VI N H N L M
KHOA HỌC XÃ HỘI VI T NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH HỮU TUẤN
TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG ANH
ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI, 2020
VI N H N L M
KHOA HỌC XÃ HỘI VI T NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH HỮU TUẤN
TRẠNG NGỮ TRONG TIẾNG ANH
ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 9 22 20 24
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN VĂN HIỆP
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
318 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Luận án Trạng ngữ trong Tiếng Anh đối chiếu với Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
được công bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trịnh Hữu Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
THUYẾT CỦA LUẬN ÁN ............................................................................. 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 7
1.1.1. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh ............................ 7
1.1.2. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Việt.......................... 12
1.2. Cơ sở lí thuyết liên quan đến luận án ................................................... 16
1.2.1. Khái quát về trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt ................... 16
1.2.2. Khái quát về lí thuyết ba bình diện của câu .................................... 31
1.2.3. Khái quát về ngôn ngữ học so sánh đối chiếu (SSĐC) ................... 35
1.3. Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................... 38
Chƣơng 2: KẾT HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH ĐỐI CHIẾU
VỚI TIẾNG VIỆT ......................................................................................... 39
2.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 39
2.2. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Anh ........................................... 40
2.2.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh .................................................... 40
2.2.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Anh ........................................................ 42
2.2.3. Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ trong tiếng Anh ............................... 55
2.3. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Việt ........................................... 57
2.3.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Việt .................................................... 57
2.3.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Việt ........................................................ 62
2.3.3. Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ trong tiếng Việt ............................... 66
2.4. Đối chiếu đặc điểm kết học của trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ
tiếng Việt ........................................................................................................ 67
2.4.1. Những điểm giống nhau .................................................................. 67
2.4.2. Những điểm khác nhau ................................................................... 68
2.5. Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................... 69
Chƣơng 3: NGHĨA HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH ĐỐI
CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT .......................................................................... 71
3.1. Dẫn nhập ................................................................................................. 71
3.2. Nghĩa học của trạng ngữ trong tiếng Anh ........................................... 73
3.2.1. Trạng ngữ chỉ thời gian ................................................................... 73
3.2.2. Trạng ngữ chỉ địa điểm ................................................................... 78
3.2.3. Trạng ngữ chỉ cách thức .................................................................. 81
3.2.4. Trạng ngữ chỉ điều kiện .................................................................. 84
3.2.5. Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ ........................................................... 88
3.2.6.Trạng ngữ chỉ mục đích ................................................................... 91
3.2.7. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân ............................................................ 93
3.2.8.Trạng ngữ chỉ kết quả ...................................................................... 95
3.2.9. Trạng ngữ chỉ sự so sánh ................................................................ 97
3.2.10. Sự kết hợp các vai trạng ngữ trong câu tiếng Anh ..................... 100
3.3. Nghĩa học của trạng ngữ trong tiếng Việt ......................................... 102
3.3.1. Trạng ngữ chỉ thời gian ................................................................. 104
3.3.2. Trạng ngữ chỉ không gian ............................................................. 106
3.3.3. Trạng ngữ chỉ tình huống .............................................................. 108
3.3.4. Trạng ngữ chỉ cách thức, phương tiện .......................................... 109
3.3.5. Trạng ngữ chỉ nguyên nhân .......................................................... 110
3.3.6. Trạng ngữ chỉ mục đích ................................................................ 111
3.3.7. Trạng ngữ điều kiện ...................................................................... 111
3.3.8. Trạng ngữ nhượng bộ .................................................................... 112
3.3.9. Sự kết hợp các vai trạng ngữ trong câu tiếng Việt ....................... 112
3.4. Đối chiếu đặc điểm nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh và trạng
ngữ tiếng Việt ............................................................................................... 113
3.4.1. Những điểm giống nhau ................................................................ 113
3.4.2. Những điểm khác nhau ................................................................. 115
3.5. Tiểu kết chƣơng 3 ................................................................................. 115
Chƣơng 4: DỤNG HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH ĐỐI
CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT ........................................................................ 117
4.1. Dẫn nhập ............................................................................................... 117
4.2. Bình diện ngữ dụng của trạng ngữ tiếng Anh ................................... 117
4.2.1. Chức năng thông tin của trạng ngữ trong tiếng Anh .................... 117
4.2.2. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu ............................... 125
4.2.3. Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết và mạch lạc của văn
bản ........................................................................................................... 129
4.3. Bình diện ngữ dụng của trạng ngữ tiếng Việt ................................... 132
4.3.1. Chức năng thông tin của trạng ngữ ............................................... 132
4.3.2. Trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu ............................... 136
4.3.3.Vai trò của trạng ngữ đối với tính liên kết và mạch lạc của văn bản... 138
4.4. Đối chiếu ngữ dụng trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt .................... 142
4.5. Tiểu kết chƣơng 4 ................................................................................. 144
KẾT LUẬN .................................................................................................. 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 151
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phần câu là một phần quan trọng không thể thiếu trong miêu tả kết
học của ngôn ngữ. Trong nghiên cứu ngôn ngữ, việc xác định thành phần câu
và miêu tả thành phần câu là một nhiệm vụ quan trọng. Việc xác định và miêu
tả tốt thành phần câu sẽ góp phần quan trọng trong việc giao tiếp hiệu quả và
là điều kiện cần cho việc dạy học ngữ pháp, cho người bản ngữ và cho người
nước ngoài. Bởi vì, việc xác định đúng thành phần câu giúp người giao tiếp,
người học nắm được đặc điểm ngữ pháp của câu, qua đó biết cách sử dụng câu
đúng trong giao tiếp, để có được hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
Trong hệ thống thành phần câu, cùng với thành phần vị ngữ, chủ ngữ
(thường được xem là thuộc nòng cốt câu) thì thành phần trạng ngữ là thành
phần rất quan trọng, bởi thành phần này biểu thị rất nhiều thông tin làm nền
cho sự tình được nói đến trong câu. Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt, thành
phần trạng ngữ đóng vai trò lớn trong việc hiểu một câu/ một phát ngôn. Tuy
nhiên người Việt học tiếng Anh thường lúng túng khi sử dụng trạng ngữ tiếng
Anh vì trong tiếng Việt phạm trù này và biểu đạt tương đương đôi khi không
rõ nét. Thêm vào đó, việc khảo sát cách biểu đạt tương đương trong tiếng Việt
của trạng ngữ tiếng Anh cũng chưa được nghiên cứu thực sự thấu đáo. Có một
thực tế là khi nghiên cứu về thành phần câu, các thành phần chủ ngữ, vị
ngữ thường được quan tâm nhiều vì chúng đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong câu (nòng cốt). Trong khi đó, trạng ngữ tuy là thành phần cú pháp
thường xuyên xuất hiện trong câu nhưng do thường bị coi là thành phần phụ
hoặc thành phần thứ yếu của câu nên vẫn chưa thực sự có được nhiều sự quan
tâm của nhà nghiên cứu, bên cạnh những vấn đề đã được nghiên cứu vẫn còn
nhiều vấn đề gây tranh cãi.
2
Là một người làm việc với tiếng Anh, chúng tôi thấy những người học
tiếng Anh nói chung rất lúng túng về thành phần trạng ngữ. Họ thường mắc
những lỗi sai về cách sử dụng, đó là những lỗi sai về cấu tạo (nhận diện trạng
ngữ), về vị trí (đặt trạng ngữ không đúng chỗ), về chức năng (hiểu sai về sự
hành chức của trạng ngữ) Trong tiếng Việt, người sử dụng lại gặp khó khăn
trong việc phân biệt trạng ngữ với một số thành phần ngữ pháp khác.
Từ những lý do trên, chúng tôi thấy việc tìm hiểu, so sánh đối chiếu trạng
ngữ giữa hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt trên cả ba bình diện kết học,
nghĩa học, dụng học là cần thiết. Đó là lí do chúng tôi chọn Trạng ngữ trong
tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Đối tƣợng, phạm vi và tƣ liệu nghiên cứu của luận án
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là trạng ngữ trong tiếng Anh và
tiếng Việt.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận án chúng tôi tập trung nghiên cứu các trạng ngữ trong câu
tiếng Anh và tiếng Việt về mặt kết học, nghĩa học và dụng học.
Do nội hàm khái niệm trạng ngữ trong tiếng Anh có nhiều loại khác
nhau. Vì vậy, trong phạm vi luận án này, để tiện so sánh với trạng ngữ
trong tiếng Việt, chúng tôi chỉ bàn đến tiểu loại gia ngữ (adjuncts, bổ sung
thông tin về chu cảnh của sự tình biểu thị trong nòng cốt câu), các tiểu loại
khác của trạng ngữ tiếng Anh (vẫn đang bàn cãi) không được bàn đến trong
luận án này.
2.3. Tư liệu nghiên cứu
Tư liệu của luận án được thu thập từ 6 tác phẩm văn học (truyện, tiểu
thuyết) bằng tiếng Anh và 10 tác phẩm văn học (truyện, tiểu thuyết) bằng
tiếng Việt. Các tác phẩm tiếng Anh được khảo sát bao gồm: The Da Vinci
3
Code (Dan Brown) bản dịch tiếng Việt của Đỗ Thu Hà; Harry Potter and
the Philosopher‘s Stone (J. K. Rowling), bản dịch tiếng Việt của Ly Lan;
Harry Potter and the Chamber of Secrets (J. K. Rowling) bản dịch tiếng
Việt của Ly Lan; Harry Potter and the Prisoner of Azkaban (J. K.
Rowling) bản dịch tiếng Việt của Ly Lan; Gone with the wind (Margaret
Mitchell) bản dịch của Dương Tường và If Tomorrow Comes (Sidney
Sheldon) bản dịch của Nguyễn Bá Long. Tư liệu tiếng Việt được chúng tôi
thu thập từ các tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Cô gái đến từ hôm
qua (Nguyễn Nhật Ánh); Tuyển tập Nam Cao; Tuyển tập truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan; Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai); Cuộc đời ngoài cửa
(Nguyễn Danh Lam); Con hoang (Lê Hồng Nguyên), Tuyển tập truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng; Đời callboy (Nguyễn Ngọc Thạch); Vang bóng một
thời (Nguyễn Tuân).
Sự lựa chọn này có lí do ở sự tương đương về độ dài văn bản. Với sự
tương đương về độ dài văn bản, chúng tôi thu thập được 1500 câu tiếng
Anh có trạng ngữ và 1500 câu tiếng Việt có trạng ngữ làm ngữ liệu nghiên
cứu cho luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là vận dụng lí thuyết ngữ pháp hiện
đại để làm sáng rõ đặc điểm của trạng ngữ tiếng Anh, đối chiếu để tìm ra đặc
điểm tương đồng và khác biệt so với trạng ngữ tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập cơ sở lí thuyết về trạng ngữ, lí thuyết 3 bình diện nghiên cứu
câu, lí thuyết so sánh đối chiếu.
- Thống kê, phân loại các loại trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt
trong một số tác phẩm văn học.
4
- Chỉ ra đặc điểm kết học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt.
- Chỉ ra đặc điểm nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt.
- Chỉ ra đặc điểm dụng học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã tiến hành các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp so sánh đối chiếu sẽ được sử dụng để so sánh các loại
trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, tìm ra các điểm tương đồng và khác
biệt của trạng ngữ trong hai ngôn ngữ này.
- Phương pháp miêu tả được sử dụng để xác định vị trí của trạng
ngữ trong câu tiếng Anh từ đó sẽ so sánh đối chiếu với những yếu tố
trong tiếng Anh dễ nhầm lẫn với trạng ngữ và những yếu tố tương đương
với nó trong tiếng Việt. Trong phương pháp này chúng tôi sử dụng các thủ
pháp sau:
+ Thủ pháp khảo sát - thống kê – phân loại được sử dụng để liệt kê,
khảo sát, thống kê các trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt trong tác phẩm
được chọn.
+ Ngoài ra luận án còn sử dụng một số thủ pháp khác là: thủ
pháp cải biến, thủ pháp lập biểu đồ, thủ pháp mô hình hóa, thủ pháp
phân tích và thủ pháp tổng hợp, Những thủ pháp này thường được sử
dụng trong nghiên cứu ngữ pháp nói chung.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở xác lập một khung lí thuyết đủ hiệu lực, sử dụng các
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp miêu tả và các thủ pháp quan
trọng của cú pháp, luận án nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt
và chỉ ra đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của trạng ngữ trong hai
ngôn ngữ này. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ làm rõ các điểm tương đồng
5
và dị biệt của trạng ngữ ở hai ngôn ngữ Anh và Việt, trên các bình diện kết
học, nghĩa học và dụng học, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy và
học tập môn ngữ pháp tiếng anh và ngữ pháp tiếng Việt.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Nghiên cứu trạng ngữ tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt sẽ góp phần
giải quyết những vấn đề lí luận của ngôn ngữ học nói chung và ngữ pháp học
nói riêng. Cụ thể là chỉ ra được:
a) Những đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của trạng ngữ tiếng
Anh và tiếng Việt.
b) Những nét giống và khác giữa trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án góp phần đề xuất cách phân tích và giảng dạy trạng ngữ nói
riêng, ngữ pháp nói chung trong tiếng Anh và tiếng Việt.
