Luận án Truyện kể địa danh của người thái ở Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa tộc người

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI --------@&?-------- NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA TỘC NGƯỜI LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI --------@&?-------- NGUYỄN THỊ MAI QUYÊN TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA TỘC NGƯỜI Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 62.22.01.25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1:

pdf239 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Luận án Truyện kể địa danh của người thái ở Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa tộc người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GS.TS Vũ Anh Tuấn 2: PGS. TS Nguyễn Thị Huế HÀ NỘI - 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng: - Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu riêng của tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong công trình nghiên cứu của ai khác. - Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn trọng và cầu thị. - Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu chân thực, cẩn trọng, chừng mực trong luận án. Tác giả luận án: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT GS : Giáo sư VHDG : Văn học dân gian tr : trang Sđd : Sách đã dẫn PL : Phụ lục MỤC LỤC PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................... 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4 6. Đóng góp mới của luận án ............................................................................ 5 7. Cấu trúc của luâṇ án ...................................................................................... 6 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU............................................................ 7 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam ....................................................................................................... 7 1.1.1. Lic̣h sử nghiên cứu địa danh trong văn học dân gian ở Viêṭ Nam..... 12 1.1.2. Lic̣h sử nghiên cứu điạ danh Thái và địa danh trong truyện kể dân gian của người Thái ở Việt Nam ............................................................. 16 1.1.3. Những vấn đề còn tồn tại .............................................................. 19 1.2. Tổng quan về hướng tiếp cận và các vấn đề lý thuyết được sử dụng trong luận án................................................................................................ 19 1.2.1. Về hướng tiếp cận truyện kể dân gian từ góc nhìn văn hóa tộc người . 19 1.2.2. Lý thuyết biểu tượng trong nghiên cứu truyện kể dân gian .......... 23 1.2.3. Lý thuyết không gian xã hội trong nghiên cứu truyêṇ kể dân gian .... 27 1.3. Sơ lược về bối cảnh văn hóa Thái........................................................ 31 1.3.1. Về nguồn gốc của người Thái ở Việt Nam .................................... 31 1.3.2. Về sự phân biệt các ngành Thái.................................................... 33 Tiểu kết........................................................................................................... 43 CHƯƠNG 2. TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM: KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ NỘI DUNG ................................. 45 2.1. Về khái niệm truyện kể địa danh ......................................................... 45 2.2. Thống kê, phân loại truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam........ 48 2.3. Các phương diện nội dung trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam ..................................................................................................... 52 2.3.1. Truyện kể địa danh Thái và vũ trụ quan, thế giới quan của tộc người. 52 2.3.2 Truyện kể địa danh Thái và lịch sử tộc người. ............................ 57 2.3.3. Truyện kể địa danh Thái và những khát vọng nhân sinh.............. 65 Tiểu kết........................................................................................................... 73 CHƯƠNG 3. CỐT TRUYỆN VÀ BIỂU TƯỢNG TRONG TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM ....................................... 75 3.1 Cốt truyện trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam ........ 75 3.1.1. Cốt truyện của thần thoại địa danh Thái ...................................... 76 3.1.2. Cốt truyện của truyền thuyết địa danh Thái ................................. 80 3.1.3. Cốt truyện của truyện cổ tích địa danh Thái ................................ 84 3.2. Biểu tượng trong truyện kể địa danh của ngưới Thái ở Việt Nam ...... 89 3.2.1 Biểu tượng nước ............................................................................. 90 3.2.2 Biểu tượng núi................................................................................ 96 3.2.3. Biểu tượng nỏ .............................................................................. 102 Tiểu kết......................................................................................................... 107 CHƯƠNG 4. KHÔNG GIAN XÃ HỘI TRONG TRUYỆN KỂ ĐỊA DANH CỦA NGƯỜI THÁI Ở VIỆT NAM.............................................. 109 4.1. Mối liên hệ với các hình thức không gian, thời gian và môi trường ....... 109 4.1.1. Các mối liên hệ với không gian, thời gian .................................. 109 4.1.2. Các mối quan hệ với môi trường ................................................ 114 4.2. Các mối quan hệ hôn nhân................................................................. 119 4.3. Các mối quan hệ tạo lập bởi ngôn ngữ .............................................. 133 Tiểu kết......................................................................................................... 140 PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................... 142 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ................................. 147 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 148 PHỤ LỤC 1 ...................................................................................................... 1 DANH MỤC BẢNG STT TÊN BẢNG BIỂU TRANG 1. Truyền thuyết về nhân vật có công với bản mường 80 2. Thống kê các biểu tượng trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam 90 3. Các căn cứ hình thành địa danh 135 1PHẦN 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Người Thái là tộc người xuyên quốc gia với một lịch sử hình thành, thiên di, cộng cư và định cư vô cùng phong phú mà cũng không kém phần phức tạp. Văn hóa Thái bởi thế không chỉ góp phần quan trọng trong bức khảm đa màu sắc của văn hóa Việt Nam mà còn có ảnh hưởng lớn tới nhiều nền văn hóa khác. Đó là lý do tại sao ngành Thái học hình thành ở tất cả các quốc gia có các tộc người thuộc ngữ hệ Thái như Lào, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam; thậm chí nhiều quốc gia phương Tây như Australia, Đức, Hà Lan cũng có trung tâm nghiên cứu Thái học. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa người Thái được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX đánh dấu bằng công trình của các học giả như Cầm Trọng, Đặng Nghiêm Vạn Đến nay, hướng nghiên cứu này đã được quan tâm trên cả bề rộng lẫn bề sâu. Tất cả mọi phương diện từ lịch sử, văn học, chữ viết đến phong tục tập quán, tri thức dân gian của người Thái đều được khảo sát, nghiên cứu trong các công trình, bài viết với độ chuyên sâu khác nhau. Xét riêng góc độ văn học dân gian, một đội ngũ đông đảo các nhà nghiên cứu đã khai thác các phương diện sử thi, dân ca, truyện thơ, truyện dân gian, tục ngữ của người Thái từ nhiều góc độ và đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên trong hàng loạt các nghiên cứu ấy có thể thấy một bộ phận trong kho tàng văn học dân gian của người Thái còn chưa được quan tâm thỏa đáng, đó là truyện kể địa danh. Người Thái sống ở đâu, nơi đó có truyện kể về các địa danh. Với tư cách là một đơn vị từ vựng, một danh từ riêng, địa danh không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà hàm chứa trong nó những vỉa tầng văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ, những quan niệm của con người. Hơn thế, đặc điểm vùng đất, địa danh còn đi vào truyện kể dân gian với tư cách là những sáng tạo của người dân được truyền từ đời này sang đời khác. Ý nghĩa của địa danh trong truyện kể vì thế không chỉ là dấu chỉ cho một vùng đất, một bản làng hay con sông ngọn suối, địa danh tồn tại cùng năm tháng còn quan trọng 2bởi cái duyên cớ mà nó được sinh ra, bởi những trải nghiệm với cộng đồng văn hóa, với ngôn ngữ đã cùng nó tồn tại. Truyện kể địa danh vì thế cần được được nghiên cứu dưới góc độ liên ngành để giải mã được các vỉa tầng ẩn chứa đằng sau mỗi lời kể, từ đó có những kiến giải mới về lịch sử, văn hóa, truyền thống và đặc điểm của vùng đất cũng như con người đã sản sinh ra chúng. Xuất phát từ nhâṇ thức về vai trò của văn hóa – văn hoc̣ dân gian Thái trong viêc̣ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tôc̣ người, năm 2010 chúng tôi đã hoàn thành môṭ công trı̀nh nghiên cứu mang tên Truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam. Công trı̀nh đã hoàn thành đươc̣ muc̣ tiêu đề ra là xây dưṇg khái niêṃ truyêṇ kể điạ danh Thái, bước đầu thống kê đươc̣ môṭ số lươṇg truyêṇ kể điạ danh (56 truyêṇ) và chı̉ ra những giá tri ̣nôị dung, thi pháp cùng dấu ấn văn hóa tôc̣ người (gồm dấu ấn văn hóa vâṭ chất và dấu ấn văn hóa tinh thần) trong tâp̣ hơp̣ truyêṇ kể. Viêc̣ làm trên dù đã đaṭ đươc̣ môṭ số kết quả nhất điṇh song cũng cho thấy xung quanh truyện kể địa danh Thái còn rất nhiều chiều kích cần được quan tâm, lý giải một cách đầy đủ, xứng đáng, đơn cử như viêc̣ sưu tầm, sưu tập làm phong phú hơn nữa tâp̣ hơp̣ truyêṇ kể đồng thời xuất phát từ bối cảnh văn hóa tôc̣ người để phân tích mối quan hê ̣hữu cơ giữa điạ danh với môi trường văn hóa đã sản sinh ra chúng. Cao hơn nữa, cần có quá trình phân tích để tı̀m ra những mắt xı́ch văn hóa, đăc̣ biêṭ là cách thức trao truyền truyện kể, hướng tới muc̣ tiêu nuôi dưỡng và bảo tồn văn hóa tôc̣ người. Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài Truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam dưới góc nhìn văn hóa tôc̣ người làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Việc nghiên cứu đề tài Truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam dưới góc nhìn văn hóa tôc̣ người trước hết nhằm đóng góp công sức cho công tác sưu tầm, công bố kho tàng văn học dân gian Thái. Bên cạnh đó, nghiên cứu đặt ra mục tiêu tìm hiểu những giá trị lịch sử, văn hóa ẩn chứa trong kho tàng truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam, chỉ ra những hằng số, những cách thức tư duy mang tính biểu trưng của tộc người thông qua cách thức hình thành cốt truyện và nội hàm của thế giới biểu tượng. 