Luận án Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương theo pháp luật Việt Nam

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ NGỌC ANH TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ NGỌC ANH TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 9 38 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1

pdf193 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương theo pháp luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. GS TS Phan Trung Lý 2. TS Nguyễn Văn Quân HÀ NỘI – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả Hà Ngọc Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 7 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ......................................... 7 1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ..................... 21 1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ........................................... 24 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG ................................................... 26 2.1. Chính quyền địa phương và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ........................................................................................................ 26 2.2. Cơ sở khoa học xác lập trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương .............................................................................................................. 43 2.3. Điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương .............................................................................................................. 48 2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương .............................................................................................................. 55 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT NAM ................................................................ 63 3.1. Quá trình hình thành, phát triển các quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam ......................................... 63 3.2. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay ........................................................... 70 3.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay ........................................................... 82 3.4. Đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay ......................................................... 100 Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................................................. 118 4.1. Quan điểm tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 118 4.2. Các giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 125 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 150 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 164 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CQĐP Chính quyền địa phương CQHCNN Cơ quan hành chính nhà nước DVHCC Dịch vụ hành chính công GYPAKN Góp ý, phản ánh, kiến nghị TTHC Thủ tục hành chính TNGT Trách nhiệm giải trình HĐND Hội đồng nhân dân MTTTQ VN Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nxb Nhà xuất bản UBND Ủy ban nhân dân UBTVQH Ủy ban Thường vụ Quốc hội DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU, HỘP TRONG PHỤ LỤC STT Tên sơ đồ, bảng, biểu, hộp Trang 1 Sơ đồ 2.1: Sơ đồ mô tả trách nhiệm giải trình của chính quyền địa 163 phương ở Việt Nam 2 Biểu 3.1: So sánh các Chỉ số nhận định, đánh giá của người dân, tổ 164 chức về việc tổ chức cung ứng DVHCC năm 2017, 2018 3 Biểu 3.2: Chỉ số hài lòng về thủ tục hành chính năm 2018 167 4 Biểu 3.3: So sánh Chỉ số hài lòng năm 2017, 2018 168 5 Biểu 3.4: So sánh Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính chung 170 cả nước năm 2017, 2018 6 Biểu 3.5: Xu thế ở Chỉ số nội dung “công khai, minh bạch” gốc, 171 2011-2018 7 Biểu 3.6: Điểm trung bình toàn quốc các chỉ số nội dung gốc, giai đoạn 172 2011-2018 8 Biểu 3.7: Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần chi phí không chính 173 thức qua các năm 9 Biểu 3.8: Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Cạnh tranh bình đẳng 174 qua các năm 10 Biểu 3.9: Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Tính năng động qua 175 các năm 11 Biểu 3.10: Chỉ số quản trị toàn cầu 2014 176 12 Bảng 3.11: Danh mục các chuyên đề giám sát của Quốc hội và Ủy 177 ban Thường vụ Quốc hội (từ 2008 đến 2020) 13 Hộp 3.12: Công bố kết luận Thanh tra vụ AVG và Công bố kết luận 180 Thanh tra vụ cảng Quy Nhơn 14 Hộp 3.13: Đối thoại vụ Đồng Tâm 181 15 Hộp 3.14: Đối thoại vụ Thủ Thiêm 182 16 Hộp 3.15: Đối thoại vụ Công nghệ cao Thành phố Hồ chí Minh 184 17 Hộp 3.16: Họp báo Công bố kết luận Thanh tra vụ Thủ Thiêm 185 18 Hộp 3.17: Họp báo Công bố vụ Cây xanh Hà Nội 187 19 Biểu 3.18: Tiếp cận thông tin trực tuyến và Internet tại nhà, 2016-2018 188 20 Biểu 3.19: Chỉ số hài lòng chung cả nước về tiếp nhận, xử lý ý kiến 189 góp ý, phản ánh, kiến nghị năm 2018 21 Hộp 3.20: Chủ tịch HĐND Thanh Hóa dừng chất vấn 190 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam, đề cập đến trách nhiệm giải trình (TNGT) nói chung và TNGT của chính quyền địa phương (CQĐP) là vấn đề còn khá mới mẻ trên phương diện lý luận và thực tiễn. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa XI trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đánh giá: “Trách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràngtrách nhiệm giải trình của các cấp chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế” [33; tr243]. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả tiếp tục khẳng định: việc công khai, minh bạch và TNGT còn hạn chế và xác định nhiệm vụ, giải pháp: xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao TNGT [5;tr1]. Từ cơ sở chính trị nêu trên cho thấy, sự cấp thiết phải nghiên cứu TNGT của CQĐP theo pháp luật Việt Nam xuất phát từ những lý do sau đây: Một là, lý luận về TNGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện, nhiều vấn đề chưa được làm rõ hoặc còn có sự tranh luận khác nhau, chưa luận giải hết được thực tiễn phong phú của đời sống xã hội có liên quan đến TNGT của CQĐP. Những hạn chế trong nghiên cứu lý luận đã làm nhận thức về TNGT của CQĐP chưa đúng đắn và phù hợp, hiệu quả trong thực hiện TNGT của CQĐP chưa cao. Việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến TNGT của CQĐP, là tiền đề quan trọng giúp xác lập cơ sở khoa học và định hướng cho việc hoàn thiện TNGT của CQĐP trên nhiều phương diện, nhất là thực hiện hiệu quả pháp luật về TNGT của CQĐP trong điều kiện mới. Hai là, các quy định pháp luật về TNGT của CQĐP hiện nay ở Việt Nam còn hạn chế, bất cập, nhiều quy định chưa phù hợp; cơ chế thực hiện TNGT của CQĐP chưa được pháp luật quy định rõ; nội dung điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP chưa được quy định đầy đủ và mang tính hệ thống; nhiều quy định pháp luật liên quan đến cung cấp thông tin, công khai minh bạch, giám sát, tiếp công dân, tổ chức và hoạt động của CQĐPchưa phù hợp với thực tiễn. Những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật làm cho việc thực hiện TNGT của CQĐP trên thực tế hiệu quả chưa cao, mới 1 đáp ứng phần nào yêu cầu của người dân và các tổ chức trong xã hội, do đó, yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến TNGT của CQĐP. Ba là, thực tiễn thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về TNGT của CQĐP được đánh giá là một khâu yếu. TNGT của CQĐP, cá nhân người có thẩm quyền đối với cơ quan nhà nước cấp trên, đặc biệt, đối với người dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng hiệu quả chưa cao. Việc thực hiện TNGT của CQĐP, cá nhân người có thẩm quyền trong một số nội dung/lĩnh vực còn mang tính hình thức, chưa đạt được mục tiêu đặt raNhững hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện pháp luật về TNGT của CQĐP cần được nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện, tạo cơ sở cho việc xây dựng các định hướng và giải pháp khắc phục phù hợp với thực tiễn. Bốn là, trong giai đoạn mới, yêu cầu thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật liên quan đến TNGT của CQĐP được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019và các văn bản pháp luật khác về: phân quyền, phân cấp, ủy quyền; công khai, minh bạch; tiếp cận thông tin; thực hiện dân chủ; thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệmđòi hỏi các quy định này trong điều kiện mới cần được nhận thức đúng đắn, đầy đủ, vận dụng một cách phù hợp, bảo đảm thực hiện có hiệu quả. Chính vì vậy, cần nghiên cứu toàn diện, đánh giá đúng thực tiễn, nhận thức rõ các yêu cầu nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về TNGT của CQĐP và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định đó. Năm là, tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; đảm bảo quyền con người, quyền công dân; xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đã, đang và luôn đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi CQĐP và cá nhân người có thẩm quyền phải thực hiện TNGT một cách đầy đủ, toàn diện, thiết thực và hiệu quả cao. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu pháp luật về TNGT của CQĐP hiện nay ở Việt Nam là hết sức cần thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ, 2 với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc tăng cường TNGT nói chung và TNGT của CQĐP ở Việt Nam nói riêng. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ của luận án Để đạt được mục đích nêu trên, luận án xác định các nhiệm vụ như sau: - Hệ thống hóa, phân tích và nhận xét các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về những vấn đề có liên quan đến đề tài luận án. - Phân tích và xác lập khái niệm, đặc điểm, phân loại TNGT của CQĐP; phân tích cơ sở khoa học xác lập TNGT của CQĐP; phân tích khái niệm, đặc điểm pháp luật về TNGT của CQĐP. - Hệ thống hóa, phân tích làm rõ nội dung điều chỉnh pháp luật cơ bản về TNGT của CQĐP và các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam, nhận thức được kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân. - Xác lập các quan điểm, giải pháp tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu luận án xác định là: Các quan điểm khoa học liên quan đến TNGT và TNGT của CQĐP; hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến TNGT của CQĐP; thực tiễn thực hiện pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam; kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP ở một quốc gia có tính gợi mở đối với Việt Nam; các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: luận án xác định không gian nghiên cứu là TNGT của CQĐP trong phạm vi toàn quốc. Về thời gian: luận án xác định phạm vi nghiên cứu là TNGT của CQĐP theo quy định pháp luật Việt Nam từ 1946 (gắn liền với thời điểm ban hành Hiến pháp năm 1946) và tập trung chủ yếu vào các quy định pháp luật hiện hành. 3 Về nội dung: luận án xác định phạm vi nghiên cứu là TNGT của CQĐP theo pháp luật Việt Nam, trên cơ sở chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với phạm vi TNGT của CQĐP là hai thiết chế HĐND, UBND ở cấp tỉnh, huyện, xã và tương đương cấp tỉnh, huyện, cấp xã. Luận án không nghiên cứu TNGT của CQĐP đối với tổ chức Đảng, các cơ quan tư pháp và không nghiên cứu TNGT của cá nhân người đứng đầu, của cán bộ, công chức, viên chức thực hiện TNGT khi các cá nhân này thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao tại các cơ quan nhà nước ở CQĐP. