... 123
Biều đồ 4: Tác phẩm và số lần xuất bản ..................................................................... 124
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
HKVN: Hồi ký Việt Nam
TTVN: Tự truyện Việt Nam
KHNN: Hồi ký nước ngoài
TTNN: Tự truyện nước ngoài
PV sâu số 1: Phỏng vấn nhà văn Phan Việt
PV sâu số 2: Phỏng vấn nhà văn Ma Văn Kháng
PV sâu số 3: Phỏng vấn nhà văn Bùi Ngọc Tấn
PV sâu số 4: Phỏng vấn nhà văn Tô Hoài
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Quan sát chặng đường lịch sử của tự truyện Việt Nam, có thể thấy một
số dấu hiệu khá đặc biệt đòi hỏi phải được giải thích. Cụ thể là: Tự truyện mặc dù
xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 với Giấc mộng lớn của Tản Đà năm 1929 và tương đối
sôi nổi vào giai đoạn 1930 - 1945 nhưng sau đó lại hầu như vắng bóng trên diễn đàn
văn học cho đến tận những năm cuối thế kỷ 20 mới xuất hiện trở lại và đến những
thập niên đầu của thế kỷ 21, thì nở rộ như một phong trào.Tuy nhiên, so với đầu thế
kỷ, tự truyện giai đoạn này có nhiều nét khác: Các dấu hiệu thể loại không bộc lộ
tập trung mà khi đậm đặc, khi mờ nhạt trong từng tác phẩm. Nếu quan sát diễn tiến
của tự truyện có thể thấy, kể từ 2006, sau sự xuất hiện của Yêu và Sống của nữ nghệ
sĩ Lê Vân, nó bắt đầu chuyển hướng. Tính chất tiểu thuyết giảm đi, tính chất phi hư
cấu tăng lên. Đặc biệt, cái Tôi được bộc lộ ở nhiều chiều kích hơn như cái tôi nghề
nghiệp, cái tôi khác biệt, cái tôi vượt khó, song cũng vì thế mà các dấu hiệu đặc
trưng của tự truyện theo quan niệm của P. Lejeune - nhà nghiên cứu tự truyện Pháp
- lại trở thành khung hình quá chật hẹp và luôn xuất hiện các biến thể như tự truyện
- tiểu thuyết, tự truyện - hồi ký, tự truyện - du ký Chúng tạo nên dáng vẻ không
thuần nhất của thể loại. Nếu đặt những dấu hiệu này trong bối cảnh lịch sử xã hội
Việt Nam từ đầu thế kỷ đến nay sẽ thấy đó chính là những hình ảnh phản chiếu khá
rõ sự chuyển biến của tinh thần xã hội.
1.2. Về đặc điểm này của tự truyện Việt Nam, nhà nghiên cứu Đoàn Cầm
Thi (2008) cho rằng “truyền thống văn hóa vốn đề cao dân tộc, cộng đồng”, “Đạo
Khổng và chủ nghĩa tập thể là những ý thức hệ cản trở sự bộc lộ cá nhân” [174,
247] đã cản trở sự phát triển thể loại. Tiếc rằng những nhận định ấy lại chưa được
triển khai một cách hệ thống hoặc chỉ quan sát từ những vận động nội tại của tự sự
văn học mà chưa có sự phân tích mối quan hệ này một cách cặn kẽ. Hơn nữa, bản
thân tự truyện, cũng giống như các thể loại văn học nói chung, để có thể lý giải
được những đặc điểm nội tại của chúng không thể chỉ quan sát từ một thành tố riêng
lẻ bởi văn học, như quan điểm của J.P.Sartre (1948) trong tác phẩm Văn học là gì:
“Chính sự kết hợp giữa hành động của nhà văn và của độc giả sẽ làm xuất hiện một
1
tác phẩm tinh thần là một vật vừa cụ thể, vừa chỉ tồn tại trong tưởng tượng”. Điều
đó có nghĩa văn học phải được coi là một quá trình xã hội, được tạo thành bởi hai
chủ thể tác giả và người đọc. Giá trị văn học sẽ thành tạo nên từ những tương tác
giữa hai chủ thể của quá trình này. Như vậy, việc lý giải những đặc điểm của tự
truyện cần được đặt vào hệ thống và quá trình của nó. Hay nói cách khác, là phải
quan sát cặn kẽ mối quan hệ giữa xã hội và thể loại.
1.3. Theo mô tả của Sidonie Smith và Julia Watson (2002) trong Reading
Autobiography: Aguide for Interpresting Narratives, lịch sử nghiên cứu tự truyện từ
hướng tiếp cận xã hội đã từng được đặt ra. Trong đó, yếu tố giới được các nhà
nghiên cứu lấy làm điểm xuất phát cho những giải thích về đặc trưng tự sự của tự
truyện, họ cho rằng: tự truyện, đặc biệt tự truyện của giới nữ là một hành động tái
lập sự cân bằng đối với xã hội thông qua sự bộc lộ thế giới nhận thức của phụ nữ.
Từ đây, họ tập trung phân tích những dấu hiệu làm nên sự khác biệt về kỹ thuật tự
sự trong tự truyện của phụ nữ và tự truyện của nam giới. Những cảm nhận về thế
giới từ góc nhìn của người nữ như: sự miêu tả bản thân, những cấu trúc bất bình
đẳng hiện diện trong nội dung văn bản có ý nghĩa như là một phương thức tồn tại
của giới nữ trong một xã hội trọng nam quyền. Việc khuôn các quan hệ xã hội vào
mối quan hệ giới này đã phần nào cho thấy cái nhìn chú trọng những tác động từ
phía xã hội lên nhận thức và hành vi của các chủ thể tự truyện song lại hạn chế sự
quan sát trong chỉ một khâu của quá trình văn học là khâu tạo lập mà bỏ qua khâu
tiếp nhận - một quá trình xã hội quan trọng góp phần không nhỏ trong việc thành
tạo các giá trị văn học của một thể loại.
1.4. Trong các nghiên cứu xã hội học văn học, mối quan hệ xã hội - văn học
đã từng được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau tùy theo sự thay đổi trọng tâm của
nghiên cứu văn học. Nếu phương pháp của R. Esacrpit nhấn mạnh quá trình phản
hồi và tiếp nhận thì phương pháp của P. Bourdieu lại chú trọng vai trò chủ động,
tích cực của chủ thể văn học. Đặc biệt là mối quan tâm tới những yếu tố xã hội tạo
thành những cơ hội để chủ thể thực hiện những hoạt động chủ động của mình. Mỗi
phương pháp gắn liền với một phương diện được quan tâm vì thế mà hoặc là chỉ
nhìn thấy người đọc, hoặc lại chỉ có thể lý giải hành động của chủ thể mà hạn chế
sự quan sát thể loại với tư cách là kết quả của một quá trình. Bởi vậy, theo chúng
2
tôi, để có thể quan sát tự truyện trong trạng thái sinh tồn của nó, không gì khác, phải
vận dụng tổng hợp các quan điểm lý thuyết trên. Đặc biệt là quan niệm coi tự truyện
là hoạt động tương tác giữa một bên là hành động tạo lập của tác giả và một bên là
hành động tiếp nhận của người đọc mới có thể thống nhất toàn bộ quá trình xã hội
của thể loại và lý giải một cách đầy đủ đặc điểm hiện trạng của thể loại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận từ góc độ xã hội học, đề tài nhằm mục đích lý giải các
đặc điểm hiện tại của tự truyện Việt Nam đương đại, từ đó bao quát toàn bộ diện
mạo của nó. Bên cạnh đó, nghiên cứu xã hội về tự truyện là hướng nghiên cứu còn
mới mẻ và chưa có tiền lệ vì vậy, thông qua đề tài này, chúng tôi đề xuất một khung
lý thuyết nghiên cứu xã hội học về tự truyện nói riêng và văn học nói chung nhằm
bổ khuyết cho các nghiên cứu từ các phương diện nội dung phản ánh hay tự sự học.
Đề lý giải đặc điểm diện mạo của tự truyện Việt Nam đương đại, luận án giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Xác định các đặc điểm của bối cảnh là tiền đề cho sự phát triển tự truyện
- Phân tích đặc điểm của việc bộc lộ chủ thể trong tự truyện nhằm tìm ra quy
luật của sự bộc lộ đó trong bối cảnh xã hội
- Mô tả và phân tích đặc điểm của hoạt động tiếp nhận tự truyện từ đó làm rõ
những ảnh hưởng của tiếp nhận đối với thể loại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Coi tự truyện là một quá trình xã hội, do đó đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi là Tự truyện Việt Nam đương đại nghĩa là toàn bộ hiện thực xã hội của nó
từ hành động tự truyện của tác giả tới hoạt động tiếp nhận trong bối cảnh xã hội
Việt Nam từ sau 1986 đến nay. Những khía cạnh cụ thể là: những điều kiện xã hội
như là không gian của hoạt động tự truyện, hành động tự truyện của tác giả với cả
hai mặt nội dung và hình thức và hoạt động tiếp nhận tự truyện từ quá trình lựa
chọn của xuất bản đến các mô hình diễn giải.
3.2. Phạm vi khảo sát của đề tài bao gồm toàn bộ các hình thức viết xuất hiện
từ 1986 đến nay ở cả khu vực văn học và phi văn học đáp ứng các tiêu chí sau:
- Là tác phẩm văn xuôi tự thuật về cuộc đời tác giả
- Tác giả - người kể chuyện - nhân vật chính trùng làm một
3
- Trọng tâm của kể chuyện là nhân cách cá nhân người tự thuật.
Điều đó cũng có nghĩa hiện tượng hội tụ đầy đủ các tiêu chí kể trên song có
sự pha trộn với các thể loại gần gũi khác như tiểu thuyết, hồi ký, du ký, nhật ký
cũng ở trong diện khảo sát bởi theo chúng tôi, chúng là những cách thức biểu đạt cá
nhân mà chủ thể lựa chọn để bộc lộ bản thân mình, con người và nhân cách mình
trong một bối cảnh xã hội lịch sử nhất định. Tuy nhiên, bởi một phần tự truyện là
những sản phẩm đại chúng không hàm chứa nhiều các chủ ý nghệ thuật của tác giả
cho nên, trong quá trình lựa chọn các dẫn chứng điển hình, sự tập trung sẽ dành
nhiều hơn cho các tác phẩm mà giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân sinh đậm nét hơn.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Coi tự truyện là một quá trình xã hội mà ở đó tồn tại hai hoạt động: hoạt
động tự truyện của tác giả và hoạt động tiếp nhận của người đọc, nghiên cứu xã hội
học về tự truyện của chúng tôi xuất phát từ khái niệm về hành động xã hội của Max
Weber để phân tích hành động tự truyện của tác giả với tư cách là một “hành động
được chủ thể gắn cho một ý nghĩa chủ quan nào đó”, chúng tạo nên mục đích của
hành động. Vì thế, hành động xã hội là hành động mang tính chủ quan song luôn
“tính đến hành vi của người khác trong quá trình của nó”, nó giống như một “cách
ứng xử của cá nhân” trong hệ thống xã hội và “chỉ có thể hiểu được các cấu trúc xã
hội nếu hiểu được và giải thích được cách ứng xử của cá nhân”. Sự bộc lộ chủ thể
trong tự truyện là biểu hiện của cách ứng xử đó.
Từ quan điểm này, hành động tiếp nhận cũng là một hành động xã hội song
chúng được hiểu ở hai cấp độ: tiếp nhận thông qua xuất bản với quá trình lựa chọn
của hệ thống xuất bản và tiếp nhận qua quá trình diễn giải với các mô hình tiêu biểu
theo cách gọi của Mĩ học tiếp nhận. Sự tương tác giữa các chủ thể trong hai quá
trình này sẽ tạo thành các giá trị chi phối con đường đi của thể loại tự truyện.
4.2. Để khảo sát hai quá trình xã hội của tự truyện, phương pháp nghiên cứu
chính là phương pháp xã hội học bởi chúng cho phép thu thập được cả hai loại dữ
liệu định tính và định lượng làm căn cứ khách quan cho các kết luận nghiên cứu.
- Phương pháp xã hội học: là một hệ thống các phương pháp đặc thù trong
nghiên cứu xã hội học bao gồm: phương pháp nghiên cứu tiểu sử, phương pháp điều
tra, thống kê phân loại, phương pháp phỏng vấn các phương pháp này giúp thu
4
thập thông tin về sự vận động của các nhân tố xã hội và văn học tạo nên phong trào
tự truyện ở Việt Nam sau 1986, đặc biệt là từ 2006 trở lại đây, quá trình tiếp nhận tự
truyện, các đặc điểm của công chúng tự truyện
Điều tra về công chúng tự truyện, chúng tôi sử dụng một mẫu bao gồm 201
cá thể thuộc các nhóm xã hội khác nhau tại các không gian: thư viện, lớp học,
trường học. Hình thức thu thập thông tin là phát phiếu trưng cầu ý kiến các đối
tượng trong các không gian trên trong thời gian cụ thể là tháng 3 năm 2016.
Phiếu thăm dò ý kiến với 6 câu hỏi trong đó: hai câu hỏi đóng thu thập thông
tin về khả năng và mức độ đọc đối với thể loại, 3 câu hỏi nhiều lựa chọn đưa ra các
phương án xác định lý do đọc, mục đích đọc, mức độ đọc; một câu hỏi mở thu thập
thông tin định tính hướng đến tìm hiểu mong muốn chủ quan của người đọc qua đó
tìm hiểu xu hướng tiếp nhận đối với tự truyện trong tương lai.