3- Ngoài hai mục tiêu kể trên, nghiên cứu của chúng tôi cũng đặt ra một mục tiêu quan trọng khác là phác họa khái lược mô hình không gian xã hội Thái thông qua những mối quan hệ xã hội cơ bản, từ đó hình dung cách thức mà người Thái gây dựng, củng cố nền văn hóa của mình, giúp chúng không bị “hòa tan” trước những thách thức, biến đổi của không gian và thời gian. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trên cơ sở tiếp xúc với kho tàng truyện cổ Thái đã được sưu tầm, xuất bản kết hợp với thu thập, phỏng vấn trên thực địa, nhiệm vụ trước hết chúng tôi đặt ra cho luận án này là tập hợp một số lượng nhất định các văn bản truyện kể (trong điều kiện thời gian được cho phép) trên tiêu chí đảm bảo tất cả các vùng Thái lớn đều có truyện kể; tiến hành thống kê, phân loại và sắp xếp chúng theo khu vực địa lý tồn tại địa danh. - Nhiệm vụ tiếp theo của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề về khái niệm, phân loại, và các đặc trưng về phương diện nội dung của truyện kể địa danh Thái. - Nhiệm vụ thứ ba tương ứng với chương tiếp theo của luận án là phân tích các dạng thức của cốt truyện xuyên suốt kho tàng truyện kể; chỉ ra nguồn gốc, các biểu hiện và ý nghĩa của một số biểu tượng tiêu biểu trong kho tàng truyện kể địa danh Thái. - Cuối cùng, luận án cần phân tích đưa ra được hình dung khái lược về một số mối quan hệ xã hội tộc người từ phương diện truyện kể và lý giải chúng trong mối quan hệ với những yếu tố văn hóa hữu quan. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tươṇg nghiên cứu của luâṇ án là truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam. - Phạm vi nghiên cứu: góc nhìn văn hóa tộc người. Cụ thể, trong nghiên cứu này chúng tôi coi tập hợp truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam như một sự kiện xã hội tổng thể trong đó bao hàm toàn bộ các yếu tố văn hóa xã hội của tộc người. Bởi thế, quá trình thực hiện luận án đồng thời là quá trình sử dụng các công cụ lý thuyết bao gồm lý thuyết ngữ văn dân gian, lý 4thuyết biểu tượng và lý thuyết không gian xã hội để bóc tách những lớp văn hóa đó hòng thấy được giá trị của tập hợp truyện kể. - Phạm vi tư liệu khảo sát: tư liêụ phuc̣ vu ̣nghiên cứu đươc̣ tập hợp từ hai nguồn: 1/Những tư liệu được thu nhận trên thực địa; 2/ Nguồn truyêṇ kể điạ danh nằm rải rác trong các văn bản thành văn có sưu tầm truyện kể dân gian Thái như: truyêṇ kể dân gian Thái, truyêṇ kể dân gian các dân tôc̣ ı́t người; kỷ yếu hôị thảo Thái hoc̣; điạ chı́ các vùng đất có cư dân Thái sinh sống và môṭ số công trı̀nh nghiên cứu về điạ danh. Các tư liệu này được thống kê trong Phụ lục 1. Trên cơ sở hai nguồn tư liêụ nói trên, đến thời điểm hiêṇ taị đa ̃sưu tầm/ sưu tâp̣ đươc̣ 116 truyêṇ /mẩu truyêṇ kể điạ danh Thái (tên truyện được thống kê trong Phụ lục 2). Đây là cơ sở tư liệu để chúng tôi để tiến hành nghiên cứu đề tài Truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam dưới góc nhìn văn hóa tôc̣ người. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích ngữ văn dân gian: Đây là phương pháp được tiến hành thường xuyên và cũng là phương pháp chủ đạo được sử dụng trong luận án nhằm phân tích các đặc điểm của văn chương dân gian Thái trong truyện kể địa danh. - Phương pháp điền dã: Đây là một yêu cầu rất quan trọng đối với nghiên cứu ngữ văn dân gian đặc biệt khi đặt trong mối quan hệ với bối cảnh văn hóa tộc người. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đăṭ ra vấn đề nghiên cứu không gian xã hôị tôc̣ người nhı̀n từ truyêṇ kể, bởi vâỵ viêc̣ gắn bó dài lâu với tộc người được nghiên cứu và xem văn chương tộc người là một thành tố sống động của thực tại luôn là yêu cầu cần thiết, đòi hỏi sư ̣ nỗ lực lâu dài và thường xuyên để có thể nắm bắt được sự hình thành, truyền dẫn, tiếp nhận các quy luật nghệ thuật văn học dân gian gần nhất với cơ chế sinh thành ra nó trong tâm lý và xã hội tộc người. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Văn chương dân gian luôn luôn bắt buộc phải tiến hành các so sánh tư liệu ngữ văn trong bối cảnh rộng lớn của nó nhằm tiến gần hơn những nhận thức hoàn chỉnh. Do vâỵ trong quá trı̀nh 5làm viêc̣, để dâñ đến môṭ kết luâṇ cu ̣thể từ phương diêṇ ngữ văn hoc̣, chúng tôi se ̃cố gắng tiến hành so sánh đối chiếu từ nhiều cấp độ để có đươc̣ môṭ kết luâṇ ngữ văn tôc̣ người đáng tin câỵ. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Là phương pháp được sử dụng xuyên suốt luận án nhằm đảm bảo cho việc xử lý các dữ kiện truyện kể trong tính tổng thể vấn đề. Các lập luận chủ đạo của luận án đều được xây dưṇg trên cơ sở khoa học văn học trong sự liên kết chặt chẽ với các thành quả rút ra từ các khoa học khác như ngôn ngữ hoc̣, sử học, địa lý học và dân tộc học. 6. Đóng góp mới của luận án Thứ nhất, thông qua quá trình sưu tầm, điền dã tại các khu vực có dân cư Thái sinh sống kết hợp với việc sưu tập tài liệu từ các công trình, sách báo đã xuất bản, chúng tôi đã tiến hành hệ thống hóa tư liệu về truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam đồng thời đem đến những đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu. Thứ hai, luận án xác điṇh đươc̣ giá tri ̣về phương diêṇ ngữ văn dân gian của tâp̣ hơp̣ truyêṇ kể điạ danh Thái. Chỉ ra cấu trúc thể loại, giá trị nội dung xét theo phương diện thể loại của tập hợp truyện kể. Phân tích nốt truyện của toàn thể kho tàng truyện kể theo nhóm thể loại. Nếu công trình luận văn thạc sĩ trước đây mới tiến hành việc đưa ra khái niệm truyện kể địa danh, phân tích một số dấu ấn văn hóa Thái trong những truyện kể địa danh đã sưu tầm/sưu tập thì luận án đóng góp ở sự mở rộng phạm vi tư liệu khảo sát và khảo cứu, cung cấp một diện mạo truyện kể phong phú hơn cũng như sự khảo cứu sâu sắc hơn. Các các giá trị nội dung, cốt truyện, nghiên cứu các biểu tượng tiêu biểu cũng như việc phân tích một số phương diện không gian xã hội trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam đều là những nội dung nghiên cứu hoàn toàn mới, không lặp lại công trình nghiên cứu trước đây. Thứ ba, thông qua việc phân tích các biểu tượng, chúng tôi đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa văn học và văn hóa dân gian, mối liên hệ giữa địa danh và các cơ tầng văn hóa tộc người đã sản sinh ra nó. Đây cũng chính là hướng nghiên cứu mang lại nhiều kiến giải mới cho nghiên cứu văn học dân gian. 6Đây cũng là lần đầu tiên một số biểu tượng tiêu biểu của văn hóa Thái được phân tích, nhìn nhận từ góc độ truyện kể địa danh. Thứ tư, luận án đóng góp những phân tích về các đơn vị cấu thành không gian xã hội Thái tộc tập trung vào một số mối quan hệ xã hội cơ bản từ góc độ truyện kể địa danh. Việc nghiên cứu không gian xã hội tộc người từ phương diện ngữ văn dân gian tuy đã được thực hiện bởi một số nghiên cứu đi trước, song đối với ngành Thái học, đây vẫn là thử nghiệm đầu tiên, cung cấp cách nhı̀n mới cho văn hoc̣ dân gian tôc̣ người, nằm trong nỗ lưc̣ chung nhằm đưa văn hoc̣ dân gian về với bối cảnh sinh hoạt và tồn tại của nó. 7. Cấu trúc của luâṇ án Luâṇ án triển khai thành 4 chương: Chương 1: Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu. Chương 2 : Truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam: khải niệm, phân loại và nội dung Chương 3: Cốt truyện và biểu tượng trong truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam Chương 4: Không gian xã hôị trong truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam 7CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam Trong công trình này, chúng tôi nghiên cứu truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam từ góc độ văn hóa tôc̣ người nhằm thấy đươc̣ mối liên hê ̣ mâṭ thiết giữa ba yếu tố: điạ danh – truyêṇ kể – văn hóa (đăc̣ biêṭ là ý thức tôc̣ người). Theo đó truyêṇ kể điạ danh (môṭ bô ̣phâṇ của sáng tác ngôn từ dân gian) là môṭ sư ̣kiêṇ xa ̃hôị ma ̃hóa những đăc̣ trưng văn hóa tôc̣ người mà điạ danh là mắt xı́ch chı́nh đươc̣ quan tâm. Bởi vâỵ, nếu như trong công trı̀nh trước đây [111], lic̣h sử vấn đề chı̉ chủ yếu quan tâm đến những nghiên cứu xung quanh truyêṇ kể điạ danh thı̀ nghiên cứu này quan tâm đến cả những nghiên cứu điạ danh từ góc nhı̀n của ngôn ngữ, lic̣h sử, văn hóa... coi đó như tiền đề cho viêc̣ khảo cứu mối quan hê ̣giữa điạ danh với những yếu tố nằm trong/ bao chứa nó. Trước hết, bởi người Thái là một trong những tộc ít người có dân số đông nhất Việt Nam. Nền văn hóa, chính trị của họ cũng có vai trò quan trọng trong vành đai quyền lực miền núi ở Việt Nam nói chung và Đông Dương nói riêng, vì thế khi Đông Dương trở thành thuộc địa của Pháp, người Thái sớm trở thành đối tượng thu hút sự chú ý của các học giả nước ngoài, trước tiên là người Pháp, kế tiếp là nghiên cứu của các học giả thuộc cộng đồng Anh ngữ. Dưới đây chúng tôi điểm một số công trình nghiên cứu về người Thái ở Việt Nam trong đó có đề cập đến văn chương dân gian mà nghiên cứu mang tính chuyên sâu đầu tiên là của Albert Louppe (Muongs de Cua-Rao [1]). Trong nghiên cứu này đời sống thường nhật, văn hóa vật chất, sinh đẻ, phong tục, tín ngưỡng, sinh hoạt văn nghệ... của người Thái ở Cửa Rào được tác giả mô tả khá kỹ lưỡng. Về phương diện nghệ thuật ngôn từ dân gian, điều mà tác giả có nhắc đến là những câu nói răn dạy con cháu và những kinh nghiệm về thời tiết. (Ở đây mặc dù nghiên cứu về người Thái nhưng do sự thiếu thống nhất về tên gọi tộc người nên vào thời điểm đó tác giả gọi người Thái ở Cửa Rào – 8Nghệ An với danh xưng “Mường”). Có thể thấy, với vai trò là bản ghi chép của các công chức thuộc địa, những tác phẩm của Albert Louppe hay Ch. Robequain ( công trình Le Thanh Hoa), R.Robert ( công trình Notes sur les Tay Deng de Lang Chanh – Thanh Hoa - An Nam) đều là những bản báo cáo chi tiết phục vụ cho công cuộc “khai hóa” của thực dân. Cả ba tác phẩm nói trên đều chỉ đề cập thoáng qua đến sự tồn tại của văn chương dân gian tộc người, vấn đề truyện kể địa danh của người Thái - đối tượng mà chúng tôi quan tâm không được đề cập đến. Tiếp sau các tác giả nói trên, năm 1950, một tác phẩm khác có đề cập đến người Thái ở Việt Nam của Henri Maspero (bản dịch tiếng Việt của Lê Diên: Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc của [2]) được xuất bản. Nội dung cuốn sách ngoài khảo cứu một cách kỹ lưỡng về sự phát triển lịch sử của Đạo giáo Trung Hoa, huyền thoại học Trung Quốc hiện đại, còn để cập đến xã hội và tôn giáo của người Trung Quốc cổ và người Thái hiện nay. Trong phần này, những khảo cứu về lễ hội mùa xuân, huyền thoại cũng như những phong tục tang lễ của người Thái đen ở thượng du Bắc Bộ là những nghiên cứu tỷ mỉ về người Thái đen Việt Nam. Trong nhiều trang viết, tác giả nhắc tới những huyền thoại Thái như truyện về Tạo Suông Tạo Ngần, sự tích hạt lúa, truyện trời đất phân đôi... [2,531-533] tuy nhiên không có nội dung nào liên quan đến truyện kể địa danh Thái. Ở đây mối quan tâm của tác giả là hướng đến phân tích những dấu vết của xã hội và tôn giáo Trung Quốc cổ đại trong các thiết chế văn hóa tôn giáo của người Thái vào thời điểm nghiên cứu. Bộ phận văn học dân gian được tác giả quan tâm nhiều nhất chính là lớp thần thoại sáng thế nói về sự khai sinh trời đất và các hiện tượng thiên nhiên. Điều này ta cũng gặp trong một nghiên cứu khác có đề cập đến người Thái ở Việt Nam là Systems of Northern Vietnam của Gerald C. Hickey [3]. Trong công trình này, tác giả dành trọn vẹn chương chương thứ tư nghiên cứu về xã hội của người Thái đen ở Việt Nam, trong đó có những nội dung đề cập đến văn chương dân gian của họ, cụ thể là những huyền thoại về các cuộc thiên di của người Thái từ Bắc xuống Nam, lý do họ phải rời bỏ quê hương ở phương Bắc để đi tìm đất sinh cơ lập nghiệp. [3, 131-133]. 