- Luận án góp phần giúp người học hiểu và sử dụng có hiệu quả các
loại trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả giảng dạy và học tập môn ngữ pháp tiếng Anh và tiếng Việt
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết của luận án
Trong chương này, chúng tôi trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu
trong nước và ngoài nước của trạng ngữ.
Cơ sở lí thuyết liên quan đến luận án gồm: 1/Trạng ngữ với tư cách là
một nhãn hiệu thuộc bình diện kết học của câu; 2/Các bình diện nghĩa học và
dụng học của trạng ngữ; 3/Vấn đề xác định trạng ngữ trong tiếng Anh. 4/Vấn
đề xác định trạng ngữ trong tiếng Việt; 5/Quan điểm của luận án về trạng ngữ.
6
Chương 2: Kết học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi trình bày những đặc điểm về mặt kết học
của trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt chủ yếu ở vị trí và cấu tạo.
Chương 3: Nghĩa học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi nghiên cứu nghĩa biểu hiện của trạng ngữ
trong cấu trúc nghĩa sự tình của câu. Cụ thể, chương này sẽ khảo sát ý nghĩa
của trạng ngữ và phân loại chúng vào theo các tiêu chí về nghĩa học.
Chương 4: Dụng học của trạng ngữ tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt
Trong chương này, chúng tôi theo lí thuyết về phân đoạn thông tin
(thông tin cũ/thông tin mới, cấu trúc đề- thuyết), lí thuyết về liên kết và mạch
lạc của diễn ngôn để khảo sát đặc điểm dụng học của trạng ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt.
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh
Nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh được bàn đến trong rất nhiều
công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Anh nói chung, các sách dạy tiếng Anh
cho người nước ngoài và đặc biệt các chuyên khảo của các tác giả có uy tín
như R. Quirk, Martin Hewings, L.G. Alexander, Michael Swan, Jack C.
Richards, John Lyons. Các tác giả đã quan tâm đến các vấn đề chức năng, vị
trí và cấu tạo của trạng ngữ trong tiếng Anh. Chẳng hạn, cuốn A student‘s
Grammar of the English Language của Sidney Greenbaum & Randolph Quirk
đã cung cấp cho sinh viên nói riêng, người đọc nói chung những nội dung
quan trọng của ngữ pháp tiếng Anh, trong đó có vấn đề về trạng ngữ. Nghiên
cứu về vấn đề này còn kể đến công trình quen thuộc đối với nhiều người học
tiếng Anh là English Grammar in Use của Raymond Murphy. Trong công
trình này, tác giả đã chỉ ra đặc điểm chung của ngữ pháp tiếng Anh trong đó
có vấn đề trạng ngữ tiếng Anh.
Trạng ngữ tiếng Anh mặc dù là thành phần phụ, nhưng vẫn được nhắc
đến trong các công trình nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Anh nói chung, như
Practical English Usage của Michael Swan (2005), The Essential English
Grammar của Alexander (1993), Current English Grammar của Chalker, S.
(1992), chúng tôi nghĩ đó là do tầm quan trọng về mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng
của thành phần câu này.
Theo khung ngữ pháp truyền thống, nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng
Anh được bàn đến ở các nội dung như khái niệm trạng ngữ, cách phân loại
trạng ngữ và phân biệt trạng ngữ với các thành phần dễ nhầm lẫn khác, hoặc ở
8
một bình diện khác, như phân biệt trạng ngữ và bổ ngữ, phân biệt trạng ngữ
và trạng từ.
Về khái niệm trạng ngữ trong tiếng Anh; các nhà nghiên cứu, dù có
cách định nghĩa khác nhau, nhưng tựu trung lại cũng đã có những thống nhất
nhất định về phạm vi khái niệm. Trong tiếng Anh, ―trạng ngữ‖ được gọi là
―adverbials‖,―adverbial modifier‖ hoặc ―adverbial adjunct‖. Tác giả
Hadumod Bussmann trong cuốn thuật ngữ từ điển ngôn ngữ học có tên
Routledge dictionary of language and linguistics đã định nghĩa ―trạng ngữ‖
như sau: "Collective term for several syntactic functions with various
semantic realizations; an adverbial characterizes a verbal action, process, or
state of affairs with respect to time, place, kind, manner, etc.‖ [8,9] (Thuật
ngữ dùng chung cho một số chức năng cú pháp, hiện thực hóa những nội dung
ngữ nghĩa khác nhau; trạng ngữ cho biết thời gian, nơi chốn, kiểu loại, cách
thức v.v của hành động, quá trình hoặc trạng thái sự tình được nói đến trong
câu). Theo tác giả cuốn ―Oxford Advanced Learner's Encyclopedia
Dictionary‖ thì trạng ngữ là thành phần cung cấp (bổ sung) thêm thông tin về
địa điểm, thời gian, hoàn cảnh, phương cách, nguyên nhân, mức độ. Đồng
quan điểm này, các tác giả cuốn Từ điển "Webster's New World College
Dictionary" cũng cho rằng những thành phần nào dùng để diễn tả thời gian,
địa điểm, cách thức, mức độ, nguyên nhân,... được gọi là trạng ngữ. Có thể
thấy, mặc dù được diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đã đồng nhất trong
việc chỉ ra thế nào là trạng ngữ trong tiếng Anh. Từ điển "Dictionary of
Language Teaching and Applied Linguistics" (nhà xuất bản Longman) định
nghĩa: "Trạng ngữ là thành phần dùng để trả lời những câu hỏi như thế
nào?, ở đâu?, khi nào? Một đoạn ngữ hay một mệnh đề đảm nhiệm chức năng
của một trạng từ được gọi là một trạng ngữ hay mệnh đề trạng ngữ." [101, 9]
L.G. Alexander, tác giả cuốn ―Longman English Grammar‖ diễn giải ―Trạng
ngữ () cho chúng ta biết hành động sự việc xảy ra như thế nào (How?) khi
9
nào (When?), ở đâu (Where?).‖ [51, 122] Tuy nhiên, theo tác giả thì trạng
ngữ còn có thể bổ nghĩa cho tính từ, trạng từ khác, cụm giới từ, câu.
Tác giả này còn đưa ra cách xác định trạng ngữ và cho nhiều ví dụ rất
cụ thể để người đọc phân biệt sự khác nhau giữa trạng từ (nhãn hiệu từ loại)
và trạng ngữ (nhãn hiệu thành phần câu).
Về phân loại trạng ngữ tiếng Anh
Việc phân loại trạng ngữ tiếng Anh được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm như Laen-zlinger, Cinque (1999:106), Ernst (2002:9), Frey and Pittner
(1998) Trạng ngữ được các nhà ngôn ngữ học phân loại thành các loại khác
nhau. Theo W. McGregor trong Semiotic Grammar thì ―Sự phân loại trạng
ngữ bao gồm trạng ngữ chỉ thể cách và mức độ (ví dụ: happily, clumsily,
quickly, very), trạng ngữ chỉ thời gian (ví dụ: now, when, today), trạng ngữ chỉ
không gian (ví dụ: here, north, up, across), trạng ngữ chỉ thái độ (ví dụ:
certainly, hopefully), trạng ngữ tình thái (modal adverbials) (not, no,
probably, etc.), trạng ngữ chỉ dự định (ví dụ: only, even, again), và trạng ngữ
chỉ trình tự (ví dụ: firstly, finally)."
Các nhà nghiên cứu nói về phân loại trạng ngữ như là trên cơ sở sự phân
loại những đặc tính cú pháp, mang nhãn hiệu mà qua đó cho thấy nền tảng
ngữ nghĩa của sự phân loại. Lấy ngẫu nhiên từ những sự phân loại khác nhau
và sắp xếp ngẫu nhiên từ trạng ngữ mang tính cú pháp cao đến cú pháp thấp,
có trạng ngữ hành vi lời nói hướng người nói (frankly) và trạng ngữ đánh giá
hướng người nói (fortunately), bằng chứng (evidently), trạng ngữ tri thức
(probably), trạng ngữ phạm vi (linguistically), trạng ngữ hướng chủ thể và
hướng khách thể (deliberately), trạng ngữ cách vị trí (here), trạng ngữ xác
định số lượng (frequently), trạng ngữ chỉ cách thức (slowly), trạng ngữ chỉ
mức độ (very)...‖
Các tác giả cuốn Longman grammar of spoken and written English cho
rằng trạng ngữ có 3 chức năng chính là bổ sung thông tin về tình huống cho
sự tình được nêu trong câu, biểu đạt phương thức của người nói/ người viết
10
trong câu, hoặc nối kết câu hoặc bộ phận câu với các thành phần câu khác
trong văn bản. Với ba chức năng chính đó, theo các tác giả, trạng ngữ có 3
loại lớn là trạng ngữ tình huống (circumstance adverbials), trạng ngữ phương
thức (stance adverbials) và trạng ngữ liên hệ (linking adverbials).
Trong cuốn "Longman English Grammar", tác giả L.G. Alexander cho
rằng trạng ngữ có 9 loại sau:1/ Adverbial clauses of time (Trạng ngữ thời
gian); 2/ Adverbial clauses of place (Trạng ngữ nơi chốn); Adverbial clauses
of manner (Trạng ngữ cách thức); A dverbial clauses of reason (Trạng ngữ
nguyên nhân); Adverbial clauses of condition (Trạng ngữ điều kiện);
Adverbial clauses of concession (Trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ); Adverbial
clauses of purpose (Trạng ngữ mục đích); Adverbial clauses of result (Trạng
ngữ kết quả); [51, 265]
Đồng quan điểm với nhau về mệnh đề trạng ngữ, các tác giả Bùi Ý - Vũ
Thanh Phương (trong cuốn "Ngữ Pháp tiếng Anh") và Lê Dũng (trong cuốn
"Ngữ pháp tiếng Anh nâng cao") cho rằng ―Mệnh đề trạng ngữ (Adverb
clause) có giá trị như một trạng ngữ‖ và chức năng của mệnh đề trạng ngữ là
bổ nghĩa cho động từ hay cho cả câu để nói rõ thêm cách thức, thời gian, nơi
chốn ... của hành động hay sự việc. Xuất phát từ chức năng của trạng ngữ
trong câu, các tác giả này cũng đã chia mệnh đề trạng ngữ thành 9 loại sau
[50, 190-197]:
Mệnh đề trạng ngữ thời gian (Adverb clauses of time), Mệnh đề trạng
ngữ nơi chốn (Adverb clauses of place), Mệnh đề trạng ngữ cách thức
(Adverb clauses of manner), Mệnh đề trạng ngữ nguyên nhân (Adverb
clauses of cause), Mệnh đề trạng ngữ mục đích (Adverb clauses of purpose),
Mệnh đề trạng ngữ kết quả (Adverb clauses of result), Mệnh đề trạng ngữ so
sánh (Adverb clauses of comparison), Mệnh đề trạng ngữ chỉ sự nhượng bộ
(Adverb clauses of concession), Mệnh đề trạng ngữ điều kiện (Adverb clauses
of condition).
11
Như vậy ba tác giả trên đều có đồng quan điểm phân chia mệnh đề
trạng ngữ ra làm 9 loại. Tuy nhiên, theo quan điểm của mình, Marcella Frank,
tác giả cuốn "Modern English - A Practical Reference Guide" lại chia trạng
ngữ thành 11 loại sau [110, 234-275] : Clauses of time (mệnh đề thời gian),
Clauses of place (mệnh đề nơi chốn) Clauses of Contrast (mệnh đề tương
phản), Clauses of Cause (mệnh đề nguyên nhân), Clauses of Result (mệnh đề
kết quả), Clauses of Purpose (mệnh đề mục đích), Clauses of Condition
(mệnh đề điều kiện), Clauses of Exception (mệnh đề ngoại lệ), Clauses of
Manner (mệnh đề phương thức), Clauses of Comparison (mệnh đề so sánh),
Proportion or Extent (mệnh đề tỉ lệ hoặc tầm mở rộng).
Về vị trí của trạng ngữ trong câu.