Phỏng vấn sâu có tham dự được thực hiện với 4 nhà văn, cũng đồng thời là
tác giả của các tự truyện được viết trong vòng từ 1986 đến nay. Cụ thể là nhà văn
Tô Hoài, nhà văn Ma Văn Kháng, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, nhà văn Phan Việt. Các
phỏng vấn này hướng tới tìm hiểu những nhu cầu chủ quan của tác giả tự truyện,
chúng có ý nghĩa như là những động lực cho hành động tự truyện trong bối cảnh
văn hóa xã hội hiện tại.
Phương pháp tự sự học: Để có thể tìm hiểu những cách thức bộc lộ bản thân
của chủ thể trong tự truyện, không gì khác là phải dựa trên văn bản. Do thế chúng
tôi sử dụng nhóm các phương pháp thuộc tự sự học cụ thể như: phân tích văn bản,
so sánh - đối chiếu, phương pháp hệ thống nhằm phát hiện những cách thức mà chủ
thể sử dụng để bộc lộ bản thân mình và bày tỏ các quan niệm giá trị.
Hệ các phương pháp này bổ sung cho nhau trong việc thu thập dữ liệu liên
quan đến các vấn đề nghiên cứu trong đề tài. Chúng bổ sung và soi sáng lẫn nhau,
góp phần cụ thể hóa các luận điểm nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án là một khái quát đầu tiên về tự truyện với tư cách là một quá trình
xã hội. Qua đó có thể thấy được diện mạo và các yếu tố tác động tới sự phát triển
của thể loại này trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam đương đại và dự đoán xu
hướng phát triển của nó trong tương lai.
5
- Nghiên cứu tự truyện từ các khía cạnh: Những điều kiện tự truyện, Sự bộc
lộ chủ thể trong tự truyện và Hoạt động tiếp nhận, luận án đã xây dựng được một
khung lý thuyết đối với việc nghiên cứu xã hội học về tự truyện nói riêng và các
hiện tượng văn học đương đại nói chung.
- Luận án là sự khẳng định tính khả dụng của phương pháp xã hội học trong
nghiên cứu văn học. Đặc biệt là những khảo sát định lượng có ý nghĩa quan trọng
trong việc gia tăng tính thuyết phục cho các kết luận trong nghiên cứu văn học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là việc vận dụng các quan điểm xã hội học vào việc lý giải đặc trưng
diện mạo của thể loại tự truyện trong đời sống xã hội Việt Nam đương đại từ đó
một mặt làm rõ các luận điểm lý thuyết về mối quan hệ giữa xã hội và văn học mặt
khác, đóng góp một cái nhìn mới đối với một hiện tượng văn học hiểu ở ý nghĩa
rộng rãi nhất của từ này.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu và giảng
dạy các chuyên đề về những hiện tượng văn hóa, văn học Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu tự truyện Việt Nam đương đại
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc nghiên cứu tự truyện Việt
Nam đương đại
Chương 3: Những điều kiện tự truyện và sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện
Chương 4: Hoạt động tiếp nhận tự truyện
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TỰ TRUYỆN VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Tổng quan tài liệu liên quan đến đề tài
Ngay từ năm 1940, trong công trình Nhà văn hiện đại, nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan đã từng quan tâm tới tự truyện với tư cách là một nhóm loại tiểu thuyết
hấp dẫn và nhiều thử thách. Các bài viết của ông về Dã tràng của Thiết Can, Những
ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư có thể coi là những
nghiên cứu đầu tiên về tự truyện. Do thực tế phát triển của thể loại, nên đến tận thế
kỷ thứ 21 này, khi phong trào dân chủ hóa văn học ngày càng trở nên sôi nổi, văn
học bắt đầu xuất hiện một loạt tác phẩm lấy cuộc đời riêng của người viết làm đề
tài, câu chuyện về tự truyện mới được dịp quay trở lại. Chính vì thế mà những
nghiên cứu về nó cũng mới đang ở giai đoạn bắt đầu. Những vấn đề như: tự truyện
là gì, văn học Việt Nam có tự truyện hay không, con đường phát triển của nó là như
thế nào, những dấu hiệu của tự truyện trong các tác phẩm cụ thểđã và đang được
đặt ra. Trong phần này, để thuận tiện cho sự trình bày, chúng tôi tạm chia hoạt động
nghiên cứu về tự truyện ở Việt Nam thành hai nhóm chính: nhóm tập trung vào
những vấn đề thể loại và nhóm quan tâm tới những tác phẩm tự truyện riêng biệt.
1.1.1. Những vấn đề thể loại
Hai câu hỏi lớn mà những nghiên cứu về tự truyện Việt Nam luôn quan tâm
là: thế nào là tự truyện và Văn học Việt Nam có tự truyện hay không. Đây cũng
đồng thời là những vấn đề gây tranh luận khá nhiều kể từ khi thể loại này xuất hiện.
Có thể kể đến một loạt các bài viết tiêu biểu như: Truyện tiểu sử, một loại
hình tự sự cần được khẳng định và phát triển của Trương Dĩnh năm 2000, Viết tự
truyện, khi nào và vì sao của Trần Văn Toàn năm 2003, chùm bài viết của Đoàn
Cầm Thi đăng rải rác trên báo văn nghệ từ 2004 đến 2008 sau này tập hợp lại trong
cuốn sách mới xuất bản Đọc Tôi bên bến lạ: Cơ hội của chúa - từ nhật ký đến hậu
trường văn học (2004), Nỗi buồn chiến tranh: tự truyện bất thành (2004), Đặng
Thùy Trâm: biến số và ẩn số (2008), Tương lai tự truyện Việt Nam còn ở phía trước
(2008), bài viết của Lê Tú Anh: Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc
7
mộng lớn (Tản Đà) - Những bước đi đầu tiên của tự truyện Việt Nam (2010), của
Đỗ Hải Ninh: Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật
trong văn học Việt Nam đương đại (2009) và sau này là luận án khá công phu của
chị: Tiểu thuyết có khuynh hướng tự thuật trong Văn học Việt Nam đương đại năm
2012. Ngoài ra, việc xác định những đặc điểm của tự truyện không thể không kể
đến hai nghiên cứu khá quan trọng là bài viết: Tự thuật và tiểu thuyết Pháp ở thế kỷ
XX của Đặng Thị Hạnh năm 1998 và chương Tiểu thuyết tự thuật trong công trình
nghiên cứu Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI của Phùng Văn Tửu năm 2005.
Mặc dù đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết Pháp nhưng những vấn đề như bối cảnh,
hành trình, đặc điểm của thể loại được đề cập đến trong các nghiên cứu này đã giúp
cho việc hiểu về tự truyện Việt Nam thêm cụ thể, rõ ràng.
Về câu hỏi thế nào là tự truyện, hầu như các nghiên cứu đều coi định nghĩa
của P. Lejeune là cơ sở để xác định các đặc trưng thể loại. Nhà nghiên cứu Đặng
Thị Hạnh sau khi mô tả nguồn gốc của việc lấy cái tôi làm đối tượng miêu tả là tinh
thần tự thú và hành trình của nó trong văn học Pháp đã nêu định nghĩa về thể loại
của P. Lejeune làm cơ sở cho việc nêu ra mối quan hệ giữa nó và tiểu thuyết: “Năm
1971 trong cuốn Tự thuật ở Pháp Philippe Lejeune định nghĩa nó như sau: Truyện
kể mang tính nhìn lại dĩ vãng, mà một người có thật viết về cuộc sống của mình, khi
người đó đặt trọng âm lên đời sống riêng, nhất là lên sự hình thành nhân cách” [70,
36]. Định nghĩa này được coi là căn cứ lý thuyết quan trọng trong hầu khắp các
nghiên cứu về tự truyện. Tại chương Tiểu thuyết Tự Thuật, tác giả Phùng Văn Tửu
cũng dẫn định nghĩa này để phân biệt với tiểu thuyết và chỉ ra sự giao thoa giữa hai
thể loại. Điều thú vị là ở chỗ, ông có ghi chú thêm: “thể loại tự thuật không chỉ giới
hạn ở những nhà văn tuy ở đây ta chỉ xem xét trường hợp nhà văn viết tự thuật”
[165, 136] như một sự phân định ranh giới giữa tự thuật của nhà văn và tự thuật nói
chung. Tuy vậy, ông không đi sâu phân tích ranh giới này mà chỉ coi đó là một giới
hạn cho phạm vi nghiên cứu của mình, đó là mối quan hệ giữa tiểu thuyết và tự
thuật, tiểu thuyết tự thuật và tiểu thuyết.
Chú ý tới tác giả song nhấn mạnh một đặc điểm thuộc về chủ thể tự truyện,
đó là tuổi tác và độ chín của những trải nghiệm nhân sinh, nhà nghiên cứu Trần Văn
Toàn viết: “Tự truyện như ta đã biết, thường được viết vào thời tác giả đã trưởng
8
thành, đã trải qua phần lớn các chặng đường đời. Đây là đặc điểm quan trọng để
phân biệt tự truyện với nhật ký. Ở nhật ký, thời gian viết và thời gian được nói tới
trùng khít với nhau trong khi đó ở tự truyện giữa hai dòng thời gian này là một
khoảng cách rất rõ nét. Vậy thì điều gì đã khiến một tác giả đang sống ở đây, trong
hiện tại - lại có nhu cầu nhìn lại quá khứ đã trôi xa của mình. Vì đâu mà người ta
khao khát được tìm lại “thời gian đã mất”? () Về phần mình, tôi cho rằng: tự
truyện gắn với một năng lực đặc biệt của con người: năng lực nghiệm sinh cuộc
sống. Cuộc sống có trải nhưng cũng có nghiệm và không phải lúc nào trải và
nghiệm cũng đồng nhất với nhau. Để nghiệm cần có thời gian, cần một sự lịch
duyệt nhân sinh, không hiếm khi là những đổ vỡ, vấp ngã trong đường đời để đọc
thấu/ để cấp cho những gì đã trải một ý nghĩa nào đó” [167]. Như thế, căn nguyên
của sự khác nhau giữa nhật ký và tự truyện chính là sự “lịch duyệt nhân sinh” hay
nói khác đi, là tuổi tác, là thời gian đủ để có thể nghiệm sinh cuộc sống của chính
tác giả tự truyện. Từ đây, quá khứ mang một ý nghĩa khác, ý nghĩa của trải nghiệm,
của hiện tại viết mà không còn là chính nó tại thời điểm đã diễn ra. Sự lý giải này
cho phép người đọc nhận thức đầy đủ hơn về sự tác động của các yếu tố chủ quan
của chủ thể tự truyện lên câu chuyện của mình. Các yếu tố chủ quan hiểu rộng ra là
tuổi tác, nghề nghiệp, thói quen, là ý thức xã hội. Chúng tác động lên hành động tự
truyện, tạo nên đặc điểm riêng của từng tự truyện.
Cùng với việc xác định đặc trưng cơ bản của tự truyện, câu hỏi tự truyện có
phải là văn học hay không cũng được đặt ra. Có thể nói nhà nghiên cứu Lê Tú Anh
là người quan tâm đến vấn đề này nhiều nhất. Trong các bài viết của mình, việc đưa
ra quan niệm về tự truyện và coi tự truyện như một thể loại văn học luôn được nhấn
mạnh. Theo đó, tự truyện chỉ được coi là văn học khi nó đạt được các phẩm chất
văn học:
“Theo tôi, tự truyện như một thể loại văn học hay một tác phẩm tự truyện
ngoài việc cần phải có những điểm khả thủ để phân biệt ở một mức độ tương đối
với hồi ký, nhật ký, tiểu thuyết; cần phải đáp ứng được những yêu cầu để có thể
phân biệt với một tự truyện chưa đạt đến trình độ tác phẩm văn học (cận văn học).
Các yêu cầu cụ thể, là: phải có thao tác tự sự, có ý nghĩa nhân sinh và ngôn từ có
tính nghệ thuật” [5]
9
Những xác định này đã vẽ ra một đường phân giới giữa một bên là tự truyện
“cận văn học” và một bên là tự truyện văn học. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ
có/ không có những phẩm chất vừa nêu. Điều này cũng được nhà văn Triệu Xuân
nêu ra trong bài viết: Tự truyện: con nuôi của văn học, ông viết: “Tự truyện không
hẳn là văn học. Nó là một thể văn viết ghi lại tư liệu có thật nhằm thuật lại cuộc đời,
sự nghiệp của một cá nhân hoặc một gia đình, dòng họ. Tự truyện chỉ có thể là văn
học khi nó được viết theo cái cách của văn học. Thông qua số phận của cá nhân ấy,
gia đình ấy, phản ánh và biểu hiện tâm thế của một cộng đồng, một dân tộc, một
thời đại....các cuốn như Thép đã tôi thế đấy của N.Otxtrovski, Bộ ba tác phẩm: Thời
thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của M. Gorky, Những ngày thơ
ấu của Nguyên Hồng, Cai của Vũ Bằng là tự truyện chính cống...” [189]. Theo ông,
cái cách của văn học, chính là những kỹ thuật của văn học, chúng tạo nên phẩm chất
văn học của tác phẩm. Như thế, sẽ tồn tại những tác phẩm có/ không có chất văn
học ở những mức độ khác nhau. Trong khi đó, bản thân những phẩm chất đó phần
lớn lại tùy thuộc vào sự cảm nhận của người đọc bên cạnh sự thể hiện giá trị tự thân
của văn bản. Trên thực tế, do đặc tính của mình, tự truyện còn có thể được đọc ở
nhiều phương diện khác nữa như phương diện tư liệu, phương diện văn hóa,
phương diện xã hộimà không chỉ đọc thuần túy bằng sự cảm nhận văn chương.Vì
thế, theo chúng tôi, sẽ cùng lúc tồn tại hai phạm vi của tự truyện: tự truyện mang
phẩm chất văn học và những tự truyện mà phẩm chất văn học ít hơn. Điều đó phản
ánh chính thực tế của thể loại.