9Trong luận án này, chúng tôi sử dụng lý thuyết về không gian xã hội của G. Condominas. Ông cũng đồng thời là người có nghiên cứu nổi tiếng về người Thái mang tên “Bài tiểu luận về hệ thống chính trị Thái” hoàn thành năm 1976 và được xuất bản chung trong công trình Không gian xã hội vùng Đông Nam Á [33, 267-324]. Nội dung của “bài tiểu luận” này tuy không trực tiếp đề cập đến văn học dân gian Thái song sự phân tích về hệ thống chính trị của người Thái cùng những hình dung về không gian “mường” khi đặt cạnh những dẫn dụ khác về văn chương dân gian của người Mnông Gar, người Ê đê chính là những gợi ý quan trọng cho tác giả luận án trong quá trình nghiên cứu không gian xã hội Thái tộc sau này. Trong khi những nghiên cứu của các học giả phương Tây không cung cấp nhiều những gợi ý trực tiếp cho nghiên cứu truyện kể địa danh của người Thái ở Việt Nam thì ở một hướng tìm kiếm khác, chúng tôi lại tìm được những trợ giúp từ các nghiên cứu của học giới Trung Quốc. Dưới đây sẽ là việc điểm lại các nghiên cứu liên quan này một mặt cung cấp những tham chiếu về phương pháp nghiên cứu địa danh và truyện kể địa danh Thái, mặt khác cung cấp những tư liệu trực tiếp về văn hóa tộc người ở nơi mà nó khởi nguồn để chúng tôi tham khảo trong quá trình triển khai nghiên cứu của mình. Trên thực tế, việc nghiên cứu địa danh ở Trung Quốc được quan tâm từ rất sớm. Thời Đông Hán, Ban Cố đã ghi chép hơn 4000 địa danh trong bộ Hán thư, trong đó có một số địa danh đã được ông giải thích rất rõ về nguồn gốc và ý nghĩa. Đời Bắc Ngụy (380-535 TCN) trong Thủy Kinh chú sớ, Lịch Đạo Nguyên đã ghi chép hơn 2 vạn địa danh, trong đó chủ yếu là các sông ngòi, hồ đầm Trung Hoa [100]. Tuy nhiên, phải sang thế kỷ XXI, do ảnh hưởng của chính sách dân tộc, việc nghiên cứu địa danh ở Trung Quốc, đặc biệt là địa danh bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở các vùng biên cương mới đặc biệt được chú trọng. Năm 2011, Dương Lập Quyền và Trương Thanh Hoa có công trình Khái quát về địa danh tiếng dân tộc thiểu số Trung Quốc[167]. Nội dung cuốn sách chủ yếu quan tâm đến diễn biến lịch sử và tình hình phân bố của các địa danh dân tộc thiểu số, đồng thời từ đó rút ra quy luật, tiến tới chỉ ra nội hàm, chức năng và ý nghĩa của địa danh dân tộc thiểu số. Tiếp đến, 10 năm 2013, Tống Cửu Thành xuất bản công trình Nghiên cứu địa danh văn hóa: khái quát về địa danh dân tộc thiểu số và các vấn đề khác [168]. Trong công trình này, Tống Cửu Thành trên cơ sở của các tùng thư khái quát về địa danh văn hóa và di sản địa danh văn hóa đồng thời chỉ ra ba phương diện của yêu cầu bảo vệ cũng như chỉnh lý di sản địa danh văn hóa trong các văn kiện Trung Quốc cổ đại. Người Thái cũng là một trong 56 tộc người ở Trung Quốc, và mặc dù đến nay các địa danh bằng tiếng Thái đã và đnag bị Hán hóa sâu sắc song đó cũng chính là một thách thức đối với các học giả và các nghiên cứu về địa danh Thái ở Trung Quốc cũng ngày càng được nhiều học giả quan tâm. Năm 2005, tác giả Đới Hồng Quang có hai bài viết liên quan, một là Thử phân tích ảnh hưởng của chế độ xã hội và chế độ ruộng đất đến việc gọi tên địa danh Thái tộc [163]. Bài viết thông qua việc phân tích mối quan hệ mật thiết giữa năm phương diện của chế độ xã hội và chế độ ruộng đất chỉ ra ảnh hưởng to lớn của những chế độ này trong việc định danh các địa danh bằng tiếng Thái. Bài viết thứ hai của tác giả này trong năm 2005 có tên Đặc trưng địa danh tiếng Thái Tây Song Bản Nạp [164] lấy đối tượng là địa danh tiếng Thái Tây Song Bản Nạp và tập trung phân tích 5 phương diện của địa danh tiếng Thái vùng này là tính khoa giới, tính phức tạp, tính đa tầng không gian, tính hỗn hợp và tính đặc thù. Vẫn theo mạch nghiên cứu địa danh, năm 2008, Đới Hồng Quang tiếp tục có bài Thử bàn về ảnh hưởng của tôn giáo với việc đặt tên địa danh tiếng Thái [165] . Trong bài, tác giả chỉ ra người Thái đã theo tôn giáo nguyên thủy, cũng theo Phật giáo Tiểu thừa. Điều này khiến hình thành nên đặc điểm nhị nguyên trong tôn giáo tín ngưỡng của người Thái. Đặc điểm nhị nguyên này đến lượt nó lại sinh ra những ảnh hưởng to lớn đến các phương diện văn hóa Thái tộc, trong đó có các địa danh tiếng Thái. Tiếp theo, năm 2010, Ngô Trạch có bài Các địa danh có nguồn gốc từ thần thoại và truyền thuyết của dân tộc Thái [166] in trong sách Hồ sơ Vân Nam. Bài viết tiến hành thống kê, phân tích và chỉ ra địa danh chính là do con người trong quá trình sản xuất và sinh sống ước định và tổng hợp để tạo nên nhằm phân biệt các vị trí, phạm vi, hình thái và đặc trưng khác nhau của các loại 11 thực thể địa lý trong vũ trụ. Vì địa vực và dân tộc (ngôn ngữ) khác nhau nên địa danh mang tính dân tộc và tính địa vực rõ nét. Cảnh Mã là khu tự trị đa dân tộc có người Thái và người Ngõa là chủ thể nhưng người Thái lại là dân tộc thiên di sớm hơn đến mảnh đất phì nhiêu này. Đồng thời văn hóa Thái với chế độ thổ ti thống trị đã kéo dài hơn 600 năm khiến địa danh Thái ngữ làm nên những cột mốc lịch sử văn hóa, chiếm 47.1% trong 696 đơn vị địa danh vùng Cảnh Mã. Do địa danh Thái ngữ được viết bằng tiếng Hán nên mang tính phức tạp và không cố định, điều này cũng khiến chúng mất đi rất nhiều tấm màn thần bí. Năm 2012 hai tác giả Lý Dật Hoa và Lưu Á có bài Đặc điểm cách gọi tên địa danh tiếng Thái trong địa danh Phổ Nhĩ [172]. Hai tác giả này khẳng định địa danh không chỉ thể hiện việc gọi tên đối tượng không gian địa lý mà còn phản ánh đặc trưng địa lý tự nhiên và địa lý nhân văn nơi đó. Đồng thời, bản thân địa danh cũng bao hàm cả quá trình lịch sử, địa lý, nhân văn lâu dài, là một loại hình thức thông tin cơ bản. Nghiên cứu lấy địa danh Thái ngữ trong địa danh các dân tộc thiểu số ở Phổ Nhĩ làm đối tượng và tiến hành phân tích các khía cạnh lịch sử, văn hóa, địa lý... của nhóm địa danh này. Cùng quan tâm đến địa danh tiếng Thái ở Phổ Nhĩ, tác giả Lý Ánh Hoa lại quan tâm đến chủ đề Nguyên nhân địa danh Thái tộc chiếm địa vị chủ đạo trong các địa danh dân tộc thiểu số ở Phổ Nhĩ [173]. Bài viết lấy địa danh thuộc 9 huyện của tỉnh Phổ Nhĩ (chủ yếu là khu vực hành chính và điểm cư dân) làm đối tượng nghiên cứu phân tích các nguyên nhân địa danh Thái ngữ chiếm địa vị chủ đạo trong đó nguyên nhân chủ yếu là do sức mạnh của văn hóa Thái tộc so với văn hóa của các tộc người khác ở khu vực này. Cũng quan tâm đến sức sống lau bền của văn hóa Thái nhưng minh chứng bằng việc nghiên cứu một địa danh cụ thể, năm 2012, tác giả Tế Đổ Tường công bố bài viết Lịch sử tước hiệu địa danh Thái ngữ Na Mãnh [171]. Bài viết chỉ ra, dù trong lịch sử, Na Mãnh từng trải qua rất nhiều biến động, từng là thuộc địa của vương quốc Quả Chiêm Bích, rồi thuộc phủ tổng quản quân dân Bình Diến Lộ, Nam Điện Phủ Tư. Thời kỳ dân quốc, khu Nam Điện áp dụng chính sách “thổ lưu bính trị”, Na Mãnh lại phụ thuộc sự cai quản của Nam Điện Tuyên Phủ Tư và Thiết trị cục Lương Hà. Sau giải phóng, Na Mãnh từng do 12 huyện Lộ Tây và Đằng Xung cai quản. Tuy vậy, địa danh này chưa từng bị thay đổi, nguyên nhân chủ yếu là do chúng mang nhiều nội hàm văn hóa và chứa đựng giá trị lịch sử lâu dài. Như vậy vấn đề nghiên cứu địa danh ở Trung Quốc đã có một lịch sử lâu dài. Đến thời kỳ đương đại, địa danh các dân tộc thiểu số nói chung và địa danh Thái nói riêng cũng được quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ, tuy nhiên hầu hết tập trung v... giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt nhưng phức tạp hơn ký hiệu thông thường ở chỗ nó là một hệ thống kép – hệ thống siêu ký hiệu mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống ngôn ngữ thông thường (ký hiệu biểu thị) nhưng "cái được biểu đạt" (hình ảnh, sự vật, sự việc) gợi người đọc đến một nội dung khác ngoài nghĩa hiển lộ trực tiếp. Nội dung khác này đa nghĩa, mơ hồ, xa lạ, tàng ẩn, chỉ với lí trí không thể nắm bắt và diễn tả hết được” [31,25]. Các nhà nghiên cứu biểu tượng cũng chỉ ra rằng tuy mang tính phức tạp và đa nghĩa nhưng biểu tượng có ý nghĩa quan trọng trong việc tham gia vào sự cố kết cộng đồng. Và như vậy, quá trình khai thác biểu tượng trong nghiên cứu của chính tôi chính là sự nỗ lực nhìn “cái biểu đạt” trong mối quan hệ với bối cảnh văn hóa của nó, trước hết là những câu chuyện kể, sau đến là những thể loại folklore khác như tục ngữ, dân ca, những sự kiện dân tộc học thuộc về nghi lễ, tập tục của tộc người, ở đây cụ thể là người Thái, để thông qua đó phần nào nhận ra cái được biểu đạt, sau nữa - quan trọng hơn - là ý nghĩa của cái được biểu đạt ấy. 26 Mặc dù các nhà ký hiệu học đã đưa ra được sơ đồ giải mã biểu tượng nhưng cũng phải thấy rằng “nếu chỉ tiếp cận nghiên cứu các biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học thì chúng ta vẫn có thể gặp khó khăn khi buộc phải giải thích một thành tố văn hóa trong môi trường sống của nó (nghĩa là trong thời gian và không gian của riêng nó” [47, 75]. Bởi vậy, trong những năm gần đây, có một xu hướng khác được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong quá trình nghiên cứu biểu tượng, đó là nhân học biểu tượng. Nhân học biểu tượng theo định nghĩa của Edith Turner “là khoa học nghiên cứu về các biểu hiện tự nhiên của các biểu tượng được sử dụng ở các nền văn hóa khác nhau, các nghi lễ, diễn đàn và trong đời sống hàng ngày nơi mà ý nghĩa đầy đủ có nhiều hơn các biểu hiện thành văn. Mỗi biểu tượng có hai thành phần - là những thực thể nhìn thấy và phần còn lại là ý nghĩa biểu hiện của nó. Nhân học biểu tượng diễn giải các biểu tượng trong ngữ cảnh của tiến trình xã hội và đời sống văn hóa. " [48,3]. Hướng nghiên cứu này cho thấy triển vọng trong việc khắc phục những hạn chế mà ký hiệu học mắc phải đồng thời cũng chính là điểm khả thủ của nó như Raymond Firth đã chỉ ra: “Nó liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể Theo đó, các nhà nhân học được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họđang nghiên cứu, và để sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” [47, 