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật; quan điểm về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nguyên lý chủ quyền nhân dân; nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước; thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận án còn sử dụng ở mức độ khác nhau các phương pháp nghiên cứu khác, cụ thể là: Chương 1: sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để phân tích tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến các vấn đề lý luận, thực trạng, quan điểm, định hướng, kiến nghị, giải pháp liên quan đến đề tài luận án. Sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp để xác định những kết quả, hạn chế được đề cập trong các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề kế thừa có chọn lọc, vấn đề chưa được nghiên cứu thấu đáo và những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu. Chương 2: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp để nghiên cứu và xác lập khái niệm, đặc điểm, phân loại, cơ sở khoa học xác lập TNGT của CQĐP. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, diễn dịch, quy nạp để nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP và các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP. Chương 3: sử dụng phương pháp lịch sử, thống kê, phân tích, so sánh để phân tích, đánh giá quá trình hình thành và phát triển pháp luật về TNGT của CQĐP ở 4 Việt Nam. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật hiện hành về TNGT của CQĐP ở Việt Nam, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Chương 4: sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, để xác lập các quan điểm, đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ và đề xuất các giải pháp tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam đảm bảo tính khả thi, toàn diện. Đồng thời luận án còn dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết, sơ kết trong các báo cáo của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn giám sát, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) của các địa phương; các số liệu điều tra, thống kê của các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước, cũng như những thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng có liên quan đến đề tài luận án. 5. Những đóng góp mới của luận án Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về TNGT của CQĐP trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam. Thứ hai, hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về TNGT của CQĐP như: khái niệm, đặc điểm TNGT của CQĐP; pháp luật, đặc điểm pháp luật về TNGT của CQĐP; cơ sở khoa học xác lập TNGT của CQĐP; điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP và các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP. Thứ ba, hệ thống hóa, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam, từ Hiến pháp năm 1946 cho đến nay, tập trung chủ yếu vào các quy định pháp luật hiện hành và việc thực hiện các quy định pháp luật đó. Thứ tư, xác lập các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam, đảm bảo tính khoa học, toàn diện, khả thi, phù hợp với điều kiện cụ thể, góp phần giải quyết những hạn chế, bất cập về TNGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học của luận án 6.1. Về mặt lý luận Luận án góp phần bổ sung, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam. Kết quả của luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học 5 cho việc xác định các quan điểm, giải pháp góp phần tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam. 6.2. Về mặt thực tiễn Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác lập pháp, lập quy, hoạch định chính sách, chỉ đạo, điều hành, của cơ quan, tổ chức và cá nhân người có thẩm quyền, đặc biệt, có ý nghĩa trong thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về TNGT ở các địa phương, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án còn được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo và những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận án gồm có 4 chương, 12 tiết. Cụ thể là: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài luận án Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương Chương 3: Thực trạng trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay Chương 4: Quan điểm và giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài 1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương liên quan đến đề tài - Về lý luận TNGT: Đề cập đến khái niệm, hình thức, phạm vi, nội dung và phân loại TNGT, qua tìm hiểu có: Công trình “Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh”, cho rằng nội hàm khái niệm TNGT bao gồm hai yếu tố: khả năng giải đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt được kết quả gì và việc chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra [75]. Công trình “Quản trị tốt lý luận và thực tiễn”, khẳng định: TNGT được tiếp cận khác nhau, trong khuôn khổ hoạt động của nhà nước được hiểu là trách nhiệm của cơ quan công quyền đã nhận quyền lực từ nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực vì nhân dân, thì đồng thời có nghĩa vụ trả lời, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Khẳng định phạm vi chủ thể và đối tượng hướng tới của TNGT là khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào việc các quyết định và hành động được tiến hành hay áp dụng ở trong hay ở ngoài cơ quan, tổ chức đó. Và phân loại: TNGT trước cơ quan dân cử; TNGT nội bộ hành chính; TNGT trình tư pháp; TNGT chính trị; TNGT nghề nghiệp; TNGT xã hội. [38]. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế thường niên: Phát triển bền vững vùng Trung Bộ Việt Nam, “Xây dựng và vận hành Chính phủ kiến tạo: Thực tiễn ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế”, tháng 10/2019. Một số tham luận đã đề cập đến nguồn gốc, khái niệm, phân loại TNGT và TNGT của Chính phủ, hay đề cập đến việc xây dựng và thực hiện TNGT của Chính phủ kiến tạo Singapore, thông qua đó đã gợi mở một số vấn đề liên quan đến TNGT của Chính phủ trong xây dựng và vận hành Chính phủ kiến tạo ở Việt Nam [117]. Công trình “Thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng”, khẳng định: ở Việt Nam khái niệm TNGT 7 được nhìn nhận khác nhau, luôn gắn với việc thực thi công vụ trong nền hành chính nhà nước và đưa ra khái niệm TNGT của CQHCNN trong thực thi công vụ nhằm phòng, chống tham nhũng. Và phân loại thành: TNGT của CQHCNN trước cơ quan quyền lực nhà nước; TNGT trong nội bộ CQHCNN; TNGT của CQHCNN với người dân [115]. Chương trình sáng kiến chống tham nhũng năm 2014 với chủ đề: "Tăng cường minh bạch, liêm chính và trách nhiệm giải trình”, đưa ra định nghĩa: TNGT là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực công phải cung cấp thông tin và làm rõ trách nhiệm về quyết định và hành vi của mình để người dân và các cơ quan giám sát có thể hiểu và đánh giá [79]. Công trình "Liêm chính và minh bạch trong kinh doanh vì sự phát triển bền vững", cho rằng: giải trình hay yêu cầu về tính giải trình còn được đề cập với tư cách là một yêu cầu quan trọng đối với việc thực hiện minh bạch, cụ thể là nhằm bảo đảm việc cung cấp đủ bằng chứng, căn cứ mang tính khách quan để giải thích hay làm rõ về các nội dung hoặc vấn đề cần minh bạch [59]. Công trình "Trách nhiệm giải trình trong phòng chống tham nhũng – Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam", của Bùi Phương Đình, cho rằng: TNGT là thuật ngữ có thể hiểu theo nghĩa rộng, hẹp khác nhau và phân loại TNGT theo chiều dọc, chiều ngang và theo lĩnh vực chính trị, pháp lý/hành chính, xã hội [35]. Công trình “Những điều kiện bảo đảm thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm góp phần phòng, chống tham nhũng”, cho rằng: hình thức TNGT chủ động là sự thể hiện ra bên ngoài, sự thừa nhận kết quả của việc thực hiện trách nhiệm công vụ của công chức và TNGT bị động hay còn gọi là TNGT theo yêu cầu có thể được coi là phương tiện, cơ chế đảm bảo việc nâng cao, duy trì trách nhiệm công vụ, chịu sự tác động của phản biện xã hội, giám sát xã hội. Bên cạnh đó, công trình cũng đề cập đến vai trò của TNGT trong thực hiện minh bạch hóa các quyết định, hành vi quản lý, hoạt động của các CQHCNN, góp phần phòng ngừa tham nhũng, quan liêu, lãng phí [116]. Công trình “Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Khoa học pháp lý, cho rằng, TNGT của CQHCNN là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có chức năng quản lý hành chính nhà nước và cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan này, chủ động thực hiện việc giải trình hoặc phải thực hiện nhiệm vụ giải trình khi bị các cơ quan, tổ 8 chức, cá nhân có liên quan yêu cầu, nhằm cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Nội dung TNGT là những vấn đề cụ thể mà các chủ thể có TNGT phải chuẩn bị và trả lời với các chủ thể quản lý cấp trên hoặc với các đối tượng quản lý có liên quan. Và cho rằng, dưới góc độ quản lý hành chính nội bộ và tác động ra bên ngoài có hình thức giải trình trong hệ thống và giải trình ra bên ngoài; dưới góc độ đối tượng tiếp nhận việc giải trình có TNGT đối với toàn thể nhân dân và TNGT đối với một hoặc một số nhóm đối tượng nhất định, hoặc xuất phát từ yêu cầu của chủ thể có hình thức giải trình chủ động và giải trình bị động [113]. Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học "Trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách công ớ Việt Nam hiện nay", cho rằng, TNGT là khái niệm thuộc phạm trù đạo đức và quản trị, là thuật ngữ chính trị - pháp lý, là một thuộc tính của người được ủy quyền trước người ủy quyền và các bên liên đới và khẳng định: đó là nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp thông tin, giải thích, trả lời một cách công khai, minh bạch gắn liền với việc nhận trách nhiệm và chịu trách nhiệm của người được ủy quyền đối với người ủy quyền và phải chịu trách nhiệm đối với kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ đối với người ủy quyền [15]. Luận văn Thạc sĩ Luật học “Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước”của Trần Quyết Thắng, cho rằng, TNGT là quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức và các cá nhân được nhà nước uỷ quyền, trong việc thực thi công vụ của mình, giải thích các thông tin và cam kết cũng như phải hứng chịu trách nhiệm khi để xảy ra hậu quả, một cách thường xuyên hoặc/và khi có yêu cầu, đối với cấp trên, các cơ quan, đại biểu dân cử, các thiết chế kiểm soát quyền lực khác thuộc nhà nước, các tổ chức ngoài nhà nước và công dân. Và phân loại dựa trên đối tượng giải trình, phương thức giải trình, chủ thể TNGT và khẳng định vai trò của TNGT trong quản lý nhà nước dưới góc nhìn quản trị nhà nước tốt, kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm soát xu hướng lợi ích trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước [78]. Công trình “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động báo cáo, giải trình tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta hiện nay“, Viện nghiên cứu Lập pháp [96] và “Báo cáo nghiên cứu điều trần tại các Ủy ban của nghị viện và khả năng áp dụng ở Việt Nam”, Văn phòng Quốc hội 9 [109;tr1], đã có những phân tích, so sánh về hoạt động “nghe giải trình”, “giải trình” với “điều trần” trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở Việt Nam với Nghị viện một số nước và so sánh các thuật ngữ “chất vấn”, “giải trình” và “điều trần”. Công trình "Những nội dung cơ bản của Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về trách nhiệm giải trình của các cơ quan hiến định và định hướng triển khai thực hiện", của Hà Thị Mai Hiên đã luận giải cơ sở tiếp cận và xác định TNGT của các cơ quan hiến định theo Hiến pháp năm 2013 đó là: nguyên tắc chủ quyền nhân dân và nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực của các cơ quan trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Khẳng định Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận TNGT của một số chủ thể tại một số điều khoản cụ thể [41]. Công trình “Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm giải trình” của Trần Văn Long, cho rằng, về mặt học thuật và pháp lý, vẫn chưa có sự ghi nhận thống nhất khái niệm này và nội dung giải trình gồm: giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của chủ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Nội dung giải trình chỉ bị giới hạn đối với các nội dung thuộc danh mục bí mật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Khẳng định, có 02 hình thức: giải trình chủ động và giải trình khi có yêu cầu [142]. Công trình "Bàn về trách nhiệm giải trình" của Đinh Văn Minh, cho rằng: theo cách hiểu thông thường thì giải trình là giải thích, trình bày nhằm làm sáng rõ một vấn đề gì. Trong hoạt động của bộ máy công quyền là việc cán bộ, công chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Theo đó, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, phải có trách nhiệm thực thi công việc được giao đạt kết quả và phải chịu hậu quả khi chưa làm tròn trách nhiệm [145]. Công trình "Chỉ số hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh", khẳng định: Bản thân khái niệm TNGT là một khái niệm khó giải thích vì nó có những cách diễn giải và dịch thuật khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó được thực thi như thế nào. TNGT cơ bản là đảm bảo cho người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình [89]. Công trình “Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010: Các thể chế hiện đại”, xác định có 02 hình thức là: TNGT đảm bảo việc tuân thủ (hệ thống TNGT hướng lên trên) và TNGT đối với kết quả hoạt động (hệ thống TNGT hướng xuống 10 dưới) và khẳng định, hệ thống TNGT nào có thể áp dụng phù hợp nhất cho một chức năng cụ thể phụ thuộc vào các đặc tính của chức năng đó hoặc các hoạt động của nó [52]. Công trình “Trách nhiệm giải trình: Vươn tới những chuẩn mực của nền hành chính phục vụ và phát triển” của Phạm Duy Nghĩa, đã phân tích và phân loại TNGT theo 04 góc nhìn gồm: TNGT về chính trị; TNGT về hành chính; TNGT về nghề nghiệp; TNGT trước xã hội. Và cho rằng, trong nền hành chính công có 02 kênh thực hiện: TNGT theo hàng dọc tồn tại từ cổ xưa thông qua hệ thống thanh tra, giám sát công vụ, và TNGT theo hàng ngang được thiết lập giữa nền công vụ với các tổ chức có chức năng giám sát của cơ quan dân cử, kiểm toán của hệ thống chính trị và xã hội nói chung [143]. Công trình “Trách nhiệm giải trình trong khu vực công ở Việt Nam”, cho rằng, TNGT trong khu vực công được hiểu là trách nhiệm trong nội bộ bộ máy công quyền và trách nhiệm của bộ máy công quyền với xã hội [2]. Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính công: "Nâng cao năng lực thể chế hành chính nhà nước để thích ứng với nền kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay ở nước ta", của Bùi Thị Ngọc Hiền, khẳng định: TNGT trong khu vực công là điều kiện huy động sự tham gia của các bên có liên quan vào quá trình hoạch định, xây dựng, thực thi chính sách cũng như giám sát hoạt động của các cấp, các ngành [42]. - Về lý luận TNGT của CQĐP: Công trình “Pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam: thực trạng và định hướng hoàn thiện”, đã đưa ra khái niệm TNGT của CQĐP, xác định nội dung CQĐP giải trình là các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP và phân loại TNGT của CQĐP dựa trên một số tiêu chí nhất định [44]. Công trình “Nâng cao trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương” của Hoàng Thị Giang, trên cơ sở phân tích Nghị định 90/NĐ-CP ngày 8/8/2013 đã đưa ra khái niệm TNGT trong khu vực công và khẳng định TNGT của CQĐP là vấn đề nhận được sự quan tâm lớn của Nhà nước, xã hội và người dân [37]. Công trình ...NGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay. - Về quan điểm, định hướng, giải pháp tăng cường TNGT của CQĐP: nghiên cứu sinh tiếp thu có chọn lọc một số nội dung quan điểm, định hướng và giải pháp phù hợp 23 với đề tài luận án được đề cập trong các công trình nghiên cứu. Trên nền tảng cơ sở lý luận, thực trạng quy định pháp luật, thực tiễn thực hiện pháp luật và yêu cầu của thực tiễn hiện nay, sẽ đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam trong thời gian đến, đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện, đáp ứng được yêu cầu mới. Với việc phân tích, nhận xét tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, nghiên cứu sinh nhận thấy, cần có công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống TNGT của CQĐP theo pháp luật Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, nhằm xác lập các luận cứ khoa học tiếp tục tăng cường TNGT của CQĐP hiện nay. 1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 1.3.1. Giả thuyết nghiên cứu Việc thực hiện TNGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân là do lý luận và pháp luật về TNGT của CQĐP còn nhiều bất cập, hạn chế. Do đó, cần nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam, từ đó xây dựng các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay. 1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu Từ giả thuyết nghiên cứu, để giải quyết vấn đề cần trả lời các câu hỏi sau. 1. TNGT của CQĐP được hiểu như thế nào và có đặc điểm gì? TNGT của CQĐP được phân loại như thế nào là phù hợp? TNGT của CQĐP được xác lập dựa trên cơ sở khoa học nào? 2. Pháp luật về TNGT của CQĐP được hiểu như thế nào và có đặc điểm gì? Điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP gồm những nội dung cơ bản nào? Yếu tố nào ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP? 3. TNGT của CQĐP ở Việt Nam được pháp luật quy định như thế nào? Thực tiễn thực hiện TNGT của CQĐP theo quy định của pháp luật Việt Nam đã đạt kết quả, hạn chế? Nguyên nhân hạn chế là gì? 4. Để tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam trong thời gian đến cần quán triệt những quan điểm và thực hiện các giải pháp nào? 24 Kết luận chƣơng 1 Chương 1 Tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận án đã hệ thống hóa, phân tích các công trình đã được công bố trong và ngoài nước liên quan đề tài luận án. Thông qua đó đã tổng hợp, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế về các nội dung trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tại Chương 1, đã khẳng định những quan điểm, luận điểm về các vấn đề liên quan đến luận án đã được thừa nhận; tính đúng đắn, hợp lý của các cơ sở lý thuyết, phương pháp nghiên cứu đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu, những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài luận án sẽ được tiếp thu, những vấn đề liên quan đến định hướng nghiên cứu của luận án chưa được giải quyết một cách triệt để, hoặc chưa được đề cập trong các công trình nghiên cứu. Trên cơ sở tổng quan tình hình nghiên cứu, đã xác định được các nội dung liên quan đến đề tài luận án cần được tiếp tục nghiên cứu, xây dựng giả thuyết và các câu hỏi nghiên cứu nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, đảm bảo giá trị khoa học của luận án. 25 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG 2.1. Chính quyền địa phƣơng và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phƣơng 2.1.1. Quan niệm về chính quyền địa phương Ở Việt Nam, khái niệm “chính quyền địa phương” được sử dụng tương đối rộng rãi trong các văn bản của Đảng và Nhà nước, cũng như trong đời sống chính trị pháp lý, nhưng chưa được giải thích chính thức trong các văn bản pháp luật hiện hành. Trên phương diện luật thực định, khái niệm “chính quyền địa phương” đã được sử dụng trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 1958, dù không giải thích cụ thể, nhưng tại Điều 1 đã hàm ý, CQĐP được tổ chức ở các khu tự trị, các thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh, châu, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, xã, thị trấn có HĐND và UBHC [114;tr42]. Các luật về tổ chức và hoạt động của CQĐP ở Việt Nam thời gian sau này và đến nay, nhìn chung đều xác lập quan niệm CQĐP gồm hai thiết chế: HĐND và cơ quan hành chính (UBHC hoặc UBND). Quan niệm này cũng được thể hiện khá rõ tại các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, khi có chủ trương về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước và được đa số các học giả trong nước thừa nhận. Điều 11, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định” [62]. Theo đó, CQĐP được tổ chức ở tất cả các đơn vị