Vị trí của trạng ngữ trong câu cũng là vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Phần lớn các ý kiến cho rằng trạng ngữ có thể đứng trước, đứng
giữa và đứng sau thành phần nòng cốt và ở vị trí khác nhau trạng ngữ có
những giá trị khác nhau.
Như vậy, nhìn vào những công trình nghiên cứu về trạng ngữ có thể nhận
thấy trạng ngữ là thành phần câu còn có nhiều tranh luận. Những tranh luận
này gợi mở cho chúng tôi về việc cần phải xác định vai trò của trạng ngữ đối
với cấu trúc câu; xác định các vai trạng ngữ một cách phù hợp trên cơ sở
phân biệt trạng ngữ với những thành phần câu dễ gây nhầm lẫn; tìm hiểu về
trạng ngữ ở những vị trí khác nhau trong câu.
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Anh của các
nhà nghiên cứu còn chú trọng đến vấn đề phân biệt trạng ngữ với trạng từ. Về
vấn đề này có thể kể đến một số nhà nghiên cứu như M. Strumpf and A.
Douglas, Martin J. Endley. Theo M. Strumpf and A. Douglas (2004) thì
―Trạng từ và trạng ngữ là tương đồng nhưng không phải là một. Mặc dù
chúng có cùng chức năng mở rộng nghĩa, đặc tính của chúng khác nhau. Một
trạng ngữ là một thành phần của câu. Nó là một phần của câu và mang một
chức năng nào đấy. Một trạng từ, mặt khác là một từ loại. Chúng ta có thể
12
nói rằng một trạng từ có thể đóng vai trò là một trạng ngữ, nhưng một
trạng ngữ không cần một trạng từ‖ (108, tr.2004). Theo Martin J. Endley
thì ― Tôi muốn nêu sự khác biệt giữa hai khái niệm: Trạng từ và trạng
ngữ: Trạng từ là một nhãn hiệu cho phạm trù ngữ pháp, là các từ đơn
quen thuộc như quickly, happily, and spontaneously. Trạng ngữ đề cập
đến chức năng. Những yếu tố ngôn ngữ có chức năng này bao gồm cả
trạng từ thêm vào những yếu tố ngôn ngữ khác chẳng hạn cụm từ (on the
table, at the bookstore next week, last year, etc.) và mệnh đề (ví dụ: after
he saw the movie)‖ (114, tr. 2010)
Như vậy, có thể thấy, trạng ngữ và trạng từ dù có những đặc điểm tương
đồng nhưng không đồng nhất với nhau. Trạng từ là xét về mặt từ loại, còn
trạng ngữ là xét về mặt ngữ pháp, về cương vị thành phần câu.
Tóm lại, sự khác nhau giữa trạng từ và trạng ngữ nằm ở chỗ trạng từ
thuộc về từ loại (part of speech), còn trạng ngữ thuộc về thành phần câu
(sentence part).
Theo cách phân loại truyền thống, có 8 từ loại trong tiếng Anh, trong
đó có trạng từ, đó là: danh từ (noun), động từ (verb), tính từ (adjective), trạng
từ (adverb), giới từ (preposition), đại từ (pronoun), liên từ (conjunction) và
thán từ (interjection).
1.1.2. Sơ lược nghiên cứu về trạng ngữ trong tiếng Việt
Thành phần trạng ngữ trong tiếng Việt bắt đầu được nghiên cứu từ
những năm trước năm 1945. Nghiên cứu trạng ngữ tiếng Việt đã được bàn
đến trong những nội dung sau:
Về khái niệm trạng ngữ. Trước năm 1945, do cái nhìn Dĩ u vi trung,
các tác giả cho rằng trong tiếng Việt có trạng từ và đồng nhất trạng từ với
trạng ngữ. Theo đó, các nhà nghiên cứu như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ,
Phạm Duy Khiêm cho rằng ―trạng từ là tiếng để phụ thêm nghĩa một
tiếng động từ, một tiếng tĩnh từ, một tiếng trạng từ khác hay cả một mệnh
đề.‖ [25, 106]. Sau năm 1945, các nhà ngôn ngữ học tiếp tục nghiên cứu
13
trạng ngữ nói riêng và thành phần câu nói chung. Trạng ngữ được nhiều nhà
ngữ pháp học quan tâm nghiên cứu và đưa ra các quan niệm khác nhau. Theo
Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963) [10, 554], thì ―trạng ngữ đặt
sau là bổ từ của tiếng (tức là từ), trạng ngữ đặt trước là bổ từ của câu.‖ Theo
Nguyễn Kim Thản (1964) [37, 212], trạng ngữ là thành phần thứ yếu của
câu, biểu thị các ý nghĩa thời điểm, địa điểm, nguyên nhân, mục đích,
phương tiện hay tình thái.
Doãn Quốc Sỹ, Đoàn Viết Bửu (1970) [36, tr. 143], Lược khảo về
ngữ pháp Việt Nam dùng thuật ngữ bổ từ của câu thay cho thuật ngữ
trạng ngữ.
Trần Thái Hồng, Võ Thị Cưu (1975) cho rằng trạng từ là từ chỉ
trạng thái của tuyên từ (động từ hay tính từ), hay một trạng từ khác.
Theo Hoàng Trọng Phiến thì trạng ngữ là thành phần thứ yếu của
câu, nó có ý nghĩa địa điểm, không gian, thời gian, nguyên nhân, mục đích
Theo Cao Xuân Hạo (1991) trong Tiếng Việt -Sơ thảo ngữ pháp chức
năng (2004) [18, 162] thì trạng ngữ là thành phần phụ của câu, bổ sung cho
cấu trúc Đề - Thuyết một ý phụ. Trạng ngữ thường có vị trí ở đầu hoặc cuối
câu. Về vị trí, trạng ngữ có thể chen vào giữa Đề và Thuyết.
Về các loại trạng ngữ. Trước năm 1945, các nhà ngôn ngữ học nhấn
mạnh vai trò của trạng ngữ đối với tiếng Việt. Khi đó, các nhà ngôn ngữ học
đang đồng nhất khái niệm trạng từ và trạng ngữ. Theo đó, các tác giả chia
trạng từ thành các loại như 1) trạng từ chỉ thể, cách; 2) trạng từ chỉ số
lượng; 3) trạng từ chỉ thời gian; 4) trạng từ chỉ nơi chốn; 4) trạng từ
chỉ sự nghi vấn; 5) trạng từ chỉ ý kiến.
Theo Nguyễn Kim Thản (1964) các loại trạng ngữ gồm: 1) trạng
ngữ thời gian; 2) trạng ngữ địa điểm; 3) trạng ngữ nguyên nhân (―Cách
mạng đã do Việt Bắc mà thành công‖); 4) trạng ngữ mục đích; 5) trạng
ngữ phương tiện (―Khách toàn đến bằn...ấu tạo là từ, trạng ngữ cấu tạo là cụm từ, trạng ngữ
được cấu tạo là mệnh đề.
b) Phân loại trạng ngữ xét trên bình diện nghĩa học: Theo Nguyễn Văn
Hiệp thì ―trong nghiên cứu cú pháp, bình diện nghĩa học thường được hiểu là
bình diện của những: sự tình‖ (State of affairs) với một vị từ trung tâm và
những ―vai nghĩa‖ tham gia vào sự tình ấy. Những vai nghĩa này là những
tham tố của sự tình, gồm có các diễn tố (actants) và các chu tố
(circumstants). Các diễn tố là những vai nghĩa tất yếu, được giải định trong
khung ý nghĩa từ vựng – ngữ pháp của vị từ làm vị ngữ.
- Còn các chu tố chỉ đóng vai cảnh trí chung quanh, không được giả định một
cách tất nhiên trong khung vị ngữ‖ [20, 1998]. Cần thấy được rằng trạng ngữ,
trên bình diện cú pháp hình thức là thành phần phụ của câu, còn trên bình
diện nghĩa học thường thuộc vai chu tố. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
chúng ta có thể bắt gặp các trạng ngữ biểu thị vai chủ thể của hành động, tức
thuộc vai diễn tố của sự tình được biểu đạt.
31
Trên bình diện nghĩa học, chúng ta có thể phân loại các loại trạng ngữ
như sau: Trạng ngữ chỉ thời gian: Định vị sự tình ở một thời điểm hay trong
một phiến đoạn thời gian nào đó. (Ngày xưa ai lá ngọc cành vàng. Trạng ngữ
chỉ không gian, nơi chốn: Biểu thị không gian hiện thực hoặc không gian
tưởng tượng, với tư cách là nơi diễn ra sự tình (Vầng thái dương đã ngã về
Đoài.). Trạng ngữ chỉ nguyên nhân: Biểu thị nguyên nhân, nguyên cớ của sự
tình (Anh ấy trở thành triệu phú bởi anh ấy thông minh và biết đứng trên vai
người khổng lồ.) Trạng ngữ chỉ mục đích: Biểu thị mục đích mà hành động
thể hiện ở vị ngữ hướng tới hay trạng thái mà chủ thể của hành động mong
muốn đạt đến. (Nó ngày đêm miệt mài trên thư viện để hoàn thành luận án)
Trạng ngữ hạn định: Theo một nghĩa nào đó, biểu thị phạm vi, giới hạn mà sự
tình của câu có hiệu lực, biểu thị điều kiện để hành động mà vị ngữ biểu thị có
thể diễn ra. (Nếu em đồng ý theo anh, tất cả tài sản này sẽ thuộc về em).Trạng
ngữ phương thức: Biểu thị cách thức, cũng cách diễn biến của sự tình hoặc
phương tiện mà chủ thể dùng để thực hiện hành động. (Bất thình lình, Hitle ra
lệnh tấn công Liên Xô.)
1.2.2. Khái quát về lí thuyết ba bình diện của câu
Mô hình lí thuyết ba bình diện của câu có nguồn gốc từ lý thuyết tín
hiệu học của Ch.W.Morris (1938). Theo lí thuyết này, một hệ thống tín hiệu
cần phân biệt ba lĩnh vực là syntactics (kết học), semantics (nghĩa học) và
pragmatics (dụng học). Vận dụng lí thuyết này, các nhà ngữ pháp chức năng
đã phân biệt ba bình diện khác nhau của ngôn ngữ là bình diện kết học, nghĩa
học và dụng học.
Trong một quan niệm hơi khác, cũng là tam phân nhưng không phải
là kết học-nghĩa học-dụng học mà là theo 3 siêu chức năng
(metafunctions), M.A.K.Halliday (1970,1985) cho rằng ―câu là sản phẩm
của ba quá trình biểu nghĩa diễn ra đồng thời. Nó vừa là sự biểu hiện của
kinh nghiệm vừa là một sự trao đổi có tính chất tác động lẫn nhau, vừa là
một thông điệp‖. [90, 10].
32
Có thể thấy rằng, đã có nhiều cách gọi khác nhau về ba bình diện của
câu. Trong luận án này, chúng tôi đi theo hướng quan niệm ba bình diện của
câu với sự thống nhất tên gọi là: kết học, nghĩa học, dụng học.
Bình diện kết học của câu nghiên cứu mối quan hệ bên trong câu, bao
gồm những vấn đề như: thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo và các
quan hệ ngữ pháp của câu. Có thể dựa vào chức năng ngữ pháp của mỗi thành
phần câu để phân biệt thành phần chính và thành phần phụ cửa câu.
Bình diện ngữ nghĩa của câu chỉ ra các mối quan hệ giữa câu, các bộ
phận của câu với hiện thực được nói đến trong câu. Bình diện ngữ nghĩa trong
câu bao gồm: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Xem xét bình diện nghĩa miêu
tả của câu là xem xét bình diện về mối quan hệ giữa vị từ và các tham tố của
nó. Trong cấu trúc vị từ - tham tố, các tham tố đối thể, tham tố người hưởng
lợi, tham tố công cụ, tham tố địa điểm, tham tố thời gian, Các tham tố do
loại hình sự thể qui định gọi là diễn tố, các tham tố không do loại hình sự thể
qui định gọi là chu tố. Do đó, thành phần trạng ngữ thuộc vai chu tố của sự
tình được biểu đạt trong câu.