82]. Với những phương pháp chuyên biệt như thực địa (fieldwork) hay quan sát tham dự (participant observation), nhân học cho phép giải mã biểu tượng ngay khi nó đang “sống” trong môi trường văn hóa của mình. Trong luận án này, chúng tôi một mặt vẫn sử dụng các phương pháp phân tích ký hiệu học để bóc tách các lớp nghĩa của biểu tượng, mặt khác luôn nỗ lực lấp đầy những thiếu sót của nó bằng công cụ của nhân học biểu tượng, đặc biệt bằng quá trình điền dã thực địa liên tục trong nhiều năm, nhiều giai đoạn, quá trình quan sát tham dự lâu dài trong cộng đồng cư dân Thái đặc biệt là 27 người Thái bản Mường An, xã Vân Hồ huyện Mộc Châu nơi quê hương của tác giả luận án. Quá trình nghiên cứu có sự tiếp thu các thao tác làm việc của nhiều nghiên cứu đi trước như phần nghiên cứu biểu tượng trong công trình Thi pháp ca dao [79] của tác giả Nguyễn Xuân Kính; việc khai thác Những biểu tượng không gian thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt [3] của tác giả Trần Thị An; những quan niệm về mã và mã văn hóa của tác giả Nguyễn Thị Bích Hà [44] [45]. Đặc biệt, liên quan đến những biểu tượng trong văn hóa Thái, chúng tôi quan tâm đến hai nghiên cứu. Một là bài viết Từ truyền thuyết rồng Thăng Long khám phá biểu tượng rồng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam [89] của tác giả Nguyễn Thị Thanh Lưu. Ở đây tác giả đi sâu giải mã biểu tượng rồng trong truyền thuyết, nhưng vấn đề chúng tôi quan tâm hơn là việc nêu quan điểm về cơ chế dịch chuyển từ hình tượng rắn đến biểu tượng rồng trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, đặc biệt đề cập đến biểu tượng rồng trong văn hóa dân gian dân tộc Thái. Nghiên cứu thứ hai cũng mang tính gợi ý vô cùng quý báu là công trình của Đặng Thị Oanh Biểu tượng nước từ văn hóa đến văn học dân gian của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [102]. Với những dẫn liệu cụ thể và công phu, công trình giúp gợi mở cách thức tiếp cận tới một biểu tượng nằm trong hệ thống mà chúng tôi đang quan tâm và cũng như một thách thức cho việc tìm thêm những cách tiếp cận mới để tiệm cận hơn nữa tới cái “không thể định nghĩa” như J.Chevalier từng nói. 1.2.3. Lý thuyết không gian xã hội trong nghiên cứu truyêṇ kể dân gian Khái niêṃ không gian xa ̃hôị mà chúng tôi sử duṇg đươc̣ đề xuất bởi G. Condominas trong công trı̀nh Không gian xã hôị vùng Đông Nam Á. Theo ông thì: “không gian xa ̃hôị là cái không gian đươc̣ xác điṇh bởi tâp̣ hơp̣ hê ̣ thống quan hê ̣đăc̣ trưng cho môṭ nhóm người nào đó” [33,16]. Từ khái niêṃ cơ bản này, G.Condominas hı̀nh dung các khı́a caṇh khác nhau của không gian xa ̃hôị như những mối liên hê ̣với không gian và thời gian, những quan hê ̣với môi trường, những quan hê ̣về trao đổi của cải, những mối quan hê ̣về 28 giao tiếp: ngôn ngữ và chữ viết, những quan hê ̣ho ̣hàng và xóm giềng. Trong quá trı̀nh nghiên cứu những mô hı̀nh không gian xa ̃hôị khác nhau như không gian xa ̃hôị dân tôc̣ Lào, dân tôc̣ Thái, người Mnông Gar ở Tây Nguyên Viêṭ Nam tác giả triển khai những quan sát xa ̃hôị ở những khı́a caṇh tiêu biểu, cu ̣thể khác nhau. Sư ̣hı̀nh dung cuối cùng thuôc̣ về người đoc̣ qua viêc̣ xâu chuỗi những kết quả nghiên cứu của tác giả trong môṭ thời gian dài. Sở dı ̃trong luâṇ án này chúng tôi sử duṇg môṭ lý thuyết của ngành dân tôc̣ hoc̣ để phân tı́ch những văn bản ngôn từ dân gian bởi đối tươṇg nghiên cứu chứa đưṇg tı́nh lý do của nó. Trước hết cơ sở của viêc̣ áp duṇg lý thuyết chı́nh là bản thân tı́nh nguyên hơp̣ của folklore - trong đó có truyêṇ kể dân gian. Với đăc̣ trưng nguyên hơp̣, mỗi truyêṇ kể dân gian luôn thuôc̣ về môṭ tôc̣ người cu ̣thể, mang dấu vết của những đăc̣ điểm lic̣h sử - xa ̃hôị mà nó ra đời không bao giờ thưc̣ sư ̣ “sống” ngoài bối cảnh của nó. Nói cách khác, truyện kể dân gian luôn gắn liền với các khı́a caṇh thuôc̣ về bối cảnh dân tôc̣ hoc̣ của tôc̣ người và để hiểu đươc̣ những mã văn hóa ẩn tàng thı̀ viêc̣ dưṇg laị bối cảnh ấy bằng phương thức tiếp câṇ đối tượng truyện kể như một sự kiện xã hội tổng thể là viêc̣ làm cần thiết. Măṭ khác, trong truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam, yếu tố điạ danh luôn nổi bâṭ. Nó là kết quả quá trı̀nh thưc̣ hiêṇ môṭ loaṭ hành vi của tôc̣ người từ xung đôṭ - thiên di - tı̀m kiếm - tranh dành - điṇh danh. Quá trı̀nh thưc̣ hiêṇ loaṭ hành vi đó chı́nh là sư ̣hiêṇ thưc̣ hóa vô vàn các mối quan hê ̣ trong những không gian – thời gian khác nhau, taọ lâp̣ các quan hệ kinh tế, quan hê ̣xóm giềng với người đồng tôc̣, khác tôc̣, thâṃ chı́ với thần linh. Như thế, đằng sau vỏ ngôn ngữ đơn thuần của điạ danh là những quá trı̀nh quan hê ̣ tôc̣ người, những hành vi trên thưc̣ tế. Đến đây, folklore - sản phẩm tinh thần cao nhất nằm trong sư ̣ gắn kết với tı́n ngưỡng và nghi lê ̃ - như là bước cuối cùng tôc̣ người thưc̣ hiêṇ hành vi tuyên ngôn cho chủ quyền đối với các vùng lañh thổ. Ngày nay, người Thái tồn taị là môṭ thưc̣ thể, đôc̣ lâp̣ và giàu bản sắc, điều đó chứng tỏ chuỗi hành vi kể trên đa ̃đươc̣ thực hiêṇ trên cơ sở luôn đảm bảo môṭ mẫu số chung nhất điṇh. Và để tı̀m đươc̣ mẫu số chung đó, những gı̀ thuôc̣ về bản sắc và căn tı́nh tôc̣ người, môṭ cách thức khả dı ̃là phân 29 tı́ch những mối quan hê ̣đa ̃nảy sinh đươc̣ mã hóa trong truyêṇ kể, từ đó đưa ra sư ̣hı̀nh dung, kiến giải cho vấn đề. Qua những nghiên cứu của G.Condominas có thể thấy điều ông dạy cho người đọc là sự cần thiết và cấp bách phải cấu trúc các dữ kiện xã hội theo cách mà nó đang xảy ra tại chính thời điểm nói. Khi nghiên cứu về người Mnông Gar, người đọc thấy ông không nói về những người Mnông Gar nói chung hay một xã hội Mnông Gar trên “lý thuyết”, không bao giờ thấy ông dùng những từ như “ theo khái niệm Mnông Gar” hay “người Mnông Gar tin rằng”... Làm như vậy, ông tránh được cái bẫy do sự khái quát đem lại cho nhưng việc làm mang tính hàn lâm bởi giữa những quy chuẩn và thực hành luôn có khoảng cách, thậm chí ý nghĩa của mỗi lời nói, mỗi cách ứng xử hay mỗi biểu tượng đều thay đổi theo hoàn cảnh. Tuy không một lần nhắc đến khái niệm “sự kiện xã hội tổng thể” của M. Mauss nhưng có thể thấy trong tư duy của ông, sự tiếp cận khái niệm này được tiếp nhận một cách trọn vẹn nhất. Tính chất “tổng thể” của các sự kiện xã hội không nằm trong sự khái quát của người nghiên cứu mà nằm trong mối quan hệ hữu cơ mà các sự kiện đã xảy ra tạo dựng nên. Và như thế, nếu hình dung quá trình Condominas xây dựng những hình dung về không gian xã hội – sự kiện xã hội tổng thể - là “chiều thuận” thì việc làm của chúng tôi trong luận án này lại là “chiều nghịch”. Có nghĩa rằng, giống như M. Mauss, chúng tôi coi mỗi tác phẩm ngôn từ dân gian, mỗi truyện kể là một “sự kiện xã hội tổng thể”. Như thế, việc làm của người nghiên cứu là từ những góc nhìn khác nhau đi vào bóc tách từng lớp sự kiện, từng chi tiết được gợi mở qua các hình ảnh, câu chữ trong truyện kể giống như tước những sợi lanh ra khỏi thân thể hữu cơ vốn có của nó mà mục đích là để quan sát một cách tỉ mỉ nhất trong điều kiện có thể từng cạnh khía đã làm nên tổng thể ấy. Tóm lại sử duṇg khái niêṃ không gian xa ̃ hôị trong viêc̣ nghiên cứu truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam, chúng tôi ý thức đươc̣ rằng: (1) Truyêṇ kể điạ danh Thái chı̉ là môṭ bô ̣phâṇ trong folklore tôc̣ người, bởi vâỵ bản thân nó chı̉ chứa đưṇg phần nào những khúc xa ̣của không gian xã 30 hôị Thái, đăc̣ biêṭ trong điều kiêṇ quá trı̀nh sưu tầm, sưu tâp̣ tư liêụ truyêṇ kể còn nhiều haṇ chế; Bởi vâỵ trong quá trı̀nh phân tı́ch, ngoài sư ̣ tinh tế của người quan sát còn cần đến sư ̣tı̉nh táo để tránh lối tư duy ép buôc̣, gán cho văn bản những nghıã mà nó không có để minh hoạ cho lý thuyết. (2) Viêc̣ tı̀m hiểu những biểu hiêṇ của không gian xa ̃hôị thể hiêṇ trong truyêṇ kể điạ danh của người Thái ở Viêṭ Nam là quy trı̀nh khai thác gián tiếp, trong đó truyêṇ kể điạ danh là đối tươṇg trung gian bởi vâỵ có thể không đảm bảo đươc̣ tı́nh hê ̣ thống của những quan hê ̣đó. Kết quả của viêc̣ nghiên cứu do đó không hướng đến việc khái quát môṭ mô hı̀nh không gian xã hội, mà thưc̣ chất chı̉ có thể là những hình dung về các yếu tố hợp thành tổng thể ấy nhằm cung cấp cho người đọc những dữ kiện, những gợi ý để bản thân người đọc bằng chính những quan sát, tri thức và thể nghiệm riêng xây dựng cho mình một nhãn quan. (3) Trong khuôn khổ của luận án, việc khảo sát tỉ mỉ mọi khía cạnh của không gian xã hội tộc người thể hiện trong truyện kể là bất khả, vì thế chúng tôi chỉ tập trung vào những khía cạnh cơ bản nhất là các mối quan hệ không – thời gian, các mối quan hệ hôn nhân và các mối quan hệ ngôn ngữ và coi đây là xuất phát điểm cho một quá trình làm việc lâu dài về sau. Trong quá trình làm việc, bên cạnh việc kế thừa quan niệm về không gian xã hội của G.Condominas, chúng tôi có được nhiều gợi ý quý báu từ một nghiên cứu cụ thể của ông là Những quan sát xã hội học từ hai bản hùng ca Radê. Trong nghiên cứu về hai bản Trường ca Đam Di và Trường ca Đam Săn này, trên cơ sở khảo sát chủ đề của các tác phẩm, tác giả tiến hành quá trình phân tích liên hệ với các yếu tố cấu thành nên xã hội Ê Đê truyền thống, từ đó đi đến những nhận định về sự chi phối của luật lệ tới đời sống xã hội, đặc biệt là các luật tục về hôn nhân thể hiện trong từng tác phẩm. Sau những phân tích tổng hợp, cuối cùng tác giả đi đến kết luận về các mô hình, các giai đoạn xã hội khác nhau mà tộc người đã trải qua để lại dấu ấn trong hai tác phẩm. Ngoài nghiên cứu trên, có một công trình cũng cung cấp nhiều gợi ý cho quá trình làm việc của chúng tôi là luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hương Thủy, Sử thi Khan nhìn từ góc độ không gian qua “khan Xinh Nhã” [126], đặc biệt là phần tác giả viết về không gian xã hội. Những nghiên cứu 31 này cung cấp cho chúng tôi những thao tác làm việc vô cùng hữu ích, nó cho thấy cách thức tiến hành một khảo sát xã hội từ góc độ sáng tác ngôn từ dân gian, một cách thức đưa tác phẩm trở lại với bối cảnh văn hóa, xã hội rộng lớn đã sản sinh ra nó. 1.3.Sơ lược về bối cảnh văn hóa Thái 1.3.1. Về nguồn gốc của người Thái ở Việt Nam Cho đến nay, xung quanh câu hỏi về nguồn gốc của người Thái ở Việt Nam vẫn còn nhiều tranh luận. Một số học giả mà chúng tôi tạm gọi là những người theo “thuyết bản địa” như Hà Văn Tấn [118,32], Phạm Đức Dương [28,16], [29,132], Trần Quốc Vượng [156], Hoàng Lương [85], [88] .. quan niệm tổ tiên của người Thái đã cư trú ở Việt Nam từ rất sớm. Qua nghiên cứu từ các góc độ khảo cổ học, ngôn ngữ học, folklore học, các tác giả trên chỉ ra phần nào dấu ấn của văn hóa Tày - Thái trong văn hóa Phùng Nguyên (cách đây từ 4.000 năm đến 3.500 năm) và tiến tới khẳng định không loại trừ khả năng chính nhóm Tày - Thái cổ chính là chủ nhân của nền văn hóa này. Trong một nghiên cứu, tác giả Hoàng Lương khẳng định “ở