hành chính, nhưng không phải các đơn vị hành chính CQĐP đều được tổ chức giống nhau, đồng thời, không phải CQĐP ở bất kỳ một đơn vị hành chính nào cũng là một cấp chính quyền. Ở đâu được xem là cấp chính quyền thì CQĐP ở đó bao gồm HĐND và UBND, ở đâu không được quy định là cấp chính quyền thì chỉ có cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính có thể được thiết lập bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể do cơ quan hành chính cấp trên thành lập, do HĐND cùng cấp bầu hoặc theo cách thức khác. Tuy nhiên, quy định này của Hiến pháp chưa được Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy 26 định rõ, Điều 4 quy định: “Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này”. Quy định này cho thấy, tổ chức CQĐP ở các đơn vị hành chính nông thôn hay đô thị đều bao gồm hai thiết chế HĐND và UBND, điều này thể hiện rõ trong thực tế tổ chức CQĐP hiện nay ở Việt Nam. Khắc phục hạn chế này, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019, tại khoản 1, Điều 2 sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”. Quy định này đã mở ra xu hướng đa dạng hóa mô hình tổ chức CQĐP trong thời gian đến, bảo đảm sự phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị hành chính. Tóm lại, quan niệm về CQĐP ở Việt Nam hiện nay mặc dù còn có những cách hiểu khác nhau, phổ quát nhất có thể hiểu: CQĐP là thuật ngữ được sử dụng để chỉ những thiết chế nhà nước, có tư cách quyền lực công, được thành lập một cách hợp hiến, hợp pháp để quản lý điều hành mọi mặt đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên một đơn vị hành chính - lãnh thổ của một quốc gia. Trên cơ sở luận giải quan niệm về CQĐP, căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, đồng tình với quan điểm được đề cập trong một số công trình nghiên cứu [16,tr25-30], [39,tr24-27], [111]...ở Việt Nam, có thể hiểu: Chính quyền địa phương là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước thống nhất, bao gồm hệ thống cơ quan đại diện (HĐND) và cơ quan hành chính (UBND) hoặc cơ quan hành chính do người dân địa phương bầu ra để thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong một phạm vi địa giới hành chính lãnh thổ nhất định. Việc tổ chức CQĐP gồm có HĐND và UBND hay chỉ có UBND ở từng đơn vị hành chính cụ thể, phải đáp ứng yêu cầu phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và các nguyên tắc phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương và giữa các cấp CQĐP. 27 2.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương 2.1.2.1. Khái niệm trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương - Quan niệm về TNGT: TNGT là thuật ngữ mới xuất hiện ở Việt Nam trong vài năm gần đây khi bàn về vấn đề công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý của các cơ quan, tổ chức. Về nguồn gốc, một số nhà nghiên cứu cho rằng, thuật ngữ TNGT - accountability, có nguồn gốc từ tiếng Anglo - Norman (tiếng Pháp dùng ở Anh thời Trung cổ), ban đầu rất gần với thuật ngữ accounting với nghĩa là sổ sách kế toán – bookkeeping. Qua nhiều thế kỷ, thuật ngữ này không còn gắn với duy nhất một lĩnh vực quản lý tài chính hay sổ sách kế toán nữa, nó còn được coi là cơ sở của hệ thống quản lý công bằng, vô tư khách quan và trách nhiệm không chỉ là trách nhiệm của người dân đối với Hoàng gia hay đối với nhà nước mà ngược lại nhà nước cũng có trách nhiệm với dân chúng [51;tr33-34]. Đến những năm 80 của thế kỷ XX, cùng với làn sóng Quản lý công mới từ nước Anh nó đã thoát hẳn nghĩa trực tiếp và trở thành một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và thực hành quản trị tốt. Tuy nhiên, logic của hoạt động kế toán vẫn tồn tại, đó là, người được ủy quyền, được sử dụng nguồn lực của người khác phải có trách nhiệm sử dụng một cách có hiệu quả nhất và phải chịu trách nhiệm trước những người ủy quyền cả về tiến trình, hoạt động và hiệu quả công việc. Chính vì lý do ngôn ngữ này nên tồn tại rất nhiều cách hiểu về TNGT [35]. Báo cáo PAPI năm 2011 cho rằng: TNGT là một khái niệm khó giải thích vì nó có những cách diễn giải và dịch thuật khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó được thực thi như thế nào. Nói ngắn gọn, khái niệm này cơ bản đảm bảo cho người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình [89;tr32]. Có thể thấy, TNGT thể hiện khả năng cá nhân/tổ chức thừa nhận về những gì mình đã làm khi thực hiện một việc nào đó, đồng thời nó bao hàm cả nghĩa vụ giải thích, báo cáo, thông tin, biện giải về những việc đó và những hệ quả, cũng như chịu sự đánh giá, phán xét, thậm chí trừng phạt cả về mặt pháp lý và đạo đức đối với những hệ quả đó. Nếu trách nhiệm dùng để chỉ công việc gì, do ai thực hiện thì TNGT có nghĩa rộng 28 hơn, thông qua đó, người khác có thể tìm được câu trả lời cho những câu hỏi như: cái gì, tại sao lại như vậy, ai, ở đâu, khi nào [113,tr21]. Dưới góc độ quản trị tốt, TNGT được xem là vấn đề trung tâm của mô hình, theo đó, nội hàm của nó bao gồm 02 thành tố: (i) khả năng giải đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt được kết quả gì. (ii) việc chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra, đó là nhu cầu về việc phải dự đoán được những hậu quả, không nhất thiết mang tính trừng phạt, tính bằng tiền và không nhằm vào một cá nhân cụ thể. Xem xét TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách công, có nghiên cứu cho rằng, đó là phương thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhằm đáp ứng yêu cầu của Quốc hội, nhân dân và xã hội đối với Chính phủ về nghĩa vụ phải báo cáo, giải thích, trả lời trực tiếp hoặc gián tiếp một cách công khai, minh bạch, gắn liền sự chịu trách nhiệm đối với quá trình và kết quả hoạch định, thực thi chính sách công góp phần dự báo hành vi, hậu quả, đảm bảo quyền lực được thực thi đúng và có thể quy kết trách nhiệm khi cần thiết [15;tr38-40]. Ở Việt Nam, dưới góc độ phòng, chống tham nhũng, TNGT được hiểu là việc các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về quyền, nghĩa vụ, về quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của mình đối với kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ đó trước người dân, xã hội và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan [115]. Ở nghĩa rộng, TNGT không chỉ là trách nhiệm của nhà nước trước xã hội mà còn là trách nhiệm của chủ thể quản lý với đối tượng thụ hưởng/chịu sự quản lý nói chung, theo đó, các tổ chức xã hội và khối tư nhân cũng phải có TNGT trước công chúng và các đối tác [86;tr23-25]. Trong khuôn khổ là một hoạt động của nhà nước, TNGT được hiểu là trách nhiệm của cơ quan công quyền đã nhận quyền lực từ nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực vì nhân dân, thì đồng thời có nghĩa vụ trả lời, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình [38;tr185], theo đó, TNGT còn được thực hiện bởi các cơ quan lập pháp [96], CQHCNN [113], cơ quan tư pháp [77], hoặc trên một số nội dung/lĩnh vực nhất định [49], [43]...Trong nền hành chính công, TNGT là một thuộc tính của người được ủy quyền thực thi công vụ phải có nghĩa vụ 29 giải thích và phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm trước người ủy quyền và các bên có liên quan [55;tr1-19]. Trên phương diện luật thực định, ở Việt Nam thuật ngữ “trách nhiệm giải trình” hay “giải trình” được đề cập tương đối nhiều trong thời gian gần đây, song trên phương diện luật thực định, khái niệm “trách nhiệm giải trình” chưa được quy định cụ thể và thống nhất. Cụ thể, Nghị quyết số 21/NQ-CP, ngày 12/5/2009 về Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến năm 2020, xác định giải pháp: “Sửa đổi, bổ sung các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập theo hướng từng bước công khai và quy định trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập” [30]. Cụ thể hóa nội dung này Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống tham nhũng năm 2008 đã bổ sung Điều 32a: “1. Khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao trước cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. 2. Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình”. Ngày 8/8/2013 Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2013/NĐ-CP, quy định về TNGT của cơ quan nhà nước, khoản 1, Điều 3 quy định: “Giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện, nhiệm vụ, quyền hạn đó”. Tại khoản 8, Điều 2, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 quy định: “Giải trình là việc cơ quan, cá nhân hữu quan giải thích, làm rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo yêu cầu của chủ thể giám sát quy định tại Luật này”. Khoản 5, Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “Trách nhiệm giải trình là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao” và Điều 15 về TNGT quy định: “1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giải trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi đó. 2. Trường hợp báo chí đăng tải thông tin về vi phạm pháp luật và có yêu cầu trả lời các vấn 30 đề liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình và công khai nội dung giải trình trên báo chí theo quy định của pháp luật. 3. Việc giải trình khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giám sát hoặc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền khác được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan”. Khái quát các quy định về “giải trình” và “trách nhiệm giải trình” ở nước ta cho thấy, nói đến TNGT là đề cập đến trách nhiệm cung cấp, giải thích, làm rõ thông tincủa các chủ thể có TNGT theo quy định của pháp luật. TNGT nói chung và TNGT của CQĐP nói riêng có mối quan hệ mật thiết với trách nhiệm công khai, minh bạch thông tin của các cơ quan, tổ chức. Trong mối quan hệ này công khai, minh bạch thông tin là một trong những hình thức để các cơ quan nhà nước, CQĐP thực hiện TNGT [117,tr911-923]. Đề cập đến "trách nhiệm giải trình" trên phương diện luật thực định, cũng cần thấy sự khác biệt với thuật ngữ "trách nhiệm pháp lý" được sử dụng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Thuật ngữ “trách nhiệm” có thể được hiểu đó là nghĩa vụ, bổn phận phải làm, nên làm, được làm hoặc không được làm, có thể từ sự tự nguyện, tự giác hay buộc phải thực hiện do yêu cầu, đòi hỏi của các quy phạm pháp luật, hay đạo đức. Hoặc còn được hiểu với hàm ý phải gánh chịu hậu quả bất lợi, khi thực hiện không đúng, không đầy đủ trách nhiệm là nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn của mình. Khi đề cập đến trách nhiệm giải trình với tính cách là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cần tiếp cận theo cả hai khía cạnh nêu