Bình diện ngữ dụng của câu được hiểu chung nhất là sự hành chức của
câu trong ngữ cảnh và trong tổ chức diễn ngôn, trong đó có vấn đề liên quan
đến cấu trúc thông tin. Cấu trúc thông tin (information structure) được hiểu
như một cấp độ khác để miêu tả cấu trúc câu. Cấu trúc thông tin còn có nhiều
tên gọi khác nhau như: đề (theme) – Thuyết (rheme), tiêu điểm (focus) – nền
(background), chủ đề (toppic) – chú giải (comment), cái cho sẵn (given) – cái
mới (new)
Cấu trúc thông tin của câu là vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ nửa
cuối thế kỷ XIX. Những người nghiên cứu về cấu trúc thông tin đầu tiên
thuộc về hai nhà nghiên cứu Von der Gabelentz và Paul Herman. Gabelentz
(1869) đã so sánh trình tự ý nghĩ với trình tự các biểu ngữ ngôn ngữ trong
một câu. Từ đó, tác giả đã phân biệt hai mức độ kết cấu là mức độ ngữ pháp
(grammar) và mức độ tâm lí (psychology). Từ kết quả nghiên cứu đó,
33
Gabelentz đưa ra thuật ngữ chủ ngữ tâm lí (psychological subject) và vị ngữ
tâm lí (psychological predicate). Paul Herman (1880) định nghĩa câu như là
biểu ngữ ngôn ngữ nối một số hoặc một nhóm khái niệm trong trí óc của
người nói. Theo ông, mỗi câu gồm ít nhất hai thành tố là chủ ngữ (subject) và
vị ngữ (predicate).
Việc nghiên cứu cấu trúc thông tin còn bị ảnh hưởng bởi líthuyết
Gestalt (lí thuyết về cấu trúc hình thức). Người khởi xướng thuyết là Christian
von Ehrenfels (vào năm 1886) và tiếp tục được phát triển bởi
Maxwerthermer. Theo lí thuyết này, sự nhận thức không phải được cấu tạo từ
những đơn vị nhỏ hơn mà là cả một cấu trúc hình thức. Sự nhận thức cấu trúc
hình thức gồm hai phần là hình ảnh (figure) và nền tảng (ground).
Sang đầu thế kỷ 20, vấn đề được quan tâm nghiên cứu là chức năng
giao tiếp của ngôn ngữvới tác giả tiêu biểu là Ammann. Ammann đã đưa ra
khái niệm đề - thuyết nhằm phân biệt cấu trúc ngữ pháp của câu và cấu trúc
tâm lí của khái niệm.
Tiếp đó, ở nửa đầu thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học đã
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn các vấn đề liên quan đến cấu trúc thông tin
của câu. Nhìn chung, các tác giả đều cho rằng cấu trúc thông tin của một câu
gồm hai thành phần, một thành phần có tính cung cấp thông tin nhiều và một
phần có tính cung cấp thông tin ít hơn.
Theo trường phái Prague: Các tác giả chủ yếu nghiên cứu mặt chức
năng của câu, đại diện tiêu biểu là Vilém Mathesius, R.Jacobson,
N.Trubetskoy.... Đặc điểm của trường phái Prague là quan điểm ngữ pháp
mang tính chức năng. Theo các tác giả, ngôn ngữ là một công cụ giao tiếp và
cấu trúc thông tin là quan trọng đối với hệ thống ngôn ngữ và giao tiếp. Theo
Mathesius thì ―các yếu tố cơ bản của phân đoạn thực tại là: điểm xuất phát/
hay là cơ sở của câu nói và hạt nhân của câu nói. Điểm xuất phát được hiểu
là cái đã được biết trong tình huống đó hoặc chí ít cũng có thể dễ dàng hiểu
ra và người nói lấy nó làm điểm xuất phát. Hạt nhân của câu là cái mà người
34
nói thông báo về điểm xuất phát của câu nói‖ (Dẫn theo Diệp Quang Ban).
Cũng theo Mathesius thì ―Cái gì đang được đề cập đến‖ gọi là đề (điểm xuất
phát), và ―những điều gì được nói về nó‖ là thuyếtMathesius coi trật tự đề -
thuyết là mang tính khách quan và trật tự thuyết – đề là mang tính chủ quan.
Đồng quan điểm với Mathesius, Firbas đưa ra sự phân chia câu thành ba
phần: đề - chuyển tiếp – thuyết. Theo ông thì cùng với trật tự từ và ngữ cảnh cùng
ngữ điệu, thì ngữ nghĩa – đóng vai trò quan trọng trong phối cảnh chức năng.
M.A.K. Halliday
Trong quá trình nghiên cứu ngữ cảnh văn bản, Halliday đã chỉ ra sự tồn
tại song song của hai hệ thống - cấu trúc: đề - thuyết và cho sẵn – mới. Theo
Halliday, phần thông tin cho sẵn là ―thông tin được người nói thể hiện như là
có thể phục hồi được () nó đã được nói đến trước đó‖; ―nó có thể là một cái
gì đó không hoàn toàn ở quanh đó mà là một cái gì đó người nói muốn thể
hiện như là thông tin cũ để phục vụ cho mục đích tu từ; ý nghĩa ở đây là: nó
không phải là thông tin mới‖. Và ―thông tin được người nói thể hiện như là
không thể phục hồi được là thông tin mới () có thể là một cái gì đó chưa
được nói đến trước đó nhưng cũng có thể là một cái gì đó ngoài dự kiến, cho
dù trước đó có được nói đến hay không; ý nghĩa của nó là: quan tâm đến
thông tin này, nó là thông tin mới‖ (2004). Halliday cũng cho rằng: ―trong
hình thức lí tưởng, mỗi đơn vị thông tin bao gồm một thành phần thông tin
CHO SẴN được kèm theo bằng một thành phần thông tin MỚI. Tất nhiên là
không phải trong trường hợp nào đơn vị thông tin chúng ta đang xét cũng có
cấu trúc lí tưởng như vậy" (2004). Halliday tiếp tục khẳng định ―một đơn vị
thông tin bao gồm một thành phần thông tin mới bắt buộc và một thành phần
thông tin cũ tuỳ thuộc‖ (2004)
Wallace L.Chafe (1976) trước đó cũng đã đề cập thông tin ―mới‖ và
thông tin ―cho sẵn‖ trong mô hình tâm lí về ý thức của người nói và người
nghe. Dùng thuật ngữ ―đóng gói thông tin‖, Chafe (1976) giải thích về thuật
ngữ này như sau: ―Tôi dùng thuật ngữ đóng gói để chỉ một hiện tượng đưa ra
35
ở đây, là việc nó chủ yếu liên quan đến cách mà thông điệp được đưa ra và
sau đó mới chính là thông điệp; cũng giống như việc đóng gói một hộp kem
đánh răng có thể ảnh hưởng tới sản lượng bán của cái chất lượng kem đánh
răng vốn có một phần độc lập bên trong‖.
Đối với ngữ dụng học, câu là một thông điệp được đặt trong một diễn
ngôn có liên kết, mạch lạc. Với tư cách là một thông điệp, cấu trúc thông tin
(hay thông báo) của câu là vấn đề được quan tâm hàng đầu với các nội dung
như: cấu trúc đề – thuyết, tin cũ – tin mới, tiêu điểm. Vì vậy tìm hiểu về bình
diện ngữ dụng học của thành phần trạng ngữ, chúng tôi quan tâm chức năng
thông tin của trạng ngữ và đặt trạng ngữ trong cấu trúc đề - thuyết của câu. Để
xét được những phương diện này không thể không quan tâm đến ngữ cảnh mà
câu đó xuất hiện. Chúng tôi cũng sẽ áp dụng lí thuyết văn bản đặc biệt là lí
thuyết về liên kết và mạch lạc để tìm hiểu về khả năng tạo liên kết và mạch
lạc của trạng ngữ.
Như vậy, theo quan điểm của ngữ pháp chức năng, ba bình diện kết học
- nghĩa học - dụng học có mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, khi nghiên
cứu ngôn ngữ theo hướng ngữ pháp chức năng, chúng ta phải xem xét trên tất
cả các phương diện này.
Trong luận án này, với lí thuyết ba bình diện của câu, chúng tôi đã vận
dụng để giải quyết các vấn đề sau: Bình diện kết học được dùng để xem xét vị trí,
cấu tạo của trạng ngữ trong câu. Bình diện nghĩa học được dùng để xem xét nghĩa
biểu hiện và cấu trúc biểu hiện của trạng ngữ. Bình diện dụng học được dùng để
chỉ ra vai trò trong cấu trúc thông tin của câu mà trạng ngữ đảm nhận.
1.2.3. Khái quát về ngôn ngữ học so sánh đối chiếu (SSĐC)
1.2.3.1. Khái niệm
Nghiên cứu đối chiếu có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng những năm 40
và 50 của thế kỉ XX, mới được quan tâm nghiên cứu nhiều, tiêu biểu là ―Ngôn
ngữ học đại cương và một số vấn đề tiếng Pháp‖ của tác giả Ch. Bally (1932).
Sau đó, có rất nhiều các công trình nghiên cứu nổi bật ứng dụng phương pháp
36
so sánh đối chiếu trong nghiên cứu khoa học như R.P. Stockwell (1997), J.B.
Carrol, F. Capell (Mỹ).
Ở Việt Nam, nghiên cứu đối chiếu được bắt đầu từ những năm 1980. Lê
Quang Thiêm là tác giả đầu tiên sử dụng phương pháp SSĐC với công trình
―Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ‖ (Nxb ĐH và Giáo dục chuyên nghiệp,
1989). Ông đã nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của phương pháp so sánh đối
chiếu trong thời đại của cuộc cách mạng KHKT. Nguyễn Văn Chiến cũng đã
ứng dụng phương pháp so sánh đối chiếu trong tác phẩm ―Ngôn ngữ học đối
chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á‖ (Nxb Đại học Quốc gia,
1992).. Có thể nói, đây là những công trình khoa học đầu tiên cung cấp cơ sở
lý luận và phương pháp cho phân ngành ngôn ngữ học đối chiếu phát triển ở
Việt Nam. Gần đây, nhiều luận văn, luận án được thực hiện khi đối chiếu các
ngoại ngữ khác với tiếng Việt đã góp phần khẳng định vai trò của đối chiếu
ngôn ngữ ở Việt Nam.
Theo Burgaski thì ngôn ngữ học đối chiếu là: ―việc nghiên cứu một cách có
hệ thống và đồng đại những điểm tương đồng cũng như khác biệt trong cấu trúc
và cách sử dụng của hai hoặc nhiều hơn hai ngôn ngữ nào đó phục vụ các mục
đích về mặt lý thuyết hoặc thực tiễn.‖ [dẫn theo 102, tr.394]
Bùi Mạnh Hùng cũng cho rằng ―ngôn ngữ học đối chiếu nghiên cứu so
sánh hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ để xác định điểm giống và khác nhau giữa
các ngôn ngữ đó không tính đến việc các ngôn ngữ được so sánh có quan hệ cội
nguồn hay thuộc cùng loại hình hay không. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu của
ngôn ngữ học đối chiếu là nghiên cứu đồng đại‖. [19, tr.9].
1.2.3.2. Phạm vi đối chiếu
Theo Lê Quang Thiêm (2004) thì phạm vi đối chiếu gồm: đối chiếu
phạm trù, đối chiếu cấu trúc hệ thống, đối chiếu chức năng và hoạt động, đối
chiếu phong cách, và đối chiếu lịch sử - phát triển.
Theo tác giả Bùi Mạnh Hùng (2014) thì ngôn ngữ học đối chiếu giúp
mở rộng phạm vi bao quát của lí luận và khẳng định sức mạnh của lí luận. Để
37
đối chiếu, theo Bùi Mạnh Hùng chỉ ra năm nguyên tắc cần được tuân thủ là:
1/ Miêu tả các phương tiện trong hai ngôn ngữ chính xác; 2/ Đối chiếu các
phương tiện ngôn ngữ trong hệ thống; 3/ Xem xét các phương tiện ngôn ngữ
trong hoạt động giao tiếp; 4/ Bảo đảm tính nhất quán trong việc vận dụng các
khái niệm và mô hình lí thuyết để miêu tả các ngôn ngữ; 5/ Mức độ gần gũi
về loại hình của các ngôn ngữ được đối chiếu.
Việc sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu giúp chúng ta nhìn nhận
được sự đa dạng của các ngôn ngữ trên thế giới. Qua đó cũng nhìn nhận được
những hiện tượng mà các ngôn ngữ trên thế giới có thể có hoặc không có.
Từ đó, ngôn ngữ học so sánh đối chiếu giúp chúng ta hiểu rõ ngôn ngữ
của mình hơn.
Ngoài ra, ngôn ngữ học so sánh đối chiếu đã miêu tả và giải thích
được các hiện tượng giống và khác nhau trong các ngôn ngữ, qua đó giúp
cho việc nhận diện, xác định loại hình ngôn ngữ; từ đó phát triển được các
định hướng cho việc nghiên cứu ngôn ngữ tiếp theo.
So sánh đối chiếu cũng giúp làm sáng tỏ được những đặc điểm quan
trọng của ngôn ngữ cần nghiên cứu; đặc biệt là những điểm khác biệt.