Với chủ đề “văn học Việt Nam có tự truyện hay không”, những nghiên cứu
và tranh luận cũng diễn ra khá sôi nổi. Trả lời câu hỏi này tồn tại hai ý kiến trái
ngược nhau, một khẳng định và một phủ định. Nhà nghiên cứu Lê Tú Anh, các nhà
văn Bảo Ninh, Triệu Xuân, Văn Chinh khẳng định truyền thống văn học Việt Nam
đã xuất hiện tự truyện với tư cách một thể loại văn học.
Nhân bình luận về cuốn tự truyện Yêu và sống của Lê Vân, Bảo Ninh cho
rằng: “cho tới khi đọc Yêu và sống của Lê Vân tôi mới ngẫm ra và nhớ ra rằng trong
các tác phẩm văn xuôi Việt Nam mà bản thân mình yêu thích nhất, có không ít tự
truyện: Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán,
Chiều chiều của Tô Hoài (... ) Văn chương không hư cấu, viết cụ thể về một con
10
người có thật và đương thời, với nhân vật đích danh, là một thể loại đã xuất hiện từ
lâu ở ta với số lượng tác phẩm không nhỏ, trong đó có những tác phẩm xứng đáng
là hạng nhất của nền văn học” [118]
Lê Tú Anh khẳng định một cách cụ thể hơn về sự xuất hiện thể loại. Chị cho
rằng “tự truyện đích thực đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam hiện đại ngay từ
chặng khởi đầu” và diễn giải cụ thể: “Trong quá trình vận động của nền văn học
Việt Nam từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại, thể loại
này có dấu hiệu xuất hiện ngay từ tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ đầu tiên:
Thầy Lazarô Phiền (Nguyễn Trọng Quản). Đến chặng hoàn tất của quá trình hiện
đại hoá văn học (1930-1945), tự truyện đã chính thức có mặt và cùng với các thể
loại khác, làm nên một diện mạo mới cho nền văn học Việt Nam. Góp phần tạo nên
sự xuất hiện sớm sủa và mau lẹ của thể loại này, theo chúng tôi, không thể không kể
tới vai trò của Phan Bội Châu và Tản Đà. Hai tác phẩm đánh dấu sự ra đời của thể
loại văn học này chính là Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc mộng
lớn (Tản Đà)” [4, 5]. Chị đã chứng minh thông qua việc phân tích những yếu tố cấu
thành như nghệ thuật tự sự, ý thức tự thú và tinh thần cá nhân từ những dấu hiệu
manh nha đến sự xuất hiện đầy đủ ở hai tác phẩm đã nêu.
Ngược lại quan điểm trên, nhà nghiên cứu Đoàn Cầm Thi cho rằng: Văn học
Việt Nam chưa có tự truyện. Trong bài trả lời phỏng vấn Tương lai của tự truyện
Việt Nam còn ở phía trước trên báo Văn nghệ (...cách của một con người cầu thị, nghiêm túc,
luôn trăn trở truy tìm sự thật, luôn muốn sống cho thật cận nhân tình” [146, 98].
Những miêu tả đó một mặt cho thấy tính cách và con người Tô Hoài, mặt khác là sự
khẳng định việc quan sát tự truyện từ chính những đặc trưng thể loại của nó luôn là
một hướng đi đúng đắn. Tuy vậy, phân tích nội dung tác phẩm để chỉ ra đặc điểm
tính cách như vậy dễ làm quên đi những yếu tố chủ quan của tác giả trong việc kiến
tạo nên hình ảnh về bản thân trong khi chính điều đó quyết định việc chủ thể sẽ viết
về mình như thế nào.
23
Tương tự nghiên cứu của Trần Thị Mai Phương, Phan Thị Lúy trong luận
văn Hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải khảo sát về chủ thể thông qua hình tượng
tác giả mà biểu hiện của hình tượng đó là người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi”
và ngôi thứ ba “hắn”. Từ đây, nghiên cứu đi vào sự phân tích và mô tả về “tôi” và
“hắn” trong sự quy chiếu với chính Nguyễn Khải. Những đặc điểm về cuộc đời, con
người và sự nghiệp của Nguyễn Khải cùng lúc được giải thích một cách cặn kẽ.
Theo tác giả chúng chính là một “cánh cửa mở ngỏ để người đọc có thể đi vào các
sáng tác của Nguyễn Khải qua lối mở của chính nhà văn” [108, 113]. Tự truyện và
hồi ký lúc này, không chỉ mang giá trị văn học, nó là tư liệu, là con đường bước vào
thế giới riêng tư của tác giả. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Đông La trong Đôi nét về
Nguyễn Khải qua Thượng đế thì cười đã thông qua những gì nhà văn kể mà khái
quát về cuộc đời và văn nghiệp Nguyễn Khải, cá tính Nguyễn Khải.
Cái tôi là một khía cạnh biểu hiện của chủ thể. Về cái tôi tự truyện nói
chung, Đoàn Cầm Thi trong bài trả lời phỏng vấn: Tương lai tự truyện Việt Nam
còn ở phía trước? chị phân tích: chữ “tôi” trong tự truyện thường là một đại từ
trung lập chỉ con người trong nghĩa triết học (tức là con người đối mặt với vũ trụ)
khác với đại từ ngôi thứ nhất số ít chỉ mối quan hệ với tha nhân như “tao”, “anh”,
“em”. Từ quan niệm này, nhận xét về Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, chị
cho rằng “ Bảy thập kỷ sau, có thể nói ông vẫn là người đi xa nhất trong việc tìm
kiếm cái tôi” [174, 245]. Sở dĩ như vậy là bởi Nguyên Hồng đã không ngần ngại
viết về mình, về tuổi ấu thơ nghịch ngợm, lang thang, về một người cha nghiện
ngập, một người mẹ “theo trai”nghĩa là những điều mà theo lẽ thường “tốt đẹp
phô ra” trong văn hóa Việt Nam, thường được giấu kín. Điều đó tạo nên một cái tôi
riêng biệt, độc đáo của Nguyên Hồng. Quan niệm của Đoàm Cầm Thi gợi ý cho
việc quan sát cái tôi chủ thể trong tự truyện. Mỗi tác giả khi kể về mình thực chất
chính là sự viết lại cái tôi của mình, viết về hành trình hình thành nên “tôi” của ngày
hôm nay. Song có một điều tuổi tác, thế hệ và những trải nghiệm đời người cũng có
những chi phối nhất định tới việc nhận thức về cái tôi bởi không thể có một cá nhân
nào đứng ngoài nhóm, ngoài tập thể, xã hội của mình. Khi phân tích cái tôi của Lê
Vân trong Yêu và Sống, nhà nghiên cứu Jonh. C. Schafer, cho rằng: “Cô chấp nhận
một số ý niệm truyền thống về nữ giới nhưng chỉnh sửa hoặc từ chối một số khác”
24
[155]. Có nghĩa rằng, Lê Vân một mặt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quan niệm
truyền thống Việt Nam về người phụ nữ song cũng là một cái tôi cá nhân ở khả
năng “tự vận động” để xác lập một quan điểm riêng, một tiếng nói, một cách nói
riêng. Chúng làm nên động lực cá nhân của hành động tự truyện của Lê Vân. Tự
truyện của chị vì thế là hành trình khẳng định bản sắc cá nhân của một người phụ
nữ trong bối cảnh văn hóa Việt Nam.
Nói tới tự truyện là nói tới chân dung của tác giả - chủ thể của tự truyện song
quan sát sự bộc lộ ấy không chỉ là việc phân tích hình ảnh hay hình tượng tác giả
mà phải là phân tích sự viết của họ. Vì vậy, bên cạnh việc đi tìm điểm xuất phát của
việc trả lời câu hỏi “tôi là ai” của chủ thể là việc chỉ ra những cách thức tương ứng
mà tác giả lựa chọn để tự truyện.Về vấn đề này, từ những nghiên cứu về khuynh
hướng tự truyện trong tiểu thuyết, Đỗ Hải Ninh cho rằng tiểu thuyết có khuynh
hướng tự truyện là một phương thức ứng xử với sự thật của các nhà văn. Tác giả
giải thích: “viết tự truyện tưởng chừng đơn giản nhưng lại không hề dễ, nhất là
trong nền văn hóa có truyền thống tương đối khép kín như Việt Nam. Hơn nữa, suốt
một thời kỳ dài, do những áp lực của cơ chế kiểm duyệt, mỗi người cầm bút phải tự
kiểm duyệt trước khi viết và trước khi xuất bản tác phẩm. Đây chính là thái độ mà
Dương Tường chỉ ra: sự ham muốn an toàn và ngại đương đầu của trí thức Việt
Nam trước thời cuộc. Chính vì vậy, sự lựa chọn tiểu thuyết thay vì các thể loại phi
hư cấu (tự truyện, hồi ký) là cách từ chối cam kết “chỉ nói thật” của nhà văn” [115,
135]. Như vậy, hình thức tiểu thuyết là cách thức bộc lộ sự thật của chủ thể nhà văn
theo quan niệm của Đỗ Hải Ninh. Với hình thức này, nhà văn được quyền “từ chối
cam kết” song vẫn có thể nói được những điều cần thiết. Từ lăng kính của sự bộc lộ
chủ thể, theo chúng tôi, cho dù là một phép ứng xử với sự thật, dù né tránh cam kết
nhưng những mâu thuẫn trong chính các câu trả lời về bản thân của chủ thể sẽ luôn
hiện hữu. Chúng xuất hiện ngay trong hình thức của tự truyện, trong điểm nhìn,
ngôi kể, trong thái độ và giọng điệu của người kể chuyện. Do đó, tìm hiểu sự bộc lộ
chủ thể trong tự truyện phải bao gồm cả hai phương diện nội dung và hình thức.
1.2.3. Về hoạt động tiếp nhận tự truyện
Hoạt động tiếp nhận trong quan niệm xã hội học văn học của R. Escarpit là
một quá trình trong toàn bộ quá trình văn học bao gồm các khâu xuất bản, phát hành
25
và tiêu thụ. Hiện không nhiều các nghiên cứu tự truyện ở khía cạnh này. Thậm chí
nếu có cũng chỉ là một ý kiến mà chưa thể là một lý giải đầy đủ và đúng nghĩa.
Trước hết phải kể đến ý kiến của Jonh C. Schafer về tự truyện Lê Vân: “Đổi
mới đem lại cơ hội để lên tiếng vì chính quyền nhận thấy khó mà cản trở tự do nghệ
thuật khi đã ủng hộ tự do kinh doanh. Các nhà xuất bản đã không còn nguồn bao
cấp từ nhà nước phải tìm cách in những cuốn sách mà mọi người sẽ mua, và họ đã
thấy những cuốn tự truyện bán rất chạy” [155]. Hướng tới kinh tế thị trường rõ ràng
là một yếu tố trong việc xuất bản Yêu và Sống. Yếu tố kinh tế thị trường là căn
nguyên của sự xuất bản tự truyện hiện nay, điều đó là một thực tế. Bởi chúng thu
hút khá nhiều sự tò mò. Theo quan niệm của R. Escarpit, vấn đề lợi nhuận là việc
làm có ý thức, là một mục tiêu của xuất bản: “Đây là việc một tác phẩm được mang
ra công bố là một quá trình có ý thức và có tính chất thô bạo bởi nó đi từ sự bí ẩn
của quá trình sáng tạo nghệ thuật ra ánh sáng vô danh nơi công cộng. Ở đây, bạo lực
được chấp thuận, sự làm uế tạp vật thiêng được thực hiện một cách có ý thức, mà
điều này còn tồi tệ hơn nữa bởi trong đó còn có vấn đề lợi nhuận tầm thường”[178,
363]. Như thế, không thể phủ nhận việc xuất bản tự truyện vì mục đích kinh tế. Yêu
và Sống của Lê Vân trước hết là một hiện tượng xuất bản cũng bởi lý do này. Tuy
nhiên,vai trò của nhà xuất bản bên cạnh mục đích kinh tế còn là mục đích văn hóa,
là nhiệm vụ định hướng giá trị. Song để hiểu được sự định hướng đó đã diễn ra như
thế nào lại cần phải có cái nhìn bao quát cùng với những thống kê cụ thể.