trên. Giải trình trước hết là nghĩa vụ, bổn phận phải thực hiện của các cơ quan nhà nước, tiếp đến là việc các chủ thể thực hiện trách nhiệm giải trình phải chịu trách nhiệm đối với các nghĩa vụ, bổn phận phải giải trình đã được xác định. Trong đó, “trách nhiệm” là nghĩa vụ, bổn phận là tiền đề, là nguyên nhân và "trách nhiệm" phải gánh chịu hậu quả bất lợi là hệ quả tất yếu. Điều này cho thấy, trách nhiệm giải trình theo pháp luật cần có cách tiếp cận phù hợp, phản ánh hết được sự phong phú, đa dạng của hoạt động giải trình. Bên cạnh đó, đối với cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan nhà nước, ngoài việc chịu trách nhiệm giải trình theo pháp luật còn phải chịu trách nhiệm giải trình đối với các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, đây là những cam kết mà những người thực thi nhiệm vụ phải thực hiện. Giải trình theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp ngày nay có ý nghĩa rất quan trọng trong thực thi nhiệm vụ của các cá nhân có thẩm quyền, chính vì vậy, pháp luật Việt Nam gần đây đã lồng ghép ở mức 31 độ nhất định các quy tắc đạo đức nghề nghiệp vào trong các hoạt động thực thi nhiệm vụ đối với một số ngành đặc thù, hoặc được cụ thể hóa trong quy tắc ứng xử, nội quy, quy chế của các cơ quan, tổ chức. Các nghiên cứu nước ngoài cũng đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau về TNGT, có thể nhận thấy có hai hướng tiếp cận chính: (i) Tiếp cận theo nghĩa chủ động: đó là “ý thức tự giác”, “chủ động hành xử” theo những chuẩn mực rõ ràng, minh bạch, có trách nhiệm, thận trọng, biết lắng nghe, sẵn lòng hành động một cách minh bạch, khách quan và công bằng, được sử dụng chủ yếu như một khái niệm quy chuẩn, là tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá hành vi của các bên tham gia. Do đó, đề cập đến TNGT thường tập trung vào các vấn đề mang tính quy chuẩn, tập hợp các tiêu chuẩn để đánh giá cách hành xử của các chủ thể công quyền, được xem là hướng tích cực của tổ chức công hoặc công chức [136]. Công trình Khuôn khổ TNGT toàn cầu cho rằng: TNGT là sự cam kết và chịu trách nhiệm đối với những người có lợi ích liên quan, cân nhắc các nhu cầu và quan điểm của họ trong quá trình ra quyết định, đưa ra giải thích vì sao các quan điểm và nhu cầu được xem xét hoặc không. Có TNGT nghĩa là luôn cởi mở với những người có lợi ích liên quan, cam kết với họ việc thường xuyên đối thoại và trao đổi qua lại [126]. Quan điểm này gần với các tiếp cận TNGT của các tổ chức quốc tế, cụ thể: ADB cho rằng: TNGT tạo ra một diễn đàn để những người dân chịu sự tác động bất lợi của các dự án được tổ chức tài trợ, đưa ra những tiếng nói về những quan ngại của họ và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề đó, điều này tạo ra sự minh bạch, sự tham gia, sự tính nhiệm, tính hiệu quả [54]; UNDP và OEDC cho rằng: TNGT là nghĩa vụ chứng minh công việc đã được thực hiện phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã đồng thuận và báo cáo đầy đủ, chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch [152]. Quan điểm nêu trên phù hợp với cách tiếp cận trong Dự án Cải cách hành chính – VIE/92/002, theo đó: TNGT được hiểu là trách nhiệm của Chính phủ hay một cơ quan của Chính phủ đối với cơ quan cấp trên và đối với công chúng trong việc thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định và giải trình trước công chúng về việc đó; cam kết đòi hỏi ở một công chức để đảm nhiệm trách nhiệm về việc có thực hiện hay không một công việc; nghĩa vụ mà cấp dưới phải báo cáo cho cấp trên về việc thực hiện chức trách của mình [95]. Việc tiếp cận theo hướng “chủ động” cho thấy, thực hiện TNGT là 32 một trong những yêu cầu của xu hướng nâng cao quản trị công đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay, tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở các quốc gia, là mục tiêu của các nền hành chính công hiện đại. Theo đó, phạm vi TNGT tương đối rộng, mang hàm ý tích cực, là cơ sở để đánh giá hiệu lực, hiệu quả của nhà nước, gợi mở hình ảnh đáng tin cậy, trung thực, công bằng, tính chịu trách nhiệm. Việc hướng đến tính “tích cực” làm cho khái niệm TNGT không dễ dàng nắm bắt khi xem xét trên khía cạnh nào đó và ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các cuộc thảo luận chính trị, các văn bản chính sách vì nó truyền đạt một hình ảnh minh bạch và đáng tin cậy [135]. (ii) Tiếp cận theo nghĩa bị động: đó là nghĩa vụ phải làm của một chủ thể trước các chủ thể khác, theo đó, TNGT luôn gắn với một mối quan hệ cụ thể, thường là quan hệ đại diện hoặc ủy quyền, trong đó, chủ thể được ủy quyền phải có nghĩa vụ giải thích, chứng minh hành xử của mình, chịu sự phán xét và chế tài (nếu có) từ chủ thể ủy quyền [137]. Cơ sở xác định TNGT đó là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện của bộ máy nhà nước, với tính cách đó, người dân phải có quyền được biết chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua việc yêu cầu tiếp cận thông tin, công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền, cơ chế giám sát quyền lực [121]. Tiếp cách tiếp cận này sẽ xác lập tương đối rõ ràng trách nhiệm của chủ thể nào đối với chủ thể nào, nội dung giải trình là gì, quyền và nghĩa vụ của các bên, hệ quả pháp lýdựa trên mối quan hệ đại diện hoặc ủy quyền. Tóm lại, có thể nhận thấy: i) Thuật ngữ TNGT có thể tiếp cận trên nhiều góc độ khác nhau, điều này cho thấy nội hàm phong phú, đa dạng của thuật ngữ, gợi mở sự hiện diện nhiều hình thức giải trình khác nhau. Sự gia tăng và ngày càng phổ biến của TNGT trên một số lĩnh vực/vấn đề, dẫn đến sự nhầm lẫn không mong muốn về mặt ngữ nghĩa và có thể khắc phục bằng cách chống lại "sự kéo dài khái niệm" [139]. Nếu thuở ban đầu, TNGT được quan niệm như là một phạm trù đạo đức, chính trị, thì trong bối cảnh ngày nay còn được xem xét là trách nhiệm pháp lý, được pháp luật của các quốc gia quy định ngày càng cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, một số công trình nghiên cứu [36], [113], [145], [146]đã tiếp cận TNGT có điểm tương đồng với quan điểm của các học giả nước ngoài, nhưng nhìn chung, vẫn được xem xét dưới khía cạnh “bị động”, đặc biệt trên phương diện luật thực định, đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, người đứng đầu phải báo cáo, 33 giải trình, giải thích, cung cấp thông tin về việc thực thi nhiệm vụ, công vụ hay những vấn đề liên quan đến trách nhiệm quản lý của mình khi được “yêu cầu”, nói cách khác, TNGT chỉ đặt ra khi các chủ thể có “vấn đề” trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và có chủ thể yêu cầu. Với tính cách là trách nhiệm pháp lý, TNGT ở Việt Nam đã được pháp luật đề cập ở những mức độ khác nhau, tuy nhiên các quy định hiện hành vẫn chưa phản ánh hết sự phong phú, đa dạng của thuật ngữ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. ii) TNGT có mối quan hệ mật thiết với trách nhiệm công khai, minh bạch và quyền tiếp cận thông tin của người dân. Theo đó, TNGT được xem là một yếu tố cấu thành không thể thiếu khi đề cập đến yêu cầu về tính công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. TNGT không chỉ bao gồm trách nhiệm của các chủ thể khi công khai các nội dung theo yêu cầu mà bao gồm cả việc giải thích, làm rõ các nội dung đó, nói cách khác, TNGT là phương tiện để hướng tới sự minh bạch [113,tr21]. Bên cạnh đó, TNGT gắn liền với trách nhiệm thông tin đến đối tượng được thụ hưởng/chịu sự quản lý và được thể hiện bằng hai hình thức giải trình chủ động và giải trình bị động, trong đó, giải trình chủ động là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thông tin, chủ động công khai nội dung hoạt động của mình. Giải trình bị động cung cấp thông tin theo yêu cầu của các chủ thể có liên quan. Để giải trình về hoạt động của mình, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải sử dụng hình thức công khai thông tin [36,tr188]. Qua phân tích các quan niệm khác nhau về TNGT, có thể khái quát, nội hàm của thuật ngữ này phản ánh các phương diện cơ bản sau: Một là, TNGT là trách nhiệm báo cáo, trình bày, cung cấp, giải thích, giải trình một vấn đề/nội dung nào đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của một chủ thể nhất định. Trách nhiệm này có thể do chủ thể giải trình chủ động thực hiện (giải trình chủ động) hoặc khi có yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền (giải trình bị động). Hai là, TNGT hàm chứa việc xác định trách nhiệm (tính chịu trách nhiệm) của chủ thể đối với vấn đề/nội dung chủ thể có trách nhiệm báo cáo, trình bày, cung cấp, giải thích. Hai phương diện này có sự thống nhất trong một chỉnh thể và không thể xem xét một cách biệt lập, bởi lẻ, TNGT phải được kết hợp giữa hai yếu tố: sự giải trình và tính chịu trách nhiệm. Việc chịu trách nhiệm sẽ không có đầy đủ ý nghĩa của nó nếu như không dựa trên căn cứ nào, chịu trách nhiệm phải dựa trên sự giải trình, ngược lại, chỉ 34 giải trình mà không chịu trách nhiệm hoặc không kèm theo chế tài, thì sự giải trình đó không hơn nhiều những biện hộ văn hóa [38;tr 183-221]. Ba là, TNGT là thuộc tính của sự ủy quyền, trong khu vực công, TNGT gắn liền với hoạt động của các cơ quan nhà nước, tồn tại mang tính khách quan. Theo đó, các nội dung chính yếu mà TNGT phản ánh là: ai truy tìm TNGT; truy tìm TNGT đối với ai; truy tìm bằng cách nào; sau khi truy tìm thì làm gì; truy tìm TNGT chính trị, hành chính, pháp lý hay nghề nghiệp. Câu trả lời cho các vấn đề nêu trên phụ thuộc vào nhận thức, góc nhìn của các nhà nghiên cứu, cũng như sự xuất hiện, phát triển và thay đổi nội hàm của khái niệm này, nói cách khác, cùng với sự thay đổi của nhận thức xã hội, khái niệm TNGT cũng có sự biến đổi nhất định. Bốn là, trong xu thế vận động, phát triển ngày nay, nội hàm khái niệm TNGT cần được mở rộng một cách thích hợp, TNGT không nên và không chỉ đặt ra khi có chủ thể yêu cầu, TNGT cần được đặt ra khi các chủ thể giải trình thấy cần thiết phải thực hiện, để tìm kiếm sự ủng hộ, đồng thuận, chia sẻ về những vấn đề đã hoặc sẽ được thực hiện thuộc phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình, tạo cơ sở bảo đảm tính khả thi của các quyết định hay việc làm trên thực tế. Nói cách khác, nội hàm TNGT cần được tiếp cận theo hướng chủ động, được xem là cơ sở để đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhà nước, xác lập tính trung thực, công bằng, minh bạch và tính chịu trách nhiệm, do đó, TNGT còn được thực hiện khi các chủ thể giải trình thấy cần thiết, được xem như một quyền của chủ thể. Đồng tình với quan điểm được đề cập trong các số công trình nghiên cứu [36], [113,tr183-221], [115,tr21].Trong khuôn khổ là một hoạt động của nhà nước, có thể hiểu: Trách nhiệm giải trình là trách nhiệm của các cơ quan công quyền và cá nhân người có thẩm quyền chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện việc cung cấp thông tin, giải thích, làm rõ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó theo quy định của pháp luật. - Khái niệm TNGT của CQĐP: Từ quan niệm về CQĐP và việc phân tích, luận giải xu hướng vận động, phát triển của nội hàm khái niệm TNGT. Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu, trong luận án này TNGT của CQĐP ở Việt Nam được quan niệm: Trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương là trách nhiệm của Hội đồng nhân, Ủy ban nhân dân chủ động hoặc theo yêu cầu thực hiện việc cung cấp 35 thông tin, giải thích, làm rõ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở định nghĩa TNGT của CQĐP nêu trên, có thể thấy: (i) Chủ thể thực hiện TNGT ở CQĐP: là HĐND và UBND, tuy nhiên, hoạt động thực hiện TNGT không phải do tập thể HĐND và UBND thực hiện, mà được thực hiện thông qua đứng đầu cơ quan, hoặc người được phân công, được ủy quyền hợp pháp thực hiện. Do đó, nói đến chủ thể thực hiện TNGT ở CQĐP bao gồm HĐND và UBND đã hàm ý cả TNGT của cá nhân người đứng đầu tổ chức, người được ủy thực hiện TNGT đại diện cho tổ chức. Bên cạnh đó, chủ thể thực hiện TNGT ở CQĐP còn bao gồm các cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ được giao, tuy nhiện, trong phạm vi của luận án xác định không nghiên cứu TNGT của cá nhân cán bộ, công chức khi thực hiện nhiệm vụ được giao. (ii) Chủ thể yêu cầu CQĐP thực hiện TNGT: Nhân dân địa phương là chủ thể quan trọng nhất trong việc yêu cầu CQĐP phải giải trình; các cơ quan tại CQĐP, gồm: HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND, Đoàn giám sát của HĐND, đại biểu HĐND, UBND, Chủ tịch UBND, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND; các cơ quan nhà nước cấp trên và cá nhân người có thẩm quyền, bao gồm: UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Kiểm toán nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Ngoài ra, chủ thể yêu cầu CQĐP giải trình còn là các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các phương tiện truyền thông đại chúng, các doanh nghiệp, một số trường hợp nhất định có thể là Tòa án nhân dân. (iii) Nội dung giải trình của CQĐP: phải liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể yêu cầu giải trình, tập trung vào nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP và cá nhân ... chung cả nƣớc năm 2017, 2018 100% 82,99% 80,90% 80% 60% 2018 2017 40% 17,14% 20% 14,94% 1,96% 2,08% 0% Hài lòng Bình thường Không hài lòng Nguồn: Báo cáo Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước - SIPAS 2018. Bộ Nội Vụ, MTTQVN, Hội cựu chiến binh Việt Nam. 3.5. Xu thế ở chỉ số nội dung “Công khai, minh bạch” gốc, 2011-2018 Ghi chú: Các tiêu chí sử dụng đo chỉ số nội dung „Công khai, minh bạch‟ được rà soát, bổ sung năm 2018. Giá trị điểm số của ba nội dung thành phần ở Biểu đồ 3.2 được tính toán dựa trên các tiêu chí không đổi từ 2011 - 2018 3.6. Điểm trung bình toàn quốc các chỉ số nội dung gốc, giai đoạn 2011-2018 Ghi chú: Các tiêu chí sử dụng trong PAPI luôn được đánh giá lại, bổ sung hoặc thay đổi qua thời gian. Chính vì vậy điểm chỉ số nội dung trên đây là kết quả tính toán dựa trên các chỉ tiêu không thay đổi từ 2011 đến 2018. Giá trị điểm số của sáu chỉ số thành phần PAPI trình bày ở Biểu đồ có thể khác với giá trị điểm số đã trình bày ở biểu đồ tương tự trong các báo cáo PAPI 2011-2017. 3. 7. Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Chi phí không chính thức qua các năm Có chi trả CPKCT Trả trên 10% doanh thu cho CPKCT 100 100 80 80 60 60 40 40 20 20 2006 2010 2014 2018 2006 2010 2014 2018 Đạt kết quả mong đợi sau khi trả CPKCT Nhũng nhiễu trong giải quyết thủ tục 100 100 80 80 60 60 40 40 20 20 2006 2010 2014 2018 2006 2010 2014 2018 Các đường màu cam thể hiện điểm số của tỉnh trung vị. Các đường màu xanh đứt quãng phía trên và phía dưới tương ứng thể hiện số liệu của tỉnh cao nhất và thấp nhất 3.8. Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Cạnh tranh bình đẳng qua các năm Ưu ái cho DN có vốn nhà nước Ưu ái cho DN FDI 100 80 80 100 p (%) p ệ 80 60 60 doanh nghi doanh ệ 40 l 40 ỉ T 20 20 2006 2010 2014 2018 2006 2010 2014 2018 100 Ưu ái cho DN “sân sau” 80 60 40 20 2006 2010 2014 2018 Các đường màu cam thể hiện điểm số của tỉnh trung vị. Các đường màu xanh đứt quãng phía trên và phía dưới tương ứng thể hiện số liệu của tỉnh cao nhất và thấp nhất 3.9. Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Tính năng động qua các năm Chính quyền vận dụng pháp luật linh hoạt Chính quyền sang tạo trong giải quyết vấn đề mới 100 p (%) p ệ 80 80 100 60 60 doanh nghi doanh ệ l 40 40 ỷ T 20 20 2006 2010 2014 2018 2006 2010 2014 2018 Chính quyền có thái độ tích cực với Khu vực tư nhân 100 80 60 40 20 2006 2010 2014 2018 Các đường màu cam thể hiện điểm số của tỉnh trung vị. Các đường màu xanh đứt quãng phía trên và phía dưới tương ứng thể hiện điểm số của tỉnh cao nhất và thấp nhất 3.10. Chỉ số quản trị toàn cầu năm 2014 Hiệu quả của nhà nước Ổn định chính trị và không có bạo lực/ khủng bố Nhà nươc pháp quyền Kiểm soát tham nhũng Chất lượng quy chế Tiếng nói và trách nhiệm giải trình 0% 20% 40% 60% Việt Nam Thu nhập trung bình cao Thu nhập trung bình thấp Nguồn: www.govindicators.org. 3.11: Thống kê danh mục các chuyên đề giám sát của Quốc hội và Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội từ 2008 đến 2020 Năm Quốc hội giám sát UBTV QH giám sát 1. Việc thi hành pháp luật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về xử lý vấn đề đất đai, mua bán cổ 2008 phiếu trong thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 3.Việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo 1. Việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm. 2009 2. Việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với giáo dục đại học 2010 2. Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công dân và doanh nghiệp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 2011 về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 2012 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính về đất đai. 1. Việc thi hành Luật thực hành tiết 1. Việc thực hiện chính sách, kiệm, chống lãng phí trong sử dụng pháp luật về bảo đảm chất nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu lượng và chương trình, sách 2013 tư xây dựng cơ bản, giai đoạn 2006-2012 giáo khoa giáo dục phổ thông 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 2. Việc thực hiện chính sách, về bảo hiểm y tế, giai đoạn 2009-2012 pháp luật trong công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 1. Hiệu quả tổng thể về kinh tế, về giảm nghèo, giai đoạn 2005-2012 2. xã hội gắn với đảm bảo an Việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế ninh, quốc phòng của 02 dự án trong lĩnh vực đầu tư công, doanh bô-xit Tân Rai và Nhân cơ do nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng Tập đoàn Than - Khoáng sản 2014 theo Nghị quyết số 10/2011/QH13 của Việt Nam làm chủ đầu tư Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - 2. Việc thực hiện chính sách, xã hội 5 năm 2011-2015 pháp luật về phòng, chống biến đổi khí hậu ở đồng bằng Sông Cửu Long 1. Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo 2015 quy định của pháp luật. 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai tại các nông trường, lâm trường quốc doanh, giai đoạn 2004-2014 1. Giám sát chuyên đề Việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010- 2016 2015) gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 1. Việc thực hiện chính sách, về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011- pháp luật về đầu tư và khai 2016. thác các công trình giao thông 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật theo hình thức hợp đồng xây về cải cách tổ chức bộ máy hành chính dựng-kinh doanh-chuyển giao nhà nước giai đoạn 2011-2016. (BOT) 2017 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với cá nhân, tổ chức khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 1. Việc thực hiện chính sách, về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà pháp luật về quản lý và sử dụng 2018 nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa nguồn vốn vay nước ngoài giai doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011- đoạn 2011-2016 2016. 1. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 1. Việc thực hiện chính sách, về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai pháp luật về quản lý, sử dụng tại đô thị từ khi Luật Đất đai năm 2013 các quỹ tài chính nhà nước có hiệu lực đến hết năm 2018 ngoài ngân sách nhà nước giai đoạn 2013-2018 2019 2. Việc thực hiện chính sách, pháp luật 2. Việc thực hiện chính sách, về phòng cháy, chữa cháy giai đoạn pháp luật về thực hiện chương 2014 – 2018 trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số, miền núi giai đoạn 2012-2018 2020 1. Việc thực thi pháp luật về bảo vệ trẻ 2. Việc thực hiện các Hiệp (dự em và phòng, chống xâm hại trẻ em. định thương mại tự do mà Việt kiến) Nam là thành viên. Thống kê từ nguồn quoc hoi. vn; https://luatvietnam.vn; https://thuvienphapluat.vn; Hộp 3.13 Chủ tịch Hà Nội đối thoại với ngƣời dân Đồng Tâm Ngày 25/11, tại trụ sở UBND huyện Mỹ Đức (TP Hà Nội), Thanh tra Chính phủ đã tổ chức hội nghị đối thoại với công dân xã Đồng Tâm và các xã tiếp giáp với sân bay Miếu Môn. Ông Nguyễn Văn Thanh - Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, ông Đỗ Văn Đương - Phó Trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội, ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch UBND TP Hà Nội cùng chủ trì hội nghị. Phát biểu tại buổi đối thoại, ông Trần Ngọc Viễn (hộ dân sử dụng đất sân bay Miếu Môn) cho biết, đây là đất do quốc phòng quản lý. Đến nay, gia đình ông Viễn đồng tình di dời khỏi đất sân bay Miếu Môn. Còn ông Nguyễn Quyết Thắng (nguyên Bí thư Đảng ủy xã Đồng Tâm) khẳng định, phần lớn người dân trong xã đồng tình Kết luận thanh tra của TP Hà Nội cũng như Thông báo của Thanh tra Chính phủ. Trước những băn khoăn của người dân, ông Nguyễn Đức Chung - Chủ tịch UBND TP Hà Nội cho biết, tất cả các quyết định thu hồi, chuyển đổi 283 hecta đất để xây dựng sân bay Miếu Môn đều còn nguyên vẹn, các hồ sơ thu hồi, chuyển đổi đất còn nguyên vẹn. Tại buổi đối thoại người dân cũng được xem các bản đồ và các quyết định liên quan. Chủ tịch UBND TP Hà Nội cũng mong muốn người dân xã Đồng Tâm ủng hộ lực lượng Phòng không - Không quân sớm triển khai dự án như xây dựng tường rào... trong thời gian tới. Sau buổi họp, Chủ tịch UBND Hà Nội làm việc với UBND huyện Mỹ Đức về các chính sách hỗ trợ xây dựng nông thôn mới ở Đồng Tâm cũng như việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, đảm bảo an sinh xã hội ở khu vực này. Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Nguyễn Văn Thanh cho biết, cho đến thời điểm này, 14 hộ dân có diện tích đất trong khu vực sân bay Miếu Môn đã đồng tình ký vào biên bản đồng ý được đền bù, hỗ trợ và di dời ra khỏi đất khu vực sân bay Miếu Môn theo đúng luật định. Hiện toàn bộ đất trong khu vực sân bay Miếu Môn đã và đang được giải phóng mặt bằng sạch, để sớm giao cho đơn vị quân đội quản lý, sử dụng. Theo Phó Tổng Thanh tra Chính phủ, quá trình rà soát của Thanh tra Chính phủ cho thấy kết luận của Thanh tra TP Hà Nội là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về thanh tra; các nội dung của kết luận thanh tra phù hợp với quy định pháp luật, đảm bảo tính chính xác. “Đó cũng là lý do Thanh tra Chính phủ không cần thiết thanh tra lại việc sử dụng đất tại sân bay Miếu Môn”, Phó Tổng Thanh tra cho hay. Phó Tổng Thanh tra Chính phủ thông tin thêm, sắp tới Quân chủng Phòng không không quân Việt Nam sẽ xây dựng tường rào để bảo vệ sân bay Miếu Môn. Ông Thanh cũng nêu mong muốn người dân cố gắng tránh việc ngăn chặn xây dựng này. Còn theo Phó Trưởng Ban Dân nguyện của Quốc hội Đỗ Văn Đương, vụ việc ở Đồng Tâm là do khuyết điểm, sơ hở trong quản lý đất đai dẫn đến mất an ninh trật tự. Ông Đương mong muốn người dân xã Đồng Tâm sớm ổn định tình hình để tiếp tục xây dựng quê hương. Nguồn: https://dantri.com.vn/xa-hoi/chu-tich-ha-noi-doi-thoai-voi-nguoi-dan- dong-tam Hộp 3.14 Sáng nay, TPHCM họp báo vụ Thủ Thiêm 9 giờ sáng nay, 21/9, UBND TPHCM sẽ tổ chức họp báo thông tin bước đầu về xử lý các sai phạm trong quá trình triển khai thực hiện dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm (quận 2) theo yêu cầu của Thanh tra Chính phủ. Cuộc họp báo sẽ do Phó Chủ tịch UBND TPHCM Trần Vĩnh Tuyến chủ trì với sự tham dự của lãnh đạo các sở ban ngành liên quan, UBND quận 2 và phóng viên các báo đài trung ương và địa phương. Những vấn đề nóng bỏng liên quan đến các sai phạm tại dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm dự kiến sẽ được báo chí đặt ra, như những các tổ chức, cá nhân nào sai phạm? Các hình thức xử lý và đề nghị xử lý đối với từng trường hợp cụ thể; khu 4,6 ha được kết luận thanh tra xác định là ngoài ranh quy hoạch, việc thu hồi nhà đất là sai thì TPHCM có bồi thường cho các hộ dân bị cưỡng chế giải tỏa oan? Khu tái định cư 160 ha, UBND TPHCM giao đất trái phép cho hơn 50 doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư kinh doanh sắp tới có thu hồi để tái định cư cho người dân Theo kết luận kiểm tra một số nội dung chủ yếu liên quan đến việc khiếu nại của công dân về Khu đô thị mới Thủ Thiêm Thanh tra Chính phủ vừa công bố, quá trình triển khai thực hiện dự án này của UBND TPHCM có nhiều sai phạm. Cụ thể: Qua kiểm tra 2 loại bản đồ quy hoạch 1/5000 tại Ban quản lý Khu đô thị mới Thủ Thiêm và Sở Quy hoạch – Kiến trúc Thành phố, Thanh tra Chính phủ xác định phần diện tích khoảng 4,3 ha thuộc Khu phố 1, phường Bình An không có trong ranh quy hoạch Khu đô thị mới Thủ Thiêm (phần lõi với diện tích 770 ha) được phê duyệt tại Quyết định số 367/TTg của Thủ tướng. Kết luận thanh tra nêu rõ Kiến trúc sư trưởng Thành phố đã giảm 26,3ha (có 3ha mặt nước) trong quy hoạch 1/2000 so với Quyết định 367/TTg. Việc làm này của Kiến trúc sư trưởng Thành phố là không đúng thẩm quyền khi chưa được Thủ tướng chấp thuận điều chỉnh tăng, giảm diện tích. Theo đó, ranh quy hoạch Khu đô thị mới đã thay đổi về phía bắc thuộc Khu phố 1, phường Bình An tăng 4,3 ha, giảm 26,3 ha, vi phạm quy định tại Nghị định số 91/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ.Quyết định số 13585/KTST-QH ngày 16/9/1998 của Kiến trúc sư trưởng Thành phố cũng ghi vị trí giới hạn không đúng so với bản đồ và thực địa. Đây là một trong các nguyên nhân dẫn đến người dân khiếu nại về ranh quy hoạch và đền bù, giải phóng mặt bằng. Về thu hồi đất, kết quả kiểm tra cho thấy việc UBND TPHCM căn cứ vào Quyết định số 367/TTg và Văn bản số 190/CP-NN được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thu hồi 4,3 ha đất thuộc khu phố 1, phường Bình An để thực hiện một số dự án trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm là chưa đủ cơ sở pháp lý. Điều này dẫn đến thành phố thiếu căn cứ thực hiện, không xác định đúng, đủ diện tích đất phục vụ tái định cư theo quy hoạch, cần rà soát và có giải pháp giải quyết phù hợp. Về chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư, Thanh tra Chính phủ chỉ rõ việc chấp hành quy định pháp luật về trình tự, thủ tục triển khai giải phóng mặt bằng của Thành phố, trực tiếp là quận 2 có trường hợp chưa đầy đủ, chưa đúng quy định. Cụ thể, UBND thành phố không lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng. Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng đã căn cứ vào quy định của UBND Thành phố ban hành kèm theo các quyết định số 135/2002/QĐ-UB, số 123/2006/QĐ-UBND và số 06/2009/QĐ-UBND để lập bản chiết tính, dự toán kinh phí bồi thường, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư cho từng tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất mà không lập phương án tổng thể để làm cơ sở thanh quyết toán kinh phí bồi thường. Quá trình thực hiện thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng của UBND Thành phố còn có trường hợp đang khiếu nại chưa phù hợp quy định của pháp luật, nhất là khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực. Trên cơ sở kết quả kiểm tra nêu trên, Tổng Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND TPHCM kiểm điểm, chỉ đạo kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc phê duyệt quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch; thu hồi đất, đền bù, tái định cư; việc lưu trữ hồ sơ, tài liệu, bản đồ để xử lý nghiêm theo quy định pháp luật. Đồng thời UBND TPHCM phải công khai, nhận trách nhiệm về những khuyết điểm, vi phạm, dẫn đến khiếu nại kéo dài trong thời gian vừa qua. Căn cứ vào Kết luận kiểm tra của Thanh tra Chính phủ, UBND Thành phố rà soát, hoàn thiện để tiếp tục thực hiện quy hoạch Khu đô thị mới Thủ Thiêm, trong đó có khoảng 4,3 ha thuộc Khu phố 1, phường Bình An, Quận 2 theo đúng quy định của pháp luật. Thanh tra Chính phủ yêu cầu UBND TPHCM rà soát từng trường hợp cụ thể người dân đang khiếu nại, đặc biệt là các hộ dân nằm trong khu vực khoảng 4,3 ha ngoài ranh quy hoạch thuộc Khu phố 1, phường Bình An, quận 2 để bồi thường, hỗ trợ và tái định cư phù hợp cho người dân, sớm chấm dứt khiếu nại. Đối với Bộ Xây dựng, Thanh tra Chính phủ kiến nghị xem xét, xử lý trách nhiệm đối với những tổ chức, cá nhân có liên quan đến các khuyết điểm, vi phạm trong việc thực hiện thẩm định, lưu trữ hồ sơ, bản vẽ và chức năng quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng như kết luận đã nêu. Thanh tra Chính phủ cũng kiến nghị xem xét để xử lý trách nhiệm đối với những tổ chức, cá nhân có liên quan đến các thiếu sót, khuyết điểm trong việc lưu trữ hồ sơ, bản vẽ quy hoạch dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm tại Văn phòng Chính phủ. Nguồn: https://www.tienphong Hộp 3.15 Chủ tịch UBND TPHCM đối thoại với ngƣời dân khiếu kiện dự án khu công nghệ cao Chiều 1/8, tại trụ sở UBND phường Tăng Nhơn Phú A (quận 9), Chủ tịch UBND TPHCM Nguyễn Thành Phong và các Phó Chủ tịch Võ Văn Hoan, Ngô Minh Châu đã trực tiếp gặp gỡ đối thoại với một số hộ dân đang khiếu kiện tại dự án Khu công nghệ cao (quận 9). Đây là cuộc họp “nội bộ” nên báo chí không được phép tham dự. Nguồn tin riêng của Tiền Phong cho biết lãnh đạo TPHCM gặp gỡ, đối thoại với người dân đang khiếu kiện để ghi nhận tâm tư nguyện vọng liên quan đến các chính sách bồi thường hỗ trợ cho người dân. Đến nay, tại dự án khu công nghệ cao (CNC) vẫn còn hàng chục trường hợp người dân khiếu kiện và chưa đồng ý nhận tiền bồi thường. Tại kỳ họp thứ 15 diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13/7, HĐND TP HCM (khóa IX) đã xem xét thông qua tờ trình của UBND TPHCM về điều chỉnh tăng tổng kinh phí thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư khu CNC với tổng số tiền hơn 1.471 tỷ đồng, trong đó kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là 1.399 tỷ, các chi phí khác là hơn 72 tỷ. Theo UBND thành phố, việc này nhằm thực hiện chính sách đối với hộ gia đình, cá nhân và tổ chức liên quan đến dự án, theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình và Kết luận của Thanh tra Chính phủ. Dự án Khu CNC có quy mô hơn 913 ha (trong đó có 112 ha đất sông, rạch, giao thông). Từ năm 2002, UBND quận 9 đã bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho 3.110 hộ dân bị ảnh hưởng nhưng nhiều người dân vẫn đang khiếu nại, chưa bàn giao mặt bằng. Kết luận của Thanh tra Chính phủ sau đó xác định UBND TP HCM có sai phạm khi thu hồi thêm hơn 100 ha đất khi chưa được Thủ tướng chấp thuận điều chỉnh, bổ sung quy hoạch. Trong 3 quyết định thu hồi đất số 2666 (804 ha); 2717 (6,9 ha); 2193 (102 ha) và Quyết định số 989 ngày 4/11/1998 của Thủ tướng (800 ha) không có tên phường Hiệp Phú nhưng đất tại phường này vẫn bị thu hồi... Đây là một trong những nguyên nhân người dân khiếu nại gay gắt trong nhiều năm qua. Về việc này, Phó thủ tướng Trương Hòa Bình yêu cầu TPHCM xem xét, giải quyết bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho các hộ dân căn cứ vào thời điểm ban hành Quyết định 458 ngày 18/4/2007 của Thủ tướng. Nguồn: https://www.tienphong.vn Hộp 3.16 Đối thoại với dân Thủ Thiêm: Gỡ dần từng việc một Mở đầu buổi đối thoại vào đầu giờ sáng, luật sư Trần Vũ Hải, đại diện các hộ dân khiếu nại, tóm tắt nội dung phản ảnh của người dân tập trung 3 vấn đề chính. Cụ thể: phần lớn hộ dân khiếu kiện cho rằng các khu phố thuộc hai phường Bình An và Bình Khánh không nằm trong quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm, các cơ quan chức năng không ban hành quyết định thu hồi đất cho từng hộ dân là vi phạm pháp luật và quá trình đền bù không đúng luật. “Những vấn đề này người dân bức xúc quá lâu, đề nghị không giới hạn thời gian tiếp xúc để người dân được trình bày, chất vấn nhằm làm rõ vấn đề” - luật sư Hải đề nghị. Đáp ứng nguyện vọng này của đại diện các hộ dân, hầu như suốt buổi sáng và phần lớn thời gian buổi chiều 10-6, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thành Phong, người điều hành phiên đối thoại, đã để các đại diện người dân