Nhờ vậy, mà chỉ ra được những nét đặc trưng riêng của ngôn ngữ đó.
Nhờ tính ứng dụng cao mà ngôn ngữ học so sánh đối chiếu đã phát
triển trở thành một bộ phận quan trọng trong ngành ngôn ngữ học hiện đại.
Phương pháp này đáp ứng được những đòi hỏi của lý luận ngôn ngữ học
trong thời kỳ mới và cho phép sử dụng tri thức ngôn ngữ học vào những ứng
dụng trong thực tiễn. Hiện nay ngôn ngữ học so sánh đối chiếu được hình
thành và tồn tại như một tất yếu do nhu cầu của xã hội trong thời đại hội
nhập hiện nay đặt ra và nó góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những
nhu cầu đó.
Như vậy, việc vận dụng lí thuyết so sánh đối chiếu trong nghiên cứu
trạng ngữ trong tiếng Anh và trạng ngữ trong tiếng Việt sẽ giúp tìm ra được
những điểm tương đồng và khác biệt về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa, và ngữ
38
dụng trong nghiên cứu thành phần này trong hai ngôn ngữ. Qua đó, việc học
ngoại ngữ, học ngữ pháp và tìm hiểu văn hóa của hai nền văn hóa Anh, Việt sẽ
được nâng cao, hiệu quả hơn.
1.3. Tiểu kết chƣơng 1
Để phục vụ cho việc nghiên cứu trạng ngữ trong tiếng Anh, đối chiếu
với tiếng Việt, trong chương này, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu
trạng ngữ tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt. Chúng tôi nhận thấy, trạng ngữ
tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt đã được nhiều tác giả bàn đến nhưng còn
nhiều vấn đề còn đang được tranh luận ở nhiều góc độ khác nhau. Các vấn đề
được tranh luận bao gồm khái niệm, vị trí, chức năng, cấu tạo của trạng ngữ.
Đây là những cơ sở quan trọng để chúng tôi tìm hướng đi cho đề tài của mình.
Chúng tôi cho rằng sự khác nhau trong quan niệm, phạm vi giữa trạng ngữ
tiếng Anh và trạng ngữ tiếng Việt đã khiến cho việc dịch thành phần câu này
trong hai ngôn ngữ trở nên khó khăn.
Trong chương này, chúng tôi cũng trình bày những cơ sở lí luận liên
quan đến đề tài xoay quanh các vấn đề về trạng ngữ trong hai ngôn ngữ tiếng
Anh và tiếng Việt. Ngoài ra chúng tôi cũng trình bày những vấn đề về lý
thuyết ba bình diện của câu nhằm có cái nhìn mới về ngữ pháp nói chung và
những nghiên cứu về trạng ngữ nói riêng. Qua đó chúng tôi cũng đưa ra quan
điểm của mình về trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Để phục vụ cho
đối chiếu trạng ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, chúng tôi cũng đã chỉ ra một số
vấn đề về ngôn ngữ học đối chiếu nhằm tạo cơ sở lí thuyết cho các nhiệm vụ
nghiên cứu của luận án. Trong luận án này, chúng tôi xác định, trạng ngữ là
thành phần phụ của câu, phụ bổ sung ý nghĩa về thời gian, địa điểm, cách
thức, phương tiện, nguyên nhân, phương diện, tình hình, mục đích, cho sự
tình được đề cập trong câu.
39
Chƣơng 2
KẾT HỌC CỦA TRẠNG NGỮ TIẾNG ANH
ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT
2.1. Dẫn nhập
Theo lí thuyết tín hiệu học của Morris, nghiên cứu bình diện kết học
của tín hiệu là nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu với tín hiệu, tức nghiên cứu
tín hiệu về mặt tổ chức. Trong luận án này, chúng tôi sẽ khảo sát trạng ngữ
trong tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt từ góc độ kết học, theo đó nội dung
chính là nghiên cứu cấu tạo của trạng ngữ và vị trí của nó khi xuất hiện trong
mô hình cấu trúc câu trong hai ngôn ngữ. Sự mô tả này sẽ là cơ sở để chúng
tôi tiến hành đối chiếu để tìm ra những tương đồng và khác biệt về mặt kết
học của trạng ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt. Do trạng ngữ trong cả hai
ngôn ngữ là một đối tượng phức tạp, gây tranh cãi nên chúng tôi buộc phải
điểm lại những quan điểm khác nhau về thành phần câu này trong Anh ngữ
học và Việt ngữ học.
Về cấu tạo của trạng ngữ, trong luận án này, chúng tôi tạm chia trạng
ngữ theo cấu tạo là trạng ngữ có cấu tạo là từ, cụm từ và mệnh đề. Về vị trí,
chúng tôi chia thành vị trí đầu, giữa và cuối câu. Kết quả khảo sát, thống kê,
phân loại 1500 trạng ngữ trong tiếng Anh như sau:
Bảng 2.1: Cấu tạo, vị trí của trạng ngữ tiếng Anh
Phân loại trạng ngữ về Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Cấu tạo Từ 242 16.1
Cụm từ 499 33.3
Mệnh đề 759 50.6
Vị trí Đầu câu 1037 69.1
Giữa câu 316 21.1
Cuối câu 147 9.8
40
Như vậy, về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh, chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần
lượt là mệnh đề (50.6%), cụm từ (33.3%), từ (16.1%). Về vị trí của trạng ngữ,
chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần lượt là đầu câu (69.1%), giữa câu (21.1%), cuối câu
(9.8%).
Đối với tiếng Việt, kết quả khảo sát, thống kê, phân loại 1500 trạng ngữ
như sau:
Bảng 2.2: Cấu tạo, vị trí của trạng ngữ tiếng Việt
Phân loại trạng ngữ về Số lƣợng Tỷ lệ (%)
Cấu tạo Từ 278 18,5
Cụm từ 804 53,6
Mệnh đề 418 28,9
Vị trí Đầu câu 1315 87,6
Giữa câu 166 11,1
Cuối câu 19 1,3
Như vậy, về cấu tạo của trạng ngữ tiếng Việt, chiếm tỉ lệ nhiều nhất lần lượt
là cụm từ (53,6%), mệnh đề (28,9%), từ (18,5%). Về vị trí của trạng ngữ, chiếm tỉ lệ
nhiều nhất lần lượt là đầu câu (87,6%), giữa câu (11,1%), cuối câu (1,3%).
2.2. Cấu tạo và vị trí của trạng ngữ tiếng Anh
2.2.1. Cấu tạo của trạng ngữ tiếng Anh
2.2.1.1. Trạng ngữ có cấu tạo là từ (danh từ, trạng từ)
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 242/1500 trạng ngữ có cấu tạo
là từ (chiếm 16.1%). Ví dụ:
"A precious little you knew about babies yesterday." (Gone with the
wind, 355) "Nội chuyện đỡ đẻ hôm qua cũng đủ biết rồi."
"He‘ll be back at work tomorrow." (Gone with the wind, 663) "Mai,
hắn sẽ trở lại làm việc."
41
Trong các ví dụ trên, các từ yesterday và tomorrow là trạng từ làm
trạng ngữ.
Qua khảo sát, chúng tôi thấy, trong tiếng Anh, các trạng ngữ có cấu tạo
là từ có trạng ngữ chỉ thời gian; trạng ngữ chỉ địa điểm; trạng ngữ chỉ cách
thức; trạng ngữ chỉ lý do, trạng ngữ chỉ sự ưu tiên. Ví dụ:
"Yesterday Amy ran over and put her arms around Tracy, and Tracy
pushed her away." (If Tomorrow Comes, 103) (trạng ngữ chỉ thời gian) "Hôm
qua Amy chạy tới ôm Tracy, và Tracy đẩy con bé ra."
"Cooper was carefully studying the photograph." (If Tomorrow Comes,
417) (trạng ngữ chỉ cách thức) ―Cooper thận trọng xem xét các bức ảnh.‖
Trạng ngữ không có dạng cấu tạo là từ bao gồm: trạng ngữ chỉ mục
đích, trạng ngữ chỉ nguyên nhân-kết quả, trạng ngữ chỉ sự so sánh, trạng ngữ
chỉ sự tương quan, trạng ngữ diễn giải, trạng ngữ chỉ quan hệ câu.
2.2.1.2. Trạng ngữ có cấu tạo là cụm từ
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 499/1500 trạng ngữ là cụm từ
(chiếm 33.3%), trong đó có trạng ngữ được cấu tạo là cụm danh từ, cụm giới từ.
Trạng ngữ có cấu tạo là cụm danh từ
"Last year Langdon's visibility had increased a hundredfold after his
involvement in a widely publicized incident at the Vatican." (The Da Vinci
Code,6) "Năm ngoái danh tiếng của Langdon đã tăng lên gấp trăm lần sau
khi ông tham gia vào một sự kiện được công chúng biết đến rộng rãi ở
Vatican."
Trong ví dụ trên, cụm danh từ last year là trạng ngữ.
Trạng ngữ có cấu tạo là cụm giới từ
Trạng ngữ được cấu tạo là cụm giới từ. Ví dụ:
"Her face was beautiful in the moonlight" (The Da Vinci Code,379)
"Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp."
42
Trong ví dụ trên, cụm giới từ in the moonlight là trạng ngữ.
2.2.1.3. Trạng ngữ là mệnh đề
Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 759/1500 trạng ngữ là mệnh đề
(chiếm 50.6%).
Khi mệnh đề trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu, thường có dấu phẩy (,) để
ngăn cách nó với mệnh đề phía sau. Ví dụ:
"Since the return of her wedding ring, Melanie had felt that Rhett was
a gentleman of rare refinement and delicacy and she was shocked at this
remark." (Gone with the wind, 183) "Từ ngày được chuộc giùm nhẫn cưới,
Melanie cho rằng Rhett Butler là một nhà quí phái tinh tế, khéo léo nên không
khỏi tức vì nhận xét như thế."
"After he‘d worked all day with the wounded, he came and sat with
them." (Gone with the wind, 342) "Sau khi bận rộn cả ngày với thương binh,
y quay lại đây và ngồi cạnh giường bệnh."
Khi mệnh đề trạng ngữ đứng phía sau mệnh đề chính, không cần sử
dụng dấu phẩy (,) để ngăn cách 2 mệnh đề.
"She made a cup of coffee and let it grow cold while she sat in the
dark". (If Tomorrow Comes, 47) "Nàng pha một tách cà phê và rồi để đó
lạnh ngắt, ngồi thừ trong bóng tối."
"He leaned down across the counter until his mouth was near her ear
and hissed " (Gone with the wind,149) "Hắn nghiêng mình qua quầy hàng
cho đến khi miệng kề sát bên tai nàng và thì thầm, với giọng mô phỏng các
kép hát trên sân khấu"
2.2.2. Vị trí của trạng ngữ tiếng Anh
2.2.2.1. Trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu
Kết quả khảo sát cho thấy, có 1037/1500 (chiếm 69.1%) thành phần
trạng ngữ đứng đầu câu. Trạng ngữ đứng ở vị trí đầu câu thường có chức năng
43
mở đầu câu hoặc nhằm mục đích nhấn mạnh, theo nghĩa biểu thị chủ đề của
câu nói. Thông thường, trạng ngữ được phân biệt với các thành phần câu khác
bằng dấu phẩy. Ví dụ:
"Just below Saunière's breastbone, a bloody smear marked the spot where
the bullet had pierced his flesh." (The Da Vinci Code, 29) "Ngay bên dưới
xương ức của Saunière, một vết máu đánh dấu nơi viên đạn găm vào thịt ông."
"Once in the house, Scarlett stumbled up the stairs to her bedroom and,
clutching her Rosary from the table, dropped to her knees and tried to pray".
(Gone with the wind, 251) "Về đến nhà, Scarlett gắng gượng leo lên lầu vào
phòng riêng và nắm chặt chuỗi hạt, quỳ xuống và cố gắng cầu nguyện."
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thành phần trạng ngữ không có
dấu phẩy để ngăn cách với các thành phần câu khác. Ví dụ:
"If there was less symphathy in the world there would be less trouble in
the world." (The call of the wild,176) "Trên thế giới này bớt sự thông cảm thì
cũng bớt sự hỗn loạn."
Trạng ngữ chứa trạng từ cung cấp chính xác số lần ( một lần, hai lần..)
thường xuất hiện gần cuối câu nhưng nó cũng có thể đứng ở đầu câu:
"Cryptanalysts call it the fold-over. Half as complicated. Twice as
clean." (The Da Vinci Code, 270) "Người giải mật mã gọi nó là fold-over.