Việt Nam đã từng có các nhóm Thái cổ sinh sống lâu đời, ít ra cũng có từ trên dưới 2000 năm” [85,277] Luận điểm này được củng cố trong một nghiên cứu khác [88] khi tác giả khẳng định, ngay cả nhóm Thái đen (từng được cho là di cư vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ XIII), thực chất cũng là những cư dân bản địa và những phát hiện từ sự tương đồng trong một số truyền thuyết, tổ chức nghi lễ, địa danh hay hoa văn trang phục được coi là bằng chứng cho nhận định này. Theo nhóm quan điểm này, người Thái có mặt ở Việt Nam ngay từ “buổi bình minh của đất nước” và được chia thành 2 khối. Một khối “hòa nhập thành người Việt”, khối còn lại “vừa định cư vừa di cư lan tỏa” cư trú rải khắp miền Nam Trung Hoa và bán đảo Đông Dương. Tồn tại song song với “thuyết bản địa”, nghiên cứu của một số học giả trong và ngoài nước như D.E. Hall [21], R. Robert [113], A.Louppe [1], H.Maspero [40] và nhiều học giả uy tín trong nước như Đặng Nghiêm Vạn [145], Cầm Trọng [136], Nguyễn Chí Huyên [67] cho rằng sự có mặt của người Thái ở Việt Nam là kết quả của quá trình di cư từ vùng Nam Trung 32 Quốc xuống phía nam của tổ tiên người Tày - Thái cổ nhằm tránh sự đồng hóa của người Hán. Theo đó, những nhóm Tày - Thái cổ đầu tiên di cư vào miền Bắc Việt Nam diễn ra trong các thế kỉ đầu Công nguyên và tiếp tục di cư với quy mô lớn bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII cho đến thế kỷ thứ XIII khi triều đại Nam Chiếu ở Vân Nam sụp đổ. Địa điểm đặt chân và đồng thời là trung tâm đầu tiên của các nhóm Thái ở trên đất Việt Nam là vùng đất nay bao gồm Mường Lay của tỉnh Lai Châu và Mường Thanh của tỉnh Điện Biên. Từ đây, một bộ phận của các nhóm Thái này tiếp tục di cư xuống các khu vực khác ở vùng Tây Bắc Việt Nam và Đông Nam Á như Lào, Myanma, Thái Lan. Có một thực tế là mặc dầu những cứ liệu mà các học giả Việt Nam đưa ra để khẳng định nguồn gốc bản địa của người Thái tương đối phong phú, song chừng đó chưa thực sự đủ để thuyết phục học giới quốc tế về chuyện có tồn tại hay không một lớp người Thái cổ sinh tụ từ trước Công nguyên (thậm chí từ thời Phùng Nguyên) ở ven lưu vực các sông lớn như sông Thao, sông Đà, sông Chảy, sông Lô, sông Mã, sông Lam với quá trình cộng sinh, giao thoa văn hóa cùng các nhóm tộc người khác mà tiêu biểu là các nhóm tiền Việt - Mường để hình thành nên một khối quốc gia - dân tộc. Trong cảnh huống một mặt vấn đề nguồn gốc tộc người còn nhiều tranh cãi, mặt khác những câu chuyện dân gian gắn với các địa danh hầu hết cũng gợi lên đường dẫn đến các sự kiện lịch sử không quá xa, nghiên cứu của chúng tôi nghiêng về nhìn nhận lịch sử người Thái là một lịch sử thiên di kéo dài nhiều thế kỷ. Quá trình ấy diễn ra theo nhiều hướng, hết lớp này đến lớp khác để ngày nay hình thành nên diện mạo tương đối ổn định của một tộc người trong số 54 dân tộc anh em. Diện mạo ấy, đại thể căn cứ từ thực tế có thể hình dung theo ba vùng tương đối rõ rệt, “một là vùng văn hóa Tây Bắc được hình thành trong sự bảo lưu truyền thống của mô hình tổ chức kinh tế xã hội bản mường còn gần như nguyên dạng cho đến ngày 7.5.1954.(). Hai là vùng văn hóa Thái Thanh – Nghệ với nét nổi bật, từ rất lâu đã chuyển nhập hệ thống tổ chức kinh tế xã hội chung của đất nước, cái bản - mường chỉ còn là vỏ ngôn ngữ nên thường hiểu theo nghĩa “quê hương, xứ sở”. () Ba là vùng văn hóa đệm 33 mang tính trung gian giữa hai vùng văn hóa 1 - 2 gồm một dải kéo từ Mường Tấc - Phù Yên qua Mường Sang - Mộc Châu, Mường Ký - Đà Bắc đến Mường Mùn - Mai Châu (Hòa Bình)” [139, 43-44]. 1.3.2. Về sự phân biệt các ngành Thái Người Thái ở Việt Nam là một cộng đồng tộc người với nhiều nhóm địa phương mà nguồn gốc cũng như thời điểm có mặt ở Việt Nam không hoàn toàn giống nhau. Về sự phân biệt các ngành Thái, hiện nay cũng tồn tại 2 nhóm quan điểm. Nhóm thứ nhất quan niệm, người Thái ở Tây Bắc Việt Nam gồm hai ngành Thái trắng và Thái đen với sự phân biệt rất rõ rệt về nhiều phương diện; còn người Thái ở miền Tây Thanh Nghệ do lịch sử di cư, tụ cư phức tạp nên sự phân chia này mờ nhạt hơn, thậm chí có những địa phương, văn hóa Thái đã trở thành hỗn dung. Nhóm quan điểm thứ hai về cơ bản giống nhóm quan điểm thứ nhất, chỉ khác là trong sự phân chia các ngành Thái còn khẳng định có thêm ngành Thái Đỏ sống ở miền núi tỉnh Thanh Hóa, vùng Mộc Châu (Sơn La) và một số địa phương của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. 1.3.2.1. Quan niệm Thái trắng – Thái đen Có một thực tế lý thú là người Thái ở Tây Bắc Việt Nam có sự phân biệt rất rõ hai ngành Thái trắng và Thái đen trong khi ý thức về 2 ngành Trắng, Đen khá mờ nhạt ở các vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... Trước đây khi nghiên cứu về tên gọi của các ngành Thái, Lê Sĩ Giáo từng tổng kết các quan điểm, trong đó khi nhắc đến quan điểm mà ông cho là của Nguyễn Đắc Dĩ trong công trình Đồng bào các sắc tộc thiểu số Việt Nam (nguồn gốc và phong tục) “gọi Thái trắng Thái đen là do mầu da của hai ngành này trắng đen khác nhau” [39,78]. Tuy vậy khi kiểm tra lại công trình của Nguyễn Đắc Dĩ, chúng tôi nhận thấy tác giả này không lý giải như vậy mà cho rằng người Thái gọi đúng phải là “người Thảy” và giải thích: “người Thảy chia làm 3 chi phái: Thảy Đăm hay Thái đen ở Mường La; Thảy Khao hay Thái trắng ở Mường Lai; Thảy Đeng hay Thái đỏ ở Hồi Xuân, Thanh Hóa. Sự phân chia căn cứ vào màu sắc, y phục của phụ nữ thường dùng” [23,109]. Như vậy sự phê phán dành cho Nguyễn Đắc Dĩ nếu có sẽ nằm trong sự phê phán với nhóm quan điểm thứ 2 34 cho rằng có sự phân biệt như vậy là do người Thái trắng thích mặc màu trắng, người Thái đen thích mặc màu đen. Điều này trên thực tế có vẻ gần gũi với cách ăn mặc của phụ nữ ở hai ngành. Mặc dầu vậy cũng có nơi người Thái trắng ăn vận đồ đen trong tang lễ hoặc khi thờ cúng tổ tiên [139,24]. Quan điểm thứ 3 cho rằng sự phân chia hai ngành Đen – Trắng được xác định trên cơ sở sự phân chia các khu vực địa lý tộc người. Theo Cầm Trọng, vùng cư trú của người Thái trước kia là địa của nhiều cư dân, trong đó có người Thái, Hà Nhì, La Hủ... Người Hà Nhì (thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến) giải thích sự phân chia thành các bên trắng, bên đen là gắn liền với sự phân chia của vùng địa lý tiếp giáp giữa hai cộng đồng tộc người. Họ gọi vùng đất của nhóm người khác tộc có số lượng cư dân lớn hơn, cụ thể là người Thái, người Hán là na già (bên trắng) còn đất Hà Nhì, La Hủ là bên đen. Lâu dần bên đất của người Hà Nhì, La Hủ có sự xáo trộn. Cư dân Thái cũng bắt đầu mở rộng địa bàn cư trú sang vùng này. Những người Thái trắng ở bên trắng lúc đầu chỉ gọi người Hà Nhì, La Hủ là bên đen, lâu dần cũng gọi luôn cả những người Thái cư trú bên đất ấy là bên đen. Cứ như thế, hai ngành Thái trắng, Thái đen được xác lập [136, 30- 40]. Chưa đồng tình với quan điểm của Cầm Trọng và đi sâu lý giải việc hình thành hai ngành Trắng – Đen theo cơ chế phân đôi bào tộc, Lê Sĩ Giáo sau khi phân tích cơ chế và chỉ ra dẫn chứng về việc phân thành các bào tộc được gọi bằng tên Đen – Trắng hoặc tên động vật ở nhiều nơi trên thế giới, cuối cùng đi đến khẳng định: “ việc thừa nhận có hai ngành Thái với điển hình ở địa bàn Tây Bắc cùng với truyền thuyết của người Thái trong khu vực coi vùng Mường Thanh (Điện Biên) là một trung tâm của người Thái cổ khiến chúng ta nghĩ rằng ở xứ sở này, từ xa xưa đã có mặt bộ lạc Thái mà sự phân chia thành hai nửa Trắng, Đen vốn là hai bào tộc cổ của nó. Và như vậy sự phân chia Thái trắng, Thái đen ở đây thuộc phạm trù xã hội, liên quan đến cơ chế của công xã thị tộc (). Về sau khi chế độ công xã thị tộc tan rã, các bộ lạc Thái bước vào xã hội có giai cấp thì tên gọi các bào tộc Trắng – Đen vẫn tiếp tục tồn tại trong ý thức, trong tiềm thức rồi vô thức của những thế hệ sau (). Xã hội càng phát triển, mối quan hệ xã hội càng phức tạp, tính chất nguyên thủy của các phạm trù Trắng 35 – Đen ngày càng trở nên khó khăn và bắt đầu xuất hiện các cách lý giải khác nhau về nó” [39,80] Cùng quan tâm đến việc lý giải này, Vi Văn An có phần đồng tình với quan điểm thứ 2 khi ông khẳng định “Thực ra cách lý giải, phân biệt Trắng – Đen theo trang phục phần nào có sức thuyết phục và được công nhận rộng rãi nhất bởi thực tế nữ Thái trắng mặc áo trắng, nữ Thái đen mặc áo đen, đội khăn đen. Nếu mở rộng ra, ta cũng thấy cách phân biệt này cũng giống cách phân biệt ngành theo trang phục phổ biến ở các tộc Mông, Dao, Lô Lô”[7,34] Khi thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi cho rằng hướng suy nghĩ về cơ chế phân đôi bào tộc mà Lê Sĩ Giáo đề xuất là một quan điểm khá thuyết phục. Bởi lẽ nếu theo quan niệm này, sự phân đôi bào tộc chính là cơ sở để hình thành nên các nhóm phân biệt, từ đó dẫn đến sự khác biệt trong trang phục, địa bàn cư trú, các tập tục tang ma, hôn nhân 1.3.2.2.Quan niệm về Thái đỏ Có một thực tế là khi nghiên cứu về người Thái, nhiều học giả trong nước và quốc tế vẫn chưa thống nhất được quan điểm về việc có tồn tại hay không một ngành Thái mang tên Thái đỏ (Tay Đeng). Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng có một ngành Thái mang tên Thái đỏ (the red Tai - Tày Đeng - với hàm nghĩa tương đương với các thuật ngữ chỉ các ngành Thái trắng, Thái đen). Những người Thái thuộc nhóm này cư trú ở Thanh Hóa, Mộc Châu (Sơn La) và tỉnh Hủa Phăn thuộc CHDCND Lào. William J. Gedney trong công trình Phác thảo so sánh về người Thái Trắng, Thái Đen và Thái Đỏ [162] cho rằng “Thái đỏ được thể hiện trên các bản đồ ngôn ngữ của Đông Nam Á và được nhắc tới ở nhiều nơi khác nhau ở Bắc Việt Nam” [162,32] . Trong một công trình khác [161], Suriya Ratanakul cho rằng “Bên cạnh Thái đen, các ngôn ngữ thuộc họ ngôn ngữ Tai ở Việt Nam bao gồm Thái trắng, Thái đỏ, Thổ, Nùng và Giáy hay Nhắng. Những người nói những ngôn ngữ này ban đầu cư trú ở các thung lũng miền núi phía Bắc Việt Nam () Nơi cư trú chính của người Thái đỏ là ở huyện Mộc Châu (một địa phương thuộc Sơn La), ở một số huyện thuộc tỉnh Hoà Bình và ở vùng cao của tỉnh Thanh Hoá” [161, 200]. Với các nghiên cứu trong nước, năm 36 1964 Mạc Đường trong cuốn Các dân tộc miền núi ở Bắc Trung Bộ [32] có nhắc đến tên gọi Tay Đeng “để chỉ các nhóm Thái cư trú tại các huyện miền núi hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An” [32, 98]. Năm 1968, trong công trình Sơ lược giới thiệu về các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Đặng Nghiêm Vạn viết “ngành Thái ở Mộc Châu từ Lào sang Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIV. Và, rõ ràng họ Xa là tổ tiên của dòng họ quý tộc ngành Thái đỏ Mộc Châu, Việt Nam hiện nay” [145,154]. Chính quan điểm này của Đặng Nghiêm Vạn đã trở thành một trong những căn cứ quan trọng để nhiều học giả trong đó có Suriya Ratanakul dùng làm căn cứ để khẳng định có sự tồn tại của một ngành Thái mang tên Thái đỏ ở Mộc Châu (Sơn La). Như đã dẫn trên đây, năm 1972, trong công trình Các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam (nguồn gốc và phong tục), Nguyễn Đắc Dĩ cũng nhắc đến người Thái đỏ cư trú ở Hồi Xuân, Thanh Hóa [23, 109]. Năm 1998, tác giả Đào Văn Tiến có bài viết Thay Đeng ở Lào vào mối quan hệ văn hóa, lịch sử với người Thái ở Việt Nam in trong sách Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam. Theo đó, tác giả khẳng định tên gọi Tày Đèng là cơ sở để chứng minh họ là người Thái đỏ, một ngành tương đương với Thái trắng và Thái đen dựa trên 3 căn cứ: 1. Tày Đeng là người Mường Đeng; 2. Tày Đeng là tên gọi theo tên của sông Hồng (Nặm Đeng), vì theo nguồn gốc lịch sử, tổ tiên của người Tày Đeng ở Lào vốn ở Tây Nam Trung Quốc di cư vào Việt Nam theo sông Hồng, sau đó chuyển cư xuống Thanh Hóa, cuối cùng dừng lại ở Lào; 3. Gọi là Tày Đeng vì họ có tục lệ khi bố mẹ qua đời thì con dâu và con gái phải mặc áo đỏ túc trực bên linh cữu người quá cố [140, 353- 354); Có thể thấy trong những nghiên cứu thuộc nhóm quan điểm trên đây, có tác giả chỉ khẳng định sự tồn tại của ngành Thái đỏ mà không có lý giải, cũng có quan điểm tiến tới lý giải nguồn gốc, ý nghĩa của tộc danh. Bên cạnh quan điểm nêu trên có một nhóm các học giả khác lại cho rằng không có sự tồn tại của một ngành Thái mang tên Thái đỏ (Tày Đeng) trong nghĩa tương đương với hai ngành Thái đen và Thái trắng. Nghiên cứu đầu tiên lý giải về tên gọi này phải kể đến công trình của R. Robert, Notes sur les Tay Deng de Lang Chanh, Thanh-hoa, Annam [113], Theo tác giả “Nói một cách chính xác 37 thì người Tày Đeng là cư dân ở Mường Đeng () Nếu như người ta hỏi người bản xứ thuộc nhóm đó rằng họ có phải là người Tày Đeng không thì họ thường trả lời là không phải mà họ sẽ xác định rằng họ là Tày Khào (người ở Mường Khào) hay Tày Mót (người ở Mường Mót)” [113,10]. Sau lý giải của R. Robert, mãi đến năm 1992, trong bài viết Từ những tên gọi của từng dân tộc trong cộng đồng ngôn ngữ Tày, Thái ta có thể nghiên cứu gì về nguồn gốc của họ [138], Cầm Trọng mới lại đưa ra lý giải “ở miền Tây Thanh Hóa, có người Tày Đeng tức người Thái ở Mường Đeng (nay mường không còn nữa). Nghĩa của “đèng” là “đỏ”, bởi thế đã từ lâu chúng ta nhầm và gọi là Thái Đỏ như thể gọi Thái Trắng, Thái Đen” [138,17]. Tiếp theo nghiên cứu của Cầm Trọng, năm 1997 tại Hội nghị quốc tế Thái học lần thứ 7, Amsterdam, Hà Lan, tháng 7/1999, Vi Văn An có bài viết Some thoughts about the name “Red Thai” in Vietnam, công trình này sau đó được đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á với nhan đề Về tên gọi Thái Đỏ ở Việt Nam [6]. Trong nghiên cứu này, Vi Văn An dựa trên việc so sánh, phân tích dẫn liệu về trang phục, ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa của nhóm người Thái vẫn được gọi là Tày Đeng để nêu quan điểm “Tày Đeng là tên gọi theo địa danh của một bộ phận người Thái cư trú ở Mường Đeng thuộc châu Lang Chánh tỉnh Thanh Hóa. Họ là một nhóm địa phương chứ không phải là một ngành riêng biệt” [6,94]. Năm 2007, tác giả Phan Lương Hùng trong bài viết Thanh điệu tiếng Thái Vạn Mai nhìn từ góc độ đồng đại và lịch đại [66] sử dụng các phương pháp phân tích ngôn ngữ hiện đại để nghiên cứu tiếng Thái ở khu vực Vạn Mai (Mai Châu, Hòa Bình) để đi đến một số kết luận trong đó: “1. Hệ thống thanh điệu tiếng Thái Vạn Mai khá đơn giản với 5 thanh điệu chia làm hai âm vực. Hệ thống này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm thanh điệu của vùng phương ngữ Thái thứ 4 (bao gồm Mộc Châu, Phù Yên, Mai Châu, Đà Bắc). 2. Quá trình biến đổi của hệ thống thanh điệu tiếng Thái Vạn Mai nằm trong xu thế chung của các ngôn ngữ Tai. Bên cạnh đó, sự gần gũi về quá trình biến đổi giữa tiếng Thái Vạn Mai (một phương ngữ của tiếng Tày Đeng) với tiếng Thái đen cộng với kết quả nghiên cứu của TS. Vi Văn An có thể đưa chúng ta đến một kết luận rằng Tày Đeng chỉ là một nhóm địa phương của ngành Thái đen” [66, 17]. Gần đây nhất, trong công trình Người Thái ở miền Tây Nghệ An, Vi Văn An một 38 lần nữa quay lại lý giải về tên gọi Tày Đeng với những bổ sung tư liệu về người Thái ở Mộc Châu và người Thái vùng Hủa Phăn (Lào) để thêm một lần nữa khẳng định quan điểm đã nêu trước kia. Trong quá trình điền dã trên hầu khắp các địa bàn có dân cư Thái sinh sống ở Mộc Châu (Sơn La), một trong những vấn đề mà chúng tôi hết sức chú trọng trong các cuộc phỏng vấn là người Thái Mộc Châu tự nhận mình thuộc ngành Thái nào. Câu trả lời mà chúng tôi thu thập được là, trừ một số bản như bản Co Phương 3, xã Chiềng Sơn, bản Dọi xã Tân Lập đồng bào nhận mình là người Thái đen do thực tế họ đều được di cư từ khu vực lòng hồ thủy điện Sơn La xuống, còn lại tất cả những người chúng tôi đã hỏi đều tự nhận mình là người Thái trắng. Có hai gia đình ở bản Chiềng Ve (xã Chiềng Ve, huyện Mộc Châu), thực tế là gia đình của hai anh em con chú con bác khi được hỏi về tên gọi Tày Đeng thì họ kể về những người họ hàng ở Thanh Hóa và nói đó mới là người Tày Đeng. Nhưng khi được hỏi bản thân mình thuộc nhóm nào, họ không ngần ngại nhận là Tay Khao (Thái trắng). Căn cứ trên tình hình tư liệu kết hợp với những phỏng vấn, khảo sát từ thực địa, chúng tôi đi đến đồng tình với nhóm tác giả quan niệm rằng Tày Đeng thực chất chỉ là một tên... mưa gió dữ dội. Trong mưa hai con rồng xanh- đỏ đánh nhau. Ngày thứ 7 rồng xanh yếu sức. dặn lấy nỏ bắn vào mắt rồng đỏ qoại rồi chết, rồng xanh thắng. Rồng xanh trả ơn bằng cách tạo ra ruộng rẫy và hình thành địa danh 9. Sự tích núi Phạ Phau Mường Thượng khô hạn, dân đói khổ Người đàn bà mới sinh phải bỏ con ở nhà đi kiếm cái ăn. Tìm khắp nơi không được cá ăn, bà đói khát lả đi. Khát quá bà uống sữa của chính mình Then trông thấy nổi giận cho thần lửa làm ra cháy Hình thành địa danh Phạ Phau (Trời Đốt) 10. Mường Ca Da Mường không có Tạo, phải dùng Có xác chết trôi dạt vào bãi giữa sông. Người đất sét bảo dân bản Khi dân bản đến nơi thì xác chết sống lại. Thấy mặt mũi khôi ngô dân tôn làm Tạo. Dân tôn làm Tạo 36 hình người đất sét làm Tạo phải chôn cất cẩn thận. Quạ vốn ăn cây thuốc trường sinh trên núi sà xuống mổ vào cái xác Đặt tên mường là Ca Da (quạ cứu) 11. Truyện Pú Quán Muôp Ông Pú Quan Muôp giỏi săn bắn Dùng tên độc bắn được cáo mèo (thịt nấu 9 ngày 9 đêm bằng củi 9 đồi mới chín) Co người mường Nước đến tìm, nói việc săn cáo là thử tài, nhờ ông giúp đánh kẻ thù Ông nhận lời giúp mường nước, lấy tên độc bắn vào mắt đối phương Việc kết thúc, ông được trả công bằng gà thần, tôm thần, hình thành nên nhiều địa danh Tạo Mường đối xửa với ông không tốt nên sau khi ông chết đi mó nước bị bịt, Mường thành hoang hóa 12. Nóong Bua Nàng Bua xinh đẹp ở mường Chăm Pa yêu chàng Rắn Chàng Rắn đến cầu hôn Cha mẹ nàng Bua ra điều kiện thử thách. Chàng ra sức hoàn thành Chàng lại đến cầu hôn nhưng cha mẹ nàng bội ước. Chàng hẹn nàng Bua đi trốn Dân bản đào đất đuổi theo chắn được đuôi khiến chàng rắn chết, nàng Bua cũng chết theo Trời thương khóc, nước 37 dưới mường Nước đọng thành ao chỗ hai người chết. Xác hai người hóa thành hai bông sen- gọi là Nóong Bua (Ao sen) 13. Hòn đá voi Vùng nọ có mỏ vàng của thần núi. Tin lan xuống miền xuôi khiến thần biển thèm khát Thần biển dẫn quân lên đánh chiếm Thần núi cùng dân bản dàn trận. Dùng rất nhiều voi để tham chiến. Quân của thần biển thua to theo sông Lam chạy ra biển. Những nơi giao chiến hình thành địa danh. Voi được thần núi thưởng nhiều vàng bạc nên từ đó có ngà 14. Sự tích hồ Moong Có con nai trắng lạc đến Gia Hội Dân bản đuổi bắt làm thịt, chia cho mỗi nhà một phần. Hai bà cháu ăn xin đi vắng chưa kịp ăn Mường nước cử người đi tìm, gặp hai bà cháu ăn mày, hỏi ra chuyện, dặn hai bà cháu Đêm ấy mưa to gió lớn, cả bản sụt xuống, chỉ còn trơ lại ngôi nhà của bà cháu người ăn xin 38 nếu đêm gặp chuyện thì ở yên trong nhà, không được chạy theo dân bản Nơi sụt xuống thành hồ Moong (moong là nai) 15. Truyện Khủn Tinh Khủn Tưởng giỏi giang quyết định lấy nàng Ẹt Khay (con gái thần rồng) sinh ra Khủn Tinh rồi chia tay vì nàng phải về mường nước Mẹ Khủn Tưởng xui con trai vứt Khủn Tinh vào rừng, Khủn Tưởng nghe lời. 5 năm sau nghe theo lời chim mách, Khủn Tưởng cho người vào rừng đón con về, chàng khôn lớn và xuống mường Nước gặp mẹ Khủn Tinh quay trở về xây dựng bản mường (hình thành nhiều địa danh) và lấy 2 người vợ, sau đó lấy vượn Nang Ni, sinh ra Tạo Nguông. Hai người vợ cả ghen ghét tìm cách hãm hại khiến nàng phải chạy lên rừng mãi mãi không quay trở lại Khủn Tinh đau khổ từ bỏ cuốc sống trần gian, về mường Nước với mẹ. Taọ Nguông chết biến thành ngọn núi đá tên là Pha Nguông 16. Bụi nứa mọc ngược Cô gái Mường Cuồng Tạo Ngược đem lòng yêu nàng cũng tìm Họ chạy đến đâu đất lún đến đó Cô gái bị Tạo Ngược bắt đi. Chàng trai đau 39 xinh đẹp sắp kết duyên với tọ mường bên đến. Đôi trai gái biết chuyện không lành đem nhau đi trốn. Chàng trai cõng cô gái mà chạy (hình thành địa danh Na Pề - Ruộng Cõng) khổ khóc than, nước mắt khiến những ống nứa dùng làm khèn bè cũng nảy mầm 17. Sự tích mỏ tôm Đồng Cạn Người đàn ông biết cúng ma Có người mường Nước đến cầu xin giúp đỡ, ông nhận lời. Xuống mường nước, thấy con thuồng luồng mắc lưới Ông giả cách cúng ma, cắt lưới cứu rồng Rồng ngỏ ý trả ơn, ông chỉ xin hai con tôm về nuôi. Sau hai con tôm ấy sinh ra cả mỏ Tôm, đời đời không cạn. Vì thế có địa danh mỏ tôm Đồng Cạn 18. Tạo Mường Phe và bản Na Tòong Nàng Tòong xinh đẹp ở Mường Pe yêu tạo Ngược Tạo Ngược mường Hy biết được nổi lòng tham muốn cướp nàng Tòong Tạo Mường Phe nhờ Nai Phan giúp. Khi tạp Mường Hy đến đánh, Nai Phan bắn tên độc vào quân của tạo Mường Hy để giúp tạo Mường Phe Tạp mường Phe chiến thắng nhờ sự giúp đỡ của Nai Phan và cưới được nàng Tòong Để trả ơn, tạo Mường Phe 40 làm ra con mương Văng Tòong đem nước về cho bản. Cũng hình thành tên bản Văng Tòong 19. Na Ngoi Có hai cha con sống bằng nghề đánh cá Một hôm hai người đi đánh cá, con bị mất tích Người cha đi theo lối hang nước gần bản để tìm con và phát hiện ra một mường khác, thấy con trai đang bị trói ở đó Ông tìm cách cứu được con về nhưng lên đến mặt đất phát hiện khói bay ra từ lòng hang liền gọi dân bản đến dội nước vào trong dập đám cháy Đêm ấy có người hiện lên trong mộng cảm tạ ông đã không thù chuyện bắt người con mà còn giúp chữa cháy nên tặng món quà là con ba ba lớn Hình thành tên Na Ngoi (ruộng ba aba) 20. Sự tích mỏ tôm Mường lằm Nàng rồng ở Văng Chộng Cùa hóa thành người lấy chồng Nàng ở bên sông xin thuyền bè qua lại cho về Văng Chộng Cùa nhưng không ai đồng ý Sau cùng có hai cha con cho Nàng đến vực nước thì chia tay và hẹn ngày họ quay lại để trả ơn Món quà nàng tặng đem về đến Mường Lằm mở ra thì toàn là tôm giống, từ đó có mỏ tôm và địa danh Mỏ tôm Mường lằm 41 trên Bỏ cùng. Sau một thời gian phải quay về vực nước nàng ngồi nhờ thuyền của mình. 