trình bày những quan điểm, kiến giải, lập luận và căn cứ liên quan đến ranh giới khu đô thị mới Thủ Thiêm. Người dân trao đổi không bị giới hạn thời gian, không bị ngắt lời, một người phát biểu nhiều lần và không bị ngắt lời. Thậm chí ông Phong còn cho phép đại diện các sở, ban ngành và UBND quận 2 trao đổi, trả lời những vấn đề người dân thắc mắc để làm rõ các tình tiết cụ thể. Phát biểu cuối buổi đối thoại, sau khi đã lắng nghe tất cả ý kiến của các bên, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thành Phong xin lỗi bà con quận 2 vì đáng lý ra ông phải đối thoại với dân vào đầu tháng 4-2016, nhưng do công việc quá nhiều và ông cũng vừa nhận nhiệm vụ nên có phần chậm trễ. Ông Phong cảm ơn và bày tỏ sự trân trọng đối với các đóng góp, hi sinh của người dân quận 2 khi đã chấp thuận di dời, giao đất cho TP để xây dựng dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đối với một số nội dung liên quan đến pháp lý mà người dân còn thắc mắc, ông Phong gợi mở hướng xử lý. Cụ thể về yêu cầu công khai bản đồ kèm theo quyết định 367 của Thủ tướng Chính phủ, ông Phong cho biết UBND TP đã chủ động có 2 văn bản gửi Văn phòng Chính phủ và Trung tâm Lưu trữ quốc gia nhờ cung cấp bản đồ nhưng được trả lời hồ sơ lưu trữ không có bản đồ kèm theo. Qua ý kiến của bà con, UBND TP tiếp tục đề nghị Bộ Xây dựng - đơn vị thẩm định hồ sơ trình Thủ tướng - cung cấp bản đồ. Về vấn đề đất nằm trong hay ngoài quy hoạch dự án, do vẫn còn nhận thức và cách hiểu khác nhau giữa tài liệu chứng cứ của Sở Quy hoạch - kiến trúc cung cấp và tài liệu các hộ dân thu thập được về ranh giới quy hoạch nên UBND TP giao chính Thanh tra TP chủ trì phối hợp với Sở Quy hoạch - kiến trúc và các đơn vị liên quan đối thoại với các hộ dân để làm rõ vấn đề này. Sau đó báo cáo đề xuất UBND TP hướng giải quyết có căn cứ và đúng pháp luật. Liên quan đến chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng dự án, UBND TP giao quận 2 tiếp tục rà soát, xem lại các trường hợp di dời giải tỏa mà còn khiếu nại để đề xuất hướng giải quyết cụ thể cho các trường hợp này, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các hộ dân” - Chủ tịch UBND TP Nguyễn Thành Phong kết luận. Ông Phong cũng cho biết các kiến nghị, thắc mắc của bà con đều sẽ được TP trả lời bằng văn bản. Phải trả lời tất cả thắc mắc của dân Theo dõi xuyên suốt cuộc tiếp xúc, ông Nguyễn Hồng Điệp, trưởng Ban Tiếp công dân trung ương, nhận xét đây là một buổi đối thoại thẳng thắn, cởi mở, các bên đều có nhiều cơ hội, thời gian để nói hết quan điểm của mình. Bà con quận 2 đã chuẩn bị tài liệu rất công phu “như một luận án tiến sĩ” để trình bày, bảo vệ lý lẽ của mình. Lãnh đạo TP.HCM và các sở ngành đã lắng nghe với tinh thần cầu thị cao. “Để khiếu nại của bà con kéo dài quá lâu thì cán bộ chúng ta phải thấy áy náy. Ngay cả việc đã hứa, đã cam kết đối thoại với bà con mà đối thoại chậm thì cũng phải thấy cái lỗi của chính quyền” - ông Điệp nói. Tuy nhiên, theo ông Điệp, vấn đề người dân bức xúc có rất nhiều vụ việc, trải qua nhiều thời gian và có cả yếu tố lịch sử trong đó nên không thể giải quyết một sớm một chiều. Ông Điệp đề nghị với lãnh đạo TP.HCM: “Tất cả nội dung thắc mắc của bà con phải được trả lời bằng văn bản. Các nội dung khiếu nại khác của từng cá nhân phải được cơ quan chuyên môn thụ lý theo đúng trình tự pháp luật. Trong thời gian chờ đợi TP có kết luận thì các cấp sở, ngành, các chuyên viên nắm vững vấn đề vẫn nên tiếp tục đối thoại với người dân để đôi bên cùng hiểu rõ hơn và tiến tới đạt được sự thống nhất. Cũng theo ông Điệp, các nội dung khiếu nại của người dân vẫn đang thuộc thẩm quyền giải quyết của TP.HCM, do đó đề nghị bà con bình tĩnh chờ TP có hướng trả lời, không nên khiếu kiện vượt cấp. Đại diện cơ quan dân cử của TP, bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, chủ tịch HĐND TP, đề nghị chủ tịch UBND TP tập trung chỉ đạo tối đa, giải quyết các khiếu nại của người dân gửi đến các cơ quan chức năng để gỡ dần từng việc một. Nguồn: https://tuoitre.vn Hộp 3.17 Họp báo vụ chặt cây xanh: toàn bộ câu hỏi không đƣợc trả lời Dù việc ra vào, an ninh được kiểm soát gắt gao, số lượng phóng viên tham dự đến cả hàng trăm người và được tổ chức tại hội trường lớn nhất trong trụ sở UBND TP, tuy nhiên cuộc họp báo của UBND TP Hà Nội về vụ chặt hạ 6.700 cây xanh được tổ chức chiều nay chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng chưa tới một giờ, và kết thúc một cách mau chóng, đột ngột. Đáng chú ý hơn, ông Nguyễn Quốc Hùng - Phó chủ tịch UBND TP. Hà Nội - chủ trì cuộc họp đã không hề trả lời bất kỳ câu hỏi nào của phóng viên đại diện các cơ quan báo chí. Đây là điều chưa từng có trong các một cuộc họp báo từ trước tới nay. Sau khi ông Nguyễn Thịnh Thành - chánh văn phòng, người phát ngôn của UBND TP Hà Nội đọc thông báo kết luận cuộc họp về việc cải tạo, thay thế cây xanh đô thị trên địa bàn thành phố diễn ra sáng cùng ngày do chủ tịch UBND TP Nguyễn Thế Thảo chủ trì, đại diện nhiều cơ quan báo chí đã đặt ra hàng chục câu hỏi xung quanh vụ việc. Các câu hỏi tập trung chất vấn lãnh đạo thành phố và các sở ngành xung quanh việc liệu thành phố đã có các đánh giá tác động về môi trường, cảnh quan đô thị khi quyết định chặt cây xanh. Các vấn đề khác như về thời gian, số lượng cây bị chặt, kinh phí tổ chức thực hiện, thẩm định chất lượng cây, việc xử lý số gỗ đã chặt, việc mua trồng cây mới... Ngoài ra đại diện các cơ quan báo chí đề nghị thành phố công khai về thông tin doanh nghiệp tham gia xã hội hóa trong đề án chặt, thay thế cây... Thậm chí có vài câu hỏi dành cho đích danh vị phó chủ tịch thành phố đề cập tới trách nhiệm cá nhân của ông xung quanh việc hàng loạt cây xanh bị chặt hạ... Tuy nhiên, tất cả các câu hỏi nói trên đều không được người chủ trì họp báo trả lời. Trước khi tuyên bố kết thúc buổi thông tin báo chí, ông Nguyễn Quốc Hùng chỉ cho biết ngắn gọn: “Đây là chủ trương đúng đắn của thành phố, việc thực hiện là đúng quy trình, quy định và hoàn toàn không có tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, không có gì mờ ám, khuất tất, đồng thời sẽ nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh nghiệm" Về việc trả lời những thông tin cho báo chí, ông Hùng chỉ cho biết chung chung: “Tôi giao các cơ quan chức năng thành phố trả lời đầy đủ, cơ quan nào không chấp hành phải chịu trách nhiệm trước thành phố, trước chủ tịch thành phố”. Trước đó, trưa cùng ngày, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đã chính thức chỉ đạo dừng việc chặt hạ cây xanh tại Hà Nội. Nguồn: tuoitre.vn/hop-bao-vu-chat-cay-xanh-toan-bo-cau-hoi-khong-duoc-tra-loi 3.18. Tiếp cận tin tức trực tuyến và Internet tại nhà, 2016-2018 Nguồn: Báo cáo Chỉ số Quản trị và hành chính công cấp tỉnh năm 2018, Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng, Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công ty Phân tích Thời gian thực, Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam. 3.19. Chỉ số hài lòng chung cả nƣớc về việc tiếp nhận, xử lý ý kiến góp ý, phản ánh, kiến nghị năm 2018 100% 75,04% 80% 73,75% 73,97% 73,52% 74,07% Hài lòng 60% Bình 40% thường 19,10% 20,46% 19,55% 19,30% 19,60% Không 20% hài lòng 5,85% 5,80% 6,48% 7,18% 6,33% 0% Có bố trí hình Thực hiện Tiếp nhận, xử lý Thông báo kết Tiếp nhận, xử lý ý thức tiếp nhận GYPAKN dễ dàng GYPAKN tích cực quả xử lý kiến GYPAKN nói GYPAKN GYPAKN kịp thời chung Nguồn: Báo cáo Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước - SIPAS 2018. Bộ Nội Vụ, Mặt trận TQVN, Hội cựu chiến binh Việt Nam Hộp 3.20 Chủ tịch HĐND Thanh Hóa dừng chất vấn, yêu cầu kiểm điểm giám đốc sở 'lạc đề' TPO - Tại phiên chất vấn sáng 10/7, kỳ họp thứ 9, HĐND tỉnh Thanh Hóa khóa XVII, Bí thư tỉnh ủy, chủ tịch HĐND tỉnh Thanh Hóa Trịnh Văn Chiến (chủ tọa kỳ họp) đã xin ý kiến đại biểu cho biểu quyết xem xét dừng phần trả lời chất vấn, xem xét kiểm điểm Giám đốc Sở TN&MT và cơ quan liên quan vì đã thực hiện báo cáo chuẩn bị “lạc đề” nội dung chất vấn mà HĐND tỉnh yêu cầu trước đó. Cụ thể, đến phần trả lời chất vấn của ông Đào Trọng Quy, Giám đốc Sở TNMT Thanh Hóa, ông Trịnh Văn Chiến đã đưa ra dẫn chứng nội dung văn bản yêu cầu báo cáo, chuẩn bị nội dung trả lời chất vấn trước đó của HĐND tỉnh. Đồng thời, khẳng định nội dung báo cáo chuẩn bị trả lời chất vấn “lạc đề” với yêu cầu của HĐND tỉnh. Việc này, đã được ông Đào Trọng Quy thừa nhận ngay ở vị trí trả lời chất vấn. Tuy nhiên, ông Đào Trọng Quy có nói thêm, trong báo cáo trên có phần nội dung mà yêu cầu chất vấn trước đó của HĐND tỉnh đưa ra. Trước khi bước vào phần hỏi đáp trực tiếp, ông Quy xin trình bày báo cáo dài 16 trang được chuẩn bị sẵn. Dù ông Trịnh Văn Chiến nhắc nhở "báo cáo quá dài, phải mất ít nhất 50 phút mới đọc hết", ông Trịnh Văn Chiến yêu cầu ông Đào Trọng Quy trình bày tóm lược báo cáo ngắn gọn trong vòng 10 phút. Khi ông Quy đọc được vài phút theo báo cáo thì chủ toạ cắt lời và cho rằng phần đọc câu hỏi, báo cáo mở đầu này chưa đúng với câu hỏi của cử tri về tiến độ thực hiện Nghị quyết 05 chậm. Ông Quy sau đó nói: văn bản này do anh em soạn thảo, tôi xin rút kinh nghiệm; lần sau HĐND chất vấn tôi sẽ làm ngắn gọn hơn. Giám đốc Sở TTN&MT sau đó vẫn xin trình bày phần hai bản báo cáo với những hạn chế, tồn tại, giải pháp chung... Sau phần đọc văn bản của ông Quy, chủ toạ lại lắc đầu cho rằng lãnh đạo ngành TN&MT tỉnh đọc báo cáo "không đúng trọng tâm", "lạc đề". Ông Trịnh Văn Chiến nhận xét, Sở TN&MT đã thiếu nghiêm túc, chuẩn bị không đạt yêu cầu nội dung yêu cầu được chất vấn... Ông Nguyễn Đức Quyền, phó chủ tịch UBND Thanh Hóa cho rằng, phần báo cáo chưa nói rõ trọng tâm của thường trực HĐND nhưng có phần nói về việc này. Còn ông Nguyễn Đình Xứng, Chủ tịch UBND tỉnh thì cho rằng, mặc dù báo cáo chưa đúng trọng tâm, nhưng đề nghị để Giám đốc Sở TNMT thực hiện trả lời chất vấn các vấn đề mà cử tri đang quan tâm. Chủ toạ kỳ họp sau đó đưa ra hai phương án, một là thống nhất dừng phần trả lời chất vấn của Giám đốc Sở TNMT và yêu cầu kiểm điểm việc chuẩn bị nội dung trả lời chất vấn chưa đúng trọng tâm. Hai là tiếp tục để ông Quy tiếp tục trả lời chất vấn. Theo đó, nhiều đại biểu tại kỳ họp đã giơ tay đồng ý với việc ngừng trả lời chất vấn của lãnh đạo Sở TNMT, xem xét kiểm điểm Giám đốc Sở TNMT và cơ quan liên quan. Sau đó, ông Trịnh Văn Chiến đã kết luận dừng nội dung chất vấn của giám đốc Sở TNMT trong phiên chất vấn của kỳ họp này. Nguồn: https://www.tienphong.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_trach_nhiem_giai_trinh_cua_chinh_quyen_dia_phuong_th.pdf
  • pdfTrichyeu_HaNgocAnh.pdf
Tài liệu liên quan