Giảm nửa phần phức tạp. Nhưng lại rõ ràng gấp đôi."
"Twice her long skirt took fire and she slapped it out with her hands."
(Gone with the wind,424) "Hai lần váy dài của cô ấy bốc cháy và cô ấy
dùng tay dập nó."
Các trạng ngữ: sometimes, usually; eventually, finally có thể đứng đầu
câu. Ví dụ:
Sometimes, but not often, you did let him kiss you. (Gone with the wind,
153) "Đôi khi chớ không được thường lắm, mình cứ để họ hôn"
44
Finally the call connected. (The Da Vinci Code,45) "Cuối cùng cuộc
gọi được kết nối."
"Usually Orsatti enjoyed the free midnight snack, but this evening he
was impatient to get back to the table." (If Tomorrow Comes, 146) "Thường
thường thì Orsatti rất khoái bữa ăn này, song đêm nay lão chị ngong ngóng
trở lại canh bạc."
Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các từ/cụm từ như above, here, there, at
home, upstairs, in January, last year; as a rule, from time to time, once,
maybe, perhaps có thể đứng ở đầu hoặc cuối câu.
"Turning toward the window, Sophie gazed through the alarm mesh
embedded in the plate glass, down the dizzying forty feet to the pavement
below". (The Da Vinci Code, 68) "Quay về phía cửa sổ, Sophie phóng mắt
qua mạng lưới báo động gắn trên những tấm kính dầy nhìn xuống đường từ
độ cao chóng mặt khoảng mười hai mét"
"Our cryptographers are already working on it. We believe these numbers
may be the key to who killed him. Maybe a telephone exchange or some kind
of social identification. Do the numbers have any symbolic meaning to you?"
(The Da Vinci Code,37) "Nhân viên mật mã của chúng tôi đang giải mã nó.
Chúng tôi tin rằng những con số này có thể là chìa khóa dẫn đến kẻ sát nhân.
Có thể là một tổng đài điện thoại hoặc một thứ thẻ căn cước nào đó. Liệu
những con số này có ý nghĩa biểu tượng nào với ông không?"
Đối với ―maybe‖ và ―perhaps‖ vị trí đầu câu được dùng phổ biến hơn. Ví
dụ, bởi đây là những trạng ngữ chỉ tình thái, có tầm tác động (scope) đến toàn
bộ mệnh đề:
"Perhaps there was something to what Mammy said." (Gone with the
wind, 972) "Có lẽ có điều gì đó mà Mammy nói."
45
"Maybe, by imitating a famous Da Vinci drawing, Saunière was simply
echoing some of their shared frustrations with the modern Church's
demonization of the goddess" (The Da Vinci Code, 40) "Có thể, bằng việc bắt
chước một bức vẽ nổi tiếng của Da Vinci, Saunière chỉ đơn thuần phản ánh
một vài điều thất vọng chung của họ đối với việc Giáo hội hiện đại quỷ hóa
nữ thần"
Các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ briefly, carefully, easily,
quickly, slowly, now, soon, immediately, suddenly; occasionally,
economically, financially, logically, scientifically, technically, apparently,
certainly, clearly, evidently, obviously có thể được dùng ở nhiều vị trí khác
nhau, trong đó có vị trí đầu câu. Ví dụ:
"Immediately the fires which smoldered beneath tight basques flamed
wildly and the two organizations split up and glared hostilely." (Gone with
the wind, 677) "Lập tức những ngọn lửa âm ỉ trong những lồng ngực bùng lên
dữ dội và hai tổ chức liền phân biệt gườm gườm nhìn nhau."
- "Suddenly, he saw why Sophie was afraid." (The Da Vinci Code, 341)
"Ông chợt nhận ra tại sao Sophie lại sợ hãi."
Ở trong các ví dụ trên, Immediately và Suddenly là các trạng ngữ được
đứng ở đầu câu.
2.2.2.2. Trạng ngữ đứng ở vị trí giữa câu
Trong tiếng Anh, trạng ngữ được đặt ở vị trí giữa câu chiếm tỉ lệ cao
(21.1%). Ở vị trí này, đối với các trạng ngữ mệnh đề thì thường được ngăn
cách bởi dấu phẩy. Ví dụ:
"Jeff, when you deal with friends, you don't get hurt." (If
Tomorrow Comes, 214) "Jeff, khi cậu làm ăn với bạn bè, cậu sẽ không bị thua
thiệt"
46
"My God, if you needed money that badly, you should have discussed
it with me" (If Tomorrow Comes, 41) "Lạy Chúa, nếu cần tiền đến thế thì em
phải nói với tôi chứ."
Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi các trạng từ always, ever, hardly
ever, never, often, rarely, seldom, almost, hardly, nearly, quite, scarcely,
certainly, defitely, probably, just chúng thường đứng giữa câu. Ví dụ:
"Although she recognized her boss's voice, in fifteen years she had never
been awoken by him." (The Da Vinci Code, 935) "Bà nhận ra giọng bề trên của
mình mặc dù trong mười lăm năm qua, bà chưa bao giờ bị ông đánh thức."
"She's outsmarted half the police forces in EuropeAnd she'll
probably do the same to you." (If Tomorrow Comes, 339) "Cô ta đã qua mặt
tới một nửa lực lượng cảnh sát châu Âu và có thể với cả các ông nữa"
"She would take Ashley in hand and then he would certainly learn".
(Gone with the wind, 684) "Nàng sẽ phụ trách Ashley và nhất định chàng sẽ
thạo dần."
Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi sometimes, usually; eventually,
finally ngoài vị trí đầu câu, chúng còn có thể đứng ở giữa câu. Ví dụ:
"The brain does it sometimes with powerful symbols." (The Da Vinci
Code, 206) "Tiên kiến hình thành sẵn trong ta về cảnh này mạnh đến mức trí
óc ta loại trừ điều lạc lõng đó và bất chấp con mắt ta"
―Well,‖ she said finally, ―doesn‘t it occur to you that we‘ll have to get the
money somewhere. (Gone with the wind, 440) "Tốt, cuối cùng cô nói, hình
như anh có vẻ chẳng biết tìm số tiền đó ở đâu?"
"Ernestine usually returned from the visitors' room smiling and
cheerful" (If Tomorrow Comes, 88) "Ernestine thường từ nhà khách trở về
với vẻ mặt tươi cười."
47
Đối với các trạng ngữ được cấu tạo bởi constantly, continuously,
regularly, completely, entirely, greatly already, lately, recently ngoài vị trí
cuối câu, chúng còn đứng giữa câu. Ví dụ:
"Love letters were constantly flying around the prison, delivered by the
garbage ...es. Dù vậy, giây phút vinh
quang của Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ.
266
1257. Now, like a house of cards, it was collapsing in on itself... and the end was
nowhere in sight.
Bây giờ, thì giống như ngôi nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ... và đoạn kết
còn mù mịt chưa thấy đâu cả.
266
1258. For his part, Langdon was amazed to have heard it. Về phần ông, Langdon cũng
ngạc nhiên về những gì nghe được.
267
1259. Outside, the dawn was coming fast, its crimson aura gathering off the starboard.
Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh, quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn
phải máy bay.
267
1260. However, if the password they had entered were incorrect, Sophie's outward
force on the ends would be transferred to a hinged lever inside, which would
pivot downward into the cavity and apply pressure to the glass vial, eventually
272
Pl.143
shattering it if she pulled too hard. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không
đúng, lực kéo ra của Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có
lắp bản lề ở bên trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực
trên chiếc lọ thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh.
1261. Now gripping the stone tube, Sophie double-checked that all of the letters were
properly aligned with the indicator. Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie
kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ.
273
1262. Then, slowly, she pulled. Nothing happened. She applied a little more force. Sau
đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn.
273
1263. Suddenly, the stone slid apart like a well-crafted telescope. Đột nhiên, hòn đá
trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo.
274
1264. Reaching over, Langdon lifted the smaller cryptex. Với lấy cái hộp mật mã nhỏ
hơn, Langdon nâng nó lên.
274
1265. At that moment, fifteen miles ahead of them, six Kent police cars streaked
down rain-soaked streets toward Biggin Hill Executive Airport. Vào lúc
đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên
những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill
Executive.
274
1266. Moving down a lavish hallway, Collet entered the vast ballroom study, where the
chief PTS examiner was busy dusting for fingerprints. Đi theo hành lang sang
trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của
PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay.
275
1267. On the back, Collet found notations scrawled in English, describing a cathedral's
long hollow nave as a secret pagan tribute to a woman's womb.Ở mặt sau tấm
ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa
trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối
với tử cung người đàn bà.
275
1268. For a moment, Collet thought he recognized the timbre of the man's voice, but he
couldn't quite place it. Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng
nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể.
277
1269. For several seconds, Collet held the receiver. Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống
nghe.
277
1270. As Langdon and Sophie looked on, Teabing got up and went to the far side of the
cabin, then slid aside a wall panel to reveal a discreetly hidden wall safe. Trong
khi Langdon và Sophie nhìn theo, Teabing đứng dậy, đi sang mé bên kia cabin,
rồi kéo một tấm ván tường sang bên để lộ một chiếc két được giấu kín sau
tường.
278
1271. Rémy approached up the aisle now, the Heckler Koch pistol cradled in his hand.
"Sir, my agenda?" Lúc này, Rémy theo lối đi giữa các hàng ghế tiến lại gần, khẩu
Heckler & Koch trong tay: "Thưa ngài, nhiệm vụ của tôi là gì?".
278
1272. Edwards's nerves felt frayed now as he watched the jet coming in. Lúc này,
Edward cảm thấy thần kinh căng thẳng khi nhìn chiếc phản lực tiến vào.
281
1273. At the French authorities' request, Kent police had ordered the Biggin Hill air
traffic controller to radio the Hawker's pilot and order him directly to the terminal
rather than to the client's hangar. Theo yêu cầu của nhà chức trách Pháp, cảnh sát
Kent ra lệnh cho nhân viên kiểm soát không lưu đánh điện bằng rađiô cho phi
công của chiếc máy bay Hawker và yêu cầu anh ta đến thẳng ga hành khách thay
281
Pl.144
vì nhà chứa máy bay riêng của Teabing.
1274. Though the British police did not generally carry weapons, the gravity of the
situation had brought out an armed response team. Cho dù cảnh sát Anh không
thường mang vũ khí, nhưng do tính nghiêm trọng của tình hình nên vẫn xuất hiện
một đội được trang bị vũ khí.
281
1275. Now, eight policemen with handguns stood just inside the terminal building,
awaiting the moment when the plane's engines powered down. Tám cảnh sát với
súng ngắn đứng ở bên trong ga hành khách, chờ lúc động cơ máy bay dừng hẳn.
281
1276. Then the police would step into view and hold the occupants at bay until the
French police arrived to handle the situation. Sau đó cảnh sát xuất hiện và khống
chế những người trên máy bay cho đến khi cảnh sát Pháp đến xử lý tình hình.
281
1277. Seconds later, Edwards found himself wedged in a police car racing across the
tarmac toward the distant hangar. Lát sau, Edwards thấy mình ngồi kẹp trong
chiếc xe cảnh sát phóng qua đường băng về phía hăng-ga ở đằng xa.
281
1278. As the plane completed its 180-degree turn and rolled toward the front of the
hangar, Edwards could see the pilot's face, which understandably looked
surprised and fearful to see the barricade of police cars. Khi chiếc máy bay hoàn
thành động tác quay vòng 180o và chạy về phía trước hăng-ga, Edwards có thể
nhìn thấy mặt viên phi công, có thể hiểu được anh ta kinh ngạc và sợ hãi như thế
nào khi thấy cả một hàng rào xe cảnh sát.
282
1279. Now, as the limousine raced toward Kent, Langdon and Sophie clambered
toward the rear of the limo's long interior, leaving the monk bound on the floor.
Giờ đây, khi chiếc limousine phóng nhanh về phía Kent, Langdon và Sophie lồm
cồm đứng dậy đi về phía cuối khoang trong dài rộng của chiếc xe thượng đẳng,
để lại gã thầy tu bị trói trên sàn.
285
1280. Moments earlier, as the Hawker taxied into the deserted hangar, Rémy had
popped the hatch as the plane jolted to a stop halfway through its turn Nhiều phút
trước, lúc chiếc Hawker lăn bánh vào hăng-ga trống vắng, Rémy đã bật mở cửa
sập dưới bụng của máy bay trong khi nó khấp khểnh dừng lại giữa chừng vòng
của.
285
1281. With the police closing in fast, Langdon and Sophie dragged the monk down the
gangway to ground level and out of sight behind the limousine. Trong khi cảnh
sát cấp tốc áp sát hăng-ga, Langdon và Sophie kéo gã thầy tu xuống cầu thang rút
đến ngang mặt đất và khuất tầm mắt sau chiếc limousine.