21. Sự tích Pu Phí Dưới vực Văng tán có con rồng hay biến thành cô gái vào bản mượn guồng tơ, đến nhà nào nhà đó ốm đau mất mát Có chàng trai đi tắm bị rồng bắt Người cha lặn xuống tìm thấy một cái hang, có nhà cửa ruộng vườn và đứa con bị trói Ông cởi trói giải thoát cho con . Ra khỏi hang ông đốt nhà cửa rồi theo đường cũ ngoi lên. Nhìn lại thấy khỏi bay lên nghi ngút thoát lên đỉnh núi Từ đó cứ tháng 3 là cây cỏ chết khô, đất đai không trồng trọt được, núi đó gọi là Pu Phí 22. Sự tích Hỏm Bua An Nha đất Xiềng Rồng đem lòng thương yêu cô chị nhưng An An Nha làm lễ to cúng Then. Then cho sát đánh làm hòn đá nổ tung, các 42 Men có hai con gái xinh đẹp Nha không gả. Một hôm cô đi gội đầu bị rồng bắt chết An Nha cho người đi mò xác nhưng không được vì bị tảng đá to chặn lên cô gái nổi lên. Ngọn đồi chôn nàng thành địa danh, người dân cũng xây đền thờ, thành địa danh 23. Pù mẹ Mến Năm mất mùa đối kém, hai mẹ con lên núi đào củ mài Họ đào củ mài lạ, mỗi lần thuổng chạm vào củ thì những nhà dưới núi nghe tiếng kêu đau Mọi người nghe tin đào được củ mài to đến xin về ăn, chỉ những nhà nghe kêu đau không ăn Mấy ngày sau cả bản mắc bệnh dịch mà chết, chỉ trừ những nhà không ăn củ mài lạ Hình thành địa danh 24. Sự tích Noong Nàng Tạo mường có con gái đẹp, nàng đã có người yêu Chàng rồng xin cưới, hứa sẽ đào mương phai cho dân bản nhưng nàng không đồng ý Dân bản ưng lòng gả nàng cho rồng Nàng và người yêu lên ngựa chạy trốn Rồng đuổi theo làm sụt đất khiến nàng và người yêu đều thụt xuống. Nơi ấy thành cái ao gọi là Noong Nàng 25. Rồng Hai vợ Người vợ nhặt Ông bảo Về đến nhà thì 43 Con chồng luống tuổi không có con. được quả trứng bên suối, về nhà nở ra rồng con Người chồng mấy lần định giết rồng con đều thấy trời đất chuyển vần đâm sợ hãi rồng con đi tìm nước về cho bản mường. Rồng con đi, tìm được nguồn nước liền dũi đất đào mương dẫn về bản. Dọc đường về, hành động của rồng dẫn đến hình thành nhiều địa danh cha đã vừa qua đời, lại tiếp tục chăm sóc mẹ cho đến khi mẹ cũng qua đời 26. Đồng ruộng Ca Nhăn Ông Ta Tun sống ở bản Ca Nhăn (khi đó chưa có tên). Khúc sông trước bản có hai con rồng Một hôm trong mơ có thần áo đỏ đến nhờ giúp đỡ, bảo Ta Tun làm sẵn tên độc Tỉnh dậy không thấy thần đâu nữa, mấy hôm sau lại có mưa gió, biết là rồng xanh và rồng đỏ lại đánh Ta Tun dùng tên độc bắn vào mắt rồng xanh giúp rồng đả dành chiến thắng Từ đó không còn cảnh mưa gió, rồng đỏ muốn trả ơn cho quân lính đến giúp làm ra đồng ruộng Hình thành địa danh 44 xanh- đỏ thường đánh nhau làm nước dâng, dân tình đói khổ nhau 27. Sự tích núi Bù Hôm Có con hổ thành tinh thường rình bắt người. Anh thợ săn nọ đi lên chòi canh trên núi kẻo thú phá rẫy, ở nhà vợ lại sắp sinh Đêm ấy hổ giả tiếng người gọi anh về bảo vợ đang chuyển dạ Anh nhìn xuống thấy 3 chấm xanh, trong lòng sinh nghi Đuống chòi thấy con hổ lớn đang rình sẵn, anh dúi bó đuốc vào mắt hổ Hổ bị thường vào mắt sợ quá chạy mất. Núi ấy cũng thành tên là Bù Hôm (Lừa dối) 28. Sự tích cầu Ta Hai anh em mồ Hai anh em bàn nhau rồi quyết Hai anh em mời họ ăn Hai người dưới sông hiện 45 Moong côi giỏi cung nỏ lại thông minh. Một hôm quyết định đi tìm nơi ở mới, đến chiếc cầu bắc qua sông Nặm Hạt thấy mọi người phải cống nạp một phần tất ả mọi thứ kiếm được. định giúp dân bản Họ dặn dân bản chuẩn bị cơm nắm, ớt bột và đá mài. Ngày hôm sau khi có 2 người dưới sông lên hỏi han, hai anh em dở cơm nắm ra ăn cơm rồi lừa cho ăn ớt bột để nhìn răng, mới biết đó là rồng. Khi được hỏi dao của họ chém gì thì đứt, hai anh bảo chém gì cũng đứt, chỉ chém cây chuối không đứt nguyên hình là hai con rồng, đánh nhau rất lâu, hai con rồng yếu thế liền biến thành hai cây chuối liền bị hai anh em chém đứt Hình thành thành địa danh 29. Sự tích Pom Pể Tạo Cáy Tạo quyết định tổ chức thi tài Cô ái ngầm giúp người Cuối cùng chỉ có chàng trai 46 nàng Chôk có con gái xinh đẹp muốn gả cho một trong hai chàng Tạo nhà giàu trong khi nàng đã yêu trai bản để chọn rể Ngày thi,yêu cầu mỗi người lựa chọn một việc, chàng trai phải cõng nàng lên đỉnh núi cao vì việc này khó nhất không ai nhận yêu thấm nước ướt đẫm tóc để đi đường chàng có thể uống bản với sự giúp đỡ của người yêu dành chiến thắng và lấy nàng làm vợ Hình thành địa danh Pom Pể Nàng (Núi cõng nàng) 30. Tạo Xãng Người đàn bà không chồng uống nước ở dấu chân voi sinh ra Tạo Xãng. Lớn lên giỏi giang, Đến bản nọ thấy bản làng bọn quỷ giết phá tan hoang. Chàng nghe tiếng khóc vọng ra từ chiếc trống liền hạ trống xuống cứu người con gái xinh đẹp bên trong Cô gái kể chuyện dân Chàng đánh trống khua chiêng gọi thuồng luồng mò đến Khi thuồng luồng đến, chàng dùng gậy thần đánh chết rồi cưới cô gái xinh đẹp chính là con Chảu mường. Chàng cũng được làm chảu bản, đặt tên nhiều bản mới Bị Quỷ Then giết hại những 47 sau khi mẹ chết thì tìm thầy học đạo đổi tên là Xin Xây, được cho gậy thần, kết bạn với nhiều chàng trai tài giỏi mường bj quỷ thuồng luồng ăn thịt, chỉ cho chàng những đống xương cốt, chàng liền dùng gậy thần chỉ vào giúp người chết sông lại lại được hai người 2 bạn cứu, cuối cùng sống hạnh phúc 31. Chàng Núi nàng Én Chàng Núi nàng Én yêu nhau thắm thiết nhưng bị thần núi ngăn cản Nàng Én bị thần núi bắt đi Chàng Én đi tìm Chàng vượt qua nhiều thử thách Cứu được nàng Én, lại còn được thêm cả 2 người vợ khác và sống hạnh phúc Khi chết, linh hồn họ bay lên trời từ con thác, người dân gọi là thác Lồ Lò 32. Sự tích Cô gái Con trai Tạo Cô gái tìm Khi về già, 48 đàn cá và con gọng vó ở suối Tung xinh đẹp yêu chàng đánh cá không chiếm được nàng cho người rình đánh chết chàng trai rồi ném xác xuống suối Xác chàng trai trôi đi nhưng ba ngày sau trở về nổi lên nơi hai người thường tình tự mà không thối rữa thấy xác người yêu nhưng không chôn mà mong có phép màu cho chàng sống lại. Hằng ngày khóc, nước mắt rơi xuống suối thành cá nàng nhảy xuống suối chết, thân thể chàng mới tan rữa chỉ còn bộ xướng và biến thành con gọng vó Suối có tên là suối Tung (tung- độc ác- ám chỉ việc làm ác độc của con trai Tạo) 33. Sự tích Nặm Xia Đối trai gái yêu nhau tha thiết Chúa đất ngắn trở, bắt nàng về làm người hầu, đuổi chàng trai đi nơi khác. Dân bản giúp họ chạy trốn Chạy hết rừng sâu núi thẳm vẫn bị truy đuổi Cùng quẫn họ nhảy xuống suối chết. Dòng suối sau có tên là nặm Xia (xia là nước mắt) 34. Sự tích suối Bu Nghe nói con gái Tạo Mường Lò xinh đẹp, đi đâu cũng Ngày cưới nàng vẫn che mặt. Đên tân hôn chú rể mới biết nàng chột mắt Tạo mường Mảnh cho rằng bị lừa đòi lại sính lễ Tạo Mường Lò cắt phần đất phía núi có chiếc trước bản để đền bù Hang ấy có tên hang Bu, con suối dưới núi 49 dùng khăn che mặt, tạo Mường Bảnh xin kết thông gia cũng là suối Bu (bu là bù lại) 35. Pu Nang Kính Nàng xao con gái Tạo bản rất xinh đẹp thầm yêu chàng mồ côi. Trai bản trong bản ngoài cũng đều muốn được nàng làm vợ Tạo tổ chức thi tài, ai chiến thắng được làm chồng nàng Nhiều thử thách khó khăn được đặt ra, mỗi người chọn làm một việc, riêng việc cõng nàng xao lên vách núi dốc đứng là không ai chọn Chàng mồ côi chọn việc khó khăn nhất. Nàng xao ngầm giúp người yêu, dùng nước vo gạo thấm đẫm tóc để chàng vừa leo núi vừa uống, lại hát cho chàng nghe để quên mệt nhọc Hai người lên đến đỉnh nhưng những kẻ ghen ghét chạy lên hất cả hai người xuống vực sâu. Người dân thương xót nàng đặt tên núi ấy là Pu Nang Kính ( Núi Nàng Lăn) 36. Sự tích Chàng Một lần săn Đợi mãi Tủi phận nàng 50 Bó Hỏi Toi Tạo trẻ hát hay, sáo giỏi, thích uống rượu, yêu cô gái nhà nghèo được nai về mải uống rượu quên hẹn với người yêu Cô gái đã đi bắt ốc suối và chặt đít sẵn không thấy người yêu đến, cho là chàng say rượu thịt chê nàng nghèo đổ hết ốc xuống suối và bỏ đi không về bản nữa Từ đó suối toàn 1 loại ốc như bị chặt đít và cũng có tên là Bó Hỏi Toi 37. Sự tích Pu Hạng Meo Có con thác dữ gần bản Thái, theo lệ những kẻ phạm lệ Mường sẽ bị đẩy xuống thác Có đôi trai gái con nhà Tạo đã có vợ có chồng vẫn phải lòng nhau phải chịu phạt Dân bản bắt được đem hai người đẩy xuống thác Hai người bị đẩy xuống nhưng không chết mà rơi xuống cái hang ở giữa thác Hang ấy sau có tên là Xuốm Tạo, Xuốm nang, trong hang có hai buồng, trên vách có hình tính tẩu, xa quay... 38. Sự tích Pha Vọng Người thợ săn có con gái đẹp Chúa đất muốn cướp nàng làm vợ,ông không đồng ý, hắn nghĩ mưu vu cho người thợ săn vi phạm lệ mường và báo Người thợ săn đem con đi trốn, bị quân lính đuổi theo Ông tết võng bằng vỏ cây treo trên vách núi cheo leo cho con nằm trốn trên đó Thành tên vách núi là Pha 51 quan Quan nghe lời đến ép người thợ săn phải nộp mạng hoặc nộp con gái Vọng (vọng là cái võng) 39. Sự tích đất Chăm Pa Hai anh em con nhà Tạo sớm mồ côi sống với nhau, người anh lớn lên làm Tạo mường, lấy vợ rồi đâm ghét bỏ em Một hôm rủ em đi đánh cá, tìm cách giết em Người chị dâu biết trước đã dặn em mang sẵn dao Em mặc phải lưới chài, tự cắt lưới trốn đi mường khác, dựng mường riêng (Địa danh được hình thành) Nhiều năm sau quay về tìm anh, anh vẫn đề phòng. Em liền nhường cả mường mới cho anh rồi đi sang mường Lào gây dựng cuộc sống 40. Sự tích động Nang Man Tạo mường có con gái đẹp muốn gả con gái cho Tạo bản Cô trót mang thai Người cha tức giận tra hỏi. Biết nàng có con với chàng trai nghèo lão đem nàng nhốt Nàng sinh con trong hang núi. Chàng trai ngày ngày đem cơm nuôi nàng Nàng sinh Pò Phạ thương tình cho người xuống mở mang hang đá cho lộng lẫy, chẳng ngờ đá lăn mạnh làm nàng tỉnh giấc 52 bên nhưng nàng không đồng ý vì đã yêu chàng trai nghèo trong bản vào hang núi. con khỏe mạnh. hóa đá Động có tên động Nang Man (nang man là người đàn bà chửa hoang) 41. Bản Ná Ca Hai anh em tính tình trái ngược, người anh keo hiệt, người em hào phóng Đến ngày cấy lúa, hai anh em cùng đi mượn người. Người anh hứa sẽ mổ bò mời ăn, người em khiêm tốn nói chỉ rang vừng mời Thực tế người anh chỉ rang vừng, người em lại mổ bò Người đến giúp thất vọng về người anh nên chỉ cấy nông. Người đến giúp người em chỉ có ít bạn bè thân nên thịt bò ra thừa nhiều. Em buồn băm thịt bò cài vào bó mạ vứt ra ruộng Quạ ngửi thấy mùi thịt tươi sà Năm đó em được mùa to, người anh được chẳng đáng bao nhiêu Ruộng của người em sau có tên Ná Ca (ruộng Quạ). Bản cũng đổi thành bản Ná Ca 53 xuống mổ ấn sâu cây lúa xuống bùn. 42. Sự tích Cồn Tắc Phột Chàng trai có tài nhổ mạ muốn lấy cô gái có tài cấy lúa. Cô gái không đồng ý Hai người thi tài. Nếu cô gái thua phải lấy chàng trai Ban đầu chàng trai nhổ không kịp cho cô gái cấy, sau được con chim mách nước chàng nhổ mạ sắp ngược đầu đuôi Cô gái bị làm khó không cấy được nên đành thua cuộc bỏ chạy. Chàng trai đuổi theo, cô gái vấp ngã biến thành tảng đá. Người đời sau thương xót đi qua thường bẻ cành đặt lên phiến đá,đặt tên phiến đá là CỒn tắc Phột (hòn bẻ cành) 43. Sự tích hòn đá thề Đôi trai gái yêu nhau thắm thiết Con trai cai