Về công chúng của tự truyện, bài viết của của nhà nghiên cứu Vương Trí
Nhàn Nhân đọc Lê Vân yêu và sống nghĩ thêm về sách và công chúng thời nay đã
cho thấy sự chú ý của người nghiên cứu đến vấn đề này. Ông nhận xét: “Dấu hiệu
rõ nhất đánh dấu sức chinh phục của Lê Vân yêu và sống là công chúng không chỉ
mua nó đọc nó mà còn bàn bạc về nó rất nhiều. Mở các trang báo kỳ này, người ta
có thể bắt gặp rất nhiều bài viết bàn bạc về Lê Vân và với Lê Vân như là bàn
chuyện của gia đình mình, người quen của mình. Qua việc nhiều bạn đọc tham gia
thảo luận về Lê Vân yêu và sống, người ta nhận ra rằng rút cuộc tự truyện thường
khi không phải là chuyện riêng của một người mà là chuyện của thời đại” [121] .Ở
đây, nhà nghiên cứu đã phát hiện ra mối quan hệ giữa tác giả và công chúng hiện
nay đã thay đổi. Sự bình đẳng và dân chủ trở thành đặc điểm nổi trội. Sở dĩ như vậy
26
một phần do ảnh hưởng của giao lưu văn hóa với phương Tây, một phần khác,
chính là bởi người viết đã lựa chọn vị trí đứng ngang hàng cùng người đọc: “Lâu
nay, các hồi ký chỉ nặng về tô vẽ cho bản thân người viết. Nay thì Lê Vân hiện ra
qua các trang sách như một con người đầy băn khoăn hối lỗi và khắc khoải đi tìm
bản thân” [121]. Mối quan hệ giữa Lê Vân và người đọc là mối quan hệ bình đẳng
giữa cá nhân và cá nhân. Thêm nữa, nó cũng lại là câu chuyện của đương thời cho
nên giữa người đọc và tác giả càng có nhiều điểm tương đồng. Đó là lý do vì sao
công chúng bàn về Lê Vân và chuyện của Lê vân như là chuyện của mình. Có lẽ
đây chính là đặc thù của mối quan hệ tác giả và công chúng của tự truyện. Khi đọc
tự truyện, người đọc nhận ra quyền của mình. Chính tác giả là người trao cho họ cái
quyền đó khi bày tỏ cam kết những gì nói ra sẽ là sự thật.
Tuy nhiên, ngoài những nhận xét trên, hầu như chưa có bất kỳ nghiên cứu
nào về sự tiếp nhận đối với tự truyện được tiến hành mặc dù hoạt động tiếp nhận thể
loại này với những đặc điểm về tâm lý, nhu cầu, tầm đón đợi của công chúng trên
thực tế là khá phong phú. Nếu khảo sát thực tế này sẽ cho thấy bức tranh chung về
hiện thực tự truyện đồng thời phần nào lý giải những đặc điểm nhất định của tự
truyện Việt Nam đương đại.
Như vậy, hoạt động tiếp nhận tự truyện hầu như vẫn là một khoảng đất còn
bỏ trống. Những nhận xét về các hiện tượng xuất bản liên quan tới tự truyện cũng
mới chỉ dừng lại ở sự giải thích lý do xã hội của tự truyện mà chưa có những bằng
chứng cụ thể. Về công chúng của tự truyện và sự đọc cũng vậy. Có lẽ đây là thể loại
chưa thực sự quen thuộc với người đọc cho nên sẽ khó có thể nói là đã có nhóm
công chúng riêng biệt của mình. Tuy nhiên, những cách đọc khác nhau đối với tự
truyện kể từ khi thể loại này xuất hiện trong đời sống và trong văn học Việt Nam là
một hiện thực khá phong phú. Bằng chứng là những cuộc tranh luận sôi nổi về Yêu
và Sống của Lê Vân trên các báo sau khi tác phẩm ra đời. Điều đó cho thấy tự
truyện đã bắt đầu có độc giả riêng. Nghiên cứu của chúng tôi với tinh thần đi tìm
mối liên hệ giữa thể loại và đời sống xã hội không thể bỏ qua khía cạnh này.
Tiểu kết: Tự truyện dù manh nha từ khá sớm ở Việt Nam song bởi những
đứt đoạn nhất định trong quá trình phát triển nên nó chưa thực sự trở thành đối
tượng riêng biệt của nghiên cứu văn học. Chỉ sang đầu thế kỷ 21, những quan tâm
27
về nó mới được bắt đầu. Bởi thế, kết quả nghiên cứu về tự truyện mới dừng lại ở sự
nhận diện về thể loại và đi tìm gương mặt của nó trong đời sống văn học, coi nó
như một biểu hiện của xu hướng đổi mới trong tư duy văn học. Đối với từng tác
phẩm cụ thể, việc lý giải tự truyện cũng không nằm ngoài giới hạn này. Tuy nhiên,
sự phát triển của tự truyện đã không hoàn toàn khuôn mình trong phạm vi văn học
và vì thế chúng đòi hỏi một quan sát rộng rãi hơn, linh hoạt hơn, đủ để lý giải hiện
trạng thực tế của thể loại.
Mặc dù vậy, từ phương diện xã hội học, những nhận xét bước đầu về tự
truyện lại có ý nghĩa quan trọng. Sự quan tâm đến bối cảnh xã hội như là những
điều kiện để cá nhân bộc lộ bản sắc, việc phân tích những biểu hiện của cái tôi trong
trong văn học, sự lý giải mối quan hệ giữa ý thức hệ và khả năng nói về cá nhân và
sự thật, những phân tích về chủ thể - tác giả ở từng tác phẩmlà những gợi ý xác
đáng để chúng tôi có thể nghiên cứu quá trình thứ nhất của hiện tượng này: quá
trình tạo lập. Bên cạnh đó, quá trình thứ hai, quá trình tiếp nhận tự truyện ở Việt
Nam cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được chú ý như: hoạt động xuất bản và vai trò
của nó trong thời kỳ kinh tế thị trường, những quan điểm diễn giải và tác động của
chúng đối với tác giả và thể loại Chúng cho thấy việc quan sát tự truyện không
thể chỉ bó hẹp ở phạm vi văn bản tác phẩm mà phải quan sát nó với tư cách là một
sự thực văn học với cả hai quá trình đã nói trên. Thêm vào đó, ở mỗi quá trình, tinh
thần dân chủ phải được xem như hạt nhân cơ bản của sự phát triển của thể loại bởi
chỉ dân chủ xã hội mới tạo ra không gian tiềm năng của tự truyện và thúc đẩy ý thức
tự truyện của các chủ thể
28
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TỰ
TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Quan niệm về tự truyện
2.1.1. Những định nghĩa tự truyện
Với ý nghĩa là câu chuyện của một người tự kể về mình, tự truyện đã có mặt
trong đời sống văn hóa của con người từ rất sớm và tồn tại trong nhiều dạng thức
khác nhau. Chính vì thế, đi tìm một định nghĩa về tự truyện có thể bao quát được
hầu khắp các dạng thức của thể loại này không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, với
mỗi nền văn hóa, thậm chí với mỗi cá nhân khi cầm bút viết tự truyện, quan niệm
về “câu chuyện tự kể” này cũng không hoàn toàn đồng nhất. Điều đó làm cho
những định nghĩa về tự truyện trở thành một loại khuôn mẫu không đủ bao quát bức
tranh sinh động của bản thân thể loại. Để có được một cách hiểu đầy đủ nhất về tự
truyện, chúng tôi sẽ trình bày sau đây một số quan niệm về tự truyện vừa từ góc
nhìn văn học vừa từ góc nhìn phi văn hoc trên cơ sở đó xác lập những đặc điểm cơ
bản làm căn cứ nhận diện và khảo sát.
Trước tiên là định nghĩa của Đỗ Đức Hiểu được nêu trong Từ điển văn học
(Bộ mới): “Tự truyện là thể loại văn học trong đó tác giả kể chuyện về cuộc đời
mình. Nhân vật chính của truyện chính là tác giả. Tự truyện ở Phương Tây đặc biệt
phát triển với sự phát triển của nội quan, con người quan sát lương tâm mình”. [134,
1905]. Tác giả lấy ý kiến của P. Lejeune, nhà nghiên cứu tự truyện Pháp, để cụ thể
hóa: “Tự truyện thường là những câu chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của
chính tác giả, có thể gần trọn cuộc đời, có thể thời thơ ấu hoặc thời phiêu
lưu...người kể chuyện trùng với tác giả hoặc nhân vật chính”. Ông cũng xác lập một
số điểm giáp ranh giữa tự truyện với các thể loại như: giáp ranh với tiểu thuyết ở
đặc điểm người kể chuyện ngôi thứ nhất, với hồi ký và nhật ký ở đặc điểm về cái
nhìn nội quan, và thái độ tự vấn. Đặc biệt, một tiêu chuẩn hết sức quan trọng là: tự
truyện không phải là một tập hợp những kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một
truyện, một tiểu thuyết. Thế nhưng, dường như vẫn còn băn khoăn, nhà nghiên cứu
lại viết thêm: “Tự truyện là một thể loại văn học rộng mở có thể bao gồm những kỷ
29
niệm, nhật ký, những truyện ngắn có nguồn gốc từ cuộc đời tác giả, gọi là tiểu
thuyết tự truyện, có thể kể theo phương thức dòng tư tưởng” [134, 1905]
Một định nghĩa khác về tự truyện được nêu trong Từ điển thuật ngữ văn học:
Tự truyện là “tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả tự viết về cuộc đời
mình [69, 389]. Tự truyện được phân biệt với bản tự thuật về tiểu sử nhà văn ở chỗ:
“tự thuật yêu cầu trình bày một cách súc tích những sự kiện đã xảy ra trong cuộc
đời nhà văn, tự truyện lại yêu cầu nhà văn tái hiện đoạn đời đã qua của mình trong
tính toàn vẹn, cụ thể cảm tính, phù hợp với một lý tưởng xã hội - thẩm mĩ nhất định.
Tự thuật là sự thông báo về quá khứ, tự truyện lại là tác phẩm nghệ thuật làm cho
quá khứ tái sinh. Nhà văn viết tự truyện như được sống lại một lần nữa đoạn đời đã
qua của mình. Tự thuật đòi hỏi người viết phải hết sức tôn trọng tính xác thực của
sự kiện, trong tự truyện, tiểu sử nhà văn chỉ đóng vai trò cơ sở của sáng tạo nghệ
thuật” [69, 389].
Điểm gặp gỡ của hai định nghĩa trên là ở chỗ ngoài việc xác định đặc trưng:
trình bày những sự kiện đã qua trong cuộc đời tác giả, do tác giả kể từ ngôi thứ nhất
là một chú dẫn hết sức quan trọng, đó là sự nhấn mạnh tính nghệ thuật biểu hiện ở
việc coi tự truyện “là tác phẩm nghệ thuật, làm cho quá khứ tái sinh”, ở việc “được
bố trí như một truyện, một tiểu thuyết”. Điều đó thể hiện mục đích của tác giả là sự
nhấn mạnh tính chất văn học của tự truyện.
Tuy nhiên, thực tế phát triển phong phú của thể loại, đặc biệt là sự nở rộ của
phong trào tự truyện trong đời sống và những tác động của nó tới nhiều mặt của xã
hội đòi hỏi một cái nhìn về tự truyện rộng rãi hơn, ngõ hầu có thể bao quát được
toàn bộ các phương diện khác nhau của thể loại. Định nghĩa của P. Lejeune, nhà
nghiên cứu tự truyện Pháp trong Công ước tự thuật có thể đáp ứng được điều này.
Theo ông, tự truyện là “Câu chuyện hồi cố bằng văn xuôi được viết bởi một
người có thật kể lại cuộc đời riêng của mình, lấy trọng tâm là đời sống cá nhân, đặc
biệt đặt điểm nhấn lên lịch sử hình thành nhân cách cá nhân người tự thuật”[84,
168]. Đồng thời nó phải hội tụ đầy đủ các dấu hiệu:
- Về hình thức ngôn ngữ: thuộc dạng văn xuôi tự sự
- Về đối tương kể: cuộc sống cá nhân, câu chuyện về một nhân cách
30
- Về tình huống tác giả: Tác giả phải là một người có thật với một cái tên cụ
thể đồng thời cũng là người kể chuyện.
- Về vị trí của người kể chuyện: người kể chuyện và nhân vật chính trùng
làm một
- Điểm nhìn của người kể chuyện: Là sự đi ngược dòng thời gian, là hồi ức
Cũng trong tiểu luận này, ông phân biệt những điểm giống và khác nhau giữa
tự truyện và các hình thức viết tương tự như: hồi ký, tiểu sử, tiểu thuyết cá nhân,
chân dung tự họa, thơ tự sựđể từ đó nhấn mạnh, tự truyện phải là sự hội tụ đầy đủ
các dấu hiệu trên mà không thể chỉ là sự hợp thành của một trong số chúng.
Góc nhìn khác về tự truyện được nêu trong Dẫn giải ý tưởng văn chương
của Henry Benac, một cuốn cẩm nang về văn học, mang đến cách hiểu khá rộng rãi:
“tự truyện là kiểu tác phẩm trong đó một tác giả nói về chính mình và cuộc đời
mình, dù cho chúng được viết dưới hình thức nào. Chúng có thể là những hồi ký, tự
thú, suy ngẫm triết học, những hồi ký, nhật ký riêng tư, phản tự truyện” [17, 66].
Ông cũng giải thích về những căn nguyên tâm lý của thể loại, những lợi ích xã hội
và các vấn đề đặt ra đối với việc sáng tác và nghiên cứu thể loại này. Với góc nhìn
này, phạm vi thể loại được mở rộng ranh giới. Đặc điểm được chú trọng là đặc điểm
về nội dung: tác giả nói về chính mình và cuộc đời mình. Ở đây, tác giả và sự thật
đã hòa làm một. Các dấu hiệu hình thức được đưa xuống vị trí thứ yếu.
Như vậy, hiểu về tự truyện tồn tại hai góc nhìn: góc nhìn văn học nhấn mạnh
các phẩm chất tạo nên tính văn học của tự truyện như: sự hoàn chỉnh, tính chất tái
tạo quá khứ và góc nhìn rộng hơn, coi tự truyện như một thể loại văn xuôi viết về
bản thân của tác giả mà không chú trọng các phẩm chất văn học. Hai góc nhìn này
cho thấy hình ảnh đầy tính nước đôi của thể loại trong đời sống thực tiễn. Một mặt,
đi theo con đường của sáng tạo văn học, dung nạp vào mình những đặc tính của văn
học như tính đa nghĩa, tính hư cấu, một mặt khác lại cố gắng bảo lưu các đặc tính
phi hư cấu, mở rộng khả năng quy chiếu và hướng đến các chức năng đời sống như
chức năng giáo dục, chức năng tâm lý.
Để có thể bao quát toàn bộ thực tiễn của thể loại, chúng tôi cho rằng, việc
nới rộng quan niệm về tự truyện là điều cần thiết. Theo đó, coi tự truyện như một
thể loại văn xuôi mà ở đó tính văn học luôn là một phẩm chất cần thiết để đánh giá
31
và phân loại giá trị của tác phẩm bởi vì xét cho cùng, viết đã là một hành trình đi
tìm ý nghĩa cho những gì được kể, và đó phần nào đã là văn học. Hơn nữa, bản thân
giá trị văn học cũng là một hành trình lựa chọn và kiến tạo mà không phải bao giờ
cũng là những thước đo cố định và áp đặt.
Phần viết sau đây là sự cụ thể hóa các đặc trưng cơ bản làm cơ sở để chúng
tôi thực hiện việc khảo sát tự truyện Việt Nam đương đại.
2.1.2. Đặc trưng của tự truyện
2.1.2.1. Đặc trưng về tác giả - chủ thể tự truyện.
Theo quan điểm triết học, chủ thể là con người hoạt động tích cực và nhận
thức, có ý thức và ý chí (đối lập với khách thể là cái mà hoạt động nhận thức và
hoạt động khác của chủ thể hướng vào đó). Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể
trong lịch sử triết học có nhiều quan niệm khác nhau song bản thân nội hàm khái
niệm chủ thể thì không thay đổi. Thậm chí chúng bổ sung cho nhau làm phong phú
thêm nội hàm ý nghĩa chủ thể. Nếu quan niệm Mác xit nhấn mạnh tính chủ động,
tích cực và khách quan trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thì quan niệm
duy tâm cho rằng “tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể và bản thân sự tồn tại
của khách thể là bắt nguồn từ hoạt động của chủ thể” [139, 92]. Đó là chủ thể ý
hướng tới khách thể. Nhờ hoạt động nhận thức của chủ thể mà khách thể tồn tại. Và
như vậy, nói tới chủ thể là nói tới hoạt động nhận thức tích cực, chủ quan, là ý thức
hướng tới thế giới của con người. Đây là cơ sở của các khái niệm chủ thể trong tất
cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tất nhiên, chủ thể không tồn tại độc
lập mà trong mối quan hệ giữa nó với khách thể và bối cảnh xã hội.
Trong lĩnh vực văn học, chủ thể đồng nghĩa với tác giả, người viết nên tác
phẩm văn học, người tạo ra một thế giới khách quan mang ý hướng của chính mình.
Bởi thế, tác phẩm văn học luôn là một “hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”, duy nhất, không lặp lại. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm tác giả văn học
còn được nhấn mạnh ở tính giá trị của hành động sáng tạo, đó là “người làm ra cái
mới, người sáng tạo ra các giá trị văn học mới” [69, 289]. Và như thế, tác giả tự
truyện cũng là chủ thể tự truyện, chủ thể của hành động viết về bản thân của mình.
Đối tượng nhận thức của chủ thể tự truyện là sự thật về bản thân mà theo P.
Lejeune là lịch sử hình thành nhân cách cá nhân người tự thuật. Đây là đặc trưng
32
quan trọng nhất giúp người đọc nhận ra tự truyện. Tuy nhiên, xung quanh câu hỏi
Sự thật là gì đã diễn ra nhiều tranh luận khác nhau bởi nó mang một nội hàm rộng
mở và có thể được đặt trong nhiều hệ quy chiếu khác nhau.
Ở nghĩa thứ nhất, sự thật được đặt trong hệ quy chiếu với hiện thực, nó được
coi là những sự việc đã diễn ra trong một không gian, thời gian xác định, có thể quy
chiếu với các bằng chứng nhất định. Ở các nghĩa khác, sự thật có nghĩa là không dối
trá, sự thật là chân lý của tồn tại khách quan, sự thật là tự do, sự thật là sự đích thực,
sự thật là không hư cấu (trong khi chỉ hư cấu mới đạt đến sự thật),Những ý nghĩa
ấy đã trở thành đề tài tranh luận trải dài suốt các chặng đường sáng tạo và kiếm tìm
sự thật của không chỉ văn chương. Nathalia Sarraute trong suốt cuộc đời mình luôn
đi tìm “giây phút của sự thật” như là cái đích thực luôn bị che dấu trong hàng ngàn
khuôn mẫu ngôn từ, J.P. Sartre tìm con người đích thực trong mối quan hệ với tự
do, A. R. Grillet tìm sự thật trong không - sự thật....mọi ngả đường cuối cùng đều
dẫn đến nhận thức rằng: sự thật về bản thân là bất khả, không thể có một sự thật ổn
định, bất biến, chỉ có những sự thật “mong manh, chuyển động và nhanh chóng bị
phá bỏ” [84, 164] và không thể mô tả sự thật, chỉ có diễn giải sự thật mà thôi. Cuộc
phiêu lưu đi tìm sự thật của văn chương vì thế vẫn chưa bao giờ dừng lại.
Tuy nhiên, với các nhà nghiên cứu tự truyện, như P. Lejeune, sự thật là
những gì diễn ra trong thực tế. Biểu hiện của sự thật trong tự truyện trước nhất, đó
là: nó phải là một chân dung trung thành về tác giả. Theo P.Lejeune, “Khi đọc xong
cuốn sách độc giả sẽ có một chân dung của tác giả, một hình dung tổng thể về đời
sống gia đình, xã hội, tâm lý . Độc giả tin rằng đó là một chân dung trung thành,
chính xác, ổn định với những yếu tố cố kết vững chắc. Độc giả cũng có thể tìm thấy
những diễn giải nhằm làm sáng tỏ lôgic và quá trình hình thành tác giả trong tư cách
là tác giả” [84,170]. Người đọc có thể quy chiếu đời tư tác giả với nội dung câu
chuyện. Trong tự truyện, theo ông, luôn có cam kết ngầm giữa nhà văn và độc giả
“Tôi thề sẽ nói sự thật, toàn bộ sự thật, không có gì khác ngoài sự thật” [84, 171].
Đó là bản giao kèo, là công ước tự thuật. Chúng là chiếc neo vừa mong manh, vừa
vững chắc, tạo nên niềm tin đồng thời cũng là mối dây ràng buộc giữa tác giả và
người đọc. Người đọc vì thế, dẫu không có nhiều bằng chứng của sự thật vẫn tin
rằng đang được đối diện với một sự thật thực sự.
33
Ở điểm này, tính chất quy chiếu còn cho phép những sự thật ngoài bản thân,
sự thật về thời đại từ góc nhìn cá nhân, sự thật về người khác cũng được chấp nhận.
Những chi tiết về gia đình, dòng họ, tổ tiên đều là những căn cứ để xác định tính
chất tự thuật của tác phẩm.
Bên cạnh đó, sự thật của tự truyện còn là sự thật về cái tôi, sự thật về bản
thân. Người đọc sẽ không ngại ngần đi tìm trong tác phẩm những khớp nối giữa các
sự kiện tiểu sử và sự kiện được kể lại trong tự truyện nhằm bổ khuyết cho bức chân
dung đã biết về tác giả.. Cái tôi trong tự truyện, theo cách diễn đạt của J.P. Sartre là
một cái tôi chân tín ý thức đầy đủ về những sự thật mà anh ta đủ can đảm thừa nhận
(đối lập với cái tôi ngụy tín ý thức về những điều muốn che dấu) Cái tôi ấy lấy điểm
nhấn là nhân cách cá nhân do thế câu chuyện thường hướng vào thế giới bên trong,
lý giải cái tốt cũng như cái xấu của nhân cách mình với một thái độ chân thành
không dấu giếm. Có thể gọi đó là sự “ý thức tội lỗi của tôi” theo cách mà Heidegger
diễn đạt trong Tồn tại và Thời gian [84, 105] . Sự thật ở đây là sự thật của nhân
cách, là kết quả của sự quan sát lương tâm mình của tác giả - người kể chuyện.
Chính bởi đặc điểm này, tự truyện khác biệt một cách rạch ròi với thể loại cùng
hướng về sự thật là hồi ký. Nếu ở hồi ký, mối quan hệ với lịch sử và thời đại của
người kể chuyện thường được chú trọng thì trong tự truyện, sự chú trọng lại tập
trung vào mối quan hệ với những cá nhân khác nhằm diễn giải bản thân với đầy đủ
các khả thể để trở thành chính mình. “Hồi ký là bức tranh về một thời đại, bên cạnh
câu chuyện của mình, tác giả đi sâu tìm hiểu những mảnh đời khác” [134, 1906].
Điều đó làm nên sự khác biệt giữa cái tôi hồi ký và cái tôi tự truyện. “Tôi” trở thành
một thành tố gắn liền với thể loại tự kể này. Nó trở thành điều kiện cốt yếu để định
loại văn bản.
Khi xem xét đặc trưng sự thật của tự truyện, một trong những vấn đề được
quan tâm là mối quan hệ của nó với hư cấu. Hư cấu, với chức năng thẩm mĩ của
mình luôn mang tính khái quát hóa cao, do vậy nhiều khi, lại thật hơn cả sự thật.
Đây cũng là vấn đề bàn cãi của tự truyện. Song kết thúc của những bàn cãi ấy là
một thỏa thuận: “trong tự truyện, các sự kiện tiểu sử của nhà văn chỉ đóng vai trò cơ
sở của sáng tạo nghệ thuật” hay “đời tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được
tác giả sử dụng với nhiều mục đích nghệ thuật khác nhau” [69, 389]. Trong định
34
nghĩa về sự thật của tự truyện, P. Lejeune đã phải chú ý: “về quá khứ, kỷ niệm bị
xóa mờ với thời gian vì tư duy của nhà văn khi viết tự truyện đã trải biết bao cảnh
đời, và vì các sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại, nên khó mà trùng hợp
với sự thật; đó là chưa kể có khi nhà văn có ý thức muốn biến đổi câu chuyện hoặc
tô điểm thêm, hoặc làm xấu đi những sự thật, cho nên hình ảnh của tác giả trong tự
truyện có độ lệch nhất định so với cuộc đời thật của tác giả [134, 1905]. Và như thế,
việc mặc định: Thời thơ ấu, Những trường đại học của tôi của M. Gorki, Tuổi thơ
của N. Sarraute là tự truyện cũng là một thái độ khẳng định thành phần hư cấu là
không thể thiếu được của thể loại. Nhờ hư cấu, chân dung của chủ thể trần thuật
cũng đồng thời là tác giả hiện lên rõ nét và chân thực hơn. Đó chính là hư cấu của
tự truyện.
Vai trò của hư cấu trong tự truyện còn ở chỗ, nhờ nó, câu chuyện của một cá
nhân trở thành “truyện”. Tính truyện với các dấu ấn của người kể chuyện, điểm
nhìn, giọng điệu và các yếu tố trần thuật khác khiến cho câu chuyện từ một hệ quy
chiếu đơn nhất trở nên đa dạng, tạo nên tính nghệ thuật theo quan niệm của Iu.
Lotman1. Điều đó mang đến ý nghĩa thẩm mĩ cho tác phẩm tự truyện. Trong qúa
trình đi tìm sự thật quy chiếu, người đọc nhận chân được nhiều sự thật khác về con
người, về thế giới và về chính mình qua những trải nghiệm của một người có thực,
chịu trách nhiệm về những gì mình kể. Vì vậy, hư cấu mặc nhiên sẽ là một thành tố
không thể thiếu của tự truyện. Và nhờ hư cấu mà tự truyện trở thành một thể loại
văn học đích thực.
Một căn cứ quan trọng để xác định sự thật của tự truyện, đó là: câu chuyện
đó phải do chính tác giả kể. Một tác giả thực thể với một cái tên, một hình hài, một
nhân cách cụ thể tồn tại như một bằng chứng của câu chuyện của mình. Có thể coi
đó là những cam kết ngầm, là công ước của tự truyện. Tuy nhiên, một thực tế là bên
cạnh những tự truyện do chính tác giả kể và ghi chép lại xuất hiện hình thức tự
1 Quan niệm của Lottman trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật: để có thể thừa nhận một tổng thể nào đó của
các câu của ngôn ngữ tự nhiên là một văn bản nghệ thuật, thì cần khẳng định được rằng chúng hình thành nên
được một cấu trúc nào đó thuộc kiểu thứ cấp ở cấp độ của một tổ chức mang tính nghệ thuật” [tr 104]. Và
“việc được tạo ra trong trò chơi tính đa ý nghĩa trở nên là một trong những dấu hiệu mang tính cấu trúc cơ
bản của nghệ thuật” [tr 134]. Như vậy, một cấu trúc tạo nghĩa, đặc biệt là khả năng tạo sự đa nghĩa là tiêu
chuẩn định tính căn bản để xác nhận một hình thức viết nào đó là văn học.
35
truyện chấp bút, có nghĩa là tác giả đóng vai trò là người kể về mình, một người
khác sẽ ghi chép và hoàn thiện thành tác phẩm. Đây là hình thức khá phổ biến trong
nhóm những tự truyện của các diễn viên, nghệ sĩ, các chính trị gianó tạo ra những
băn khoăn về tính chân thực của tự truyện do tất yếu sẽ làm xuất hiện góc nhìn của
người chép truyện và sự chi phối của góc nhìn này lên nội dung câu chuyện. Tuy
nhiên, cho dù được chấp bút thì sự xác nhận “đó là câu chuyện của tôi” vẫn thuộc
về chủ nhân của câu chuyện đó (mặc dù đây vẫn là băn khoăn của người nghiên
cứu) Hơn nữa, đối với người đọc, điều đó không làm ảnh hưởng tới việc họ tiếp
nhận tự truyện như là m...một cái gì đấy chứ không chỉ là bản thân sự việc. Ngay ở cái ảnh
nghệ thuật có thể thấy nó đã được sắp xếp ánh sáng, khoảnh khắc chụp.