285
1282. Then the jet engines had roared again, rotating the plane and completing its turn
as the police cars came skidding into the hangar. Sau đó, động cơ máy bay lại
gầm lên, hoàn tất vòng của của nó khi đoàn xe cảnh sát tràn vào hăng-ga.
285
1283. With that, Teabing's manservant opened the door at the rear of the stretch
limousine and helped his crippled master into the back seat. Với lời đe doạ đó,
người giúp việc của Teabing mở cửa sau chiếc limousine và đỡ ông chủ tàn tật
ngồi vào ghế sau.
284
1284. Then the servant walked the length of the car, climbed in behind the wheel, and
gunned the engine. Rồi, đi theo chiều dài của xe, ngồi vào sau vô lăng và khởi
động.
284
1285. So far, Leigh was being playfully cagey about where he thought they would
find the "knight's tomb," which, according to the poem, would provide the
password for opening the smaller cryptex. Cho đến giờ, Leigh vẫn chơi trò
285
Pl.145
kín kín hở hở về nơi mà ông nghĩ là họ có thể tìm thấy "mộ của người hiệp
sĩ", mà theo bài thơ, sẽ cung cấp mật khẩu cho việc mở cái hộp mật mã nhỏ
hơn.
1286. Now, as he read the words again, he processed them slowly and carefully,
hoping the pentametric rhythms would reveal a clearer meaning now that he was
on the ground. Giờ đây, khi đọc lại những từ trong bài thơ, ông từ từ nghiền
ngẫm thật cẩn thận, hy vọng giờ đây, ở trên mặt đất, tiết tấu ngũ bộ sẽ hé lộ ý
nghĩa rõ ràng hơn.
285
1287. Despite the apparent straightforwardness of the verse, Langdon still had no idea
who this knight was or where he was buried. Mặc dù bài thơ có vẻ dễ hiểu,
Langdon vẫn không sao biết được hiệp sĩ đó là ai hoặc được chôn ở đâu.
286
1288. Moreover, once they located the tomb, it sounded as if they would be searching
for something that was absent. Hơn nữa, một khi đã xác định được vị trí ngôi mộ,
xem ra còn phải tìm một cái gì đó bị thiếu.
286
1289. Actually, it's just off Fleet Street on Inner Temple Lane. Thực tế, nó ở ngõ Inner
Temple ngay sát phố Fleet
287
1290. Sophie turned to Langdon now, her voice quiet. "Robert, nobody knows you and
I are in England." Lúc này Sophie quay sang Langdon, giọng của cô êm ả:
"Robert, không ai biết anh và tôi đang ở Anh".
287
1291. Although Langdon could not imagine the Judicial Police tangled up in the Holy
Grail, he sensed too much coincidence tonight to disregard Fache as a possible
accomplice.M ặc dù Langdon không thể tưởng tượng được là Cảnh sát tư pháp
lại dây dưa vào chuyện Chén Thánh, ông vẫn cảm thấy đêm nay có quá nhiều
trùng hợp ngẫu nhiên đến nỗi không thể bỏ qua khả năng Fache có thể là một
tòng phạm.
288
1292. Then again, Sophie had argued that Fache might simply be overzealous to make
the arrest. Lại nữa, Sophie thì cứ biện luận rằng Fache đơn giản chỉ quá sốt sắng
thực hiện việc bắt giữ.
288
1293. After all, the evidence against Langdon was substantial. Xét cho cùng, bằng
chứng chống lại Langdon là đáng kể.away.
288
1294. "Even so, I can't help but think you've done everything he would have wanted.
Dù vậy, tôi vẫn không thể không nghĩ là anh đã làm mọi thứ ông tôi muốn
288
1295. In the distance, now, the skyline of London began to materialize through the
dawn drizzle. Đằng xa, đường chân trời của London đã bắt đầu hiện ra qua làn
mưa bụi lúc rạng đông.
289
1296. Once dominated by Big Ben and Tower Bridge, the horizon now bowed to the
Millennium Eye—a colossal, ultramodern Ferris wheel that climbed five hundred
feet and afforded breathtaking views of the city.Trước kia, thống ngự ở London
là đồng hồ Big Bellvà cây cầu Tower Bridge, giờ đây, chân trời cúi chào
Millennium Eye Con mắt Thiên niên kỷ – chiếc bánh xe quay Ferris khổng lồ
cực kỳ hiện đại leo tớỉ độ cao một trăm năm mươi mét, từ đó ngắm quang cảnh
thành phố thật ngây ngất.
289
1297. Consecrated on the tenth of February in 1185 by Heraclius, Patriarch of
Jerusalem, the Temple Church survived eight centuries of political turmoil, the
Great Fire of London, and the First World War, only to be heavily damaged by
Luftwaffe incendiary bombs in 1940. ược Heraclius, giáo trưởng của Jerusalem,
291
Pl.146
làm phép vào ngày 10 tháng 2 năm 1185, nhà thờ đã tồn tại qua tám thế kỷ hỗn
loạn về chính trị, cuộc đại hoả hoạn ở London, chiến tranh thế giới lần thứ nhất,
và chỉ bị hư hỏng nặng nề nhất trong lần bị không quân Đức ném bom cháy vào
năm 1940.
1298. After the war, it was restored to its original, stark grandeur.Sau chiến tranh, nó
đã được phục chế trở về dáng vẻ hùng vĩ hoang dại ban đầu.
291
1299. After a moment, he pulled back, a scheming look on his face as he pointed to the
bulletin board. Sau một lát, ông lùi lại, vẻ mưu mô hiện trên nét mặt khi ông chỉ
lên bảng thông báo.
291
1300. Inside the church, an altar boy was almost finished vacuuming the communion
kneelers when he heard a knocking on the sanctuary door. Bên trong nhà thờ,
một lễ sinh đang sắp hoàn thành việc hút bụi những gối quỳ làm lễ Thánh thể thì
nghe thấy tiếng gõ cửa thánh đường.
291
1301. Suddenly, the knocking turned to a forceful banging, as if someone were hitting
the door with a metal rod. Đột nhiên, tiếng gõ chuyển thành những cú đập rất
mạnh như thể ai đó đang nện vào cửa bằng một thanh kim loại vậy.
291
1302. Every year Sir Christopher Wren's descendants bring a pinch of the old man's
ashes to scatter in the Temple sanctuary. Hàng năm, hậu duệ của ngài
Christopher Wren đều mang một nhúm tro của ngài để rải trong điện thờ linh
thiêng này.
292
1303. The woman hesitated a moment and then, as if awaking from a trance,
reached in her sweater pocket and pulled out a small cylinder wrapped in
protective fabric. Người phụ nữ do dự trong giây lát rồi, như tỉnh sau cơn
nhập đồng, thò tay vào túi áo len, lấy ra một vật hình trụ bọc trong một
miếng vải.
293
1304. Maybe Father Knowles had simply forgotten these family members were
coming. Có thể cha Knowles đã quên bẵng là những thành viên của gia đình này
sẽ tới.
293
1305. If so, then there was far more risk in turning them away than in letting them in.
Nếu vậy, để họ ra đi còn nguy hại hơn là cứ để họ vào.
293
1306. After all, they said it would only take a minute. What harm could it do? xét cho
cùng, họ nói chỉ mất một phút thôi mà.
293
1307. Uncertain, the boy returned to his chores, watching them out of the corner of his
eye.
293
1308. Even so, I never moved a muscle. Thậm chí, tôi không dám động đậy một cơ bắp
nào.
293
1309. As the group moved through the rectangular annex toward the archway leading
into the main church, Langdon was surprised by the barren austerity. Khi cả
nhóm đi xuyên qua gian nhà phụ hình chữ nhật về phía cổng tò vò dẫn vào nhà
thờ chính, Langdon rất ngạc nhiên về sự khắc khổ ở đây.
293
1310. Although the altar layout resembled that of a linear Christian chapel, the
furnishings were stark and cold, bearing none of the traditional ornamentation.
Mặc dù thiết kế của bàn thờ cũng giống như ở nhà thờ Cơ đốc, nhưng các đồ bày
biện thật ảm đạm và lạnh lẽo, không chút trang trí truyền thống.
293
1311. Even from here, the walls looked unusually robust. Thậm chí từ đây, những bức
tường trông hùng dũng lạ thường.
293
Pl.147
1312. For European nobility, traveling with gold was perilous, so the Templars allowed
nobles to deposit gold in their nearest Temple Church and then draw it from any
other Temple Church across Europe. Đối với giới quý tộc châu Âu, mang vàng
theo trong những chuyến đi là rất nguy hiểm, do đó các Hiệp sĩ Templar đã cho
phép giới quý tộc gửi vàng vào Nhà thờ Temple gần nhất và sau đó rút vàng ra từ
bất kỳ một nhà thờ nào khác của họ ở khắp châu Âu.
294
1313. As they arrived outside the circular chamber, Teabing shot a glance over his
shoulder at the altar boy, who was vacuuming in the distance. Khi họ đến bên
ngoài điện thờ hình tròn, Teabing liếc nhanh nhìn cậu lễ sinh đang hút bụi cách
đó một quãng.
294
1314. All of the figures were deeply weathered, and yet each was clearly unique—
different armory pieces, distinct leg and arm positions, facial features, and
markings on their shields. Tất cả những hình người ở đây đã dầu dãi phong
sương và mặc dù vậy mỗi hình đều rất riêng, độc đáo – các bộ phận áo giáp, tư
thế tay chân rõ rành, nét mặt và dấu hiệu trên khiên, tất cả đều khác nhau.
294
1315. In a rubbish-strewn alley very close to Temple Church, Rémy Legaludec pulled
the Jaguar limousine to a stop behind a row of industrial waste bins. Trong một
con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy Legaludec lái chiếc
limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác thải công nghiệp.
295
1316. Sensing Rémy's presence, the monk in the back emerged from a prayer-like
trance, his red eyes looking more curious than fearful. Cảm thấy sự có mặt của
Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như
mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò hơn là sợ hãi.
295
1317. All evening Rémy had been impressed with this trussed man's ability to stay
calm. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con người đang
bị trói gô này.
295
1318. After some initial struggles in the Range Rover, the monk seemed to have
accepted his plight and given over his fate to a higher power.Sau đôi chút kháng
cự ban đầu trong chiếc xe Range Rover, gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ
và phó mặc sốphận cho quyền lực tối cao.
295
1319. Loosening his bow tie, Rémy unbuttoned his high, starched, wing-tipped collar
and felt as if he could breathe for the first time in years. Nới lỏng nơ đeo cổ,
Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang hai bên của mình và cảm thấy
như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm
295
1320. Searching the bar, Rémy found a standard service wine-opener and flicked open
the sharp blade. Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu chuẩn
và bật mở lưỡi dao sắc nhọn.
295
1321. Now those red eyes flashed fear. Bây giờ đôi mắt đỏ ánh lên sự sợ hãi. 295
1322. Now, as the knife descended, Silas clenched his eyes shut. Giờ đây, khi con dao
hạ xuống, Silas nhắm chặt mắt lại.
295
1323. As the biting heat tore through all of his muscles now, Silas clenched his eyes
tighter, determined that the final image of his life would not be of his own killer
Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt hơn, quyết định rằng hình
ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết mình.
296
1324. Arriving beside her both men gazed down in confusion at the tenth tomb. Tới bên
cạnh cô, cả hai bối rối nhìn trân trân xuống ngôi mộ thứ mười.
300
1325. Rather than a knight lying in the open air, this tomb was a sealed stone casket. 300
Pl.148
Thay vì một hiệp sĩ nằm ở ngoài trời, ngôi mộ này là một quan tài đá đóng kín.
1326. Like a ghost, Silas drifted silently behind his target. Như một bóng ma, Silas lặng
lẽ dượt sau mục tỉêu của mình
303
1327. Before she could turn, Silas pressed the gun barrel into her spine and wrapped a
powerful arm across her chest, pulling her back against his hulking body. Trước
khi cô kịp quay lại, Silas đã gí nòng súng vào xương sống và vòng cánh tay
cường tráng qua ngực cô, kéo lưng cô áp vào thân hình hộ pháp của hắn.
303
1328. Forty feet away, peering out from the annex pews near the archway, Rémy
Legaludec felt a rising alarm. Cách đó hơn mười mét, nhòm ra từ hàng ghế phụ
gần cửa tò vò Rémy Legaludec cảm thấy một nỗi hoảng sợ dâng lên.