bản muốn lấy cô gái, dọa nếu cô không đồng ý hắn sẽ đuổi cả nhà cô ra khỏi bản Cô gái không nỡ làm khổ cha mẹ nên nhận lời Đêm trước ngày cưới, cô gái hẹn người yêu ra chỗ hẹn cũ nơi tảng đá bên suối. Hai người khóc than rồi đập đầu vào đá mà chết Sáng ra dân bản mới biết chuyện, họ chôn hai người bên tảng đá Hình thành địa danh 44. Đồi Pơm Mồng Ông Xổng Xăng Một hôm đi chơi xa gặp hai người con gái Một lần ông quay trở về thăm mường Người vợ nhớ thương ra ngọn đồi đâu bản 54 Nha đã có vợ con, gia đình mường khác, đem lòng say mê và sống với họ bản rồi lại đi ngóng cho đến chết. Ngọn đồi thành tên Pơm Mồng (Đồi Ngóng) 45. Sự tích pu Tạt,Pu Mẻ Mến và suối Nặm Ngân Chàng Khạ nghèo đi cuông Yêu nàng ỏn con Tạo. Nàng Ỏn cũng yêu chàng tha thiết. Tạo biết được ra thử thách bắt chàng thực hiện nếu muốn lấy con gái Chàng ra sức nhưng bất thành, chết trong núi. Nàng đi tìm cũng chết theo, xác hai người biến thành các địa danh. 46. Sự tích hòn Mung Tự Chàng rồng và cô gái bả Cơ lếch yêu nhau thắm thiết Dù khác loài và không được phép họ vẫn lấy nhau Chàng rồng bị vau cha nơi mường nước bắt về trị tội Cô gái và con hóa thành tảng đá tên là Mung Tự (Ngóng chồng) 47. Bản Kăm Bà góa nghèo sống với đứa con nhỏ Có người ăn mày rách rưới nghèo khổ đến xin ngủ nhờ Hai mẹ con nhường giường cho người đó, nhường cả cơm nguội cho ăn Sáng ra tỉnh dậy người đó đã đi để lại nhiều vàng, bản đổi tên thành bản Kăm (bản vàng) 55 PHỤ LỤC 7 ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC ĐỊNH DANH TRONG TRUYỆN KỂ STT Đối tượng được định danh Nghĩa trong tiếng Việt Số lần xuất hiện ST T Đối tượng được định danh Nghĩa trong tiếng Việt Số lần xuất hiện 1. Bản Bản 36 1. Nặm bó Mó nước 5 2. Bó Mó mó nước 5 2. Nậm Nước/dòng suối 1 3. Cảnh Ghềnh 1 3. Nghe Thác 1 4. Chiềng Chiềng 2 4. Nhàn Ghềnh 2 5. Chom Đỉnh, chóp 1 5. Noong Ao 14 6. Còn/Cồn Hòn 3 6. Păng Vực sâu 1 7. Đống Rừng 1 7. Pha/phá Vách núi 3 8. Hát Thác 6 8. Phai Phai 1 9. Hin Đá/đá cuội 1 9. Phiêng/Piêng Khoảng đất rất rộng 3 10. Haừ Thửa ruộng 1 10. Pom Đồi 9 11. Hòn Hòn 4 11. Pu/Pú Núi 26 12. Hoong Rãnh 2 12. Pung/Púng Khoảng rừng rú nơi trâu bò, hươu nai trú ngụ 1 56 13. Huổi Suối 8 13. Rú Rú 1 14. Kẹm Đèo 2 14. Ta/tạ Bến nước 8 15. Kéo Eo (eo núi) 1 15. Tèn Miếng đất cao và bằng 2 16. Khe Khe 2 16. Thẳm/Thẩm Hang 11 17. Mỏ Mỏ 2 17. Tông Cánh đồng 1 18. Mường Mường 18 18. Túng Vựa 3 19. Nà Ruộng 13 19. Văng Vực 1 20. Nả táng Cửa sổ 1 20. Xuốm Buồng 4 57 PHỤ LỤC 8. Ghi âm lời kể của cụ Hoàng Chương (81 tuổi) kể Sự tích Bản Nà Ngà SỰ TÍCH BẢN NÀ NGÀ Khi người Thái mới đến Mộc Châu, người Xá còn đông lắm. Bản Nà Ngà bây giờ hồi đấy là một bản của người Xá. Xung quanh bản trồng tre gai (tre nà ngà) dày kín, khi người Thái đến, người Xá đóng cổng bản lại, dùng tên nỏ bắn từ trong ra, người Thái không làm sao chiếm được bản. Cuối cùng người Thái nghĩ ra một cách, họ đem bịt bạc vào đầu các mũi tên rồi bắn vào hàng rào tre quanh bản. Dân Xá sống bên trong thấy tên mắc lại ở bờ rào toàn là bạc liền chặt hết tre gai đi để nhặt. Vậy là chỉ ít ngày sau, người Thái đã chiếm được cả bản và đuổi hết người Xá đi. Tên Nà Ngà cũng được người Thái dùng làm tên bản từ ngày đó. Và cho đến nay, ở bản này vẫn còn rất nhiều gia đình trồng tre nà ngà làm bờ rào bao quanh nhà mình. (Tư liệu điền dã ngày 25/9/2009, theo lời kể của cụ Hoàng Chương, tiểu khu 3 thị trấn Mộc Châu, Sơn La) 58 PHỤ LỤC 9 Ghi âm lời kể của cụ Hà Văn Tiến, bản An xã Xuân Nha huyện Mộc Châu, Sơn La- nay là huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La SỰ TÍCH BẢN TÀ Ngày xưa vùng bản Tà bây giờ còn hoang vu lắm. Xung quanh chỉ toàn núi đá và lau sậy bao quanh một vũng nước lớn, chưa có nhiều người ở. Có một người đàn ông sống một mình trong căn nhà sàn nhỏ, hàng ngày ông sống bằng nghề săn bắn và bắt cá ở vũng nước trước nhà. Đặc biệt ông có tài bắn nỏ, cây nỏ của ông đã giương lên thì không có con thú nào chạy thoát. Đêm nọ ông mơ thấy một con rồng màu xanh tự xưng là rồng sông Mã hiện lên nói với ông rằng: « mấy hôm tới sẽ có một trận mưa kéo bài bảy ngày bảy đêm, mưa to gió lớn, sấm sét rung chuyển đất trời, vũng nước trước nhà ông sẽ dâng lên rất cao. Nhưng ông đừng sợ, mấy ngày đó là mấy ngày tôi đánh nhau với con rồng sông Đà. Ông hãy chuẩn bị đầy đủ lương thực ăn trong bảy ngày rồi ngồi xem chúng tôi đánh nhau. Nếu thấy tôi sắp thua, xin ông hãy lấy cây nỏ bắn vào mắt con con rồng đỏ để giúp tôi, tôi sẽ trả ơn. » Sáng hôm sau người đàn ông tỉnh dậy, nửa tin nửa ngờ nhưng vẫn đi tìm lương thực đủ ăn trong 7 ngày. Quả nhiên mấy hôm sau trời đổ mưa dữ dội, sấm chớp liên hồi, trong mưa ông nhìn thấy hai con rồng quần nhau dữ dội. Con rồng màu xanh là rồng sông Mã ông đã gặp trong mơ, con còn lại mình đỏ như màu đất, ông đoán là rồng sông Đà. Trận đánh diễn ra liên tục, đến chiều ngày thứ 7 xem chừng rồng xanh có vẻ xuống sức. Người đàn ông nhớ lời rồng dặn liền lấy nỏ, ngắm thật kỹ rồi bắn vào mắt con rồng đỏ. Bị trúng tên, con rồng đỏ quằn quại một hối rồi thua cuộc. Lúc sau mưa cũng tạnh. Kỳ lạ thay sáng hôm sau trở dậy, người đàn ông thấy trước mặt mình là những thửa ruộng vuông vắn được kè bằng đá trắng rất cẩn thận. Dưới chân núi còn có một mó nước. Cho đến tận ngày nay, dù mưa to đến đâu, nước ao hồ xung quanh đục thế nào thì mó nước này cũng vẫn trong vắt. Ít lâu sau, 59 dân ở khắp nơi kéo về đây dựng bản lập mường ngày một đông vui. Người ta tôn người đàn ông đã có công giúp rồng lên làm Tạo bản và đặt tên bản là Tá Ợn (tạ ơn) để ghi nhớ việc con rồng đã tạ ơn ông mà làm nên ruộng vườn cho bản. Ngày nay dấu tích của những thửa ruộng và mó nước nói trên vẫn còn nhưng nhân dân đã gọi tên bản chệch đi thành Bản Tà (thuộc xã Xuân Nha, huyện Vân Hồ, Sơn La). (Tư liệu điền dã ngày 26/9/2009, theo lời kể của cụ Hà Văn Tiến, bản An xã Xuân Nha huyện Mộc Châu, Sơn La- nay là huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La) 60 PHỤ LỤC 10 Ghi âm cụ Quàng Thị Xuổi (92 tuổi) kể Sự tích Mường Vạt SỰ TÍCH MƯỜNG VẠT Mường Vaṭ nằm giáp hai mường lớn là Mường Xang và Mường Muạ. Truyêṇ kể rằng xưa kia vùng này hoang vu lắm. Khi người Thái đến, đất mới có người Xá ở, ruôṇg nương chưa nhiều, đất cũng chưa có tên. Ở gần đó có môṭ cánh rừng rất râṃ rap̣, trong rừng có cái hang nhỏ, nước đùn từ dưới lòng đất lên lúc nào cũng trong văn vắt và rất nhiều cá. Ngày no,̣ có môṭ nàng người Xá rất xinh đep̣ môṭ bên đeo giỏ, môṭ bên đeo gươm vào rừng đào măng, bắt cá. Đến hang nước, nàng dừng laị ngồi trên bờ nhı̀n xuống đàn cá đang bơi lôị phı́a dưới, chẳng may mũi gươm choc̣ xuống đất như chiếc đòn bẩy hất nàng nga ̃nhào xuống nước. Nàng Xá chết đi, từ đó hang nước cũng trở nên rất linh thiêng, ai đến gần có thể bi ̣kéo xuống. Người Thái goị cả khu vưc̣ rừng rú râṃ rap̣ quanh hang đó là Đông Xung Xả. (Trong tiếng Thái, đông là khu rừng lớn, xung là cái hang nhỏ luôn có nước, Xả là cách phát âm của người Thái Yên châu goị tên người Xá, ám chı̉ cái chết đau thương của cô gái Xá ngày nào). Ngày nay, dân Mường Vaṭ vâñ coi troṇg sư ̣linh thiêng của rừng, không xâm phaṃ, không chăṭ phá và truyền tai nhau câu chuyêṇ về tấn bi kic̣h của những kẻ dám vi phaṃ sư ̣thiêng liêng đó . Người Thái đến đất này xây bản dưṇg mường, sống yên ấm. Hồi đó bản mường có môṭ cô gái vô cùng xinh đep̣ tên là nàng Lả. Nàng Lả là con gái nhà Taọ, mái tóc nàng dài như suối trải khắp chı́n núi mười mường và luôn thơm ngào ngaṭ nên đươc̣ goị là Phồm Hom (Tóc Thơm). Phồm Hom đep̣ đến mức trai bản ai cũng muốn đươc̣ nàng, không những thế cả trai Mường Trời là Tháo Khăm Đôi cũng muốn đươc̣. Tuy vâỵ, trái tim Phồm Hom chı̉ hướng về môṭ người, đó là môṭ chàng trai nghèo trong bản. Khăm Đôi không lấy đươc̣ Phồm Hom nên rất tức giâṇ nhờ Then giúp. Then liền tổ chức môṭ cuôc̣ thi giữa chàng trai nghèo với Tháo Khăm Đôi. Hai chàng se ̃phải thi đào ruôṇg, ai đào nhiều hơn se ̃đươc̣ Phồm Hom. Ruôṇg đào xong se ̃lấy sải tay để đo, 61 tiếng Thái goị là va, bởi thế những khu ruôṇg ấy ngày nay goị là Nà Va (Ruôṇg Sải Tay - nằm trong khu vưc̣ bản Nà Va xa ̃Viêng Lán huyêṇ Yên Châu). Kết thúc cuôc̣ thi, chàng trai nghèo lam lũ quen viêc̣ ruôṇg nương nên đa ̃dành chiến thắng. Tưởng se ̃có đươc̣ nàng Phồm Hom xinh đep̣, nào ngờ Khăm Đôi không chiụ, nhờ Then bắt Phồm Hom về trời. Bi ̣ bắt đi, Phồm Hom đau đớn dứt môṭ bên vaṭ áo ném xuống cho người yêu để làm tin, heṇ ngày trở laị, từ đó đất này có tên là Mường Vaṭ (trong tiếng Thái vaṭ là vaṭ áo). Con suối chảy qua mường cũng đươc̣ đăṭ tên là suối Vaṭ để ghi nhớ mối tı̀nh thủy chung của nàng Phồm Hom và chàng trai nghèo. (Theo lời kể của cu ̣Quàng Thi ̣Xuổi, 93 tuổi; Ông Vı̀ Văn Lày, 65 tuổi bản Nà Va xa ̃Viêng Lán huyêṇ Yên Châu, / Ngày 6.7.2015). 62 PHỤ LỤC ẢNH Tác giả luận án trong chuyến điền dã tại bản Tảu Pung xã Nà Nhạn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên tháng 11 năm 2010 63 Tác giả luận án tại bản Muống xã Tam Lư huyện Quan Sơn, Thanh Hóa tháng 6 năm 2014 Đường vào bản Nà Phí xã Quế Phong, Nghệ An, mùa mưa năm 2014 64 Tác giả luận án gặp gỡ cụ Hà Văn Tiến, bản Mường An xã Xuân Nha, Mộc Châu – Sơn La, tháng 5/ 2015 Tác giả luận án chụp ảnh với bác Lò Văn Cành, Văn Chấn, Yên Bái bên suối Nàng Han , tháng 10 năm 2015 65 Tác giả luận án chụp ảnh với cụ Quàng Thị Xuổi, yên Châu – Sơn La, người kể Sự tích Mường Vạt, tháng 9/ 2015 Tác giả luận án chụp ảnh vói bác Lường Đính, bản Chiềng Đi, Mộc Châu, Sơn La, người kể Sự tích Pu Nang Kính, tháng 6 năm 2016 66 Tác giả luận án chụp ảnh với bác Tòng Văn Nam và Tòng Văn Luyện, bản Bó Bun, Mộc Châu, Sơn La tháng 6 năm 2016 Tác giả luận án làm việc tại Con Cuông Nghệ An, tháng 5 năm 2017 67 Tác giả luận án trò chuyện với bà con bản Tà xã Xuân Nha, huyện Mộc Châu, Sơn La tháng 9 năm 2017 Tác giả luận án chụp ảnh với cụ Đinh Văn Hà, bản Tà, Xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu, tháng 9 năm 2017 68 Tác giả luận án chụp ảnh với cụ Hoàng Chương, bản Mường Sang, xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, Sơn La tháng 9 năm 2017 Tác giả luận án gặp cụ Lương Văn Ngài, xã Thanh Quân, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa, tháng 1 năm 2018. 69 Tác giả luận án chụp cùng cụ Lương Xuân Tích xã Thanh Quân, Như Xuân, Thanh Hóa, tháng 1 năm 2018 Tác giả luận án tại xã Mường Than, Than Uyên, Lai Châu, tháng 2 năm 2018 70 Tác giả luận án làm việc tại Mường Ca Da, Quan Hóa, Thanh Hóa tháng 12 năm 2018.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_truyen_ke_dia_danh_cua_nguoi_thai_o_viet_nam_duoi_go.pdf
  • pdfNguyễn Thị Mai Quyên - tóm tắt tiếng Việt.pdf
  • pdfNGuyễn Thị Mai Quyên, tóm tắt tiếng Anh.pdf
  • pdfQUYẾT ĐỊNH NGUYEN THI MAI QUYEN.pdf
  • pdfTHÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG ĐIỀU ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRONG LUẬN ÁN.pdf
Tài liệu liên quan