Chúng có bố cục riêng, điểm nhìn riêng tạo nên tính nghệ thuật. Nó phải có
độ nén và gợi lên nhiều hơn bản thân sự việc.
TG: Vâng, Cảm ơn chị. Theo chị những yếu tố nào chi phối việc
viết sự thật của nhà văn?
NVPV: Thực ra tiểu thuyết lại thật hơn sự thật. Một nhà văn khi con
người văn học lớn hơn thì người ta không ngại kể sự thật bởi động lực lớn
nhất là động lực kể chuyện. Những nỗi đau sẽ trở nên nhỏ nhoi trước đam mê
viết. Họ nhìn thấy cái đẹp trong những nỗi đau ấy. Có những nhà văn có
duyên kể về những sự thật hàng ngày làm cho chúng trở nên đẹp
Còn lại tất nhiên, người viết trong quá trình viết sự thật luôn phải trải
qua những đắn đo bởi sự thật luôn không chỉ có một mình mình, mà liên quan
đến nhiều người. Tôi nghĩ, nếu những gì mình viết ra có khả năng phá hỏng
168
cuộc đời một người khác thì họ sẽ lựa chọn có kể câu chuyện này hay không
và nó có đáng không. Viết bao nhiêu sự thật sẽ phụ thuộc và chính tuổi đời
của bản thân người viết.
Nếu sự thật chỉ thuộc về bản thân thì có lẽ sự lựa chọn sẽ dễ dàng hơn.
Mội chuyện chỉ khó khăn khi nó liên quan đến người khác. Tùy từng người sẽ
xử lý vấn đề thế nào.
Vấn đề văn hóa có liên quan đến việc viết sự thật. Điều này là câu
chuyện cá nhân. Nó là sự xử lý trên góc độ một nhà văn và góc độ một con
người. Tùy từng người để xử lý thế nào do mức độ trưởng thành của họ.
TG: Thế thì trường hợp tự truyện - tiểu thuyết là ứng xử hay chỉ
thuần túy là kỹ thuật?
NVPV: Nó là cả hai. Người đọc vốn thông minh, việc gọi đó là cái gì
không quan trọng. Quan trong là viết cái gì.
Hầu hết nhà văn trong thời kỳ đầu thì bản năng con người lớn. Song
càng trưởng thành thì con người văn chương sẽ lớn hơn. Faulkner có nói nếu
nhà văn thực sự là một nhà văn thì việc viết sách là mục đích tối cao (anh ta
có thể giết cả người thân của mình chỉ để viết) Mọi thứ như danh dự, tự trọng
đều không còn quan trọng.
Với sự thật, điều quan trọng là mình ứng xử như thế nào đối với sự
thật. Nếu nhà văn coi sự thật là cái đẹp hay cái đẹp cao hơn sự thật thì họ sẽ
không còn nhu cầu tự vệ. Cái mà họ muốn cho người khác thấy vẻ đẹp của sự
thật lớn hơn nhiều bản năng sinh tồn.
TG: Chị có nhận xét gì về hiện tượng những người trẻ viết tự
truyện gần đây?
NVPV: Nói sự thật với những dồn nén về mặt xã hội là hành trình dẫn
đến nhu cầu tự truyện. Song đối với giới trẻ lại có điểm khác. Họ viết là để
tránh bị cuốn trôi, bị hòa lẫn và vì thế họ viết về mình.
TG: Xin cảm ơn chị.
-------------------------------------
169
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG)
Thời gian: 14h ngày 2/ 7 /2012
Tác giả (TG): Cháu cháo bác, gần đây, tự truyện đang trở thành
một hiện tượng văn hóa thu hút sự quan tâm của nhiều người viết và
người đọc. Bác là tác giả của Một mình một ngựa, một tác phẩm được
nhiều người đọc cho rằng đó là tự truyện. Bác có nhận xét gì về điều này?
Nhà văn Ma Văn Kháng (NVMVK): Tôi muốn nói về xuất phát của
cuốn Một mình một ngựa.
Sau năm 2007 tôi rất yếu. Khi nằm viện tôi bỗng nhớ tới một đoạn đời.
Cuốn tiểu thuyết này là một đoạn đời tách riêng khỏi các đoạn đời khác. Đó
là một môi trường riêng, một khoảng riêng tách khỏi lộ trình của cuộc đời
của tôi. Nó có những nét riêng độc đáo đối với cuộc đời tôi và đối với chính
bản thân tôi. Có lẽ điều đó đã tạo nên nhu cầu tự truyện.
Và tôi nghĩ, giữ lại một thời kỳ lịch sử, một thế hệ vàng của cách mạng
Việt Nam với những ấu trĩ, hồn nhiên và nhiệt huyết tạo nên một vẻ đẹp không
thể lẫn. Đó là hình ảnh của đời sống, là hình ảnh đời sống trong sự tồn tại
của nó. Những tính cách của các nhân vật là sự thật, các chi tiết là sự thật.
Ngay bản thân các nét tính cách của nhân vật cũng hoàn toàn thật bởi vốn
chính nó cũng đã khá điển hình. Những diễn biến của câu chuyện Một mình
một ngựa cũng hoàn toàn là những sự thật đã diễn ra
Thứ hai là yếu tố tự truyện là rất đậm đặc. Là nét chủ yếu tạo nên cốt
truyện. Các yếu tố cấu thành cũng đều là tự truyện. Song tất nhiên chúng đã
có những khúc xạ nghệ thuật. Nghĩa là nó đã có một khoảng lùi. Nói chính
xác hơn: cốt truyện là sự thật, song sự tham gia chủ quan của nghệ sĩ tạo
thành chất tiểu thuyết.
170
TG: Bác muốn người đọc đọc Một mình một ngựa như một tự
truyện hay như một tiểu thuyết có yếu tố tự truyện?
NVMVK: Sự thật của sự việc này là: Tôi đang là giáo viên ở Lao Cai
sau đó được điều về tỉnh ủy tỉnh Lao Cai. Thời gian đó khoảng 2 năm. Toàn
bộ công việc đều được kể lại trong tác phẩm. Lộ trình công tác của Toàn gần
như là sự thật hoàn toàn. Các nhân vật cũng là sự thật. Năm ông thường vụ
đều có cái tên cũng như hành động, tính cách của họ ngoài đời Muôi = Mười,
Bích = Địch, Tiến = Kiến Thực sự, sự thật về họ đã là những nét khá điển
hình cho con người của thời đại đó rồi. Tất nhiên có sự tham gia của nhà văn.
Ví dụ nhân vật ông Quyết Định, mọi tính cách và sư việc đều là sự thật. Song
tôi có tô đậm hình ảnh một mình một ngựa và làm nổi bật cảm giác cô đơn
của ông ấy.
Người đọc đọc Một mình một ngựa sẽ thấy yếu tố tự thuật khá đậm đà.
Và nếu so sánh chuyện này với hồi ký Năm tháng nhọc nhằn năm tháng
nhớ thương sẽ sẽ thấy hoàn toàn khác.
Về cách đọc, người đọc phải phân biệt thành hai loại: một đọc theo
kiểu đối chiếu. bởi họ bị ám ảnh bởi sự thật quá nhiều. Những người này
thường có trình độ thấp. Một số coi là tiểu thuyết và chấp nhận những sự thật
được kể, những người này có trình độ cao hơn. Ví dụ các con của ông Quyết
Định (tên thật của ông ấy là Hoàng Khải Luận) đã đến gặp và cảm ơn tôi đã
viết về bố chúng, để chúng hiểu ông hơn.
Thực tế, sự hư cấu của tôi đối với nhân vật Quyết Định là nhằm xây
dựng nhân vật cao hơn hiện thực một chút. Các nhân vật đều được nâng lên
để mang tính đánh giá, tính khái quát. Còn tính tự thuật của nhân vật Toàn là
ở chỗ mang cái nhìn của tác giả và đánh giá các nhân vật khác.
Song tác phẩm vẫn là tiểu thuyết. Tinh tiểu thuyết cao hơn tự truyện.
Tôi nghiệm rằng, trong đời viết của mình, các nhà văn trải qua hai giai
đoạn: thời kỳ đầu là viết cho người khác, cho đời sống xã hội, chỉ đến một độ
171
nhất định, khi già, mới viết cho mình. Đó là quá trình phát triển của ý thức cá
nhân và những trải nghiệm. Bộc lộ cái gì của mình, những trải nghiệm và
chia sẻ. Đó là nhu cầu viết tự truyện.
TG: Khi viết câu chuyện này, ông có gặp những cản trở nào
không? Nghĩa là những băn khoăn, vướng mắc trong quá trình viết?
NVMVK: Không, tôi không ngại. Bởi vì tất cả những người liên quan
đều đã mất. Tôi nghĩ, đó là một giai đoạn đã kết thúc, những người ấy đã
hoàn thành sứ mệnh của mình. Việc viết như vậy cũng không ngại gì. Điều
quan trong với tôi là phải dựng lên hình ảnh của cái thời ấy. Cũng không sợ
hiểu lầm bởi mình có tấm lòng và trái tim chân thật. Nhưng bởi muốn nói sự
thật nên nhiều khi cũng bị hạn chế về tưởng tượng và hư cấu
TG: Bác có nhận xét gì về hiện tượng những người trẻ viết tự
truyện hiện nay?
Hơi vội. Cá nhân phải trải qua những trải nghiệm nhất định mới có thể
tự truyện. theo quy luật phát triển, cái tôi phải bắt đầu từ cái ta. Cái tôi cần
trưởng thành thì mới có thể viết và chiêm nghiệm được
TG: Xin cảm ơn bác
172
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN BÙI NGỌC TẤN)
Thời gian: 13h30 ngày 5/7/2012
Tác giả (TG): Chào Bác ạ. Gần đây, tự truyện đang ngày một thu hút sự
quan tâm của cả xã hội, không chỉ là người đọc và người phê bình mà cả
những cá nhân có nhiều điều muốn bộc lộ. Với tư cách là một nhà văn, bác có
nhận xét gì về hiện tượng tự truyện xuất hiện khá sôi nổi trong đời sống và văn
học hiện nay?
NV Bùi Ngọc Tấn ( NVBNT): Theo ý tôi thì là: có tự truyện là biểu hiện
thoáng hơn, dân chủ hơn. Đứng về nghệ thuật, đây là một tiến bộ. Ở các nước khác,
vấn đề này không phải đặt ra, nhưng ở nước ta, đó là một tiến bộ bởi trước đây, bao
nhiêu lâu rồi, các nhà văn việt nam phải viết về những cái mình chưa thật sự hiểu. Ví
dụ ông Đào Vũ viết Cái sân gạch hay ông Võ Huy Tâm viết Vùng mỏ là viết theo định
hướng. Có đi thâm nhập thực tế một thời gian song đó cũng chưa đủ để gọi là
hiểuthành ra là viết nhưng phải cắt gọt thực tế theo một định hướng có sẵn. Vì thế,
đây (sự xuất hiện tự truyện) là một bước tiến bộ thể hiện dân chủ hóa trong đời sống
và nghệ thuật. Cũng nhấn mạnh rằng không ai ban phát dân chủ mà phải tự mình tạo
ra, mỗi nhà văn phải nong nó một tí thì mới có thể có được sự tự do để viết.
Bao nhiêu lâu nay, người đọc chán ngắt về cái mà mình không thực sự hiểu,
theo những mô thức, bây giờ được viết về cái mình hiểu nhất, đó là bản thân mình.
Nó làm nên trào lưu hấp dẫn.
Một vấn đề nữa là dân chủ thì văn chương phải được tự do. Văn chương
phải có những đề tài gần gũi với cuộc đời, với con người. Tôi nhớ là cuốn Số đỏ
từng được gọi là “tiểu thuyết cười dài”. Văn chương không nên đạo mạo, không chỉ
là sự đạo mạo mà cần phải là cuộc đời. Trách nhiệm của nhà văn, chính là phải
nhận ra chân lý cuộc sống ấy qua những chi tiết rất đời. Cuộc sống tù đày của tôi
được viết lại trong Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) là một sự thực. Một sự thực
mà những con người trong đời sống bình thường không dễ tưởng tượng ra. Cuộc
sống của những năm tháng ấy thôi thúc được viết, được nói thật.
173
Nhưng viết tự truyện luôn đòi hỏi lòng trung thực và tinh thần dũng cảm.
Nhà văn phải dũng cảm thì mới có được tự do.
TG: Bác có nói rằng, viết tự truyện, sự trung thực là quan trọng. Sự
trung thưc đó, theo bác, là trách nhiệm nhà văn hay trách nhiệm công dân?
NV BNT: Với tôi, hai cái là một, không có đối lập nhau. Nhà văn trước tiên
phải nói sự thật. Nhà văn còn là người viết tác phẩm chân thực, đạt tới một cách
giản dị nhất, là đã hoàn thành trách nhiệm nhà văn. Biển và chim bói cá của tôi
được giải là vì nó nói thật nhất về đời sống của người Việt Nam. Cái làm tác phẩm
hay phải là 3 trong 1. Dấu ấn của riêng của tác giả, dấu ấn Việt Nam (dấn ấn dân
tộc) và tính chung nhân loại.