304
1329. The maneuver had not gone as planned, and even from here, he could see Silas
was uncertain how to handle the situation. Kế hoạch đã không được tiến hành
như dự kiến, và thậm chí từ chỗ này, ông ta cũng có thể thấy là Silas đang phân
vân không biết xử lý tình huống như thế nào.
304
1330. At the Teacher's orders, Rémy had forbidden Silas to fire his gun. Theo lệnh của
Thầy Giáo, Rémy đã cấm Silas nổ súng.
304
1331. Since then, every moment he had spent inside Château Villette had been leading
him to this very instant. Từ đó, mỗi giây phút y sống trong Château Villette đều
dẫn dắt y đến chính khoảnh khắc này đây
304
1332. If Langdon dropped it, all would be lost. Nếu Langdon thả nó xuống, tất cả sẽ tan
biến.
304
1333. If others see you, they will need to be eliminated, and there has been enough
killing already. Nếu để những người kia thấy anh, ta sẽ buộc phải khử họ, mà đến
giờ đã quá đủ chuyện giết chóc rồi
304
1334. Later, I will tell you Ta sẽ nói với anh sau 305
1335. For the moment, you must act quickly. Lúc này, anh phải hành động nhanh
chóng.
305
1336. If the others figure out the true location of the tomb and leave the church before
you take the cryptex, we could lose the Grail forever. Nếu bọn kia tìm ra vị trí
thật của ngôi mộ và ra khỏi nhà thờ trước khi anh lấy được hộp mật mã thì chúng
ta sẽ mất Chén Thánh vĩnh viễn
305
1337. Now, however, here in the Temple Church, with Langdon threatening to break
the keystone, Rémy's future was at risk. Tuy nhiên, giờ đây, trong Nhà thờ
Temple này, với Langdon đang đe doạ sẽ đập nát viên đá đỉnh vòm, tương lai của
Rémy đang lâm nguy.
305
1338. Stepping from the shadows, Rémy marched into the circular chamber and aimed
the gun directly at Teabing's head.Bước ra từ bóng tối, Rémy tiến vào phòng thờ
hình tròn và nhắm súng thắng vào đầu Teabing
305
1339. Besides, he still might prove useful.Ngoài ra, ông ta vẫn còn có thể hữu ích 307
1340. Throughout history, those who held knowledge of the Grail had always been
magnets for thieves and scholars alike.Xuyên suốt lịch sử, những người biết
tường tận về Chén Thánh bao giờ cũng là cục nam châm thu hút bọn trộm cắp
cũng như các học giả.
310
1341. I made a terrible mistake tonight. đêm nay, tôi đã phạm sai lầm khủng khiếp 312
1342. Even so, both of you are in danger. Tuy vậy, cả hai người đang gặp nguy hiểm. 312
1343. At the moment, however, you and Langdon need to go to the nearest London 312
Pl.149
police headquarters for refuge Vào thời điểm này, tuy nhiên, cô và Langdon cần
đến ngay sở chỉ huy cảnh sát London gần nhất để ẩn náu
1344. I've been trying to pull you back into safety for the last several hours Trong vài
tiếng vừa qua, tôi đã cố gắng kéo hai người trở về nơi an toàn
312
1345. Finally, Rémy climbed out of the rear of the limo, walked around, and slid
into the driver's seat beside Silas. Cuối cùng, Rémy ra khỏi khoang sau xe, đi
vòng quanh rồi vào ghế ngồi lái bên cạnh Silas.
315
1346. Minutes later, as the Jaguar stretch limo powered through the streets, Silas's cell
phone rang. Vài phút sau khi chiếc limousine Jaguar lao nhanh trên đường phố
thì điện thoại của Silas reo.
315
1347. It had been hours, and the operation had veered wildly off course. Suốt nhiều giờ
qua, kế hoạch hành động đã bị đối hướng xoay chiều xoành xoạch.
316
1348. Now, at last, it seemed to be back on track. "Cuốì cùng, giờ đây dường như đâu
lại vào đấy
1349. As Rémy took the phone, he knew this poor, twisted monk had no idea what fate
awaited him now that he had served his purpose. Khi Rémy cầm lấy điện thoại, y
biết tên thầy tu tội nghiệp dị hợm này không hề biết số phận nào đang đợi hắn sau
khi hắn đã hết phận sự.
317
1350. Despite the rain, Rémy had dropped him off a short distance away in order to
keep the limousine off the main streets. Mặc dù trời mưa, Rémy vẫn thả hắn
xuống cách đó một đoạn ngắn để giữ cho chiếc limousine tránh khỏi những phố
chính.
323
1351. At Rémy's suggestion, Silas had wiped down his gun and disposed of it through a
sewer grate. Theo gợi ý của Rémy, Silas đã chùi sạch dấu tay trên khẩu súng của
mình và vứt nó qua một cửa cống.
323
1352. Now, as Silas approached the Opus Dei building, the rain began to fall harder,
soaking his heavy robe, stinging the wounds of the day before. Lúc này, khi Silas
gần đến tòa nhà Opus Dei, mưa bắt đầu nặng hạt hơn, thấm đẫm chiếc áo choàng
to của hắn, làm nhói đau vết thương của ngày hôm trước.
323
1353. On sunny afternoons, Londoners picnic beneath the willows and feed the
pond's resident pelicans, whose ancestors were a gift to Charles II from the
Russian ambassador. Vào những buổi chiều đầy ánh nắng, những người dân
London pích-ních dưới những gốc liễu và cho đàn bồ nông cư ngụ trong hồ ăn,
tổ tiên của chúng là món quà do đại sứ Nga tặng vua Charles II.
324
1354. Minutes later, the police scanner crackled with the answeVài phút sau đó, máy
quét hình của cảnh sát lạo xạo cho câu trả lời.
327
1355. For centuries, men like Da Vinci, Botticelli, and Newton risked everything to
protect the documents and carry out that charge. trong nhiều thế kỉ, những người
như Da Vinci, Botticelli và Newton, đã bất chấp tất cả để bảo vệ những tài liệu
đó và thực hiện trọng trách đó.
343
1356. And now, at the ultimate moment of truth, Jacques Saunière changed his mind.
Và giờ đây, vào thời điểm tối hậu của sự thật thì Jacques Saunière lại thay đổi ý
định.
343
1357. Since the days of Constantine, the Church has successfully hidden the truth
about Mary Magdalene and Jesus. Kể từ thời Constantine, Giáo hội đã thành
công trong việc bưng bít sự thật về Mary Magdalene và Jesus.
343
1358. Five months ago, Aringarosa had received devastating news Năm tháng trước 349
Pl.150
đây, Aringarosa đã nhận được những tin choáng váng.
1359. Across the room, Sir Leigh Teabing watched with confidence as Langdon gazed
out the window as if under a spell. Đầu phòng đằng kia, ngài Leigh Teabing theo
dõi với lòng tự tin khi Langdon nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ như bị bùa mê.
354
1360. For some time now, Teabing had suspected Langdon might hold the key to the
Grail.Từ ít lâu nay, Teabing đã ngờ ngợ rằng có thể Langdon đang nắm chiếc
chìa khoá dẫn đến Chén Thánh.
354
1361. Yesterday afternoon, Silas had phoned the curator and posed as a distraught
priest. Chiều hôm qua, Silas đã gọi cho người phụ trách bảo tàng và sắm vai một
linh mục quẫn trí
354
1362. Now, with Langdon separated from Sophie on the far side of the room, Teabing
sensed he had successfully alienated the two companions from one another. Giờ
đây, với Langdon cách xa Sophie cả chiều dài của căn phòng, Teabing cảm thấy
rằng lão ta đã thành công, tách rời được hai người bạn đồng hành.
355
1363. At that moment, Langdon turned from the window. Đúng lúc đó, Langdon từ cửa
sổ quay lại
355
1364. Now, sitting in the back of the cab, Fache closed his eyes. Bây giờ, ngồi ở ghế
sau của taxi, Fache nhắm mắt lại.
361
1365. Last night, however, Aringarosa had received a call from Bezu Fache,
questioning the bishop about his apparent connection to a nun who had been
murdered in Saint-Sulpice Tuy nhiên, đêm qua, Aringarosa đã nhận được một
cuộc gọi của Bezu Fache, cật vấn ông về mối quan hệ rõ ràng là có giữa ông với
một nữ tu sĩ bị giết ở Saint-Sulpice.
361
1366. On the television, a lean French police officer was giving a press conference in
front of a sprawling mansion. Trên tivi, một sĩ quan cảnh sát Pháp gày mảnh
đang họp báo ngay trước tòa nhà dài rộng.
363
1367. Last night, your captain publicly charged two innocent people with murder. đêm
qua, đại uý của các ông đã công khai khép hai người vô can vào tội giết người.
363
1368. Finally, Fache ran his hand over his forehead, slicking back his hair as he gazed
down at Aringarosa cuối cùng, Fache vuốt trán, vuốt tóc ra sau, nhìn xuống
Aringarosa
363
1369. To him, Rosslyn Chapel seemed far too obvious a location. Với ông, nhà thờ
Rosslyn dường như là một địa điểm quá hiển nhiên.
364
1370. For centuries, this stone chapel had echoed with whispers of the Holy Grail's
presence. Trong nhiều thế kỉ, nhà thờ đá này đầy những lời xì xào về sự hiện diện
của Chén Thánh.
364
1371. In fact, virtually every Masonic temple in the world has two pillars like these
Trên thực tế, hầu như tất cả các ngôi đền Hội Tam điểm trên thế giới đều có hai
cột như thế này
367
1372. To this day the Rosslyn Trust offered a generous reward to anyone who could
unveil the secret meaning, but the code remained a mystery. Cho đến nay, Tập
đoàn Rosslyn đã treo giải thưởng hào phóng cho ai có thể khám phá ra ý nghĩa bí
hiểm, nhưng mật mã vẫn còn là một bí ẩn
368
1373. After a few minutes, the symbols got fuzzy Sau vài phút, các biểu tượng mờ dần 369
1374. Again Langdon sensed there remained some facet of this mystery yet to reveal
itself. Một lần nữa, Langdon cảm thấy một khía cạnh nào đó của điều bí ẩn này
vẫn chưa hé lộ.
370
Pl.151
1375. Out on the bluff, the fieldstone house was exactly as Sophie remembered it. Bên
ngoài, trên con đường dốc, ngôi nhà đá đúng hệt như trong trí nhớ Sophie.
371
1376. As Sophie approached, she could hear the quiet sounds of sobbing from within.
Khi Sophie lại gần, cô có thể nghe thấy những tiếng thổn thức từ bên trong.
371
1377. Through the screened door, Sophie saw an elderly woman in the hallway. Qua
cánh cửa che mành, Sophie nhìn thấy một bà già trong nhà.
372
1378. Throwing open the door, she came out, reaching with soft hands, cradling
Sophie's thunderstruck face. Qua cánh cửa mở, bà bước ra, vươn đôi bàn tay
mềm mại, ấp lấy khuôn mặt còn sững sờ của Sophie
372
1379. Although Sophie did not recognize her, she knew who this woman was. Mặc dù
Sophie không nhận ra bà, nhưng cô biết người phụ nữ này là ai.
372
1380. Through her tears, Sophie nodded, standing. Qua làn nước mắt, Sophie gật đầu
và đứng lên.
373
1381. When Langdon walked across the lawn to join them, Sophie could not imagine
that only yesterday she had felt so alone in the world. And now, somehow, in
this foreign place, in the company of three people she barely knew, she felt at
last that she was home. Khi Langdon băng qua bãi cỏ để nhập bọn với họ, Sophie
không thể tưởng tượng được chỉ mởi hôm qua cô còn cảm thấy thật cô đơn trên
đời, thế mà giờ đây, cách nào đó, ở nơi xa lạ này, bên cạnh ba con người cô mới
chỉ biết sơ sơ, cô bỗng cảm thấy, cuối cùng, mình đã trở về nhà.
373
1382. Through the window, he could see Sophie talking with her brother. Qua khung
cửa sổ, ông có thể thấy Sophie đang nói chuyện với em trai.
373
1383. Seeing her standing in my doorway tonight was the greatest relief of my life. I
cannot thank you enough Tối nay, thấy nó đứng trong khung cửa nhà tôi đó là
nỗi nguôi dịu lớn nhất của đời tôi. Tôi khó có thể bày tỏ hết lòng biết ơn đối với
ông
373
1384. For a moment, he thought he heard a woman's voice... the wisdom of the
ages... whispering up from the chasms of the earth. Trong thoáng chốc, ông
tưởng như nghe thấy giọng nói của một người phụ nữ... sự thông tuệ của bao
thế kỉ... đang thì thầm cất lên từ những kẽ nứt dưới lòng đất.
384