Còn dũng cảm là viết phải tin mình là người yêu nước để không run tay khi
thực tế, như tôi đã viết trong hồi ký về Nguyên Hồng, luôn có một ông kiểm duyệt,
một ông biên tập ngồi trên đầu ngọn bút. Dũng cảm mà tôi muốn nói, là phải viết
được cái căn cốt, không hớt váng.
TG: Trong tác phẩm của mình, tại sao bác chọn hình thức đề trên bìa là
tiểu thuyết mà không phải là tự truyện?
NVBNT: Viết tiểu thuyết thì tôi có quyền hư cấu hơn. Cuộc đời tôi là sự thật.
Nhưng cách lưu giữ của tôi khác với người khác. Hơn nữa, mỗi người có một cái
ăng ten riêng, để bắt sóng của hiện thực theo cách của mình. Hơn nữa, cách lưu giữ
của trí nhớ cũng thật đặc biệt. Nó chỉ lưu giữ những hạt vàng. Vì thế CKN2000 chỉ
viết những ký ức đậm nét, tiêu biểu, và đã có được một độ lùi nhất định.
TG: Dòng ký ức là một kỹ thuật khá tiêu biểu của tự truyện. Trong
CKN2000, đặc điểm này khá nổi bật, Bác có ý thức rằng mình đang tự truyện?
NVBNT: Tôi viết theo suy nghĩ, không chăm chăm nghĩ tới thể loại. Đối với
tôi, câu đầu tiên trong tự truyện rất quan trọng. Nó định vị thời gian và không gian
kể. Nó quyết định cách kể của toàn bộ câu chuyện. Trong CKN2000 có những
chương viết rất trong sáng về tình yêu, tình bạn, những cảm xúc về con cái rất nhỏ
như giặt quần áo cho chúng, dạy chúng câu cá chỉ có thể là trải nghiệm thật,
phải là tự truyện.
174
TG: Trong truyện có hai khoảng, hai không gian kể chuyện đối lập
nhau, thời thanh niên được kể với những hồi ức tươi sáng, đẹp đẽ, nhưng đoạn
đời sau này thì trầm uất. Đây có phải là chủ ý?
NVBNT: Về khoảng trong sáng, đó là sự thật, sự thật về một thế hệ được
đào tạo, trưởng thành, chứng kiến trào lưu của cách mạng. Thế nhưng cuối cùng là
thất bại. Đó là sự thật. Tôi muốn nói tới sự thật đau đớn, những vận hành đau đớn
trong hành trình sống với lý tưởng.
Tôi cũng không định viết một câu chuyện tù. Có bạn đọc cho rằng đó chuyện
về tình yêu, có bạn đọc gọi đó là chuyện về gia đìnhThực chất đây là tự sự của
một thế hệ thanh niên với tâm hồn trong trẻo đến với cách mạng nhưng cuối cùng
thất bại.
TG: Với CKN2000 bác muốn người đọc đọc như tự truyện hay đọc như
tiểu thuyết?
Tôi muốn gọi đó là tiểu thuyết có tính tự truyện hơn. Bởi vì vẫn có nhân vật
hư cấu như Gìa Đô là sự tổng hợp của nhiều nhân vật. Tuy nhiên, các nhân vât hai
vợ chồng anh tù, ông Trần và ông Hoàng được viết đúng như sự thật, nhhững chi
tiết tả cuộc sống trong tù, sự kiện những tù nhân tranh nhau những quả ớtlà sự
thật. Tôi không thể bịa những gì mà cảm giác chưa được biết.
TG:Đối với một tác phẩm văn học, hai yếu tố là thẩm mĩ và sự thật cái
gì quan trong hơn?
NV BNT: Cái đẹp trong nghệ thuật là sự thật được viết nghệ thuật. Sự thật
văn học càng giản dị, chân xác càng có giá trị. Sự thật kiểu tự truyện và sự thật văn
học bổ sung cho nhau. Bây giờ người ta viết tự truyện chính bởi vì bị dồn nén hơn
nửa thế kỷ rồi. Bao nhiêu lâu người ta phải viết theo định hướng, và không được
viết về mình.
Bây giờ mới được viết.
TG: Vâng ! Xin cảm ơn bác!
175
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN TÔ HOÀI)
Thời gian: 14h ngày 8/7/ 2012
Tác giả (TG): Cháu chào Bác, Bác là người viết tự truyện khá sớm, ngay
từ những năm 40, khi tuổi còn khá trẻ (khoảng 24 tuổi). Động lực nào thôi thúc
bác viết tự truyện? Gần đây, phong trào tự truyện đang diễn ra khá sôi nổi
trong đời sống và văn học. Bác có nhận xét gì về điều này.
Nhà văn Tô Hoài (NVTH): Tôi năm nay 91, cuộc đời tôi là một tự truyện.
Làng tôi là làng Nghĩa Đô, quê nội ở Thanh Oai. Tôi ở đây cho đến tận bây giờ.
Vừa rồi Thành ủy Hà nội tổ chức liên hoan 65 năm tuổi Đảng cũng ở đây.
Thuở nhỏ, tôi học sơ học ở trường Yên Thái, rồi sau đó là Yên phụ từ lớp
nhất. Ban đầu tôi làm thơ, sau mới viết văn xuôi. Tôi đỗ tiểu học Pháp Việt, cũng
thi vào trường Bưởi, trường Sư phạm nhưng không đỗ Dipplom, nên tôi đi làm cho
hãng giày Bata. Khi đó tôi bắt đầu viết. Chuyện Ông Dầu bà Dầu, Sự tích nước lên
cho báo Hà Nội Tân Văn và Tiểu thuyết thứ Bảy là thời kỳ này. Truyện đầu tiên mà
tôi viết là Dế mèn phiêu lưu ký. Tên của nó ban đầu là Con đế mèn. Các nhà văn Vũ
Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan là những người phát hiện và cổ vũ tôi. Cụ Vũ Ngọc
Phan đưa Con dế mèn đến nhà xuất bản của Vũ Đình Long và in ở đấy. Nhuận bút
Con dế mèn là 10 đ. Tiếp tinh thần ấy, tôi viết thành Dế mèn phiêu lưu ký, được
nhiều người đọc. Dế mèn phiêu lưu ký là tác phẩm giúp tôi trở thành nhà văn.
Những tác phẩm tự truyện mà tôi đã viết trước đây có Cỏ dại, trong kháng
chiến có Tự truyện. Sau này có Cát bụi chân ai, Ba người khác, Chiều chiều.
Cát bụi chân ai viết về các nhà văn, tôi viết ông Xuân Diệu đồng tính. Đầu
tiên tác phẩm có bị cấm. Có một anh sinh viên người Mỹ đã mời tôi làm chủ tịch hội
đồng tính. Cũng buồn cười. Bây giời Cát bụi chân ai đã được in. Cả Mười năm
cũng vậy.
Tất cả những gì tôi viết là câu chuyện đời tôi, gọi là tiểu thuyết cũng được,
gọi là tự truyện cũng đúng. Truyện Mười năm kể về phong trào cách mạng ở làng
176
tôi. Trong truyện có một cô gái, xinh đẹp, cách mạng song cũng khá lẳng lơ. Vì
nhân vật này nên tôi cũng bị phê bình.
Chiều chiều cũng vậy. Tất cả mọi chuyện tôi viết đều là thật. Chuyện có kể
về đợt đi học Nguyễn Ái Quốc. Cũng bị cấm. Bây giờ cũng in rồi, cả in chui, cứ in
chui. Mà in chui cũng nhiều.
TG: Khi viết những cuốn sách ấy, Bác có ý thức là mình đang viết tự
truyện không?
NVTH: Tôi cho đó là sáng tác. Những sáng tác của tôi dựa trên các câu
chuyện thật ấy. Tự truyện đối với tôi là sáng tác. Cuộc đời tôi không khác những gì
tôi viết. Trong Chiều chiều, tôi viết nhiều chuyện, ví như làm chủ tịch hội nhà văn Á
phi, chủ tịch ủy ban đoàn kết nhà văn, đi công tác nhiều nước. Tất cả những chuyện
đó là thật. Tôi cứ viết lẫn lộn giữa sáng tác và những sự thật như vậy. Từ những
chuyện đầu tiên là Con đế mèn. Con dế mèn bắt đầu từ hai thực tế: thực tế đời sống
và thực tế tư tưởng. Lúc bấy giờ ở thành phố có phong trào Ái Hữu và mặt trận
Bình dân. Lúc đó tôi làm thư ký hội ái hữu thợ dệt. Ông Văn Tiến Dũng làng bên
làm hội ái hữu thợ may. Lúc đó tư tưởng thế giới đại đồng đang sôi nổi. Nó chính
là Chủ nghĩa cộng sản sau này. Con dế mèn đi tìm thế giới đại đồng xuất phát từ sự
thật này.. Đó là những thực tế của riêng tôi, của chúng tôi ở thời đại ấy.
Ngoài ra thì có phong trào Âu tây tư tưởng cũng đang nở rộ. Các ông lý
trưởng chánh tổng của làng mang về các loại sách báo in tiếng Pháp. Chúng tôi
cũng được đọc. Các cuốn sách như Giulive du ký, Con chim xanh của
Mateclinhlà những cuốn sách mà tôi được đọc và chịu ảnh hưởng.
.Đời tôi luôn được thể hiện trong sáng tác của tôi.
(Về đời tôi còn có những chuyện tình nữa: Chuyện tình đầu tiên)
TG: Một chủ đề xuất hiện trong tự truyện là chuyện về CCRĐ. Viết về
những sự thật này, Bác mong muốn điều gì ở người đọc?
NVTH: Những vấn đề này tôi rất thiết tha bởi những thực tế đó là những sự
thực lớn, từ vấn đề nông dân, đến những vấn đề chính trị. Thêm nữa, tôi luôn coi
trong thực tế (nghĩa là sự thật). Tôi cũng hết sức chú ý vấn đề ngôn ngữ, người ta
ăn nói thế nàovà đó chính là đặc điểm văn học của tôi. Ví dụ truyện Kim đồng,
truyện nhà Chử, tôi phải học lại sách tiếng Mường khá nhiều. Ngôn ngữ của văn
177
học đòi hỏi rất lớn, mình phải học. Kể những sự thật như thế, tôi rất chú ý đến ngôn
ngữ, sao cho nó phải thật. Ví dụ chữ ăn nằm, đừng nói là biết rồi, mà vẫn phải học,
phải học vô cùng.
TG: Với những chủ đề bị cấm, Bác có nghĩ là mình có những cách để
tránh không?
NVTH: Từ những câu chuyện về làng quê, ngày thơ ấu, khi trưởng thành
cho đến những bức chân dung các anh nhà văn, chuyện đi thực tế cho đến chuyện
đi học, chuyện làm ở khu phố của tôi đều là chuyện thật. Ngay chuyện học ở trường
Nguyễn Ái Quốc, rất thật, cả ở chuyện ăn cắp chuối, chuyện anh cán bộ ra
tòacũng là chuyện đã diễn ra thật. Vì điều đó mà đôi khi gặp những “hiểu
lầm”như chuyện Mười năm
Nhưng tôi không sợ những cái đó, tôi không để ý mà ngược lại rất thiết tha.
Bằng chứng là những cuốn đó đều được xuất bản, không có ai kỷ luật tôi.
TG: Bác có nghĩ rằng nếu không viết những chuyện như thế thì thế hệ
sau sẽ không biết về những gì xảy ra? và vì thế mà cần phải viết?
NV TH: Tôi cũng nghĩ như thế, nên tôi không e dè. Tôi nói vấn đề rất lớn
nhưng lại được viết rất cụ thể, đó là vấn đề ngôn ngữ. Thực sự tôi rất yêu và thiết
tha vấn đề ngôn ngữ.
Cô hỏi tôi có dự định viết hồi ký nữa không? Tôi cũng cứ nghĩ, ngày nào
đêm nào tôi vẫn cứ nghĩ đến ngày xưa, cuộc đời mình ra sao? Như thế nào? Nhưng
có lẽ cũng khó bởi cuộc sống của mình có nhiều cái gian truân .nên cũng khó.
Có một chuyện tình với một cô ở Dầu Tiếng. Cũng nhiều trăn trở băn khoăn, nhưng
thôi
TG: Thời gian làm việc ở Hội nhà văn điều gì đọng lại nhiều nhất mà
bác muốn nói thêm?
NVTH: Cũng khó. Tình cảm cũng vừa vừa, còn chuyện thì cũng không có gì
đọng lại.
Sau giải phóng thủ đô, Tôi được bầu vào BCH Hội nhà văn, ông Nguyễn
Đình Thi làm tổng thư ký. Trong Nhân văn giai phẩm cũng không bị sai lầm gì. Sau
này, thời kỳ ông Nguyễn Bắc làm Hội nhà văn Hà nội, tôi ra làm Hội nhà văn Hà
Nội, cả anh Bằng Việt. Thời gian đó cũng dài, cho đến lúc về hưu. Tôi không kể tí gì
178
về thời kỳ đó, vì tôi cho rằng mình có kinh nghiệm, làm cho hết thì thôi, không có
giận dỗi gì, không yêu ai ghét ai. Ở Hội nhà văn cũng thế. Không có xung đột cũng
không có bon chen.
Về cuộc đời một số nhà văn mà Bác kể trong Cát bụi chân ai và Chiều
chiều có liên quan đến vụ Nhân văn giai phẩm, Bác có suy nghĩ gì?
Có một số nhà văn được kể như Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo. Nhưng
cũng có một số người tôi không kể nhiều. Tôi cũng không đặt vấn đề chính trị với
các anh ấy. Người đầu tiên nhân văn là anh Nguyễn Hữu Đang. Anh Đạng vận
động cụ Phan khôi ra báo Nhân văn. Ông Nguyễn Hữu Đang là người thiết kế lễ
đài độc lập năm 1945.
Còn chuyện về Hoàng Minh Chính? Tôi cũng chỉ đánh giá rằng đó là người
rất hùng hồn, nhưng cuối cùng bị quy kết phản động. Ở trường Nguyễn Ái Quốc
ông ấy bị quy là Đảng viên xét lại.
.
Về những chuyện này, tôi cũng chả nói gì nữa. Sự đời giờ cũng xa xôi quá
rồi.
Về Ba người khác: Các nhân vật đều có thật. Anh Bối là tôi, là thật. Miêu tả
anh này, là tôi miêu tả sự thực đã xảy ra, không mang tính chính trị. Những chuyện
tình với các cô rễ, chuỗi đều có thật. Nhưng anh ta không hỏng về chính trị. Còn
anh đội trưởng người khu Năm thì có vấn đề. Sau cải cách về, năm 1955 thì dinh tê
vào Sài Gòn. Sau này phản động, và bị ta xử. Các nhân vật khác còn lại cũng là
thật cả. Chuyện kỷ luật, sai lầm rồi sửa sai cũng là thật.
Tất các tiểu thuyết của tôi đều có yếu tố đời thật của tôi. Chúng khá rõ tính
tự truyện. Bởi vì đối với tôi, viết là thật. Tôi luôn quan niệm: thực tế, thực tế, thực
tế.
TG: Vâng, Xin cảm ơn bác! Chúc bác luôn mạnh khỏe!
179
PHỤ LỤC 2
TRƯNG CẦU Ý KIẾN NGƯỜI ĐỌC
- Phiếu trưng cầu ý kiến
- Xử lý số liệu thống kê
180
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
------------&------------
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
Phiếu số
Xin chào!
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận các tác phẩm tự truyện trong
đời sống văn hóa Việt Nam hiện nay. Chúng tôi hi vọng nhận được sự đóng góp ý kiến của
quý anh/ chị vào nghiên cứu này bằng cách trả lời các câu hỏi dưới đây. Những ý kiến của
anh ( chị) chỉ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Cách trả lời: Anh ( chị) đọc kỹ câu hỏi và lựa chọn cho mình phương án trả lời phù
hợp nhất với ý kiến của bản thân (đánh dấu vào ô vuông tương ứng), hoặc viết ra câu
trả lời ở những chỗ được yêu cầu.
Anh ( chị) không cần ghi tên vào phiếu này!
________________________________________________________________________
Câu 1. Cho biết mức độ đọc sách của anh/ chị
Thường xuyên
Không thường xuyên
Câu 2. Trong các loại sách anh/chị đọc có tự truyện không?
(Ghi chú: tự truyện là một loại văn xuôi viết về đời tư tác giả, do tác giả viết hoặc kể lại.
Chuyện thường đươc kể từ ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba).
Có
Không
Nếu có, xin tiếp tục câu tiếp theo, nếu không, xin dừng tại đây.
Câu 3. Anh/chị đọc loại sách này là vì:
(Đánh dấu vào ô vuông tương ứng)
Nghe giới thiệu trên truyền hình, đài phát thanh, báo, mạng Internet
Nghe bạn bè giới thiệu
Vì sở thích cá nhân
Thấy mọi người đọc thì cũng đọc
Vì tò mò muốn xem thực hư thế nào
Ý kiến khác (Xin ghi rõ)
Câu 4. Mục đích đọc loại sách này đối với anh/ chị:
(Đánh dấu vào ô vuông tương ứng)
Hiểu thêm về đời tư của những người nổi tiếng
Hiểu về những sự thật mà mình chưa hề được biết hoặc biết chưa rõ ràng
Có thể học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích
Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc sống
Để giải trí và thư giãn
Để phục vụ cho nhu cầu công việc
181
Câu 5. Mức độ đọc loại sách tự truyện của anh/chị:
5.1. Tự truyện của các tác giả Việt Nam
Thường xuyên Lý do
Thỉnh thoảng Lý do
Hiếm khi Lý do
Không bao giờ Lý do
5.2. Tự truyện của các tác giả nước ngoài
Thường xuyên Lý do
Thỉnh thoảng Lý do
Hiếm khi Lý do
Không bao giờ Lý do
Câu 6. Anh (chị) thích đọc loại tự truyện nào sau đây:
Tự truyện của các diễn viên, nghệ sĩ, người mẫu, cầu thủ bóng đá
Tự truyện của các doanh nhân, chính trị gia
Tự truyện của các nhà văn
Tự truyện của những người vượt lên hoàn cảnh
Câu 7. Nếu giới thiệu một cuốn tự truyện cho bạn bè của mình đọc, anh/chị sẽ giới
thiệu cuốn nào? Xin nói đôi nét về cuốn sách
Xin anh/chị vui lòng cho biết các thông tin về bản thân:
Tuổi:
Giới tính:
Trình độ học vấn:
Nghề nghiệp hiện tại :
Nơi ở hiện tại:
Cảm ơn anh/chị đã tham gia trả lời!
182
BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU THỐNG KÊ
Muc do doc sach cua anh/ ch?
Frequenc Percent Valid Cumulative Percent
y Percent
thuong xuyen 150 74.6 74.6 74.6
Va khong thuong
51 25.4 25.4 100.0
lid xuyen
Total 201 100.0 100.0
Trong cac loai sach anh/chi doc co tu truyen ko?
Frequency Percent Valid Cumulative Percent
Percent
co 145 72.1 72.1 72.1
Va
khong 56 27.9 27.9 100.0
lid
Total 201 100.0 100.0
Anh/ chị đọc loại sách này là vì lý do
Neu co doc Neu co doc Neu co doc Neu co doc Neu co Neu co
loai sach loai sach loai sach loai sach doc loai doc loai
nay la vi li nay la vi li nay la vi li nay vi li sach nay sach nay
do/nghe do/nghe ban do/so thich do/thay vi li do/to la vi li do
gioi thieu be gioi thieu ca nhan moi nguoi mo muon /khac (ghi
tren truyen doc minh doc xem ro)
hinh, dai cung doc thuc hu
phat thanh, the nao
bao mang,
internet..
Vali
52 39 64 8 21 201
d
N
Miss
149 162 137 193 180 0
ing
183
Mục đích đọc loại sách này đối với của Anh / Chị
Muc Muc Muc dich Muc dich Muc dich Muc dich doc loai
dich doc dich doc loai doc loai doc loai sach nay/de phuc vu
loai doc sach nay/co sach sach nhu cau cong viec
sach loai the hoc hoi nay/mang nay/de giai
nay/hieu sach them nhung lai nhung tri va thu
them nay/hie kinh nghiem cam xuc gian
doi song u them song sau sac ve
cua nhung con nguoi
nguoi su that va cuoc
noi ma song
tieng minh
chua he
biet
hoac
chua
biet ro
rang
Vali
33 57 59 65 36 24
d
N
Miss
168 144 142 136 165 177
ing
M?c do doc tu truyen cua anh/chi (cua tac gia Viet Nam)
Frequenc Percent Valid Cumulative Percent
y Percent
thuong xuyen 6 3.0 4.1 4.1
thinh thoang 90 44.8 60.8 64.9
Vali hiem khi 42 20.9 28.4 93.2
d khong bao
10 5.0 6.8 100.0
gio
Total 148 73.6 100.0
Mis
System 53 26.4
sing
Total 201 100.0
184
M?c do doc tu truyen cua anh/chi (cua tac gia nuoc ngoai)
Frequency Percent Valid Percent Cumulative
Percent
thuong xuyen 12 6.0 8.3 8.3
thinh thoang 80 39.8 55.6 63.9
Vali hiem khi 35 17.4 24.3 88.2
d khong bao
17 8.5 11.8 100.0
gio
Total 144 71.6 100.0
Mis
System 57 28.4
sing
Total 201 100.0
Anh/ chị thích đọc loại tự truyện nào?
Anh/chi thich doc Anh/chi thich Anh/chi thich Anh/chi thich doc
loai tu truyen/cua doc loai tu doc loai tu loai tu
dien vien, nguoi truyen/cua truyen/nha van truyen/nhung
mau, cau thu bong doanh nha, nguoi vuot len
da chinh tri gia hoan canh
Valid 27 60 71 52
N
Missing 174 141 130 149
25 1.0000 1.0000 1.0000 1.0000
Percenti
50 1.0000 1.0000 1.0000 1.0000
les
75 1.0000 1.0000 1.0000 1.0000
Mục đích đọc tự truyện của Anh / chị và Giới tính
Giới tính Tổng
Muc đích đọc tự truyện Nam Nữ
1. Hiểu thêm về đời tư của người nổi tiếng 12 21 33
2. Hiểu về những sự thật mà mình chưa biết 6 49 56
3. Học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích 11 46 57
4. Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc
sống 8 56 64
5. Để giải trí, thư giãn 1 34 35
6. Phục vụ nhu cầu công việc 7 16 24
185
Anh chị thich đọc loại tự truyện nào và Giới tính
Giới tính Tổng
Loại tự truyện Nam Nữ
1. Tự truyện của diễn viên, người mẫu, cầu thủ 5 22 27
2. Tự truyện của chính trị gia, doanh nhân 14 44 58
3. Tự truyện của nhà văn 9 62 71
4. Tự truyện của người vượt lên hoàn cảnh 6 45 51
Giới thiệu một tự truyện mà Anh/ Chị biết
Tự truyện của tác giả Trong Tự truyện của tác giả nước ngoài
nước
Valid 55 54
N
Missing 146 147
gioi thieu
Frequency Percent Valid Cumulative
Percent Percent
97 48.3 48.3 48.3
ai da an het nhung c 1 .5 .5 48.8
ba nguoi khac 1 .5 .5 49.3
Ben thang cuoc 1 .5 .5 49.8
bong 1 .5 .5 50.2
bong, co dai 1 .5 .5 50.7
burning alive 2 1.0 1.0 51.7
cat bui chan ai 5 2.5 2.5 54.2
V
chien binh cau vong 1 .5 .5 54.7
al
id co mot pho vua di qua pho 1 .5 .5 55.2
cuoc doi Henry ford 1 .5 .5 55.7
dung bao gio di an m 1 .5 .5 56.2
dung bao gio tu bo khat
2 1.0 1.0 57.2
vong
dung vung tuoi 24 1 .5 .5 57.7
duong ra bien lon 2 1.0 1.0 58.7
eat,play,love 1 .5 .5 59.2
em se den cung con m 1 .5 .5 59.7
186
hat giong tam hon 1 .5 .5 60.2
hay cham soc me 1 .5 .5 60.7
hoi ky ly quang dieu 1 .5 .5 61.2
Hoi ky Obama 1 .5 .5 61.7
hoi ky song doi 2 1.0 1.0 62.7
jack Ma, tt steve job 1 .5 .5 63.2
k gia dinh 2 1.0 1.0 64.2
k gioi han 3 1.5 1.5 65.7
khong lac loai 1 .5 .5 66.2
khong phai huyen thoai 1 .5 .5 66.7
ky uc vun 1 .5 .5 67.2
luoc su thoi gian 1 .5 .5 67.7
Ma van : triet ly sô 1 .5 .5 68.2
Madam Nhu 2 1.0 1.0 69.2
mai mai tuoi 20 5 2.5 2.5 71.6
nguyen oi 1 .5 .5 72.1
nhat ky son moi - ga 1 .5 .5 72.6
nhung mau chuyen ve 1 .5 .5 73.1
nhung ngay tho au 4 2.0 2.0 75.1
nk dang thuy tram 14 7.0 7.0 82.1
nk dang thuy tram, duong
1 .5 .5 82.6
den tay tang
nk dang thuy tram, phia sau
1 .5 .5 83.1
buc tuong
nk dang thuy tram. 1 .5 .5 83.6
Oscar va ao hong 1 .5 .5 84.1
phia sau buc tuong 1 .5 .5 84.6
Song va khat vong 1 .5 .5 85.1
tat ca chi la thu thach 1 .5 .5 85.6
that lac coi nguoi 1 .5 .5 86.1
the gioi qua la rong lon 2 1.0 1.0 87.1
The story of my expr 1 .5 .5 87.6
toi di hoc 3 1.5 1.5 89.1
Toi la con gai cua m 1 .5 .5 89.6
toi la Zlatan 1 .5 .5 90.0
tottochan 2 1.0 1.0 91.0
tottochan, cho toi x 1 .5 .5 91.5
187
tottochan, nk dang thuy
1 .5 .5 92.0
tram
Tren duong 1 .5 .5 92.5
tt Alex Ferguson 1 .5 .5 93.0
tt Benjamin 1 .5 .5 93.5
tt Benjamin, tt ng hien le 1 .5 .5 94.0
tt cua mot pn An Do 1 .5 .5 94.5
tt Dang tieu binh 1 .5 .5 95.0
tt Mandela 1 .5 .5 95.5
tt Miley Cyrus 1 .5 .5 96.0
tt steve job 2 1.0 1.0 97.0
tt ve ho chi minh 1 .5 .5 97.5
tu duy va chia se 1 .5 .5 98.0
tu su mot nguoi ixlam 1 .5 .5 98.5
yeu va song 3 1.5 1.5 100.0
Total 201 100.0 100.0
188
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_truyen_viet_nam_duong_dai_nghien_cuu_tu_xa_hoi_ho.pdf